Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Phân tích các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến tăng trưởng công nghiệp bằng mô hình kinh tế lượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.21 KB, 51 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Công nghiệp là ngành sản xuất ra một khối lượng của cải vất chất rất lớn cho xã hội, có vai
trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp không những cung cấp hầu hết các công cụ,
tư liệu sản xuất xây dựng cơ sở vật chất cho tất cả các ngành kinh tế mà còn tạo ra các sản phẩm
tiêu dùng có giá trị góp phần phát triển nền kinh tế và nâng cao trình độ văn minh của xã hội. Vì
vậy tăng trưởng công nghiệp có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành kinh tế khác như:
nông nghiệp, thương mại, giao thông vận tải, dịch vụ, quốc phòng…Do công nghiệp có vai trò
quan trọng như vậy nên khi đánh giá trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia tiêu chuẩn đầu
tiên phải đề cập đến là tỷ trọng của ngành công nghiệp trong giá trị tổng sản lượng của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân.
Ngày nay, một nước muốn có trình độ kinh tế cao, nhất thiết phải có một hệ thống các
ngành công nghiệp hiện đại và đa dạng trong đó các ngành mũi nhọn phải được chú ý thích đáng.
Do vậy chỉ có tăng trưởng công nghiệp mới giúp các quốc gia đang phát triển xây dựng nền công
nghiệp bền vững và xoá bớt khoảng cách với các nước phát triển kể cả về mặt kinh tế lẫn văn minh
xã hội. Nhận thức rõ điều này Đảng và Nhà nước ta từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (12-1986) đã
có chủ trương đổi mới nền công nghiệp từ tập trung phát triển công nghiệp nặng sang phát triển
đồng bộ các ngành công nghiệp đặc biệt là công nghiệp chế biến và hàng tiêu dùng. Chính từ chủ
trương đổi mới đó sau gần 20 năm công nghiệp Việt Nam đã có những thành tựu đáng kể, tăng
trưởng công nghiệp này càng cao và ổn định, các sản phẩm công nghiệp đáp ứng được nhu cầu
trong nước và còn xuất khẩu cạnh tranh với các sản phẩm của nước ngoài. Tuy nhiên bên cạnh
những thành tựu đã đạt được, công nghiệp Việt Nam còn một số điểm kém phát triển như lao động
trong ngành công nghiệp có trình độ chưa cao, sản phẩm công nghiệp có sức cạnh tranh chưa
cao…Với những thành tựu cũng như thực trạng này chúng ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh phát triển
công nghiệp để nước ta trở thành một nước công nghiệp trong thời gian sắp tới.
Để có được sự tăng trưởng trong công nghiệp như vậy thì cần phải xét tới những yếu tố đã
tác động tới sự phát triển đó. Bằng việc sử dụng mô hình trong kinh tế lượng phân tích các yếu tố
ảnh hưởng tới tăng trưởng công nghiệp là việc xem xét mối quan hệ giữa các biến số và nắm được
nhân tố nào quan trọng nhất trong các nhân tố có ảnh hưởng tới biến phụ thuộc trong mô hình.
Phân tích số liệu, tìm hiểu, nghiên cứu các vấn đề trên sẽ có ý nghĩa trong việc phân tích đánh giá
1
đầy đủ hơn về tăng trưởng công nghiệp Việt Nam trong thời gian qua. Từ đó xât dựng mô hình


tăng trưởng phù hợp với điều kiện hiện nay của đất nước.
Trong thời gian thực tập tại Vụ Thống kê công nghiệp và xây dựng trực thuộc Tổng cục
thống kê, với sự hướng dẫn của cán bộ tại cơ quan thực tập: Phạm Thị Hồng Trang và sự chỉ bảo,
hướng dẫn của thầy giáo: PGS.TS Nguyễn Quang Dong đã giúp em chọn, nghiên cứu đề tài:
“ Phân tích các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến tăng trưởng công nghiệp bằng mô hình
kinh tế lượng.”
2
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG VỀ NỀN CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
1. Khái niệm và phân loại ngành công nghiệp của Việt Nam hiện nay
1.1. Khái niệm ngành công nghiệp
Ngành công nghiệp bao gồm các hoạt động kinh tế khai thác tài nguyên khoáng sản sẵn
có trong thiên nhiên chưa có tác động của bàn tay con người ( trừ tài nguyên rừng và thuỷ hải
sản) và các hoạt động chế biến những sản phẩm của ngành Nông lâm nghiệp, Thuỷ sản và
Công nghiệp thành các sản phẩm có giá trị sử dụng mới so với giá trị sửa dụng của sản phẩm
ban đầu đưa vào chế biến.
1.2. Phân loại ngành công nghiệp Việt Nam hiện nay
(1) Công nghiệp khai thác mỏ gồm:
- Khai thác than.
- Khai thác dầu thô và khí tự nhiên.
- Khai thác quặng, kim loại.
- Khai thác đá, cát sỏi và các mỏ khác.
(2) Công nghiệp chế biến gồm:
- Sản xuất thực phẩm đồ uống.
- Sản xuất thuốc lá, thuốc lào.
- Dệt, may, thuộc da và sản xuất các sản phẩm từ da.
- Chế biến gỗ và lâm sản.
- Sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy.
- Xuất bản, in và sao bản ghi các loại.
- Sản xuất than cốc, dầu mỏ tinh chế và nhiên liệu hạt nhân.
- Sản xuất hoá chất và các sản phẩm hoá chất.

- Sản xuất các sản phẩm từ cao su và plastic.
- Sản xuất các sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại.
- Sản xuất kim loại.
- Sản xuất các sản phẩm từ kim loại (trừ máy móc, thiết bị).
- Sản xuất máy móc, thiết bị văn phòng, máy tính.
3
- Sản xuất radio, ti vi và thiết bị truyền thông.
- Sản xuất dụng cụ y tế, thiết bị chính xác (cân đo).
- Sản xuất xe có động cơ.
- Sản xuất các loại phương tiện khác.
- Sản xuất giường tủ, bàn ghế và các sản phẩm khác chưa được phân vào đâu.
- Tái chế phế liệu, phế phẩm.
(3) Sản xuất tập trung và phân phối điện, ga, nước sạch và nước nóng gồm:
- Sản xuất, tập trung và phân phối điện, ga.
- Sản xuất và phân phối nước sạch, nước nóng.
2. Công nghiệp Việt Nam trước năm 1986 và chủ trương đổi mới
2.1. Một vài nét về quá trình phát triển của Công nghiệp Việt Nam từ trước năm 1986
Nước ta từ trước năm 1945 là một nước phong kiến thuộc địa, phương thức sản xuất
phong kiến trì trệ kéo dài, chính sách trọng nông, kiềm công, ức thương nên công nghiệp không
thể tách khỏi nông nghiệp để trở thành một ngành độc lập. Do đó nền công nghiệp nước ta lúc
bấy giờ là nền công nghiệp què quặt không phát triển. Đến tháng 9/1945 khi nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà ra đời, tiếp quản chính quyền từ chế độ cũ Chính Phủ nước ta lúc bấy giờ
gặp vô vàn khó khăn, công nghiệp Việt Nam vốn đã què quặt lại chịu ảnh hưởng nặng nề của
chiến tranh nên càng sa sút. Song với đường lối và chủ trương đúng đắn của Đảng cung với sự
nỗ lực của cán bộ làm công nghiệp nên chỉ trong một năm hầu hết các cơ sở sản xuất công
nghiệp quan trọng đã nhanh chóng được phục hồi và đi vào sản xuất.
Từ tháng 5/1954 đến 5/1975, trong hoàn cảnh một phần đất nước còn đang chiến tranh,
công nghiệp Việt Nam vừa phải xây dựng một nền sản xuất tiến dần lên cơ khí hoá và tự động
hoá, xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, một mặt phải tiếp tục sản xuất để chi viện cho chiến
trường miền Nam. Với chủ trương khôi phục, phát triển kinh tế và cải tạo công thương nghiệp,

chỉ sau một thời gian ngắn công nghiệp miền Bắc đã nhanh chóng lấy lại được nhịp độ sản
xuất. Năm 1960 sản xuất của công nghiệp quốc doanh đạt gấp 25 lần so với năm 1955, cơ cấu
công nghiệp có sự thay đổi đáng kể đã hình thành hệ thống công nghiệp bao gồm 3 bộ phận
chủ yếu là quốc doanh trung ương, quốc doanh địa phương và tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã.
Năm 1975 miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước bước vào giai đoạn lịch sử mới.
Đại hội IV của Đảng đã xác định nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong
4
chặng đường trước mắt là “Tập trung phát triển công nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất
hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp quan trọng”. Giai đoạn này
công nghiệp được đầu tư lớn, tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản đạt 79,3 tỷ đồng theo giá so
sánh năm 1982 trong đó ngành công nghiệp chiếm 35,5% tổng vốn đầu tư. Giá trị tài sản cố
định tăng thêm 43,7 tỷ đồng trong đó ngành công nghiệp tăng 13,2 tỷ đồng. Do được tập trung
xây dựng nên ngành công nghiệp đã có thêm 714 doanh nghiệp nhà nước trong đó có 415
doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp nặng. Nhờ vậy năng suất của nhiều ngành tăng lên
rõ rệt: năm 1980 so với năm 1976, công suất sản xuất than tăng 12,7%; thép tăng 40%, xi măng
tăng 18,6%, giấy bìa tăng 33,1%, vải tăng 11,1%, thuốc lá tăng 36,9%, động cơ điện gấp 3,6
lần.
Giai đoạn 1981-1985 là giai đoạn nền công nghiệp bắt đầu có những dấu hiệu phát triển
tương đối khá. Công nghiệp vẫn là ngành được đầu tư lớn, tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản
trong của Nhà nước trong giai đoạn này đã lên tới 95,4 tỷ đồng tăng 20,3% so với giai đoạn
1976-1980. Ngành công nghiệp vẫn được ưu tiên với 36,5 tỷ đồng chiếm 38,4% vốn đầu tư. Do
đẩy mạnh đầu tư trong 2 kế hoạch 5 năm liền nên một số công trình lớn đã được hoàn thành và
đưa vào sử dụng như nhà máy nhiệt điện Phả Lại, thuỷ điện Hoà Bình, khu dầu khí Vũng Tàu,
các nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch…Năng lực sản xuất của các ngành đã tăng tương
đối khá như: sản xuất được 456,5 nghìn kW điện, 2198 km đường dây tải điện; 2545 nghìn tấn
than nguyên khai; 275,7 nghìn tấn phân bón hoá học; 2140,4 nghìn tấn xi măng; 58,4 nghìn tấn
giấy. Sản xuất công nghiệp được đầu tư lớn nên tốc độ tăng tuy có khá hơn nhưng vẫn chiếm tỷ
trọng nhỏ trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân và tốc độ tăng cũng không ổn định. Giá trị sản
lượng 1985 tăng 61,2% so với năm 1976, bình quân mỗi năm tăng 5,4% ( 1977 tăng 10,8%;

1978 tăng 8,2%; 1979 giảm 4,7%; 1980 giảm 10,3%; 1981 tăng 1%; 1982 tăng 8,7%; 1983
tăng 13%; 1984 tăng 13,2%; năm 1985 tăng 12,1%).
2.2. Chủ trương đổi mới
Trên đây chúng ta đã điểm qua một vài nét chính về quá trình lịch sử của công nghiệp Việt
Nam. Qua đó ta thấy công nghiệp Việt Nam hình thành khá muộn so với nền công nghiệp Thế
Giới, mãi đến năm 1945 khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời thì nó mới thực sự trở
thành ngành độc lập. Xuất phát điểm công nghiệp thấp không chỉ về mặt kỹ thuật, công nghệ
5
mà còn cả về khả năng ứng dụng và môi trương kinh tế để có thể phát triển. Thêm vào đó là
những chủ trương, chính sách sai lầm sau ngày giải phóng. Tất cả những điều kiện trên đã tạo
thành bức rào cản kiên cố ngăn không cho kinh tế Việt Nam nói chung và ngành công nghiệp
Việt Nam nói riêng phát triển như các nước trong khu vực, hoà cùng nhịp đi lên của thế giới.
Việt Nam trong điều kiện ấy thứcự đã bị tụt hậu quá xa nhưng lại chỉ chậm chạp, năng nề lê
từng bước để đuổi theo sự phát triển với tốc độ chóng mặt của nền kinh tế Thế Giới.
Trước bối cảnh đó, Đại hội lần thứ VI của Đảng (12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn
diện nhằm đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, đi vào thế ổn định và phát triển. Đại hội xác
định: “ nhiệm vụ bao trùm và mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu
tiên là ổn định mọi mặt kinh tế xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy
mạnh CNH XHCN trong chặng đường tiếp theo”.
Về các biện pháp lớn Đại hội chỉ rõ: “ Phải khai thác mọi khả năng của các thành phần
kinh tế liên kết với nhau, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, kiên quyết xoá bỏ cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế kế hoạch hoá hạch toán theo phương thức
hạch toán kinh doanh XHCN, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá-tiền tệ, quản lý bằng
phương pháp kinh tế là chủ yếu. Căn cứ vào định hướng chung đó, phải bố trí lại cơ cấu kinh
tế, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư xây dựng cơ bản, xác định lại vị trí ưu tiên của các ngành sản
xuất, đặt sản xuất nông nghiệp lên vị trí hàng đầu gắn liền với đề cao vai trò của công nghiệp
nhẹ và tiểu, thủ công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Việc phát triển công
nghiệp nặng và xây dựng kết cấu hạ tầng phải nhằm phục vụ các mục tiêu kinh tế, quốc phòng
trong chặng đường đầu tiên, không bố trí công nghiệp nặng vượt quá điều kiện thực tế, khả
năng cho phép. Đại hội chủ trương công bố khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới

mọi hình thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm hàng xuất khẩu.
Sự điều chỉnh trên chứng tỏ: Đại hội IV đã định hướng cho việc chuyển từ chủ trương thực
hiện mô hình CNH theo kiểu cũ sang mô hình CNH theo kiểu mới phù hợp với điều kiện của
đất nước và yêu cầu của thời đại. Đồng thời đường lối đúng đắn này cũng đã thực sự phát huy
tác dụng: ngăn chặn khủng hoảng kinh tế, kịp thời kìm hãm lạm phát và đưa Việt Nam bước
vào giai đoạn phát triển ổn định.
3. Công nghiệp Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay
3.1. Tăng trưởng Công nghiệp
6
Đại hội VI của Đảng (12-1986) đã quyết định đường lối đổi mới toàn diện mang tính
chiến lược, mở ra thời kỳ mới của phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng. Cụ thể
hoá đường lối đó, Nhà nước ban hành nhiều chính sách kinh tế tài chính thong thoáng mở
đường cho sản xuất công nghiệp phát triển.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 1986-1990, bình quân mỗi năm giá trị sản xuất công nghiệp
tăng 7,7% cao hơn hẳn các thời kỳ trước đó. Nhiều ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế
không những đã thoát khỏi khủng hoảng mà còn tăng trưởng với nhịp độ khá cao: cụ thể như
sản lượng điện bình quân mỗi năm tăng 11,1%, xi măng tăng 11%, thép cán tăng 8%, thiếc
tăng 10%. Kết thúc kế hoạch 5 năm, sản lượng điện sản xuất (năm 1990) tăng 72,5%, sản
lượng xi măng tăng 89,6%, giá trị sản lượng công nghiệp tăng 32,9% so với năm 1985, trong
đó khu vực quốc doanh tăng 37,9%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 24,4%... Đáng chú ý là đã
xuất hiện ngành sản xuất mới: khai thác dầu thô của công nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI). Sản lượng dầu thô tăng từ 40 nghìn tấn năm 1986 lên 280 nghìn tấn năm 1987,
680 nghìn tấn năm 1988, 1,5 triệu tấn năm 1989 và 2,7 triệu tấn năm 1990. Tuy nhiên, những
tiến bộ đó mới chỉ là bước đầu và chưa vững chắc. Tốc độ tăng trưởng vẫn chưa ổn định : 1986
tăng 6,2%, năm 1987 tăng 10%, 1988 tăng 14,3%, 1989 giảm 3,3% và 1990 tăng 3,1%. Bước
sang thập kỷ 90 công nghiệp mới thực sự khởi sắc.
Bình quân 5 năm 1991-1995 tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành đạt
13,7%, vượt xa kế hoạch đạt ra (7,5-8,5%), trong đó khu vực kinh tế Nhà nước tăng 15%, khu
vực ngoài quốc doanh tăng 10,6%. Đó là thời kỳ tăng trưởng cao và ổn định nhất kể từ 1976.
Các ngành công nghiệp then chốt chiếm tỷ trọng lớn đều tăng khá: nhiên liệu, năng lượng tăng

20%, hoá chất tăng 20,1%, luyện kim đen tăng 16,1%, chế biến lương thực tăng 13,6%, giấy
tăng 12,9%, may mặc tăng 27,3%, giầy da tăng 23,8%. Nhiều sản phẩm công nghiệp quan
trọng tăng trưởng khá: điện tăng 10,8%, dầu thô tăng 23,3%, thép cán tăng 30,3%, xà phòng
tăng 12,9%.. Công nghiệp sản xuất hang tiêu dùng vừa tăng nhanh số lượng vừa nâng cao chất
lượng nên bước đầu đã tăng sức cạnh tranh với hàng ngoại. Cơ cấu ngành cơ cấu thành phần
kinh tế cũng đã có nhiều chuyển biến tích cực, trong đó đáng chú ý là công nghiệp khu vực FDI
ngày càng chiếm vị trí xứng đáng trong cơ cấu công nghiệp nước ta. Nhiều sản phẩm mới có
chất lượng cao xuất hiện làm phong phú thêm hang hoá trên thị trường trong nước và xuất
khẩu. Năm 1995, công nghiệp FDI chiếm 23,6% tổng giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp,
so với 52% của doanh nghiệp nhà nước.
7
Trong kế hoạch 5 năm 1996-2000, sản xuất công nghiệp nước ta tiếp tục phát triển ổn định
và tăng trưởng với nhịp độ cao. Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân 5 năm 1996-2000 tăng
13,8%: 1996 tăng 14,2%, năm 1997 tăng 13,8%, 1998 tăng 12,5%, 1999 tăng 11,6%, 2000 tăng
17,5%. Không chỉ tăng trưởng cao mà sản xuất công nghiệp những năm cuối cùng của thập kỷ
90 đã xuất hiện xu hướng đa ngành, đa sản phẩm với sự tham gia của các thành phần kinh tế
quốc doanh, ngoài quốc doanh và công nghiệp có vốn FDI, trong đó công nghiệp quốc doanh
vẫn giữ vai trò chủ đạo. Tính chung 5 năm từ 1996-2000 giá trị sản xuất khu vực Nhà nước do
TW quản lý đều tăng trưởng cao ở tất cả các nhóm ngành chủ yếu: 2000/1995 công nghiệp khai
thác tăng 37,4%; công nghiệp chế biến tăng 55,7% và công nghiệp sản xuất và phân phối điện,
khí đốt và sản xuất nước tăng gấp 2 lần. Công nghiệp nhà nươc do địa phương quản lý tuy có
tốc độ tăng trưởng thấp hơn khu vực do TW quản lý nhưng có nhiều khởi sắc so với các thời
kỳ trước đó, nhất là ngành may mặc, dệt, da, chế biến lương thực thực phẩm.
Công nghiệp ngoại quốc doanh, tuy có nhiều khó khăn về vốn, thị trường và công nghệ
nhưng vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng khá. Bình quân 5 năm 1996-2000 giá trị sản xuất
công nghiệp khu vực ngoài quốc doanh tăng 11,65% cao hơn công nghiệp khu vực nhà nước
trong cùng thời gian. Điều đó thể hiện rõ nhất trong năm 2000, công nghiệp ngoài quốc doanh
tăng 19,2%, trong đó khu vực hỗn hợp tăng cao nhất 24%, kế đến là khu vực tập thể tăng 24%,
khu vực tư nhân tăng 19,2% và khu vực cá thể tăng 6,6%. Tỷ trọng của công nghiệp ngoài
quốc doanh trong giá trị sản xuất công nghiệp khu vực trong nước đã tăng từ 32,8% năm 1995

lên 34,7% năm 2000. Hai tỷ lệ tương ứng của công nghiệp nhà nước là 67,2% và 65,3%. Nét
mới của công nghiệp ngoài quốc doanh thời kỳ này là nhiều doanh nghiệp hỗn hợp, doanh
nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần… đã đầu tư đổi mới máy móc thiết bị và ứng
dụng công nghệ mới vào sản xuất để tăng năng suất, chất lượng và giảm chí phí sản xuất, tăng
sức cạnh tranh trong thị trường trong nước và tham gia xuất khẩu. Công nghiệp ngoài quốc
doanh với quy mô vừa và nhỏ đã thoát khỏi tình trạng trì trệ, không ổn định. Công nghiệp nông
thôn phát triển mạnh theo tinh thần nghị quyết Đại hội VIII của Đảng về đẩy mạnh công
nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Các ngành công nghiệp chế biến nông sản
thực phẩm, làng nghề truyền thống, làng nghề mới ở khu vực nông thôn được khôi phục và
phát triển nhanh ở tất cả các vùng trong cả nước.
Công nghiệp khu vực đầu tư nước ngoài do có lơi thế về máy móc thiết bị và kỹ thuật hiện
đại, có thị trường xuất khẩu khá ổn định, lại được Nhà nước khuyến khích bằng các cơ chế,
8
chính sách ngày càng thông thoáng, nên trong những năm qua phát triển khá nhanh và ổn định
hơn hẳn khu vực công nghiệp nhà nước. Tốc độ tăng giá trị bình quân 5 năm 1991-1995 là
12%, 1996 là 21,7%, 1997 là 23,2%, 1998 là 24,4%, 1999 là 20% và năm 2000 là 21,8%. Vị trí
của công nghiệp FDI trong cơ cấu công nghiệp cả nước ngày càng được củng cố. Hầu hết các
ngành công nghiệp FDI đều tăng trưởng cao: năm 2000 so với năm 1996; sản lượng xà phòng
tăng 5,95 lần; tấm lợp tăng 71 lần, kính xây dựng tăng gấp 200 lần; quạt điện dân dụng tăng
58%; ô tô lắp ráp tăng 7,46 lần, tivi lắp ráp tăng 6,33 lần. Không chỉ tăng nhanh mà công
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn sản xuất với quy trình công nghệ hiện đại nên chất lượng
và chi phí sản xuất có sức cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Tốc độ tăng
trưởng cao và tỷ trọng ngày càng lớn cùng với chất lượng cao giá thành hạ của công nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng đảm bảo nhịp độ tăng trưởng của toàn ngành
công nghiệp cả nước trên 10% liên tục trong suốt thập niên 90.
Bước sang thế kỷ XXI, Đại hội IX của Đảng đã quyết định chiến lược phát triển kinh tế xã
hội 10 năm 2001-2010 và kế hoạch 5 năm 2001-2005 với nội dung là đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Sau 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng IX, sản xuất
công nghiệp nước ta đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Tốc độ tăng giá trị sản xuất
công nghiệp bình quân 5 nảm 2001-2005 đạt 15,7 % với xu hướng ổn định năm sau cao hơn

năm trước.(Năm 2001 tăng 14,6%; năm 2002 tăng 14,8%, năm 2003 tăng 16,5%, năm 2004
tăng 16,2% và 2005 là 17,2%). Như vậy trong kế hoạch 5 năm 2001-2005, tốc độ tăng trưởng
của sản xuất công nghiệp đã đạt và vượt mục tiêu đề ra dù có nhiều khó khăn về thị trường và
giá cả nhiên liệu nhập khẩu biến động bất lợi, nhất là tăng giá phôi tháp, xăng dầu, bông, hoá
chất… Đáng chú ý là tốc độ tăng trưởng cao đã được ở tất cả các thành phần, khu vực kinh tế.
Bình quân 5 năm gần đây, khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 12,1%/năm; khu vực công
nghiệp ngoài quốc doanh tăng 18,9% và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài tăng
15,5%.
9
Đồ thị 1 :Tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp từ 1994-2005 theo giá cố định
Tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp
0.00%
2.00%
4.00%
6.00%
8.00%
10.00%
12.00%
14.00%
16.00%
18.00%
20.00%
1994 1996 1998 2000 2002 2004
Năm
T

c
độ
t
ă

ng tr
ưở
ng
Tăng trưởng công nghiệp nước ta đạt được những thành tựu như trên nguyên nhân cơ bản
có tính chẩt bao trùm chính là nhờ chính sách đổi mới của Đảng. Bên cạnh đó những năm qua
Nhà nước cũng như các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương và các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế đã tập trung vốn, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề để đổi
mới cơ cấu đầu tư theo hướng từ chiều rộng sang chiều sâu, từng bước hiện đại hoá máy móc
thiểt bị và quy trình công nghệ để từ đó nâng cao năng suất lao động, tăng chất lượng sản
phẩm, đa dạng hoá mặt hàng và giảm chi phí sản xuất. Nhờ đó sức mạnh cạnh tranh của sản
phẩm công nghiệp Việt Nam được nâng lên trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Tiến độ
thực hiện vốn đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước tập trung dành cho các
công trình phục vụ công nghiệp tăng nhanh. Hàng loạt công trình xây dựng của ngành công
nghiệp triển khai đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng nhất là những công trình hiện đại hoá công
nghiệp khai thác than, công nghiệp đóng tàu, công nghiệp dệt may xuất khẩu, công nghiệp chế
biến nông lâm thuỷ sản, công nghiệp cơ khí xây dựng, cơ khí sửa chữa… thu hút các dự án đầu
tư nước ngoài. Tính chung từ năm 1988 đến năm 2005 nước ta đã thu hút trên 3678 dự án đầu
10
tư vào công nghiệp với tổng số vốn đăng kí lên tới hàng chục tỷ USD. Khu vực này năm 2003
đã tạo ra trên 37,2% giá trị sản xuất công nghiệp và tạo việc làm cho trên nửa triệu lao động,
chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp chế biến. Ngoài ra việc mở rộng được thị trường xuất khẩu
trong đó chủ yếu là hàng hoá công nghiệp như dệt may da giầy, máy chế biến, nông lâm thuỷ
sản chế biến cũng thúc đẩy sự tăng trưởng công nghiệp. Đó là kết quả của quá trình đổi mới và
hội nhập kinh tế quốc tế của công nghiệp nước ta những năm đầu thế kỷ XXI, vượt xa các thời
kỳ trước đó.
3.2. Tỷ trọng công nghiệp trong một số chỉ tiêu Kinh tế tổng hợp
Ngay từ những năm đầu tiên của nền kinh tế non trẻ nước ta, công nghiệp đóng góp
một phần rất lớn trong các chỉ tiêu kinh tế. Đến năm 1986, tỷ trọng công nghiệp trên giá trị
tổng sản lượng công-nông nghiệp là 53,5%, chiếm 42,8% trong tổng sản phẩm xã hội, 28,6%
thu nhập quốc dân, vốn đầu tư cho công nghiệp chiếm 43,9% vốn đầu tư phát triển. Các tỷ lệ

này được tăng dần trong các năm 1987,1988 nhưng đến năm1989 cùng với sự giảm sụt về giá
trị sản lượng công nghiệp, tỷ trọng công nghiệp trong các chỉ tiêu kinh tế đều giảm xuống còn
mức gần bằng năm 1986.
Do tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu sản xuất công nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực,
chất lượng sản phẩm có nhiều tiến bộ nên vai trò của công nghiệp trong dịch chuyển cơ cấu
kinh tế quốc dân trong 4 năm đầu thế kỷ XXI đã thể hiện khá rõ nét. Tỷ trọng công nghiệp và
xây dựng trong GDP tăng từ 36,73% năm 2000 lên 38,13% năm 2001; 38,49% năm 2002;
39,95% năm 2003; 40,09% năm 2004 và 41,02% năm 2005.
Nhìn chung, tỷ lệ vốn đầu tư phát triển đầu tư vào công nghiệp thường cao hơn tỷ trọng
công nghiệp trong GDP. Điều này cũng dễ hiểu vì công nghiệp luôn đòi hỏi phải đầu tư lớn về
cơ sở hạ tầng: nhà xưởng, máy móc, thiết bị ... Nếu tỷ trọng trung bình của công nghiệp trong
GDP giai đoạn 1990-1995 là 21,36%; 1996-2000 là 27,17% thì vốn đầu tư phát triển cho công
nghiệp chiếm 42,92% trong nửa đầu thập niên 90 và giảm xuống 32,72% trong nửa cuối.
So với công nghiệp khai thác, công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước, khí đốt thì tỷ
trọng của công nghiệp chế biến trong GDP, vốn đầu tư phát triển đều cao hơn cả. Như năm
2000 GDP ngành công nghiệp chế biến chiếm 18,6% GDP, đến năm 2003 chiếm tới 20,45%
GDP của toàn bộ nền kinh tế.
11
Năm 1995, vốn đầu tư phát triển dành cho công nghiệp 31,2% thì có 17% là cho công
nghiệp chế biến, 9,2% công nghiệp điện, nước, khí đốt và chie có 5% cho công nghiệp khai
thác. Đến năm 2000, với tỷ lệ đầu tư cho công nghiệp là 33,8% vốn đầu tư phát triển thì tỷ lệ
đầu tư cho công nghiệp chế biến đạt 20,1%, công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước, khí
đốt là 11,7%, công nghiệp khai thác mỏ chỉ chiếm 2,6%. Đây cũng là xu hướng chung về tăng
vốn đầu tư cho công nghiệp chế biến và giảm dần cho công nghiệp khai thác mỏ giai đoạn
2000-2003. Vẫn biết rằng các ngành như điện, khai khoáng là những ngành đóng vai trò quan
trọng trong quá trình tiến hành CNH, HĐH nên cần tập trung đầu tư nhưng bản thân các ngành
phải cố gắng nhiều hơn nữa để nâng cao hiệu suất sử dụng vốn và chính phủ cần có những biện
pháp để sớm khắc phục tình trạng sử dụng vốn bừa bãi thì mới có thể đẩy nhanh quá trình CNH
đất nước.
3.3. Chuyển dịch cơ cấu trong ngành Công nghiệp

Quá trình phát triển công nghiệp trong điều kiện CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân ở
Việt Nam trong thời gian qua luôn đi đôi với quá trình chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo
hướng tăng dần các ngành công nghiệp chế biến, tỷ trọng của khu vực vốn đầu tư nước ngoài,
chuyển mạnh từ nền công nghiệp hướng nội, thay thế nhập khẩu sang nền công nghiệp hướng
ngoại, định hướng xuất khẩu.
Cơ cấu các thành phần kinh tế đã thay đổi khá rõ nét. Công nghịêp ngoài quốc doanh với
các loại hình hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần tuy có tỷ trọng
còn nhỏ nhưng nhịp độ tăng trưởng cao nhất và vị trí của nó trong toàn ngành công nghiệp
cũng ngày càng nâng cao. Nếu năm 2000, khu vực ngoài quốc doanh mới chiếm 24,5% trong
giá trị sản xuất theo giá thực tế của toàn ngành công nghiệp, thì năm 2003 là 25,66% và năm
2005 lên 28,5%.
Khu vực doanh nghiệp Nhà nước tỷ trọng ngày càng giảm dần, do thực hiện sắp xếp lại
doanh nghiệp, cổ phần hoá chuyển qua khu vực ngoài quốc doanh, giải thể sat nhập các doanh
nghiệp sản xuất kém hiệu quả, trong khi đó lại hạn chế phát triển bề rộng ( hạn chế thành lập
DNNN mới), tập trung phát triển bề sâu. Nếu năm 2000, tỷ trọng giá trị sản xuất(tính theo giá
cố định) của DNNN chiếm 41,2% thì năm 2001 giảm xuống còn 41,1%, năm 2003 còn 38,565,
năm 2005 là 34,8%.
12
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài được hình thành chậm nhưng có ưu thế về kỹ thuật công
nghệ cao hơn, kinh nghiệm quản lý tốt hơn, quan hệ kinh tế đối ngoại thuận lưọi hơn so với hai
khu vực quốc doanh và ngoài quốc doanh. Do vậy tỷ trọng giá trị sản xuất của khu vực này
tăng nhanh theo thời gian từ 26,73% năm 1996 lên 35,3% năm 2001, 35,78% năm 2003, 37,2%
năm 2005, trở thành khu vực chiếm tỷ trọng lớn thứ 2 sau khu vực quốc doanh kể từ năm 2000.
Có thể nói, xu hướng chuyển dịch cơ cấu giữa các khu vực, thành phần kinh tế loại hình doanh
nghiệp công nghiệp đang diễn ra theo đúng đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần của
Đảng và Nhà nước. Khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh
hơn, chiếm tỷ trọng ngày càng cao, còn khu vực doanh nghiệp Nhà nước đang giảm dần nhưng
vẫn giữa vai trò chủ đạo.
Đồ thị 2: Cơ cấu GO công nghiệp phân theo nguồn vốn đầu tư
Cơ cấu GO công nghiệp phân theo nguồn vốn đầu tư

34.68%
35.30% 35.78%
37.20%
21.94%
23.60%
25.66%
28.50%
43.38%
41.10%
38.56%
34.30%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
1999 2001 2003 2005
Năm
Doanh nghiệp
nhà nước
Ngoài quốc
doanh
Khu vực có
vốn đầu tư

nước ngoài
Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo hướng đa thành phần nói trên, cơ cấu
sản xuất nội bộ ngành công nghiệp cũng đã có bước chuyển tích cực. Công nghiệp chế biến
chiếm tỷ trọng lớn, những năm qua luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao nên tỷ trong khá ổn định và
có xu hướng tăng dần : từ 78,8% lên 80,3% năm 2004. Trong khi đó, ngành công nghịêp khai
13
thác mỏ vốn chiếm tỷ trọng nhỏ lại giảm dần từ 15,78% năm 2000 xuống còn 15,06% năm
2004 và công nghiệp sản xuất điện nước cũng trong tình trạng tương tự: năm 2000 chiếm
5,54% giá trị sản xuất toàn ngành, trong đó sản xuất điện 5%, sản xuất nước 0,5%, đến năm
2004 giảm xuống còn 4,65% (điện 4,31% và nước 0,43%).
Trong nội bộ ngành công nghiệp chế biến, cơ cấu sản xuất cũng có sự chuyển dịch giữa
các ngành gia công lắp ráp với sản xuất từ nguyên liệu ban đầu. Nhìn chung các hoạt động gia
công lắp ráp tăng nhanh hơn nhiều so với sản xuất từ nguyên vật liệu ban đầu. Cụ thể năm
2000 tỷ trọng công nghiệp gia công lắp ráp mới chiếm 20,3% thì năm 2000 đã tăng lên 26,3%.
Ngược lại, hoạt động sản xuất từ nguyên vật liệu ban đầu tỷ trọng giảm từ 79,7% xuống còn
73,7%. Trong xu hướng phát triển của công nghiệp chế biến, tỷ trọng các ngành có công nghệ
cao tuy còn nhỏ nhưng cũng có xu hướng tăng nhanh. Năm 2000 chiếm 15,6%, năm 2004 là
18,8% trong đó sản xuất ô tô từ 1,75% lên 3,15%, sản xuất thiết bị điện, điện tử từ 2,29% lên
2,76%, sản xuất xe máy và các phương tiện vận tải khác từ 3,98% lên 4,05%, sản xuất thiết bị
văn phòng, máy tính từ 0,52% lên 1,17%. Tiếp đến là các ngành có công nghệ trung bình tăng
từ 26,2% năm 2000 lên 29,5% năm 2004, trong đó có những ngành tăng khá về tỷ trọng như:
sản xuất kim loại từ 2,72% lên 3,87%, sản xuất các sản phẩm khác từ kim loại tăng từ 3% lên
4,23%, sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại tăng từ 6,39% lên 6,85%... Còn những ngành
công nghệ thấp thì tỷ trọng giảm dần, năm 2000 chiếm 58,2% đến năm 2004 còn 51,7% trong
đó: thực phẩm đồ uống giảm từ 24,1% xuống còn 18,7%, dệt từ 4,59% xuống còn 3,8%, da
giầy từ 4,3% xuống còn 4,03%, sản xuất thuốc lá từ 2,26% xuống 1,75%, riêng có hai ngành là
may mặc tăng từ 3,42% lên 4,12%, sản xuất giường tủ bàn ghế tăng từ 2,21% lên 4,05%.
14
Đồ thị 3: Tỷ trọng các ngành công nghiệp chủ yếu trong toàn bộ nền công nghiệp
Tỷ trọng các ngành công nghiệp chủ yếu trong toàn

bộ nền công nghiệp
13.00%
14.86%
13.20%
13.55%
80.53%
79.39%
81.07%
81.34%
6.47% 5.75% 5.73%
5.11%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
1997 1999 2001 2003
Điện, nước khí đốt
Chế biến
Khai thác
Bên cạnh đó xu hướng chuyển đổi cơ cấu theo vùng cũng là nét mới đáng quan tâm. Tỷ
trọng giá trị sản xuất công nghiệp vùng Đông Nam Bộ vẫn chiếm trên 50% của cả nước. Đây là
vùng có nhiều khu công nghiệp tập trung, thu hút nhiều dự án FDI, có thị trường xuất khẩu
thuận lợi, có nhiều sản phẩm chất lượng cao. Vùng đồng bằng sông Hồng tuy chiếm tỷ trọng bé

hơn Đông Nam Bộ nhưng cũng có khởi sắc do từ năm 2001 tới nay đã hình thành nhiều khu
công nghiệp tập trung quy mô lớn ở Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Hải Dương,
Hà Tây và Bắc Ninh. Đây cũng là vùng có nhiều làng nghề truyền thống đã khôi phục và phát
triển khá nhanh nhờ các chính sách kinh tế tài chính thông thoáng của Chính phủ.
3.4. Công nghệ
Trong những năm qua do mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế, văn hoá và khoa học kỹ thuật
với các nước trên thế giới, trong đó có những nước công nghiệp phát triển và công nghiệp mới
(NIC) chúng ta đã đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu theo chiều sâu theo công nghệ. Trước đây
trình độ công nghệ, trang thiết bị trong ngành công nghiệp hết sức lạc hậu, không đáp ứng
được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Quá trình đổi mới với sự nỗ lực tập trung đầu tư, ứng
dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại vào sản xuất mà trực tiếp đổi mới máy móc thiết
15
bị kỹ thuật phù hợp đã tạo một bước tiến mới, nâng cao trình độ công nghệ của các doanh
nghiệp công nghiệp, tạo năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm được cải tiến là cơ sở để
mở rộng thị trường hàng hóa công nghiệp Việt Nam cả trong nước và nước ngoài. Ở một số
ngành công nghiệp đã có sự chuyển biến theo hướng tiếp cận công nghiệp tiên tiến, hiện đại,
hình thành một cơ cấu công nghiệp đa dạng về xuất xứ và trình độ, đan xen trong từng doanh
nghiệp, từng ngành sản xuất công nghiệp.
Thấy được tầm quan trọng của công nghệ hiện đại nên những năm vừa qua vốn đầu tư cho
ngành công nghiệp ngày càng tăng để các ngành công nghiệp nhanh chóng tiếp cận với công
nghệ hiện đại trên thế giới. Vốn đầu tư trong năm 1986 mới chỉ là 15 tỷ đồng thì cho đến năm
1990 vốn đầu tư đã là 1995,6 tỷ đồng tăng gấp hơn 100 lần so với năm 1986; tới năm 1995 là
22673,3 tỷ đồng; năm 2000 là 49892,9 tỷ đồng; năm 2005 là 64390,9 tỷ đồng. Tuy nhiên
không phải năm nào vốn đầu tư cũng tăng vì đầu tư có độ trễ về mặt thời gian để tạo ra được
kết quả nên có khi năm trước đầu tư nhiều thì năm sau có thể giảm lượng vốn đầu tư đi như
năm 1995 lượng vốn đầu tư giảm 2,96% so với năm 1994.
Đồ thị 4: Vốn đầu tư cho ngành công nghiệp giai đoạn 1986-2005.

Vốn đầu tư
0

10000
20000
30000
40000
50000
60000
70000
1986 1989 1992 1995 1998 2001 2004
năm
t

đ

ng
vốn đầu tư
Là một nước đi sau, xuất phát điểm thấp, lạc hậu so với Thế giới nên chuyển giao công
nghệ đã trở thành hoạt động quan trọng trong sản xuất công nghiệp Việt Nam. Thông qua các
dự án đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất, đầu tư từ nhiều nguồn trong và ngoài nước, nhiều
16
công nghệ mới được chuyển giao từ các nước phát triển và được áp dụng vào sản xuất công
nghiệp. Công nghệ và các trang thiết bị tiên tiến thường được đầu tư ở một số lĩnh vực như dầu
khí, điện lực, sản xuất đồ uống, lắp ráp ô tô, xe máy, công nghiệp thực phẩm…
Trong nền kinh tế khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn có trình độ công nghệ,
trang thiết bị hiện đại nhất cũng như khả năng ứng dụng, tiếp cận công nghệ mới tốt nhất. Có
một đặc điểm chung là công nghệ sản xuất trong doanh nghiệp quốc doanh cao hơn doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cao hơn doanh nghiệp trong
nước, doanh nghiệp trung ương cao hơn doanh nghiệp địa phương. Công nghiệp tiên tiến chủ
yếu tập trung ở các liên doanh, doanh nghiệp có 100% có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh
nghiệp trng khu công nghiệp, khu chế xuất. Theo đánh giá trình độ tự động hoá trong các
doanh nghiệp công nghiệp thì các doanh nghiệp công nghiệp nhà nước đạt 3% thiết bị tự động

hoá, 39% thiết bị bán cơ khí còn ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tỷ lệ này là 10%
và 45%.
Cùng với chủ trương của nhà nước về đổi mới công nghệ trong quá trình sản xuất, các
doanh nghiệp trong và ngoài nước luôn cố gắng tập trung nâng cao trình độ công nghệ cải tiến
thiết bị máy móc, dây truyền theo hướng hiện đại hoá, đồng bộ hoá. Các doanh nghiệp này đã
bắt đầu phát huy được tính chủ động sáng tạo trong việc đổi mới công nghệ, phù hợp với năng
lực sản xuất kinh doanh, phát huy được hiệu quả sản xuất. Đồng thời đã khai thác nhiều nguồn,
khơi thông nhiều dòng công nghệ và từng bước thâm nhập vào thị trường công nghệ thế giới.
Trong những năm vừa qua, các khu công nghiệp mọc lên kéo theo quá trình đô thị hoá thúc
đẩy công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong các ngành nghề và thu hút thêm việc làm cho người
lao động. Không chỉ ở vùng Đông Nam Bộ, mà việc hình thành một số khu công nghiệp ở đồng
bằng Sông Hồng mới 3 năm gần đây đã cho thấy tác động tích cực của các khu công nghệ cao.
Trong số 115 khu công nghiệp hiện có tại 42 tỉnh thành trong cả nước đã đóng góp 26% giá trị
sản xuất công nghiệp cả nước, 19% giá trị xuất khẩu trong toàn bộ nền công nghiệp. Với việc
ứng dụng công nghệ hiện đại thì việc phát triển các khu công nghiệp có công nghệ cao là nhu
cầu tất yếu đối với nước ta hiện nay.
Nói tóm lại nhờ tiếp xúc với công nghệ sản xuất tiên tiến các ngành công nghiệp đã nâng
cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh, chất lượng được bảo đảm, năng xuất lao động cải
thiện, vốn đầu tư đem lại tỉ suất lợi nhuận cao…góp phần đẩy mạnh nền kinh tế quốc dân phát
17
triển, gắn quá trình công nghiệp hoá với quá trình hiện đại hoá. Tuy nhiên, trong quá trình đổi
mới công nghệ vẫn còn một số vấn đề bất cập như sau:
Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng công nghệ còn thấp so với yêu cầu phát triển của doanh
nghiệp, của ngành và yêu cầu của quá trình CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu trình độ
công nghệ còn giản đơn, chậm đổi mới trong nhiều ngành.
Thứ hai, trình độ quản lý, năng lực chuyên môn thấp gây nên tình trạng nhiều thiết bị cũ,
lạc hậu được nhập vào nước ta với giá thành cao, không phát huy được hiệu quả, gây tổn thất
về mặt kinh tế, ảnh hưởng xấu đến môi trường và xã hội.
Thứ ba, đổi mới công nghệ còn mang tính tự phát, chưa có môi trường pháp lý và quy
hoạch tổng thể về chiến lược phát triển khoa học công nghệ. Sự phối hợp giữa doanh nghiệp,

ngành và cơ quan khoa học nghiên cứu công nghệ chưa chặt chẽ gây nên tình trạng các doanh
nghiệp công nghiệp, các ngành có nhu cầu đổi mới công nghệ rất lớn, nhưng lại lúng túng khi
quýêt định lựa chọn lĩnh vực đâud tư, loại trình độ công nghệ và thiết bị kỹ thuật, đối tác, giá
cả và hợp đồng.
3.5. Lao động công nghiệp
Trong bất kỳ lĩnh vực nào nhân tố con người luôn là nhân tố đóng vai trò vô cùng quan
trọng. Trong sản xuất nhân tố con người được đề cập đến qua cụm danh từ lao động công
nghiệp. Thực trạng về lao động công nghiệp Việt Nam có thể điểm qua vài nét chính như sau:
Xét về cơ cấu lao động trong nội bộ ngành công nghiệp, theo điều tra toàn bộ nền công
nghiệp năm 1998, lao động ngoài quốc doanh chiếm tỷ lệ cao nhất 63,02%, tiếp đến là lao động
công nghiệp quốc doanh chiếm tỷ lệ 27,91%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thu hút 9,07%.
Đến năm 2004 thì lao động công nghiệp ngoài quốc doanh vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất 62,23%,
tiếp đến là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thu hút 19,7%, lao đông công nghiệp quốc doanh
chiếm tỷ lệ 18,07%. Vậy đã có sự dịch chuyển lao động từ khu vực quốc doanh sang khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài và xu hướng này ngày càng tăng trong những năm sau khi nước ta
tham gia vào WTO. Các địa phương thu hút nhiều lao động nhất vẫn là những trung tâm công
nghiệp, vùng kinh tế trọng điểm như Đồng Bằng Sông Hồng với tỷ lệ 28% trong đó Hà Nội
chiếm 6,2%, Đồng Bằng Nam Bộ 27,6% trong đó thành phố Hồ Chí Minh chiếm 16,5%. Cơ
cấu lao động công nghiệp chia cho các ngành công nghiệp chế biến 89,3%, công nghiệp khai
thác 8,1% và sản xuất, phân phối địên, khí đốt, nước 2,6%. Nhìn chung, lao động trong ngành
18
công nghiệp chế biến vẫn luôn chiếm tỷ trọng cao hơn so với công nghiệp khai thác và công
nghiệp sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước.
Về trình độ học vấn lao động trong khu vực kinh tế nhà nước hoặc có vốn đầu tư hay cổ
phần của nhà nước cao hơn so với khu vực khác. Doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là các hợp tác
xã lao động có bằng cấp không nhiều. Tính trong các doanh nghiệp công nghiệp nhà nước số
lao động ở trên trình độ trên đại học chiếm 0,04%, đại học và cao đẳng chiếm 5,56%, trung cấp
6,07%, công nhân kỹ thuật 23,73%. Trong khi đó ở khu vực tư nhân tỷ lệ này là 0,01%;
0,02%;5,93%;31,47%. Các ngành xuất bản, in và sao bản ghi các loại, lao động có bằng cấp
khá cao, trình độ cao đẳng trở lên chiếm 5,1% , trung cấp 8%, công nhân kỹ thuật 4,04% hay

nghành sản xuất hoá chất và các sản phẩm hoá chất có 7,4 % lao động đạt trình độ cao đẳng trở
lên, 2,63% đạt trung cấp và 1,91% là công nhân kỹ thuật.Ngược lại, trong ngành khai thác
quặng kim loại 100% lao động đều không có các bằng cấp đã nêu hay ngành sản xuất từ rơm rạ
tre nứa (tiểu thủ công nghiệp) trình độ cao đẳng/ trung cấp/ đai học là 0,11%/ 0,43%/ 0,66%
còn ở ngành tái chế tỷ lệ này là 0%/ 1,47%/ 0,98%. Do có cơ chế chuyển dịch cơ cấu các thành
phần trong nền kinh tế cũng đã ảnh hưởng đến việc chuyển dịch về mặt số lượng trong các
ngành từ ngành nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Cùng với việc phát triển công
nghiệp nên số lao động tham gia vào sản xuất công nghiệp ngày càng tăng với số lượng như
sau: năm 1986 số lao động trong các ngành công nghiệp mới có 2593009 người thì cho đến
năm 2000 con số này đã lên đến 3306268 người và năm 2004 là 4932217 người. Tốc độ tăng
lao động trong ngành công nghiệp trong giai đoạn 2000-2004 là 12,29%/ năm. Lao động trong
ngành chế biến vẫn luôn chiếm tỷ trọng cao hơn so với công nghiệp khai thác và công nghiệp
sản xuất, phân phối điện khí đốt, nước. Công nghiệp chế biến có tỷ trọng trong tổng lao động
ngày càng tăng trong khi lao động trong công nghiệp khai thác và công nghiệp sản xuất, phân
phối điện nước chiếm tỷ trọng ngày càng giảm.
3.6. Một số tồn tại
*Hiệu quả sản xuất công nghiệp giảm
Phát triển công nghiệp trong thời gian qua chủ yếu là phát triển theo chiều rộng, gia
công lắp giáp là chủ yếu, trình độ kỹ thuật chưa cao chính vì vậy mà đầu tư tuy nhiều nhưng
hiệu quả đạt được lại không đươc là bao. Các ngành công nghiệp còn chưa chú trọng phát triển
công nghiệp theo chiều sâu, nâng tỷ trọng chế biến, đảm bảo cung cấp nguyên nhiên liệu đầu
19
vào và dịch vụ hạ tầng hợp lý nên hiệu quả sản xuất công nghiệp có xu hướng giảm so với một
đồng vốn đầu tư thêm vào, tăng trưởng công nghiệp chưa ổn định và vững chắc. Phần lớn các
sản phẩm công nghiệp không có sức cạnh tranh với sản phẩm của nước khác trên thị trường thế
giới cũng như thị trường trong nước.
Hiệu quả sản xuất công nghiệp có thể được xem xét dưới hệ số ICOR. Hệ số này phản
ánh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư để tạo ra lượng sản phẩm tăng thêm. Trong những năm gần
đây hệ số này phản ánh hiệu quả sản xuất công nghiệp so với một đồng vốn đầu tư bắt đầu
giảm. Tình trạng này được thể hiện trong bảng số liệu về hệ số ICOR của ngành công nghiệp

như sau:
ICOR = IV/IG
Trong đó: IV: tỷ lệ vốn đầu tư phát triển trên GDP
IG: tốc độ tăng trưởng GDP
Bảng 1: Hệ số ICOR của ngành công nghiệp từ năm 1996-2005.
Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
ICOR 1.36 1.23 1.456 1.612 0.848 0.911 0.8 0.98 1.21 1.19
Sự tăng trưởng của nhiều ngành công nghiệp như: chế biến thực phẩm và đồ uống, dệt
may, sản phẩm thép và kim loại mầu, máy móc thiết bị, ô tô xe máy… chủ yếu phụ thuộc vào
nguồn nguyên liệu, bán thành phẩm nhập khẩu, có giá thành cao và luôn có xu hướng tăng.
Nguồn nguyên liệu sản suất trong nước chưa dáp ứng được nhu cầu của nhiều ngành công
nghiệp chế biến như: nguyên phụ liệu giày dấn xuất trong nước chỉ chiếm 25%-30% nhu cầu;
khoảng 80% thiết bị máy móc vật tư để đóng tàu phải nhập khẩu; phần lớn các nguyên liệu
chính phục vụ sản xuất các sản phẩm kĩ thuật điện phải nhập khẩu …Những việc này làm hạn
chế việc tăng giá trị gia tăng trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp dẫn đến hiệu quả sản xuất
công nghiệp giảm.

*Chi phí hạ tầng cao và hợp tác kinh doanh chưa có hiệu quả
Ở Việt Nam , các dịch vụ phục vụ cho việc sản xuất công nghiệp như: điện nước, viễn
thông chi phí vận chuyển … còn chưa phát triển còn thiếu thốn nhiều nên chi phí trung gian
20
thường được đánh giá là cao hơn mức trung bình của các nước trong khu vực. Điều đó thể hiện
ở khoảng cách giữa tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm vẫn còn lớn. Ví dụ
năm 2004, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất là 16% trong khi đó tốc độ tăng trưởng của giá trị
tăng thêm là 10,2% và độ chênh lệch giữa 2 tốc độ này là 5,8%. Đây cũng chính là một nguyên
nhân làm việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam còn chưa cao và ảnh hưởng nhiều tới
quá trình sản xuất công nghiệp trong nước.
Mức độ hợp tác kinh doanh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành và giữa các
ngành có nhiều hạn chế. Chưa tạo được mối liên kết phát triển các ngành theo hướng phù hợp
với cơ chế thị trường, tạo nội lực cho ngành công nghiệp vận động và phát triển. thiếu các

doanh nghiệp có khả năng về vốn, công nghệ, tài chính, thị trường làm hạt nhân để trợ giúp các
doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển.
*Đầu tư cho ngành công nghiệp chưa được quan tâm đúng mức
Tỷ trọng đầu tư cho ngành công nghiệp mặc dù chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn
đầu tư toàn xã hội song số vốn đó chưa đủ để cơ cấu lại toàn bộ nền công nghiệp. Cơ cấu đầu
tư của các doanh nghiệp cũng như tỷ trọng vốn tham gia của các thành phần kinh tế chưa thực
sự hướng tới một nền kinh tế thị trường hoà hợp và cạnh tranh quyết liệt. Nhiều ngành, lĩnh
vực công nghiệp có vai trò và tác động lớn như chế tạo máy móc thiết bị, công nghiệp nguyên
liệu… chưa được quan tâm đúng mức. trong khi đó vốn đầu tư vào các ngành xi măng, mía
đường không mang lại hiệu quả. Đầu tư vẫn còn thiếu tập trung, dàn trải mới thấy lợi trước mắt
là đầu tư mà chưa thấy được triển vọng phát triển lâu dài.
* Sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp Việt Nam còn thấp
Ngoài những nguyên nhân về chi phí cao dẫn đến giá thành cao, công nghệ lạc hậu
khiến sản phẩm kém chấ lượng thì còn một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như: doanh
nghiệp công nghiệp Việt Nam chưa chú ý nhiều đến khâu bao bì đóng gói, mẫu mã sản phẩm
còn chưa phong phú. Vì thế các sản phẩm công nghiệp Việt Nam còn không thể tồn tại ngay ở
thị trường trong nước chứ chưa nói đến những đòi hỏi khắt khe của thị trường nước ngoài. Một
nguyên nhân hết sức quan trọng nữa là vấn đề thương hiệu của sản phẩm. Nhiều tên các sản
phẩm nổi tiếng của công nghiệp Việt Nam đã bị các công ty nước ngoài chiếm dụng để kinh
21
doanh mà không sao do các doanh nghiệp Việt Nam chưa dăng ký thương hiệu các sản phẩm
của mình.
22
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ CƠ BẢN
ĐẾN TĂNG TRƯỞNG CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Với chương này bằng việc áp dụng các mô hình kinh tế lượng vào để phân tích những
nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Như vậy xuất phát từ thực trạng trong ngành công nghiệp em sẽ xây dựng một mô hình phù
hợp nhất với những biến số là những nhân tố cơ bản có thể tác động tới quá trình tăng trưởng
của ngành công nghiệp. Sau khi xây dựng được mô hình phù hợp em sẽ áp dụng kết quả ước

lượng của mô hình để dự báo giá trị của ngành công nghiệp trong một vài năm tới, cuối cùng là
một số kiến nghị và giải pháp cho ngành công nghiệp Việt Nam.
1. Lựa chọn mô hình
Đầu tiên khi lựa chọn mô hình là phải xác định các biến số đâu là biến phụ thuộc đâu là
biến độc lập. Vì vậy em xin giới thiệu các biến và cách thức được sử dụng trong mô hình.
1.1. Biến phụ thuộc ( biến được giải thích) trong mô hình
Là tổng sản phẩm của ngành công nghiệp hàng năm .
Kí hiệu : GOCN
1.2. Biến độc lập ( biến giải thích) trong mô hình
* Vốn đầu tư sản xuất cho ngành công nghiệp (ICN)
Là lượng vốn đầu tư vào sản xuất công nghiệp bao gồm cả vốn của khu vực kinh tế quốc
doanh, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và khu vực đầu tư nước ngoài. Vốn đầu tư là yếu tố
hết sức quan trọng đối với tăng trưởng của công nghiệp, để biết được vốn đầu tư có được sử
dụng hiệu quả hay không ta xem xét tới việc khi đầu tư thêm một đồng vốn thì yạo ra thêm
được bao nhiêu giá trị sản phẩm.
* Số lao động trong ngành công nghiệp (LCN)
Là tổng số lao động cả lao động trí óc và lao động tay chân có tham gia sản xuất trong
ngành công nghiệp. Bất kỳ quốc gia nào đều cần đến lao động, lao động là nguồn lực quý nhất,
nguồn lực quyết định trong số các nguồn lực tác động tới phát triển. Do nước ta vẫn là nước
23
công nghiệp còn lạc hậu, nhiều ngành công nghiệp còn cần sử dụng 100% là lao động thủ công
thì lao động lại càng là nhân tố quyết định quan trọng đến tăng trưởng công nghiệp.
* Giá trị xuất khẩu của các sản phẩm công nghiệp (ECN)
Là toàn bộ giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghiệp thô hay tinh chế hàng năm. Giá trị xuất
khẩu hàng năm của ngành công nghiệp có đóng góp lớn vào tổng sản phẩm quốc dân từ đó thúc
đẩy tới tăng trưởng của ngành công nghiệp riêng cũng như toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Đồng thời chính sách mở cửa kinh tế, hội nhập quốc tế và việc cải cách chính sách ngoại
thương đã làm tăng tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hang công nghiệp trong tổng giá trị sản xuất
công nghiệp.
* Biến giả ( D

i
):
Biến giả phản ánh một thời kỳ đặc biệt trong cả giai đoạn phát triển. Như chúng ta đã biết
thời kỳ từ năm 1986 tới năm 1990 là thời kỳ công nghiệp Việt Nam có sự thay đổi mạnh mẽ về
cơ cấu cũng như các chính sách phát triển các ngành công nghiệp. Do dó mục đích khi cho biến
giả này của em là xem xét việc thay đổi chính sách có ảnh hưởng đến giá trị sản phẩm công
nghiệp hay không.
D
1
= 1 nếu năm quan sát thuộc thời kỳ 1986-1990
0 nếu năm quan sát thuộc thời kỳ sau năm 1990.
2. Xây dựng mô hình.
Xuất phát từ mô hình hàm sản xuất Cobb-Douglas và qua thực nghiệm em đưa ra mô hình
cho sự tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam như sau:
Log(GOCN) = α
0
+ α
1
*D
1
+ α
2
*log(ICN) + α
3
*log(LCN) + α
4
*log(ECN).
Trong đó : GOCN là biến phụ thuộc
ICN,LCN,ECN là biến độc lập
D

1
là biến giả
α
i
( i=1,4) là hệ số của các biến tương ứng
α
0
là hệ số chặn.
24
2.1. Ước lượng mô hình
Bằng việc sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất OLS để ước lượng mô hình trên
và ước lượng là chính xác nhất thì kết quả ước lượng mô hình phải thoã mãn các giả thiết của
OLS.
Giả thiết: 1. Biến giải thích là phi ngẫu nhiên, tức là các giá trị của chúng là các số đã
được xác định
2. Kỳ vọng của yếu tố ngẫu nhiên U bằng không.
E(U
i
) = E(U/X
i
) = 0 ∀ i
3. Phương sai của yếu tố ngẫu nhiên U bằng nhau.
Var(U/X
i
) = Var(U/X
j
) = σ
2
∀ i ≠ j
4. Không có sự tương quan giữa các U

i
.
Cov(U
i
,U
j
) = 0 ∀ i ≠ j
5. U và X không tương quan với nhau.
Cov(U,X) = 0
Với sự trợ giúp của phần mềm EVIEWS ta có kết quả ước lượng mô hình trên như sau:
Sửdụng phương pháp OLS
Dependent Variable: LOG(GOCN)
Method: Least Squares
Date: 04/11/06 Time: 10:12
Sample(adjusted): 1990 2005
Included observations: 16 after adjusting endpoints
Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob.
LOG(ICN) 0.353745 0.236690 1.494549 0.1632
LOG(ECN) 0.192586 0.229053 0.840792 0.4184
LOG(LCN) 1.287993 0.207728 6.200376 0.0001
D1 -0.575438 0.259132 -2.220635 0.0483
C -12.96460 2.278105 -5.690958 0.0001
R-squared 0.995789 Mean dependent var 12.14647
Adjusted R-squared 0.994258 S.D. dependent var 1.052901
S.E. of regression 0.079782 Akaike info criterion -1.968726
Sum squared resid 0.070017 Schwarz criterion -1.727292
Log likelihood 20.74981 F-statistic 650.3724
Durbin-Watson stat 2.139067 Prob(F-statistic) 0.000000
25

×