Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Một số phương hướng, giải pháp chủ yếu đổi mới công tác tuyên truyền của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 104 trang )

LUẬN VĂN:

Một số phương hướng, giải pháp chủ
yếu đổi mới công tác tuyên truyền
của Đảng Cộng sản Việt Nam


Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng công tác tư tưởng,
trong đó có công tác tuyên truyền. Ngay từ những ngày đầu cách mạng, lãnh tụ Nguyễn
ái Quốc đã trực tiếp tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin trong quần chúng nhân dân để
xây dựng phong trào cách mạng. Công tác tuyên truyền đã cổ vũ toàn dân tộc đứng lên
làm cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà. Tiếp đó, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, công tác
tuyên truyền đã làm lay động tình cảm đến từng người dân, tạo dựng niềm tin vững chắc
vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng chấp nhận hy sinh, gian khổ chiến đấu vì mục tiêu,
độc lập và thống nhất Tổ quốc. Trong sự nghiệp đổi mới, công tác tuyên truyền đã góp
phần làm nên những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của nước ta.
Bước vào thế kỷ XXI, tình hình thế giới tiếp tục có những biến đổi phức tạp và
khó lường, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển đất nước. Sự phát triển nhanh
chóng của khoa học - công nghệ, toàn cầu hoá v.v. đang tạo ra những thuận lợi cho đất
nước ta trong quá trình hội nhập nhưng cũng đặt ra những thách thức mới trên nhiều lĩnh
vực, đặc biệt trong công tác tuyên truyền. Những sự kiện chính trị, kinh tế, an ninh, thiên
tai v.v. xảy ra trên thế giới đều tác động nhanh chóng đến tư tưởng nhân dân và ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước ta. Công tác tuyên truyền phải làm thế nào đảm bảo giữ đúng định
hướng của Đảng, truyền bá chủ trương, đường lối của Đảng, góp phần chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hội
nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích dân tộc, chủ quyền quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường.


Đổi mới công tác tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế là những
vấn đề lớn và phức tạp về lý luận và thực tiễn hiện nay.
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội lâm vào
thoái trào, không những làm cho cách mạng nước ta mất đi những đồng minh chiến lược
quan trọng mà còn tác động tiêu cực đến tư tưởng của một bộ phận đảng viên và quần


chúng nhân dân. Các thế lực thù địch ở nước ngoài cấu kết với bọn cơ hội chính trị ở
trong nước ráo riết hoạt động, phát tán tài liệu đưa ra những luận điệu, quan điểm sai trái
hòng phản bác những vấn đề lý luận cơ bản của cách mạng Việt Nam. Chúng phủ định
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo của Đảng, xuyên tạc, vu cáo
lịch sử, bôi nhọ lãnh đạo cấp cao. Chúng đầu tư tiền của, vật chất, dùng lực lượng,
phương tiện từ bên ngoài, đồng thời tập trung phát triển lực lượng, phương tiện ở trong
nước chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng thực hiện mưu đồ, tạo ra sự “tự diễn biến”,
“tự chuyển hoá”, sự chống đối từ trong Đảng và trong nội bộ nhân dân, từng bước làm
cho nhân tố bên trong phát triển thành lực lượng chính trị đối lập mạnh kết hợp với yếu tố
bên ngoài làm sụp đổ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Vì thế, đổi mới công tác tuyên truyền là yêu cầu tất yếu của công tác tư tưởng, văn hoá
trong tình hình hiện nay.
Tình trạng quan liêu, tham nhũng, thoái hoá, biến chất trong bộ máy cán bộ lãnh
đạo các cấp đã tác động tiêu cực đến tư tưởng đảng viên và nhân dân, làm giảm sút niềm
tin vào Đảng. Những tác động từ tư tưởng chính trị và thực tiễn của các nước trên thế
giới ảnh hưởng rất lớn đến đường lối lãnh đạo của Đảng ta. Chủ nghĩa tư bản tiếp tục
phát triển, trong đó có những thể chế chính trị đang thể hiện ưu thế, kinh tế phát triển, xã
hội ổn định. Thực tế đó tác động đến tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân dẫn đến
những liên tưởng, so sánh, những đòi hỏi, yêu cầu ngày càng cao hơn đối với sự lãnh đạo
của Đảng. Thực tế đang đặt ra cho công tác tuyên truyền yêu cầu mới, đó là: sự thuyết
phục không phải chỉ bằng lý thuyết suông mà phải bằng thực tiễn. Nếu như trước kia, chỉ
cần coi trọng một mặt “Đảng nói, dân tin”, thì bây giờ phải chú trọng hơn đến mặt thứ hai
“Đảng làm, dân theo”.

Công tác tuyên truyền của Đảng trong thời gian qua, bên cạnh những thành tựu cơ
bản, đã bộc lộ nhiều khuyết điểm, yếu kém. Nội dung tuyên truyền còn thiếu sức thuyết
phục, định hướng thông tin chậm. Thông tin không chính thống, thông tin xấu lan tràn
nhanh và rộng trong xã hội. Nhiều đảng viên thiếu gương mẫu, nói không đi đôi với làm.
Niềm tin của nhân dân vào Đảng ngày càng giảm sút. Thậm chí đã xuất hiện tình trạng,
nhiều người làm công tác tuyên truyền cũng thiếu niềm tin vào chính những điều mà họ


tuyên truyền. Nếu công tác tuyên truyền của Đảng không đổi mới, những yếu kém trong
công tác tuyên truyền không được khắc phục, thì niềm tin vào Đảng, vào chế độ sẽ ngày
càng giảm sút, đe doạ sự lãnh đạo của Đảng. Thực tế đó đòi hỏi Đảng ta phải đổi mới
mạnh mẽ công tác tuyên truyền, củng cố và tăng cường niềm tin chính trị trong nhân dân,
giữ vững vai trò duy nhất lãnh đạo cách mạng, đảm bảo giành thắng lợi trong bối cảnh
hội nhập quốc tế. Đổi mới công tác tuyên truyền còn là yêu cầu của công tác xây dựng và
chỉnh đốn Đảng, góp phần xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đưa sự
nghiệp đổi mới tiến lên vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Từ những bài học kinh nghiệm trong lịch sử, hơn bao giờ hết, Đảng ta cần coi
trọng đổi mới công tác tuyên truyền nhằm khơi dậy và phát triển chủ nghĩa yêu nước, lý
tưởng cách mạng, tinh thần độc lập và tự chủ của chúng ta trong thời kỳ hội nhập quốc tế;
xem đây là động lực to lớn cho hội nhập, và ở đây, công tác tuyên truyền của Đảng phải
đứng ở tuyến đầu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Công tác tuyên truyền là một trong ba bộ phận cấu thành của công tác tư tưởng
của Đảng đã được nghiên cứu trong nhiều công trình khoa học với những quy mô và cấp
độ khác nhau. Sau đây là một số công trình:
Năm 1999, Vụ Tổng hợp kinh tế Bộ Ngoại giao biên soạn cuốn sách Toàn cầu
hoá và hội nhập kinh tế của Việt Nam và Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản. Cuốn
sách cung cấp những thông tin về xu thế, thời cơ và thách thức của toàn cầu hoá và hội nhập
quốc tế; kinh nghiệm của các nước đang phát triển và những giải pháp cho tiến trình hội

nhập kinh tế của Việt Nam.
Năm 2002, cuốn sách Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư
tưởng do PGS. Hà Học Hợi chủ biên, được Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản.
Cuốn sách hình thành trên cơ sở kết quả nghiên cứu của Đề tài khoa học cấp nhà nước
“Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng” mã số KHXH 05-02, trình
bày cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư


tưởng, dự báo tình hình tư tưởng xã hội của nước ta đến năm 2020, đề xuất nội dung, giải
pháp cơ bản và một số nhiệm vụ trước mắt của công tác tư tưởng.
Năm 2003, Khoa Tuyên truyền, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn tập bài giảng Nguyên lý tuyên truyền
nêu khái quát những vấn đề chung về công tác tuyên truyền, đặc biệt đề cập đến những quan
điểm có tính nguyên tắc đổi mới công tác tuyên truyền và phương hướng cơ bản đổi mới
công tác tuyên truyền hiện nay.
Năm 2003, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước “Đổi mới và phát triển ở
Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (Mã số: ĐTĐL-2003/18) do GS,TS.
Nguyễn Phú Trọng làm chủ nhiệm, đã tổng kết thực tiễn một số lĩnh vực chủ yếu qua hai
mươi năm đổi mới, làm rõ những thành tựu và hạn chế, rút ra những bài học kinh nghiệm
nhằm góp phần làm sáng tỏ hơn và bổ sung phát triển đường lối đổi mới ở Việt Nam. Về vấn
đề nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, đề tài khẳng định, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Năm 2003, Đề tài khoa học (Mã số ĐTĐL 2003-17) “Nghiên cứu, phản bác các
quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
tình hình mới” do TS. Nguyễn Hồng Vinh làm chủ nhiệm, đã đánh giá tình hình, nêu
phương hướng, nhiệm vụ phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 2004, Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương biên soạn cuốn sách “Những vấn
đề lớn của thế giới và quá trình hội nhập, phát triển của nước ta” trình bày quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế ở nước ta.

Năm 2006, cuốn sách Học tập phương pháp tuyên truyền cách mạng Hồ Chí Minh
của TS. Hoàng Quốc Bảo, Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản, nghiên cứu nguồn
gốc, những đặc trưng cơ bản của phương pháp tuyên truyền cách mạng Hồ Chí Minh, thực
trạng phương pháp tuyên truyền của đội ngũ cán bộ tư tưởng và đưa ra những giải pháp cơ bản
nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả tuyên truyền theo phương pháp tuyên truyền cách mạng
Hồ Chí Minh.


Năm 2008, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn cuốn sách Nguyên lý công tác tư tưởng (tập I và II) do
PGS,TS. Lương Khắc Hiếu chủ biên, Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản. Cuốn
sách là kết quả nhiều năm nghiên cứu, giảng dạy của tập thể giảng viên Khoa Tuyên
truyền và các nhà khoa học, giới thiệu những vấn đề chung nhất như đối tượng, bản chất,
hình thái, mục đích, chức năng, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp …của công tác tư
tưởng, trong đó có công tác tuyên truyền.
Tháng 10 năm 2008, Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức hội thảo khoa học - thực
tiễn về chủ đề “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng trong giai đoạn hiện
nay” và xuất bản kỷ yếu tập hợp 49 bài tham luận của các nhà khoa học, nhà quản lý lãnh
đạo. Các tác giả đã đề cập đến nhiều khía cạnh của công tác tư tưởng cả về lý luận và
thực tiễn, chỉ ra những kết quả, hạn chế và đề xuất những giải pháp sắc sảo, khả thi. Đáng
chú ý, có một số bài nghiên cứu chuyên sâu về công tác tuyên truyền, như bài “Tiếp tục
đổi mới, nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền trong giai đoạn mới” của TS. Bùi
Thế Đức; bài “Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, vận động công nhân, lao động
trong điều kiện hiện nay: thực trạng và giải pháp” của TS. Dương Văn Sao; bài “Nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin đối ngoại trong giai đoạn hiện nay: thực
trạng, vấn đề và giải pháp” của PGS,TS. Phạm Văn Linh; bài “Nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác báo chí truyền thông hiện nay: thực trạng và giải pháp” của PGS,TS. Đinh
Văn Hưởng; bài “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền trong giai đoạn
hiện nay: thực trạng và giải pháp” của Nguyễn Quang Khải v.v..
Các công trình nghiên cứu khoa học trên đây đã đề cập đến công tác tuyên truyền

của Đảng Cộng sản Việt Nam dưới những góc độ khác nhau và đề cập đến quá trình hội
nhập quốc tế ở Việt Nam. Khái quát lại, chúng ta cũng đã có những quan điểm cơ bản về
nguyên lý công tác tuyên truyền, yêu cầu, nội dung, phương thức công tác tuyên truyền
của Đảng và những vấn đề cơ bản về hội nhập, như: thời cơ, thách thức, thuận lợi, khó
khăn và lộ trình hội nhập. Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học chính trị, có thể nói chưa có
đề tài khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về công tác tuyên truyền của Đảng, đặc biệt là
vấn đề đổi mới công tác tuyên truyền của Đảng trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt


Nam hiện nay. Về hội nhập quốc tế, cũng chưa có tài liệu nào nghiên cứu chuyên sâu
những tác động của hội nhập đối với công tác tư tưởng nói chung, công tác tuyên truyền
nói riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, xác định những yêu cầu mới đặt ra cho công tác
tuyên truyền trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, luận văn đề xuất một số phương
hướng, giải pháp chủ yếu đổi mới công tác tuyên truyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ thêm một số phạm trù và khái niệm công tác tuyên truyền của Đảng và
bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
- Làm rõ thực trạng và yêu cầu mới đặt ra cho công tác tuyên truyền của Đảng
trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
- Xác định một số phương hướng, giải pháp và kiến nghị đổi mới công tác tuyên
truyền của Đảng trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu
- Công tác tuyên truyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Bối cảnh hội nhập quốc tế của Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian, luận văn xác định tập trung nghiên cứu công tác tuyên truyền của

Đảng ta từ Đại hội IX (năm 2001) đến nay, nhất là sau khi Việt Nam chính thức gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Về công tác tuyên truyền, vấn đề được nghiên cứu dưới góc độ một bộ phận cấu thành
của công tác tư tưởng với tính cách là một chức năng và nhiệm vụ của Đảng cầm quyền, lãnh
đạo thực hiện quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước.
5. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Làm rõ những nhân tố ảnh hưởng, những yêu cầu mới trong bối cảnh hội nhập quốc
tế đặt ra cho công tác tuyên truyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.


- Xác định những nội dung và phương pháp đổi mới công tác tuyên truyền của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận
Vấn đề đổi mới công tác tuyên truyền trong luận văn này được nghiên cứu trên cơ
sở chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam và của Chính trị học hiện đại.
* Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử; các phương pháp của Chính trị học và một số khoa học chính trị, khoa học xã hội
có liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 6 tiết.
Chương 1
một số vấn đề lý luận về công tác tuyên truyền
của đảng cộng sản việt nam Hiện NAY

1.1. Công tác tuyên truyền của Đảng Cộng sản Việt Nam Hiện NAY
1.1.1. Khái niệm tuyên truyền và công tác tuyên truyền

1.1.1.1. Khái niệm tuyên truyền
Theo một số tài liệu nghiên cứu, thuật ngữ tuyên truyền đã được nhà thờ La Mã sử
dụng từ gần 400 năm về trước, dùng để chỉ hoạt động của các nhà truyền giáo với mục
đích thuyết phục, lôi kéo những người khác tin và đi theo đạo Ki-tô. Về sau, thuật ngữ
tuyên truyền được sử dụng một cách rộng rãi, để biểu đạt các hoạt động nhằm tác động
đến suy nghĩ, tư tưởng của người khác và định hướng hành động của họ theo một khuynh
hướng nhất định.
Tiếng La tinh (Prapaganda) tuyên truyền là truyền bá, truyền đạt một quan điểm
nào. Trong Từ điển bách khoa toàn thư Liên Xô, thuật ngữ tuyên truyền có hai nghĩa:


rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, tuyên truyền là sự truyền bá những quan điểm, tư tưởng về
chính trị, triết học, khoa học, nghệ thuật v.v. nhằm biến quan điểm, tư tưởng ấy thành ý
thức xã hội, thành hành động cụ thể của quần chúng. Theo nghĩa hẹp, tuyên truyền là
tuyên truyền tư tưởng, tuyên truyền chính trị mà mục đích của nó là hình thành trong đối
tượng tuyên truyền một thế giới quan nhất định, một kiểu ý thức xã hội nhất định và cổ
vũ tính tích cực xã hội của con người.
Hán - Việt Tự điển giải thích: “Tuyên” có nghĩa là tản khắp mọi nơi; “Truyền” có
nghĩa là đem của người này mà trao cho kẻ kia [35, tr.39-172]. Từ điển chính trị cho rằng
“Tuyên truyền là giải thích phổ biến một tư tưởng, một học thuyết, lý luận chính trị nào
đó” [27]. Theo Đại từ điển tiếng Việt “Tuyên truyền là giải thớch rộng rói để thuyết phục,
vận động mọi người læm theo”[81]. Theo Hồ Chí Minh “Tuyên truyền là đem một việc
gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân làm”[62, tr.162]. Khi nghiên cứu về tuyên truyền, tác
giả Hoàng Quốc Bảo đưa ra khái niệm:
Tuyên truyền là phổ biến, giải thích một học thuyết, một tư tưởng, một
quan điểm nào đó nhằm hình thành hoặc củng cố ở đối tượng tuyên truyền một
thế giới quan, nhân sinh quan, một lý tưởng, một lối sống…thông qua đó mà
ảnh hưởng tới thái độ và tính tính cực của con người trong thực tiễn xã hội [29,
tr.15].
Từ những cách lý giải về thuật ngữ tuyên truyền như trên cho thấy khái niệm

tuyên truyền có những đặc điểm chung sau đây:
(1) Tuyên truyền là phổ biến, giải thích một tư tưởng, một chủ trương hay một vấn
đề nào đó của chủ thể tuyên truyền với đối tượng tuyên truyền.
(2) Tuyên truyền nhằm tác động vào nhận thức của đối tượng tuyên truyền để
củng cố hoặc làm thay đổi nhận thức của đối tượng tuyên truyền, qua đó xây dựng thế
giới quan nhất định ở đối tượng tuyên truyền phù hợp với lợi ích của chủ thể tuyên
truyền.
(3) Tuyên truyền phải đạt tới hiệu quả là kích thích, cổ vũ đối tượng hành động
theo quan điểm, đường lối, mục đích của chủ thể tuyên truyền.
Từ những lý giải trên, xin đưa ra khái niệm tuyên truyền như sau:


Tuyên truyền là phổ biến, giải thích một tư tưởng, một chủ trương, một quan điểm,
một vấn đề nào đó nhằm tác động vào nhận thức của đối tượng tuyên truyền, hình thành
một thế giới quan, nhân sinh quan và cổ vũ tính tích cực của họ để đạt được mục đích của
chủ thể tuyên truyền.
Tuyên truyền có thể phân chia thành nhiều loại. Trên bình diện hệ tư tưởng mà nó
truyền bá thì có tuyên truyền vô sản, tuyên truyền tư sản v.v..ở góc độ hẹp, theo nội dung
mà nó truyền tải thì có tuyên truyền kinh tế, tuyên truyền chính trị, tuyên truyền an ninh,
quốc phòng, tuyên truyền văn hoá v.v.. Hoặc xét theo phương thức tác động thì có tuyên
truyền miệng, tuyên truyền trực quan, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại
chúng, tuyên truyền thông qua văn học, nghệ thuật v.v.. Nếu phân loại theo phạm vi hoạt
động thì có tuyên truyền đối nội, tuyên truyền đối ngoại v.v.. Tuyên truyền trong bối
cảnh hội nhập quốc tế cần chú ý tâm lý đối tượng và xu thế tự do tư tưởng.
1.1.1.2. Khái niệm công tác tuyên truyền
Công tác tuyên truyền chỉ xuất hiện và tồn tại trong xã hội loài người và là một
hoạt động xã hội đặc biệt. Tính đặc biệt của nó thể hiện ở chỗ, cả chủ thể và đối tượng
đều là con người; đối tượng tác động của nó là ý thức con người và rộng hơn là ý thức xã
hội. Hoạt động tuyên truyền là hoạt động của con người tác động đến con người. Chỉ có
con người mới có nhu cầu trao đổi tư tưởng, văn hoá và cũng chỉ có con người mới có

khả năng trao truyền cho nhau tư tưởng, văn hoá. Tuyên truyền phục vụ nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội, tác động vào mối quan hệ xã hội và diễn ra trong điều kiện xã hội
nhất định. Hiệu quả tuyên truyền cũng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố môi trường - xã
hội. Tuyên truyền phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Xã hội càng phát triển thì
đòi hỏi càng phải truyền bá sâu rộng hệ tư tưởng của giai cấp thống trị nhằm giác ngộ,
động viên mọi người tích cực tham gia xây dựng xã hội, phục vụ lợi ích của giai cấp
thống trị. Mặt khác, khi xã hội phát triển sẽ tạo điều kiện tăng cường cơ sở vật chất,
phương tiện làm cho hoạt động tuyên truyền phát triển phong phú hơn. Từ xa xưa, khi
ngôn ngữ, phương tiện truyền thông sơ khai nhất ra đời cho đến khi có các phương tiện
truyền thông như máy tính, internet, vệ tinh nhân tạo, cáp quang v.v. thì tuyên truyền đã
giúp cho con người tiếp cận được nguồn thông tin khổng lồ một cách nhanh chóng, thuận


tiện. Điều đó đã góp phần thúc đẩy xã hội phát triển với một tốc độ nhanh gấp nhiều lần
so với trước đây.
Cuốn Nguyên lý công tác tư tưởng đã nêu khái niệm công tác tuyên truyền như
sau:
Công tác tuyên truyền là một hình thái, một bộ phận cấu thành của công
tác tư tưởng nhằm truyền bá hệ tư tưởng và đường lối chiến lược, sách lược
trong quần chúng, xây dựng cho quần chúng thế giới quan phù hợp với lợi ích
của chủ thể hệ tư tưởng, hình thành và củng cố niềm tin, tập hợp và cổ vũ quần
chúng hành động theo thế giới quan và niềm tin đó [47, tr.31].
Vai trò quan trọng của công tác tuyên truyền thể hiện ở chỗ, nó truyền bá, phổ
biến hệ tư tưởng cách mạng trong xã hội, trước hết là trong các lực lượng xã hội tiên tiến;
khơi dậy tính sáng tạo cách mạng của quần chúng; cổ vũ, động viên quần chúng tham gia
sự nghiệp cách mạng, góp phần tổ chức các phong trào cách mạng; chuẩn bị tiền đề tư
tưởng, lý luận và con người cho các cuộc cách mạng. Vì vậy, công tác tuyên truyền trở
thành một công tác cách mạng và là công tác cách mạng đầu tiên của bất kỳ giai cấp và tổ
chức cách mạng nào. Các Mác viết: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế
được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật

chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập vào quần
chúng” [59, tr.580]. Vai trò của công tác tuyên truyền chính là làm cho “lý luận thâm
nhập vào quần chúng” để qua đó “trở thành lực lượng vật chất” [47, tr.33].
1.1.2. Công tác tuyên truyền của Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển công tác tuyên truyền của Đảng
Cộng sản Việt Nam
Sau nhiều năm tìm đường cứu nước, Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tìm ra con
đường cứu nước, cứu dân. Người khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin là lý luận về con
đường giải phóng dân tộc và xem đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải
phóng cho chúng ta. Từ đó, Người đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt
Nam, chuẩn bị tiền đề, điều kiện lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Người trực tiếp tổ chức và mở các lớp huấn luyện thanh niên Việt Nam tại Quảng Châu


(Trung Quốc), tuyên truyền, giác ngộ về chủ nghĩa Mác-Lênin và con đường cứu nước
của cách mạng Việt Nam. Những thanh niên được Người huấn luyện trở về nước đã tích
cực tuyên truyền trong giai cấp công nhân và nhân dân lao động, hướng dẫn họ tổ chức
đấu tranh. Hình thức tuyên truyền trong giai đoạn ấy là thông qua tài liệu, báo chí, bằng
cả hai con đường công khai và bí mật, nhưng chủ yếu là thông qua hình thức tuyên truyền
miệng trực tiếp đến các cơ sở và mọi người dân.
Ngày 3-2-1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã
có Đảng lãnh đạo và công tác tuyên truyền cũng có bước phát triển về chất. Đảng đã
thành lập Ban Tuyên truyền cổ động để chỉ đạo công tác tuyên truyền. Hoạt động tuyên
truyền được công khai, rộng rãi hơn, vận động các tầng lớp nhân dân đi theo Đảng, đứng
lên làm cuộc Cách mạng Tháng Tám, giành độc lập dân tộc, khai sinh ra nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà. Bước vào xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, Bộ Tuyên
truyền và các cơ quan báo chí của Đảng và các đoàn thể được thành lập. Công tác tuyên
truyền hướng vào phổ biến chủ trương, chính sách mới của Đảng, vừa kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược vừa kiến quốc. Công tác tuyên truyền đã góp phần quan trọng
khơi dậy lòng yêu nước, truyền thống đánh giặc kiên cường, động viên nhân dân vượt

qua gian khổ, tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ và giành được thắng lợi vĩ đại. Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, công tác tuyên truyền càng được phát triển, cổ vũ
nhân dân ta đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Sau ngày đất nước
thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, công tác tuyên truyền bước sang một thời
kỳ mới. Tổ chức và đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền được củng cố, kiện toàn
thống nhất trong cả nước, có mạng lưới rộng khắp đến cơ sở. Nội dung công tác tuyên
truyền tập trung cho nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, tiến hành sự nghiệp đổi
mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Gần đây, Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ năm (khoá X), tháng 8-2007, đã ban hành Nghị
quyết số 16-NQ/TW về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới. Nghị
quyết là sự chỉ đạo, định hướng công tác tư tưởng trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, trong đó có công tác tuyên truyền.


1.1.2.2. Chức năng và nhiệm vụ của công tác tuyên truyền của Đảng Cộng sản
Việt Nam
a. Chức năng của công tác tuyên truyền
Công tác tuyên truyền có những chức năng sau:
Trước hết, chức năng thông tin là chức năng cơ bản, đầu tiên của công tác tuyên
truyền. Tuyên truyền đem lại thông tin mới cho đối tượng nhằm thực hiện mục đích là
nâng cao nhận thức của đối tượng về mọi mặt của đời sống xã hội, về chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước, thông tin thời sự trong nước và quốc tế.
Thứ hai, chức năng giáo dục tư tưởng là chức năng hết sức quan trọng của công
tác tuyên truyền. Tuyên truyền thực hiện nhiệm vụ truyền bá, giáo dục hệ tư tưởng;
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; nhiệm vụ chính trị của đất
nước và địa phương. Chức năng giáo dục tư tưởng của công tác tuyên truyền thực hiện
qua việc giáo dục lý luận và hình thành tư duy lý luận; giáo dục chính trị tư tưởng và
hình thành văn hoá chính trị; giáo dục thế giới quan và hình thành thế giới quan khoa
học; giáo dục lao động và hình thành thái độ lao động mới; giáo dục kinh tế, hình thành
văn hoá kinh tế; giáo dục đạo đức và lối sống mới; giáo dục tinh thần cảnh giác cách

mạng và hình thành khả năng “miễn dịch” của nhân dân đối với ảnh hưởng của hệ tư
tưởng thù địch và “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
Thứ ba, chức năng tổ chức, cổ vũ và hành động là chức năng góp phần vận động,
thuyết phục quần chúng, tập hợp, tổ chức họ tham gia vào xây dựng và bảo vệ chế độ.
Hướng dẫn tập hợp quần chúng tham gia vào các quá trình tư tưởng, tham gia vào giải
quyết nhiệm vụ chính trị, tham gia ủng hộ cái mới, tiến bộ, phê phán cái tiêu cực, lạc hậu
trong đời sống xã hội. Cổ vũ khích lệ quần chúng sáng tạo, tích cực, chủ động tham gia
các phong trào thi đua, tham gia các cuộc vận động cách mạng rộng lớn hoặc một hình
thức tập hợp nào đó nhằm thực hiện những nhiệm vụ chính trị đặt ra.
Thứ tư, chức năng phê phán là phê phán triệt để, với thái độ khách quan mọi biểu
hiện của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại và trào lưu tư tưởng đối lập với hệ tư tưởng
Mác-Lênin. Đấu tranh không khoan nhượng với các học thuyết tư sản, các luận điệu ca


ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản, bôi nhọ, xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, phủ nhận chủ nghĩa xã hội hiện thực, phủ nhận sự lãnh đạo của đảng cộng sản
đối với xã hội. Phê phán những tư tưởng và hành vi lỗi thời, lạc hậu trong xã hội, không
còn phù hợp với thực tiễn hiện nay. Tích cực đấu tranh với biểu hiện tiêu cực trong xã
hội, những biểu hiện lệch lạc, trái với quan điểm, đường lối của Đảng. Kiên quyết đấu
tranh chống âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
Các chức năng của công tác tuyên truyền đều quan trọng. Mỗi chức năng giữ một
vai trò riêng trong quá trình tuyên truyền. Khi tiến hành tuyên truyền, không thể coi nhẹ
chức năng nào để tránh phiến diện dẫn đến hiệu quả công tác tuyên truyền kém.
b. Nhiệm vụ của công tác tuyên truyền
Công tác tuyên truyền có các nhiệm vụ sau:
Truyền bá sâu rộng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những tinh hoa
văn hoá tư tưởng của dân tộc và nhân loại nhằm nâng cao nhận thức và góp phần hình thành
nhân sinh quan, thế giới quan Mác-Lênin trong toàn xã hội. Lênin chỉ rõ nhiệm vụ của công
tác tuyên truyền và cổ động là làm cho tư tưởng xã hội chủ nghĩa và ý thức chính trị thấm
sâu và quần chúng vô sản.

Giải thích quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
nâng cao nhận thức và củng cố niềm tin chính trị trong nhân dân. Giáo dục mọi người
hiểu rõ nhiệm vụ chính trị của đất nước, của địa phương và quyết tâm thực hiện tốt các
nhiệm vụ ấy.
Hướng dẫn, cổ vũ quần chúng tích cực thực hiện chủ trương, đường lối, của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phát hiện, cổ vũ những điển hình tiên tiến và đồng
thời dự báo sớm những hiện tượng, khuynh hướng xấu, lạc hậu từ khi chúng còn phôi
thai.
Kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm, tư tưởng trái với chủ nghĩa MácLênin, đường lối, chính sách của Đảng; các luận điệu phản tuyên truyền của các thế lực
thù địch; đấu tranh không khoan nhượng với các hiện tượng tiêu cực xã hội.
1.2. Hội nhập quốc tế và tác động của nó đối với công tác tuyên truyền của
Đảng Cộng sản Việt Nam Hiện NAY


1.2.1. Khái quát quá trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam
1.2.1.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
Thời kỳ đầu, hội nhập kinh tế quốc tế thường được hiểu theo nghĩa hẹp là việc
nước ta thiết lập quan hệ thương mại với một số nước hoặc là thành viên của một số thể
chế kinh tế quốc tế. Hiện nay, khái niệm này đã được nghiên cứu, phát triển đầy đủ toàn
diện hơn. Trong cuốn Đổi mới và phát triển ở Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực
tiễn nêu: hội nhập kinh tế quốc tế là một phạm trù có nội dung toàn diện, sâu sắc. Đó là
quá trình không chỉ nói đến việc hợp tác với nước ngoài mà còn bao gồm cả quá trình
chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế trong nước theo hướng hiện đại, xây dựng nền kinh tế
có chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao; giải phóng mọi sức sản xuất; từng bước tự
do hoá các hoạt động kinh tế, tháo gỡ những trói buộc và cản trở đối với các hoạt động
sản xuất kinh doanh; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế dựa trên nguyên tắc và thể chế của
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mở cửa thị trường, giảm và tiến tới xoá
bỏ những quy định về bảo hộ; tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài hoạt
động ở nước ta; đẩy mạnh các hoạt động kinh tế - thương mại - tài chính giữa nước ta và
các quốc gia trên thế giới.

1.2.1.2. Khái niệm hội nhập quốc tế
Trong một số văn kiện Đảng đã dùng cụm từ hội nhập quốc tế nhưng còn chưa
được nghiên cứu nhiều. Các phương tiện thông tin đại chúng ở nước ta thường dùng khái
niệm “hội nhập quốc tế” để nói đến sự hợp tác của Việt Nam với các nước khác không
chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà còn mở rộng ra lĩnh vực khác, như chính trị, văn hoá, giáo
dục v.v.. Đến nay, hội nhập quốc tế được hiểu là quá trình tham gia của chủ thể vào
những sự kiện chung của đời sống quốc tế với những chính kiến riêng của mình, nhằm
mục đích tranh thủ những cơ hội thuận lợi cho sự phát triển bền vững của đất nước. Tuy
nhiên, hội nhập không phải là “hoà tan”, mà là sự tham gia vào đời sống quốc tế trên cơ
sở giữ gìn bản sắc, bản lĩnh dân tộc, độc lập, chủ quyền quốc gia. Hội nhập quốc tế của
Việt Nam còn có đặc điểm riêng, đó là hội nhập vào nền kinh tế thế giới, mà hiện nay chủ
yếu là nền kinh tế tư bản, nhưng vẫn giữ định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2.1.3. Khái quát quá trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam


a. Đường lối hội nhập của Đảng và Nhà nước ta
Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, cùng với nhiệm vụ củng
cố xây dựng chính quyền cách mạng, xây dựng và kiến thiết đất nước, Nhà nước ta đã có
chủ trương tham gia các thể chế kinh tế quốc tế. Trong Lời kêu gọi Liên hợp quốc, tháng
12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu:
Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách
mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực: a. Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận
thuận lợi cho đầu tư của nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các
ngành kỹ nghệ của mình; b. Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân
bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế; c. Nước
Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh
đạo của Liên hợp quốc [60, tr.470].
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là do chiến tranh kéo dài và chính sách
bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, do đó, ta chủ yếu tham gia thể chế liên kết hợp
tác với các nước xã hội chủ nghĩa như tham gia Hội đồng Tương trợ Kinh tế do Liên Xô

chủ trì.
Đến Đại hội VI của Đảng với đường lối đổi mới, tư duy của Đảng ta về vấn đề hội
nhập quốc tế đã có bước đột phá. Đảng chủ trương: “Tranh thủ mở mang quan hệ kinh tế
và khoa học - kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển, các
tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi” [39, tr.81].
Tuy nhiên, lúc này còn có tư tưởng ngần ngại, lo sợ những ảnh hưởng tiêu cực mà chưa
thấy được toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan.
Đại hội VII của Đảng đã bước đầu đưa ra những nhận định tình hình và định
hướng chính sách hội nhập kinh tế quốc tế đúng đắn. Đảng đề ra chủ trương phát triển
quan hệ kinh tế đối ngoại, gắn thị trường trong nước và xuất khẩu, mở rộng đa dạng hoá
quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng
có lợi. Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VII) xác định nhiệm vụ cố gắng khai thông quan
hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế. Tuy nhiên, ở thời kỳ này, chúng ta vẫn chưa
coi toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan và chưa dùng khái niệm “hội nhập kinh


tế quốc tế”. Sau Đại hội VII của Đảng, xảy ra cuộc khủng khoảng kinh tế - tài chính ở
khu vực Đông á làm cho nhiều người lo ngại về những tác động tiêu cực của quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế. Nắm vững và nhận định đúng tình hình, Đảng và Nhà nước ta
kiên định chủ trương mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Tháng 12-1997, Ban Chấp hành
Trung ương ra nghị quyết về kinh tế đối ngoại, chỉ rõ phải tiếp tục đổi mới, phát huy tối
đa nhân lực, tăng cường hiệu quả của hội nhập kinh tế quốc tế và nhấn mạnh, chủ động
chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cán bộ pháp luật và nhất là về những sản phẩm mà
chúng ta có khả năng cạnh tranh để hội nhập thị trường khu vực và quốc tế. Tiến hành
khẩn trương, vững chắc việc đàm phán hiệp định Thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và
WTO, đồng thời xây dựng kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong
khuôn khổ AFTA.
Phải đến Đại hội IX của Đảng (năm 2001), nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế
mới rõ hơn, đầy đủ hơn. Đảng ta nhận định, toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách
quan và đề ra chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Vấn đề lúc này

không phải là có hội nhập kinh tế quốc tế hay không mà là làm thế nào để tận dụng được
cơ hội và vượt qua thách thức, tranh thủ tốt nhất các nguồn lực từ bên ngoài nhằm đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhằm cụ thể hoá Nghị quyết đại hội IX
của Đảng, tháng 11-2001 Bộ Chính trị ra Nghị quyết 07 về hội nhập kinh tế quốc tế. Đây
là nghị quyết quan trọng nêu rõ mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và những nhiệm vụ cụ thể
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Ngày 14-3-2002 Thủ tướng Chính
phủ ra Quyết định số 37/2002/QĐ-TTg về “Chương trình hành động của Chính phủ thực
hiện Nghị quyết 07/NQ-TW ngày 27- 1- 2001 của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc
tế. Đến Nghị quyết Trung ương 9 (khoá IX) tháng 1-2004, Đảng ta chỉ rõ, chủ động và
khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đa
phương, song phương mà nước ta đã ký và chuẩn bị tốt các điều kiện để sớm gia nhập Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO).
Đại hội X của Đảng bổ sung thêm cụm từ “tích cực”, thể hiện nhận thức sâu sắc
hơn của Đảng đối với vấn đề hội nhập quốc tế đã nêu ở Đại hội IX: “Chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế”. Nghị quyết đã đề cập đến “Mở rộng hợp tác quốc tế trên


các lĩnh vực khác”, “Củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song phương và tin cậy với
các đối tác chiến lược” [40, tr.113-114]. Như vậy, Việt Nam không chỉ hội nhập quốc tế
về kinh tế, mà còn mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, khái niệm “hội
nhập kinh tế quốc tế” được sử dụng rộng rãi, còn khái niệm “hội nhập quốc tế” vẫn sử
dụng một cách “dè dặt”. Đến các hội nghị Trung ương khoá X, nhất là từ hội nghị lần 7,
khái niệm “hội nhập quốc tế” được sử dụng thường xuyên hơn.
Như vậy, tính từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới, vấn đề hội nhập quốc tế được
đặt ra, qua 20 năm với 4 kỳ Đại hội, Đảng ta ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, rõ nét hơn
về đường lối hội nhập quốc tế. Từ chỗ chỉ đề cập đến hội nhập kinh tế, Đảng ta đã chỉ ra:
Hội nhập sâu và toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới và hội nhập quốc tế, với ý nghĩa
là tham gia vào những sự kiện chung của đời sống quốc tế trên tất cả các lĩnh vực: kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội, ngoại giao, quân sự v.v.. Hội nhập quốc tế là một bước phát
triển mới về tư duy của Đảng ta so với hội nhập kinh tế quốc tế.

Dự báo trong nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, chủ trương hội nhập
quốc tế tiếp tục được khẳng định rõ hơn và sẽ có những bước phát triển mới.
b. Khái quát về quá trình và kết quả hội nhập quốc tế của Việt Nam trong thời
gian qua
* Trên lĩnh vực kinh tế
Từ những chủ trương trên, quá trình hội nhập ở nước ta đã được triển khai tích cực
và ngày càng sâu rộng. Nước ta đã mở rộng quan hệ thương mại với nhiều nước khác và
là thành viên của một số thể chế quốc tế. Nội dung hợp tác ngày càng phong phú, đa dạng
và ảnh hưởng mạnh mẽ tới nhau, có thể tóm lược về cơ bản như sau:
Ngày 28-6-1995, Việt Nam tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á
(ASEAN) và bắt đầu thực hiện từng bước các cam kết nhằm xây dựng Khu vực thương
mại tự do ASEAN (AFTA). Đến tháng 3-1996, Việt Nam đã tham gia và trở thành sáng
lập viên của Diễn đàn Hợp tác á - âu (ASEM). Diễn đàn này gồm 25 nước thành viên,
trong đó có 10 nước châu á và 15 nước châu Âu, với mục đích tăng cường đối thoại và
hợp tác trên các lĩnh vực thương mại, đầu tư, văn hoá, khoa học - kỹ thuật, chính trị và
ngoại giao.


Tháng 11-1998, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Diễn đàn kinh tế
châu á - Thái Bình Dương (APEC) - diễn đàn gồm 21 nền kinh tế thuộc vùng châu á Thái Bình Dương. Trong khuôn khổ hợp tác tại Diễn đàn này, nhiều nội dung cụ thể thực
hiện thuận lợi hoá thương mại giữa các thành viên theo Chương trình Hành động Tập thể
(CAP), Chương trình Hành động quốc gia (IAP) và Tự do hoá tự nguyện sớm (EVSL) đã
được nước ta nghiên cứu, tham gia.
Từ sau năm 1992, Việt Nam khôi phục quan hệ bình thường với các tổ chức tài
chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng
phát triển châu á (ADB). Chúng ta đã tiến hành đàm phán Chương trình Điều chỉnh cơ
cấu giai đoạn II (SAC II) của WB và chương trình Điều chỉnh cơ cấu mở rộng (ESAF)
của IMP cho thời kỳ 1999-2002. Điều kiện của các tổ chức tài chính đưa ra đối với Việt
Nam bao gồm các nội dung chính là xoá bỏ và thực hiện thuế hoá các biện pháp phi thuế
và mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu đối với các doanh nghiệp trong và ngoài

nước. Trong khuôn khổ tín dụng từ Quỹ Miyazawa, Chính phủ Nhật đã dành cho Việt
Nam khoản tín dụng 20 tỷ yên (khoảng 160 triệu USD) để hỗ trợ các chương trình cải
cách kinh tế.
Đến tháng 12-1994, Việt Nam đã chính thức gửi đơn xin gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) và tiến hành các cuộc đàm phán đầy khó khăn, phức tạp
trước khi trở thành thành viên của tổ chức này. Quan hệ song phương, đàm phán ký kết
Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ là một nội dung lớn trong quá trình gia nhập
WTO. Việt Nam đã tiến hành 9 phiên đàm phán với phía Hoa Kỳ và đã ký Hiệp định
Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ ngày 13-7-2000, có hiệu lực từ ngày 10-12-2001.
Với việc thực hiện AFTA từ ngày 1-1-2006, lần đầu tiên nước ta thực sự tham gia
một Hiệp định tự do hoá thương mại quốc tế, tuy còn ở tầm khu vực. Ta đã bình thường
hoá và thiết lập được quan hệ thương mại với tất cả các đối tác kinh tế lớn, nhất là các
cường quốc, các trung tâm kinh tế và các thể chế tài chính, tiền tệ quốc tế như Quỹ Tiền
tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu á (ADB).
Ngày 7-11-2006, tại trụ sở của Đại hội đồng tại Geneva, Thuỵ Sĩ, WTO đã chính
thức kết nạp Việt Nam là thành viên thứ 150, bắt đầu từ thời điểm 11-1-2007, sau 11 năm


tiến hành đàm phán. Các cam kết WTO của Việt Nam tương tự các cam kết của các nước
mới gia nhập khác, nhằm xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa hàng nội địa và nhập khẩu hoặc
giữa đầu tư trong và ngoài nước và minh bạch hoá. Các lĩnh vực quan trọng nhất mà Việt
Nam đã cam kết gồm: mở cửa thị trường thông qua cắt giảm các hàng rào thuế quan;
chính sách giá cả minh bạch, không phân biệt đối xử và phù hợp với các quy định của
WTO; giảm hoặc điều chỉnh lại thuế xuất khẩu đối với một số hàng hoá; không áp dụng
trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập; duy trì hỗ trợ nông nghiệp ở
trong nước ở mức không quá 10% giá trị sản lượng; bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp
công nghiệp bị cấm từ thời điểm gia nhập; các ưu đãi đầu tư đã cấp trước ngày gia nhập
WTO sẽ được bảo lưu trong 5 năm; tuân thủ Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan
đến thương mại của WTO; tuân thủ Hiệp định về xác định trị giá tính thuế hải quan của
WTO ngay từ khi gia nhập; tuân thủ Hiệp định về kiểm tra trước khi giao hàng cũng như

các hiệp định có liên quan khác của WTO; duy trì hệ thống hải quan thống nhất minh
bạch, đơn giản và phù hợp với chuẩn mực quốc tế; các doanh nghiệp nhà nước sẽ hoàn
toàn hoạt động theo tiêu chí thương mại; nhà nước không can thiệp vào hoạt động của
doanh nghiệp; chấp nhận điều khoản về nền kinh tế phi thị trường trong thời gian tối đa
là 12 năm; tham gia vào một số Hiệp định tự do hoá theo ngành; cam kết mở cửa thị
trường dịch vụ tài chính, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ kế toán, kiểm toán, dịch vụ thuế [32,
tr.2].
Gia nhập WTO, đất nước ta đứng trước những cơ hội lớn. Nghị quyết Hội nghị lần
thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) đã chỉ ra những cơ hội sau khi Việt
Nam là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới. Việt Nam có điều kiện
thuận lợi để mở rộng xuất khẩu vào thị trường 149 nước thành viên WTO và các nước sẽ
là thành viên tiếp sau với tư cách là một đối tác bình đẳng, không bị phân biệt đối xử và
theo mức thuế mà các thành viên đã cam kết. Đây là những yếu tố quan trọng để thúc đẩy
phát triển sản xuất hàng hoá, dịch vụ, tạo thêm việc làm, góp phần giữ vững tốc độ tăng
trưởng cao của nền kinh tế nước ta. Việt Nam thực hiện cam kết WTO sẽ thúc đẩy thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta ngày càng hoàn thiện. Môi
trường đầu tư, kinh doanh trong nước ngày càng thuận lợi, thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư của


các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Các doanh nghiệp Việt Nam
có nhiều cơ hội đầu tư ra nước ngoài sẽ đóng góp tích cực hơn vào quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Gia nhập WTO sẽ thúc đẩy kinh tế nước ta phát triển, chính
sách kinh tế và cơ chế quản lý công khai, minh bạch hơn. Môi trường kinh doanh thuận
lợi hơn, khơi dậy mạnh mẽ những tiềm năng của đất nước và sức sáng tạo của nhân dân.
Việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực sẽ hiệu quả hơn, do đó tăng trưởng kinh tế sẽ
nhanh và bền vững hơn. Việt Nam có địa vị bình đẳng với các thành viên khác khi tham
gia hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, thiết lập một trật tự kinh tế mới công
bằng hơn. Trong các cuộc tranh chấp thương mại với các thành viên khác, ta có điều kiện
thuận lợi để đấu tranh bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp, hạn chế những thiệt hại. Chúng ta
có thêm những thuận lợi mới để thực hiện đường lối đối ngoại: “Việt Nam là bạn, đối tác

tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”. Tiếp tục phát huy và nâng cao vai trò của
nước ta trong các tổ chức khu vực và quốc tế, mở rộng quan hệ đối tác bình đẳng với các
nước trên thế giới.
Gia nhập WTO, Việt Nam phải đối mặt với những thách thức lớn. Chúng ta phải
chịu sức ép cạnh tranh ngày càng mạnh hơn trên cả 3 cấp độ: sản phẩm với sản phẩm,
doanh nghiệp với doanh nghiệp và giữa quốc gia với quốc gia. Tham gia vào tiến trình
toàn cầu hoá kinh tế có thể làm tăng thêm sự phân phối lợi ích không đồng đều giữa các
khu vực, các ngành, các vùng miền của đất nước. Có thể có những bộ phận dân cư ít
được hưởng lợi, thậm chí còn bị tác động tiêu cực. Khoảng cách giàu - nghèo, mức sống
giữa nông thôn và thành thị, giữa các giai tầng có thể doãng ra hơn. Một bộ phận doanh
nghiệp có thể bị phá sản và thất nghiệp sẽ tăng lên. Từ đó có thể dẫn tới những yếu tố gây
bất ổn định xã hội, ảnh hưởng đến định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước. Những
biến động của thị trường tài chính tiền tệ, thị trường hàng hoá quốc tế sẽ tác động nhanh
hơn, mạnh hơn đến thị trường trong nước, tiềm ẩn nguy cơ không kiểm soát được thị
trường, có thể gây rối loạn, thậm chí khủng hoảng kinh tế, tài chính, ảnh hưởng tiêu cực
đến ổn định và phát triển bền vững của đất nước. Đội ngũ, cán bộ, công nhân, viên chức
và lao động, chuyên gia trong các lĩnh vực còn thiếu và yếu cả về năng lực chuyên môn,
tin học, ngoại ngữ. Đặc biệt, chúng ta còn thiếu đội ngũ luật sư giỏi, thông thạo luật pháp


quốc tế và ngoại ngữ để giải quyết các tranh chấp thương mại và tư vấn cho các doanh
nghiệp trong kinh doanh. Lao động chưa qua đào tạo còn chiếm tỷ lệ lớn. Số lao động có
trình độ chuyên môn và tay nghề cao còn thiếu nhiều. Bên cạnh những thách thức trong
lĩnh vực kinh tế, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra những thách thức lớn đối
với chế độ chính trị, vai trò lãnh đạo của Đảng và việc giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, việc bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi
trường sinh thái cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Thực tiễn sau 2 năm Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),
chúng ta đạt được những kết quả nhất định.
Nước ta đã thực thi đầy đủ và nghiêm túc các cam kết gia nhập WTO, bao gồm

mở cửa thị trường hàng hoá và dịch vụ, tuân thủ các quy định chung trong WTO. Về
thương mại hàng hoá, cắt giảm thuế liên quan đến hàng dệt may, xi măng, nông thổ sản,
rau quả tươi, cà phê, hàng tiêu dùng, thiết bị xây dựng. Về thương mại dịch vụ, mở cửa
thị trường, nhất là đối với dịch vụ tài chính - ngân hàng đã cấp phép thành lập một số
công ty tài chính và ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Xây dựng và hoàn chỉnh nhiều văn
bản pháp quy quan trọng như Luật thuế tiêu thụ đặc biệt sửa đổi, Pháp lệnh của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội hướng dẫn thực thi các cam kết gia nhập WTO, qua đó cải thiện và
tăng tính hấp dẫn của môi trường kinh doanh và đầu tư tại Việt Nam. Bước đầu chủ động
tham gia các hoạt động chung trong WTO và đàm phán tại vòng Đôha trên các lĩnh vực
có lợi ích thiết thực như nông nghiệp, công nghiệp, cải cách các quy định trong WTO
(chống bán phá giá, trợ cấp các biện pháp tự vệ). Hoạt động tích cực trong các nhóm
truyền thống như APEC, ASEAN. Chủ động tham gia Nhóm các thành viên mới gia nhập
(RAMS) để tăng cường vị thế đàm phán và phối hợp đấu tranh vì lợi ích của các thành
viên mới.
Gia nhập WTO tác động tích cực đối với nền kinh tế, đặc biệt về thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) và xuất khẩu: “vốn đăng ký FDI đạt trên 20 tỷ USD năm 2007
và trên 60 tỷ USD trong năm 2008. Khu vực FDI đã và đang đóng góp tích cực hơn cho
nền kinh tế. Tỷ trọng của khu vực này trong GDP tăng từ 13,3% năm 2000 lên 17,1%
năm 2006, 18,0% năm 2007, 19,2% năm 2008” [33]. Sự bùng nổ FDI trong hai năm qua


phản ánh niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào công cuộc đổi mới cũng như tiềm
năng phát triển dài hạn của Việt Nam, nhờ đó Việt Nam được đánh giá là điểm hấp dẫn
thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài. Thị trường xuất khẩu được mở rộng đến 15 quốc gia
và vùng lãnh thổ, chứng tỏ năng lực sản xuất của nước ta đã đáp ứng các đơn đặt hàng
của doanh nghiệp nước ngoài. Đây là yếu tố góp phần quan trọng vào việc duy trì tăng
trưởng kinh tế trong bối cảnh khủng khoảng tài chính đang lan rộng trên thế giới.
Về kinh tế đối ngoại và vị thế quốc tế của nước ta, cùng với việc trở thành Uỷ viên
không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009, việc gia nhập
WTO góp phần nâng cao đáng kể vị thế của nước ta trên trường quốc tế và khẳng định

với thế giới về chính sách đối ngoại chủ động tích cực và có trách nhiệm của Việt Nam.
Với tư cách là thành viên WTO, nước ta có điều kiện tham gia tích cực và tăng cường vai
trò trong hệ thống thương mại đa phương, góp phần mở rộng các lợi ích của đất nước.
Nhiều đối tác kinh tế - thương mại chủ chốt trong đó Mỹ, EU, Nhật Bản, Canada v.v.
ngày càng nhìn nhận Việt Nam như một đối tác giàu tiềm năng và quan trọng tại khu vực
Đông Nam á. Nước ta đã tận dụng các mối quan hệ mở rộng để đẩy mạnh triển khai liên
kết kinh tế song phương và khu vực. Ký và thực hiện Hiệp định Đối tác Kinh tế (EPA)
với Nhật Bản, đang đàm phán Hiệp định Mậu dịch Tự do (FTA) với Chi-lê, Hiệp định
Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư song phương (FIPA) với Canada, Hiệp định Đối tác và
Hợp tác (PCA) với EU, dự kiến sẽ khởi động đàm phán Hiệp định Đầu tư song phương
(BIT) với Mỹ.
Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ kinh tế - thương mại với trên 200 nước và vùng
lãnh thổ, nhận đầu tư từ hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tổng kim ngạch ngoại thương
đã vượt hơn rất nhiều so với tổng sản phẩm trong nước. Chỉ tính từ tháng 1-2009 đến
tháng 7-2009 đã có 385 dự án của 20 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với tổng
số vốn 5428,9 triệu USD [75]. Các doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta đã từng bước làm
quen và tham gia thực sự vào cuộc cạnh tranh quốc tế, nhờ đó mà được rèn luyện và trưởng
thành hơn. Từ chỗ hầu như không có mặt hàng nào của ta có sức cạnh tranh quốc tế đến nay
đã có tới hơn 200 mặt hàng được thị trường quốc tế ưa chuộng. Một số lĩnh vực, một số
doanh nghiệp đã đầu tư sản xuất ở nước ngoài.


Đạt được kết quả nêu trên, nhưng chúng ta cũng gặp không ít khó khăn, thách
thức. Nền kinh tế nước ta đang phải trải qua những biến động mạnh, phức tạp như lạm
phát cao, nhập siêu lớn, hệ thống tài chính và các thị trường lao động, đất đai, chứng
khoán bị xáo động mạnh. Nếu như năm 2007, năm đầu tiên nước ta thực hiện gia nhập
WTO với tinh thần phấn khởi thì bước sang năm 2008, đã bị tác động trực tiếp của khủng
khoảng tài chính thế giới, giá cả tăng cao, sản xuất đình đốn. Xuất khẩu năm 2008 vốn dự
kiến tăng trưởng 34% nhưng tăng trưởng về giá đã chiếm 20%. Năm 2008 vốn FDI dự
kiến đạt 60 tỷ USD trong đó vốn thực hiện đạt 11 tỷ USD nhưng khả năng giải ngân thực

chỉ đạt 8 tỷ USD. Vấn đề đầu tư từ khối doanh nghiệp tư nhân đang có chiều hướng giảm
sút, tỷ lệ thất nghiệp năm 2008 vào khoảng 5,1%. Xu hướng người có trình độ bị thất
nghiệp ngày càng tăng, khoảng cách giàu nghèo ngày càng giãn ra. Tăng trưởng kinh tế
GDP năm 2005 - 8,4%; năm 2006 - 8,2%; năm 2007 - 8,5%; năm 2008 - 6,2% [32, tr.14].
Việc gia nhập WTO và hội nhập kinh tế sâu và toàn diện cũng đặt ra những thách
thức, khó khăn cho kinh tế đối ngoại. Trong cam kết gia nhập WTO, Việt Nam phải chấp
nhận thời hạn 12 năm trước khi được công nhận là nước có nền kinh tế thị trường đầy đủ.
Điều này tạo ra sự phân biệt đối xử với các doanh nghiệp và ngành kinh tế Việt Nam khi
xảy ra các vụ kiện chống bán phá giá và chống trợ cấp do các đối tác nước ngoài khởi
xướng về nguồn lực đàm phán và khả năng tranh thủ các lợi ích do hội nhập kinh tế quốc
tế mang lại thấp. Nền kinh tế bộc lộ một số bất cập như: Khung pháp lý cần tiếp tục được
bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp các cam kết chung trong WTO và các chuẩn mực
kinh tế thị trường; cơ cấu xuất nhập khẩu chậm chuyển dịch; sức cạnh tranh trên các cấp
độ quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm còn thấp; kết cấu hạ tầng yếu kém; sự thiếu hụt
về nguồn nhân lực, đặc biệt là lao động có trình độ cao v.v.. Những vấn đề đó đang cản
trở sự tăng trưởng kinh tế có chất lượng và phát triển bền vững của nước ta v.v..
* Trên lĩnh vực chính trị
Tiến trình cải cách kinh tế và hội nhập quốc tế hơn 20 năm qua đã góp phần nâng
cao đáng kể thế và lực của Việt Nam. Đất nước không những thoát khỏi cô lập chính trị,
mà uy tín chính trị ngày càng nâng cao trên trường quốc tế. Ngày 28-6-1995, Việt Nam
tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) và từ đó trở thành thành viên


tích cực tham gia mọi hoạt động của ASEAN, cùng các thành viên xây dựng Cộng đồng
ASEAN dựa trên 3 trụ cột: cộng đồng kinh tế, cộng đồng chính trị - an ninh, cộng đồng
văn hoá - xã hội. Hội nghị Cấp cao ASEAN 15 (tháng 10-2009) đã chính thức công bố
Việt Nam đảm nhận cương vị Chủ tịch ASEAN từ 1-1-2010.
Tháng 3-1996, Việt Nam tham gia Diễn đàn Hợp tác á - âu (ASEM). không chỉ
hợp tác trên các lĩnh vực thương mại, đầu tư, văn hoá, khoa học - kỹ thuật mà hợp tác cả
trong lĩnh vực chính trị và ngoại giao.

Ngày 16-10-2007, Chủ tịch Đại hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đã công bố quyết
định Việt Nam trở thành Uỷ viên không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc
nhiệm kỳ 2008-2009. Trong nhiệm kỳ này, Việt Nam đã 2 lần giữ cương vị Chủ tịch luân
phiên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, tham gia với vị trí, vai trò quan trọng trong việc
giải quyết xung đột, đảm bảo an ninh, gìn giữ hoà bình thế giới. Sự kiện này góp phần
nâng cao đáng kể vị thế chính trị của nước ta trên trường quốc tế và khẳng định với thế
giới về chính sách đối ngoại chủ động tích cực và có trách nhiệm của Việt Nam.
* Trên lĩnh vực ngoại giao
Trên lĩnh vực ngoại giao, Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng, với một số
mốc lớn mang dấu ấn trong lịch sử ngoại giao. Tháng 11-1991, khôi phục quan hệ bình
thường với Trung Quốc. Tháng 7-1995, ký Hiệp định khung về hợp tác với Cộng đồng
châu Âu. Tháng 7-1995, gia nhập ASEAN và bình thường hoá quan hệ với Mỹ. Tháng 12007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO; trở thành Uỷ viên
không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009 v.v..
Như vậy, Việt Nam đã tham gia hầu hết những tổ chức và diễn đàn quan trọng
trên thế giới và xác định rõ đường lối ngoại giao với các nước trên cơ sở giữ vững độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển.
* Trên lĩnh vực văn hoá - xã hội
Quá trình hội nhập tác động rất rõ trên lĩnh vực văn hoá - xã hội. Văn hoá thế giới
tác động và du nhập vào xã hội Việt Nam, vào từng gia đình, từng đối tượng khá nhanh,
kể cả những giá trị văn hoá tiến bộ của nhân loại và những ảnh hưởng phi văn hoá.


×