Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

khoá luận tốt nghiệp xây dựng quan hệ sản xuất và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.46 KB, 95 trang )

MỤC LỤC
Tỷ lệ thất nghiệp năm 2010 của lao động trong độ tuổi lao động là 2,88%, trong đó tình trạng không có
việc làm ở khu vực thành thị là 4,43% và nông thôn là 2,27%. So sánh với năm 2009, tỷ lệ thất nghiệp
chung đã giảm 0,02%, thất nghiệp thành thị giảm 0,17% trong khi thất nghiệp nông thôn lại tăng thêm
0,02%. Năm 2009, các tỷ lệ tương ứng là 2,9%; 4,6%; 2,25%. Bên cạnh tỷ lệ thất nghiệp của lao động
trong độ tuổi, tỷ lệ thiếu việc làm năm 2010 của lao động trong độ tuổi là 4,5%; trong đó khu vực
thành thị là 2,04%, khu vực nông thôn là 5,47%. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2010, lực lượng lao
động trong độ tuổi từ 15 trở lên là hơn 50,5 triệu người; trong đó lực lượng lao động trong độ tuổi lao
động là hơn 46,2 triệu người. Tỷ lệ dân số cả nước 15 tuổi trở lên tham gia lực lượng lao động tăng từ
76,5% năm 2009 lên 77,3% năm 2010. Tỷ lệ lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ
51,9% năm 2009 xuống 48,2% năm 2010; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 21,6% năm 2009
lên 22,4% năm 2010 ; khu vực dịch vụ tăng từ 26,5% năm 2009 lên 29,4% năm 2010 [xem 132]. Số việc
làm mới ở nông thôn nói chung tăng rất ít do quá trình phân công lao động ở nông thôn tiến hành
chậm. Những lao động mới "nhập cuộc" về cơ bản chỉ chia sẻ số việc làm như cũ, vốn đã rất thiếu thốn
ở nông thôn. Chủ trương đưa công nghiệp, dịch vụ về nông thôn để giải quyết việc làm, có nghĩa là "ly
nông, bất ly hương" chưa được nông dân ở vùng đồng bằng Bắc bộ ủng hộ do việc lấy đất canh tác
nông nghiệp làm đất công nghiệp, dịch vụ đồng nghĩa với việc lấy đi nguồn sống của người nông dân,
trong khi đưa công nghiệp, dịch vụ về nông thôn chưa đáp ứng được nhu cầu tạo việc làm mới cho
người nông dân và con em họ; hầu hết những người nông dân dùng thu nhập từ đền bù do thu hồi đất
vào việc mua sắm và tiêu dùng, ít có cơ hội đầu tư vào tái tạo nguồn sống mới. Đây là một nghịch lý
làm trầm trọng thêm việc giải quyết việc làm ở khu vực nông thôn, tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn định
kinh tế - xã hội ở nông thôn.................................................................................................................................41


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên quy mô
toàn thế giới, sự lan tỏa và tác động của quá trình đó đã tạo ra những thay đổi
lớn trong đời sống xã hội, tạo cơ hội cho tất cả các nước cùng phát triển.


Đồng thời, cũng đặt ra những thách thức cho tất cả các nước như đói nghèo,
thất nghiệp, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, làm ăn phi pháp, khoảng cách
chênh lệch giàu nghèo giữa các nước…trong bối cảnh đó, vấn đề tiến bộ,
công bằng xã hội càng trở nên bức thiết. Ngay từ những ngày đầu tiên bước
vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, toàn Đảng, toàn dân ta đã khẳng
định: một trong những mục tiêu mà chúng ta phải phấn đấu đạt tới là xóa bỏ
mọi áp bức, bóc lột, bất công, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Ngày nay,
công bằng xã hội đã trở thành mục tiêu chung của toàn dân tộc ta là xây dựng
một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh”.
Tuy nhiên, khi thực sự bắt tay vào thực hiện mục tiêu tiến bộ, công
bằng xã hội, chúng ta thấy có nhiều nhân tố tác động, ảnh hưởng đến quá
trình thực hiện này. Trong đó, phải kể đến sự tác động to lớn của quan hệ sản
xuất mới tới việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta từ khi tiến
hành công cuộc đổi mới đến nay.
Trong nhiều năm qua, tiến bộ, công bằng xã hội thường được hiểu là sự
ngang bằng nhau giữa người và người về mọi phương diện. Tuy nhiên, từ khi
tiến hành đổi mới, đặc biệt là từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX đến nay,
với sự đa dạng của các hình thức sở hữu và thành phần kinh tế thì vấn đề
ngang bằng nhau về phương diện kinh tế đã ít nhiều bị vi phạm, khi mà thành
phần kinh tế nhà nước luôn được ưu đãi hơn các thành phần kinh tế khác. Vì
vậy, một số quan niệm cho rằng, công bằng xã hội đã bị vi phạm, hoặc nhờ có


2

quan hệ sản xuất mới mà sức lao động được giải phóng, con người có khả
năng phát huy tối đa tiềm năng sản xuất kinh doanh của mình. Vì thế, có
những người giàu lên nhanh chóng, từ đó xuất hiện sự phân hóa giàu nghèo
và khoảng cách giàu nghèo càng giãn rộng trở thành vấn đề bức xúc của xã

hội trên phương diện thực hiện sự tiến bộ xã hội. Cũng do băn khoăn trên đây
nên có ý kiến đề nghị nhà nước phải dùng chính sách điều tiết thu nhập để
đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội, hoặc phải coi xây dựng chính sách an sinh
xã hội là nội dung quan trọng nhất của tiến bộ, công bằng xã hội. Cũng có ý
kiến cho rằng nội dung cơ bản của tiến bộ, công bằng xã hội không phải thể
hiện ở khâu phân phối kết quả sản xuất, mà ở chỗ phải tạo ra sự công bằng về
cơ hội để mọi người đều có điều kiện phát triển, hoặc để đảm bảo công bằng
xã hội phải phân phối công bằng các nguồn lực của nhà nước, phải phân phối
hợp lý tư liệu sản xuất v.v…Bản thân sự hình thành quan hệ sản xuất mới khi
tiến hành đổi mới với chế độ phân phối mới đã đảm bảo được về cơ bản
những yêu cầu nói trên. Như vậy, bản thân sự hình thành quan hệ sản xuất
mới, một mặt tự nó đã đảm bảo phần cơ bản cho việc thực hiện sự tiến bộ và
công bằng xã hội, nhưng mặt khác cũng chính nó cũng gây ra những sự mất
cân đối trong phát triển và tạo ra những bất công trong xã hội. Vì vậy, việc
giải quyết vấn đề thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trên khía cạnh xây dựng
quan hệ sản xuất mới về mặt lý luận sẽ có ý nghĩa vô cùng to lớn cả về trước
mắt, cũng như lâu dài trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng xã hội xã hội
chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Thêm nữa, việc hình thành quan
hệ sản xuất mới theo hướng kinh tế thị trường sẽ làm cho kinh tế tăng trưởng
mạnh, đồng thời kéo theo nó là những hiện tượng suy thoái đạo đức, lối sống,
sự bất công xã hội. Vậy phải chăng tiến bộ, công bằng xã hội và tăng trưởng
kinh tế là những mục tiêu không tương dung nhau và do đó hoặc phải hy sinh
công bằng xã hội để đạt được tăng trưởng kinh tế, hoặc phải hy sinh tăng


3

trưởng kinh tế để đạt được công bằng xã hội hay không? Những câu hỏi trên
cho thấy những vấn đề như tiến bộ, công bằng xã hội là gì? Việc thực hiện nó
chịu ảnh hưởng của quan hệ sản xuất mới ra sao? Quan hệ sản xuất mới có vai

trò và vị trí như thế nào trong phát triển kinh tế - xã hội nói riêng, trong tiến
bộ xã hội nói chung ở nước ta hiện nay? v.v…đã và hiện vẫn đang là những
vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách chưa được sáng tỏ, mà việc làm sáng tỏ
chúng sẽ là những đóng góp bổ ích cho việc hoạch định các chính sách nhằm
góp phần thực hiện thành công mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Với lý do đã nêu trên, tác giả chọn đề tài: “xây dựng quan hệ sản xuất
và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam” làm đề tài luận văn của
mình, nhằm góp phần nhỏ bé vào việc luận giải những vấn đề trên.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến luận văn
Vấn đề tiến bộ, công bằng xã hội đã và hiện đang được nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu dưới nhiều dạng khác nhau và ở những cấp độ khác
nhau. Đặc biệt, trong các công trình nghiên cứu về chủ nghĩa xã hội và kinh tế
thị trường thì vấn đề công bằng xã hội luôn được đặt ra, coi đó là một phần
trong chính sách xã hội nhằm đảm bảo cho sự phát triển hài hòa giữa kinh tế
và xã hội.
Tuy nhiên, trong một số công trình đã được công bố, tiến bộ xã hội và
công bằng xã hội thường được xem xét dưới góc độ một chính sách kinh tế xã hội nhằm giải quyết vấn đề phân phối và phân phối lại sản phẩm xã hội sau
phần dành cho phát triển kinh tế. Cùng với mục đích đó một số tác giả lại chỉ
đặt vấn đề tiến bộ, công bằng xã hội như một nhân tố trong chính sách xã hội
nhằm làm cân bằng lại sự tăng trưởng cao của nền kinh tế đang có xu hướng
làm gia tăng sự phân hóa giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Có công trình
nghiên cứu lại chỉ đặt vấn đề tiến bộ, công bằng xã hội như chính sách nhân


4

đạo xã hội nhằm mục đích trợ giúp cho người nghèo. Ngoài ra, việc thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội ít được xem xét như một động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội, thay vào đó là sự nhấn mạnh đến việc thực hiện tiến bộ, công

bằng xã hội như một mục tiêu của sự phát triển xã hội nhằm làm cho mọi
người trở nên ngang bằng nhau trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã
hội.
Trong số các công trình nghiên cứu về quan hệ sản xuất, tiến bộ và
công bằng xã hội trong những năm gần đây, đáng chú ý là các công trình như:
“Thực trạng quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay”,
do Hoàng Mạnh Bình - Tập thể tác giả, (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990);
“Thực trạng quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay”,
Bài: “Đường lối phát triển và cải tạo nông nghiệp ở nước ta - những vấn đề
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất”, do Lê Văn Dương chủ biên và đồng
tác giả, (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990); “Công bằng xã hội, trách
nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội", do PGS.TS Phạm Văn Đức, PGS.TS. Đặng
Hữu Toàn, GS. Trần Văn Đoàn, TS. Ulrich Dornberg, (Nhà xuất bản Khoa
học xã hội, Hà Nội, 2008); “Hiện đại hóa vì mục tiêu công bằng ở Việt Nam
hiện nay”, do Lương Việt Hải chủ biên, (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2008); “Tiến bộ xã hội và đạo đức”. Bài: “Một số luận điểm cơ bản của
C.Mác – Ph.Ăngghen - V.I.Lênin về đạo đức”, do Nguyễn Văn Phúc - Tập
thể tác giả, (Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 1998); “Tiến bộ xã hội - một
số vấn đề lý luận cấp bách” (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000) của tập thể
tác giả do GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn chủ biên; “về tiến bộ xã hội trong
kinh tế thị trường” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004) của TS. Nguyễn
Hữu Vượng. Trong các tác phẩm này các tác giả đã nghiên cứu, làm rõ những
vấn đề về quá trình xây dựng quan hệ sản xuất mới ở nước ta trong thời kỳ


5

đổi mới, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp; vấn đề về tiến bộ xã hội,
những tiêu chuẩn của nó và việc thực hiện tiến bộ xã hội.
Đối với những công trình nghiên cứu chuyên sâu về công bằng xã hội

phải kể đến một số công trình như: “Đổi mới chính sách xã hội: luận cứ và
giải pháp” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997) của tập thể tác giả do GS
Phạm Xuân Nam chủ biên; “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một
số nước châu Á và Việt Nam” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998) của tập
thể tác giả do TS. Lê Bộ Lĩnh làm chủ biên; “Triết lý về mối quan hệ giữa cái
kinh tế và cái xã hội trong phát triển” (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001)
của tập thể tác giả do GS Phạm Xuân Nam chủ biên; “Triết lý phát triển –
quan hệ công nghiệp – nông nghiệp, thành thị - nông thôn trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” (Nxb Khoa Học xã hội, Hà Nội
2001) của TS. Lê Cao Đoàn; “Xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội
chủ nghĩa và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở Việt Nam”, (Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2002) của GS.TSKH Lương Xuân Quỳ; “Báo cáo phát
triển con người Việt Nam 2001”, (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001)
của Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia…..
Liên quan đến đề tài này có một số luận án tiến sĩ đã được bảo vệ, như:
“Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội”, (Luận án Tiến sĩ triết học của
Nguyễn Minh Hoàn, Viện triết học, 2006).
Các công trình trên đây đã có những đóng góp quan trọng vào việc làm
sáng tỏ nhiều phương diện cụ thể khác nhau của khái niệm công bằng xã hội
và việc thực hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay, đặc biệt là mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Tiếc rằng trong số các công
trình ấy, khía cạnh về mối quan hệ giữa tiến bộ, công bằng xã hội với quan hệ
sản xuất chưa được công trình nào đề cập đến.


6

Riêng tác phẩm “Về động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” (Nxb
khoa học xã hội, Hà Nội, 1997) của tập thể tác giả do GS.TS Lê Hữu Tầng
làm chủ biên đã có nhiều cố gắng làm rõ khái niệm công bằng xã hội trong

mối quan hệ với khái niệm bình đẳng xã hội, đã đề xuất ý tưởng cần mở rộng
nguyên tắc phân phối theo lao động (như nội dung cốt lõi của công bằng xã
hội trong chủ nghĩa xã hội) thành nguyên tắc phân phối theo cống hiến (như
nội dung cốt lõi của công bằng xã hội trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội). Đặc biệt, công bằng xã hội trong công trình này đã được xét như một
động lực thúc đẩy, vừa như phương thức thực hiện sự tiến bộ xã hội.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có công trình khoa học nào làm rõ vai trò
của việc xây dựng quan hệ sản xuất trong việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội ở nước ta hiện nay. Luận văn của chúng tôi sẽ tập trung vào vấn đề ấy.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về quan hệ sản xuất, tiến bộ xã
hội và công bằng xã hội luận văn chỉ ra và phân tích sự tác động của quan hệ
sản xuất tới việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta. Từ đó, nêu
ra một số phương hướng và giải pháp xây dựng quan hệ sản xuất mới nhằm
đảm bảo thực hiện sự tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích một số vấn đề lý luận về quan hệ sản xuất và tiến bộ, công
bằng xã hội. Đồng thời làm rõ vấn đề xây dựng quan hệ sản xuất và thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội hiện nay ở nước ta.
Làm rõ sự tác động của quan hệ sản xuất tới việc thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội trong thời kỳ đổi mới ở nước ta.


7

Chỉ ra và phân tích một số nội dung chủ yếu trong việc hoàn thiện quan
hệ sản xuất mới nhằm đảm bảo cho việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ở nước ta trong những năm tiếp theo. Đồng thời nêu một số phương hướng và

giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quan hệ sản xuất vì mục tiêu tiến bộ, công
bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Khái niệm quan hệ sản xuất có khía cạnh lý luận và khía cạnh phương
pháp luận của nó. Do mục đích và khuôn khổ của luận văn, luận văn chỉ đi
sâu vào khía cạnh phương pháp luận.
- Luận văn chủ yếu nghiên cứu lĩnh vực tiến bộ, công bằng xã hội ở
Việt Nam. Nêu ra những chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam nhằm thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội, đồng thời làm rõ một số vấn đề đặt ra trong
việc thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trước
hết là tư tưởng về tiến bộ, công bằng xã hội và về sự vận động phát triển của
xã hội theo hướng tiến bộ, làm cơ sở phương pháp luận định hướng cho việc
xem xét việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ở nước ta hiện nay.
- Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin cùng với các phương pháp phân tích, tổng hợp,
thống kê, so sánh, logic-lịch sử gắn lý luận với thực tế để làm sáng tỏ vấn đề.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Góp phần làm rõ quan điểm của Đảng ta trong việc xây dựng quan hệ
sản xuất; vận dụng vào quá trình thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ở nước
ta hiện nay.
- Góp phần làm rõ một số phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện
quan hệ sản xuất vì mục tiêu tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay.


8

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
● Về mặt lý luận

- Với những đóng góp mới trên đây, luận văn đã góp phần khẳng định ý
nghĩa khoa học của phép biện chứng duy vật nói chung và của lý luận về quan
hệ sản xuất nói riêng. Đồng thời làm rõ thêm một số phương diện của tiến bộ,
công bằng xã hội mà cho đến nay còn có những cách hiểu hoặc cách vận dụng
khác nhau.
- Ngoài ra, luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ một số khía cạnh lý luận
và phương pháp luận trong quan điểm, chủ trương và chính sách của Đảng và
Nhà nước ta trong việc xây dựng quan hệ sản xuất trong xã hội ta hiện nay,
đặc biệt là xây dựng quan hệ sản xuất có liên quan đến quá trình thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội ở nước ta.
● Về mặt thực tiễn
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy
và nghiên cứu về vấn đề tiến bộ, công bằng xã hội.
- Luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạt
động thực tiễn trong việc xây dựng chính sách xã hội nói chung, trong việc
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội nói riêng.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.


9

Chương 1
QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ TIẾN BỘ, CÔNG BẰNG XÃ HỘI
1.1. Quan hệ sản xuất và vấn đề xây dựng quan hệ sản xuất ở nước
ta trong thời kỳ đổi mới
1.1.1. Khái niệm quan hệ sản xuất
Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, thì “quan hệ sản xuất” là
một trong những khái niệm cơ bản, góp phần phản ánh cấu trúc và logic vận

động của các hình thái kinh tế – xã hội. Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa
người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất). Trong quá
trình sản xuất nảy sinh nhiều mối quan hệ, nhưng ở đây chỉ xét ba mối quan
hệ cơ bản mà C.Mác coi đó là ba mặt của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất
gồm ba mặt cơ bản sau đây:
- Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất; nói lên rằng trong quá trình
sản xuất, người lao động đang sử dụng những tư liệu sản xuất đó của ai và ai
là người có quyền định đoạt tư liệu sản xuất đó. Trong quan hệ sản xuất, quan
hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định vì nó quyết định
bản chất của quan hệ sản xuất. Sở hữu là một khái niệm rộng, theo học thuyết
mácxít, dưới góc độ quan hệ sản xuất, sở hữu chỉ bao gồm những tư liệu sản
xuất được đưa vào sản xuất kinh doanh trong các loại hình kinh tế (thành
phần kinh tế), chứ không bao gồm sở hữu các nguồn lực nằm ngoài hoặc chưa
đưa vào sản xuất kinh doanh. Ngày nay, toàn cầu hóa hiện đang trở thành xu
hướng phổ biến, đã kéo theo các nền kinh tế khác nhau đan quyện vào nhau.
Điều đó làm cho sở hữu không chỉ mang yếu tố quốc gia, mà còn mang yếu tố
quốc tế, nghĩa là các hình thức sở hữu quốc tế cũng thâm nhập vào từng quốc
gia làm cho tính đa dạng của quan hệ sở hữu và do đó quan hệ sản xuất của
từng quốc gia trở nên phong phú hơn.


10

- Quan hệ trong tổ chức quản lý và phân công lao động; nói lên địa vị
và vai trò của các tập đoàn khác nhau, nói lên sự trao đổi giữa các tập đoàn xã
hội khác nhau. Tuy phụ thuộc vào quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất,
nhưng trong thực tế quan hệ trong tổ chức, quản lý và phân công lao động
cũng có vai trò rất quan trọng. Ngay cả khi chế độ sở hữu chưa có gì thay đổi,
nhưng nếu có một phương thức quản lý hợp lý thì sản xuất vẫn có bước phát
triển. Xu hướng chung là vai trò của nhà nước trong nền kinh tế ngày càng

cao, nhưng nhà nước không trực tiếp quản lý sản xuất kinh doanh, mà chủ yếu
nhà nước sử dụng các công cụ điều hành vĩ mô và phải dựa trên một nền tài
chính mạnh để tác động đến nền kinh tế và tới các chủ thể sản xuất kinh
doanh. Nhà nước phải là nhà nước kiểu mới do Đảng cộng sản chân chính giữ
vai trò lãnh đạo, nhà nước phải trở thành một “kiến trúc sư” của xây dựng xã
hội chủ nghĩa, đó là nhà nước pháp quyền của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, luôn lấy mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng và văn minh” làm phương châm hành động. Việc quản lý của
nhà nước nói chung, quản lý trong các doanh nghiệp nói riêng cũng phải dựa
trên cơ chế thị trường, phải đảm bảo tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các
doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước trong sản xuất kinh doanh.
Nhà nước phải đối xử bình đẳng với các thành phần kinh tế và khuyến khích
tất cả các thành phần kinh tế phát triển, phải coi mọi thành phần kinh tế đều
đóng góp cho sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa và là bộ phận
cấu thành của nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần kinh
tế này phải tuân thủ luật pháp của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và chịu sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa, không hình thành một cơ
cấu kinh tế theo cảm tính để điều khiển cơ cấu các thành phần kinh tế trong
thực tiễn.


11

- Quan hệ phân phối sản phẩm lao động; là cách thức phân phối kết
quả sản xuất cho những quan hệ với quá trình sản xuất đó. Điều đó phụ thuộc
vào quan hệ của họ đối với tư liệu sản xuất, nhưng nếu phân phối công bằng
sẽ thúc đẩy quá trình sản xuất phát triển. Về phân phối thu nhập quốc dân,
trong điều kiện nước ta, nguyên tắc phân phối thích hợp nhất không phải chỉ
là phân phối theo lao động mà là sự kết hợp giữa phân phối theo lao động,
theo hiệu quả kinh tế với phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực

khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Nhưng, trong
điều kiện kinh tế thị trường không tránh khỏi những chênh lệch về thu nhập
giữa các tầng lớp nhân dân. Do đó, nhà nước phải điều tiết và kiểm soát việc
phân phối này bằng những chính sách, công cụ và giải pháp khác nhau để
đảm bảo công bằng. Còn về phân phối các yếu tố sản xuất, cần phải kết hợp
cơ chế thị trường với cơ chế kế hoạch hóa để phân phối các yếu tố này hợp lý
nhằm phát huy tối đa và có hiệu quả nhất các nguồn lực của xã hội.
Quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối có mối quan hệ
hữu cơ với nhau, không tách rời nhau. Trong đó, quan hệ sở hữu đối với tư
liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với những quan hệ khác. Khi quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất tạo thành quy
luật thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Cùng với quá trình phát triển của lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất phù hợp đã thúc đẩy xã hội loài người lần
lượt đã và đang phát triển qua năm hình thái kinh tế – xã hội: công xã nguyên
thủy; chiếm hữu nô lệ; phong kiến; tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình đổi mới, tuân thủ quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, Việt Nam đã thực hiện chuyển
đổi nền kinh tế từ một chế độ sở hữu dưới hai hình thức toàn dân và tập thể
sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình ấy, mỗi bước tạo ra sự phát triển đột


12

phá của lực lượng sản xuất là từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất (quan hệ
sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối) và để bản thân quan hệ sản
xuất đó cũng vận hành từng bước theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
1.1.2. Xây dựng quan hệ sản xuất ở nước ta trong thời kỳ đổi mới
Thực tiễn sau hơn hai mươi lăm năm đổi mới đã khẳng định con đường
của nước ta đi là đúng đắn và đạt nhiều thành tựu quan trọng, vượt qua những

giai đoạn lịch sử hết sức nhạy cảm. Những thành tựu như giữ vững ổn định an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xóa đói giảm nghèo đảm bảo mức tăng
trưởng kinh tế cao 6 - 8% một năm, đã được bạn bè khâm phục, nhân dân
trong nước phấn khởi tin tưởng. Đó là một phần do kinh tế nước ta có bước đi
đúng hướng trong đó phải kể đến thiết lập được quan hệ sản xuất tiến bộ và
phù hợp. Trong thực tiễn cũng như trong lý luận về con đường và cách thức đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta sau 25 năm đổi mới dần dần có nhiều vấn đề
được làm sáng tỏ nhưng cũng có những vấn đề cần phải tiếp tục phát triển
thêm. Có thể nói việc xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một vấn đề như thế.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để xác lập và hoàn thiện một quan hệ sản xuất
tiến bộ và phù hợp với lực lượng sản xuất hiện nay để đất nước ngày một phát
triển không ngừng, trước tiên là để tăng trưởng kinh tế một cách bền vững.
Do điểm xuất phát đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta còn thấp cả về
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nên việc xây dựng từng bước quan hệ
sản xuất mới để thúc đẩy sản xuất phát triển và xã hội phát triển là một yêu
cầu tất yếu. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tính đan xen tác động
lẫn nhau trong quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ sự tồn tại của nhiều quan hệ
sản xuất: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà
nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã phát huy tác dụng và đã thúc đẩy
nền kinh tế nước ta phát triển. Trong các thành phần kinh tế trên Đảng ta xác


13

định kinh tế nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước phải thực
sự nắm giữ những ngành, những lĩnh vực kinh tế trọng yếu, mũi nhọn phải đi
đầu trong việc nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Kinh tế nhà nước
phải không ngừng tăng cường, củng cố và phát triển làm chỗ dựa để nhà nước
thực hiện có hiệu lực chức năng điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế theo định

hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với kinh tế hợp tác (nòng cốt là hợp tác xã) dần
dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân và chế độ xã hội mới. Đối
với kinh tế tập thể, đây là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tập thể
về tư liệu sản xuất. Kinh tế tập thể phát huy được sức mạnh tập thể mà từng
cá nhân không thể có được. Kinh tế tập thể sẽ không ngừng củng cố và phát
triển, cùng với kinh tế nhà nước sẽ trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc
dân. Phải đổi mới kinh tế tập thể làm cho nó trở nên đa dạng phong phú hơn,
có như thế mới huy động vốn dưới nhiều hình thức và làm ăn có hiệu quả
hơn.
Một đất nước vừa phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa lại vừa
thừa nhận sự tồn tại và phát triển của thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Điều đó không phải là nghịch lý, vấn đề đặt ra ở đây chúng ta sử dụng nó như
thế nào để nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất mà vẫn xây dựng đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước
được Đảng ta chủ trương áp dụng rộng rãi phổ biến các hình thức kinh tế tư
bản nhà nước để phát triển lực lượng sản xuất theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đối với các thành phần kinh tế khác, Đảng ta xác định cần có sự hướng
dẫn, hướng kinh tế cá thể, tiểu chủ theo lợi ích thiết thân và nhu cầu phát
triển, từng bước đi vào làm ăn hợp pháp một cách tự nguyện, hoặc làm vệ tinh
cho các doanh nghiệp nhà nước hay hợp tác xã. Mặt khác, khuyến khích kinh
tế tư bản tư nhân đi vào con đường liên doanh với nhà nước, bán cổ phần cho
người lao động trong doanh nghiệp, tạo mối quan hệ hợp tác cùng có lợi cho


14

chủ và thợ. Để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta
cần sử dụng kinh tế tư bản nhà nước như một công cụ hữu hiệu, bắt nhà tư
bản phải cày trên “mảnh đất vô sản” biến thành phần kinh tế tư bản nhà nước
thành “một trợ thủ đắc lực cho chủ nghĩa xã hội”. Kinh tế có vốn đầu tư nước

ngoài là thành phần kinh tế mới xuất hiện trong những năm gần đây ở nước
ta, sự phát triển của thành phần kinh tế này cho phép chúng ta tranh thủ được
khối lượng to lớn từ nước ngoài về vốn, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm tổ
chức quản lý kinh tế, mở rộng thị trường nước ngoài, giải quyết việc làm,
trong nước, góp phần khai thác và sử dụng hiệu quả hơn tiềm năng kinh tế ở
nước ta. Vì thế, chủ trương của nhà nước là tạo điều kiện thuận lợi cho thành
phần kinh tế này phát triển; hướng vào xuất khẩu.
Như vậy, chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
của Đảng ta thật sự khơi dậy tiềm năng của các thành phần kinh tế. Tính tích
cực chủ động sáng tạo của nhân dân được phát huy, sản xuất, kinh doanh phát
triển đã thực sự thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, đời sống nhân dân ổn
định. Mục tiêu và mô hình xã hội công bằng và tiến bộ theo quan điểm của
C.Mác và Ph.Ănghen: “con người, cuối cùng làm chủ tồn tại xã hội của chính
mình thì cũng do đó làm chủ tự nhiên, làm chủ cả bản thân mình, trở thành
người tự do” [80; Tr.333]. Nhưng các ông chưa chỉ rõ những đặc trưng về
quan hệ sản xuất trong giai đoạn này. Từ thực tế của cách mạng nước Nga,
V.I.Lênin đã nghiên cứu và có những đóng góp lý luận quan trọng về thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, những vấn đề này cũng chưa được đề
cập một cách toàn diện và chi tiết. V.I.Lênin nhận định rằng, “xét đến cùng,
thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất cho thắng lợi của
chế độ xã hội mới” [60; Tr.25]. Xuất phát từ lý luận của V.I.Lênin về thời kỳ
quá độ, từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa
trước đây; từ thực tiễn quá trình chuyển đổi, đổi mới ở Việt Nam; xuất phát từ


15

tiến trình phát triển lịch sử tự nhiên, nhận thấy rằng chủ nghĩa xã hội có ba
đặc trưng cơ bản:
Thứ nhất, đây là chế độ có nền kinh tế luôn luôn phát triển, phải có

năng suất lao động cao hơn các xã hội trước đó và được quản lý theo nguyên
lý gắn chặt kế hoạch với thị trường.
Thứ hai, sở hữu hỗn hợp về tư liệu sản xuất có vị trí đáng kể trong các
tổ chức kinh doanh. Sở hữu trí tuệ ngày càng chiếm vị trí quan trọng.
Thứ ba, đảm bảo tốt công bằng, dân chủ xã hội và được thực hiện dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản (Đảng kiểu mới của V.I.Lênin) và được quản
lý bởi Nhà nước của dân, do dân, vì dân (trong đó phải thực hiện tốt quyền
làm chủ thực sự của dân).
Như vậy, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là kết quả của quá trình xã
hội hóa lâu dài trong nền kinh tế thị trường. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: “lịch sử loài người do con người lao động sáng tạo ra. Người lao động
sáng tạo ra của cải, luôn luôn nâng cao sức sản xuất. Sức sản xuất phát triển,
tức là xã hội phát triển. Chế độ nào hợp với sức sản xuất thì đứng vững. Nếu
không hợp thì giai cấp đại biểu của sức sản xuất mới sẽ nổi lên cách mạng, lật
đổ chế độ cũ” [84; Tr.246]. Không có kinh tế thị trường thì không thể có xã
hội hóa trên thực tế cả về quan hệ sản xuất lẫn lực lượng sản xuất. Tuy nhiên,
không phải cứ phát triển kinh tế thị trường là có xã hội hóa thực tế mà là kinh
tế thị trường phải phát triển đến một mức độ và trình độ nhất định. Kinh
nghiệm từ các nước Liên Xô và Đông Âu đã chỉ ra rằng các nước xã hội chủ
nghĩa cũ trước đây trong khi tập trung cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng
quan hệ sản xuất mới, đã không chú ý đến tính phong phú của những trình độ
phát triển thực tế của lực lượng sản xuất và rốt cuộc đã tạo ra quá trình xã hội
hóa một cách rất hình thức. Trong quá trình đổi mới, tuân thủ quan hệ sản
xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,


16

Việt Nam đã thực hiện chuyển đổi nền kinh tế từ một chế độ sở hữu dưới hai
hình thức toàn dân và tập thể sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo

cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình ấy, mỗi bước
tạo ra sự phát triển đột phá của lực lượng sản xuất là từng bước hoàn thiện
quan hệ sản xuất (quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối) và
để bản thân quan hệ sản xuất đó cũng vận hành từng bước theo con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội.
1.2. Tiến bộ xã hội, công bằng xã hội và vấn đề thực hiện tiến bộ
công bằng xã hội hiện nay ở nước ta
1.2.1. Khái niệm tiến bộ xã hội và công bằng xã hội
1.2.1.1. Khái niệm tiến bộ xã hội
Kế thừa những quan niệm về tiến bộ xã hội đã có từ thời cổ đại, trên cơ
sở đấu tranh không khoan nhượng với các trào lưu tư tưởng tư sản đương
thời, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng được hệ thống quan niệm về tiến bộ
xã hội mà đến tận hôm nay vẫn là một đỉnh cao chưa vượt qua được, nếu
chúng ta so sánh học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen với các học thuyết
khác về xã hội. Cùng với Ph.Ăngghen, C.Mác đã xây dựng nên học thuyết vĩ
đại của xã hội loài người, học thuyết khoa học về chủ nghĩa xã hội, đã chỉ ra
cho nhân loại con đường và biện pháp hiện thực để giải phóng giai cấp, giải
phóng lao động khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công trong xã hội. Chủ nghĩa
cộng sản mà các ông chủ trương xây dựng chính là xã hội mà trong đó, theo
các ông, mọi người sẽ có cuộc sống tự do, hạnh phúc, con người được giải
phóng một cách triệt để và được phát triển một cách tự do - sự phát triển tự do
của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Có
thể nói, không một tác phẩm nào, không một bài phát biểu nào mà C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin lại không bằng cách này hay bằng cách khác đề cập
đến tiến bộ xã hội.


17

Cũng có nét tương đồng với cách thức đề cập đến tiến bộ xã hội của

C.Mác và Ph.Ăngghen, ở Hồ Chí Minh, tư tưởng về tiến bộ xã hội cũng
thường ẩn chứa ở tầng sâu nhất trong các tác phẩm của Người, mà đặc biệt là
trong các “triết lý hành động” của Người. Thế giới coi Hồ Chí Minh là nhà
hiền triết lớn của thời đại, thấu hiểu sự phát triển đặc thù của các dân tộc.
Nhiều nhà hoạt động chính trị - xã hội, cả ở phương Đông lẫn phương Tây
thừa nhận ở Hồ Chí Minh có những tư tưởng uyên thâm, sâu sắc và độc đáo,
đặc biệt về sự phát triển của con người và xã hội Á Đông. Hồ Chí Minh
không viết những chuyên luận đồ sộ về tiến bộ xã hội, mà trong quá trình hoạt
động cách mạng, Hồ Chí Minh thể hiện quan điểm của mình thường là kín
đáo thông qua các quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng và nhân dân, về dân
tộc và tổ quốc, về cách mạng và chủ nghĩa xã hội, về con người và văn hoá,
v.v...Hơn thế nữa, tư tưởng về tiến bộ xã hội ở Hồ Chí Minh lại có bản sắc
riêng, thể hiện phong cách, cốt cách của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng
sáng tạo và phát triển tất cả các trường phái tư tưởng mà Hồ Chí Minh đã
từng tiếp thu, lĩnh hội.
Trong quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, con
người trong mọi thời đại luôn luôn là kẻ sáng tạo ra lịch sử, nhưng sự sáng tạo
đó chỉ có thể có được trong những điều kiện khách quan của lịch sử. Điều
kiện khách quan của lịch sử không chỉ đơn thuần là những yếu tố thời đại, mà
còn là những yếu tố kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật... đã đạt được bởi các
thế hệ trước. Mỗi giai đoạn của lịch sử đều gặp một kết quả vật chất nhất
định, một tổng số nhất định những lực lượng sản xuất, một quan hệ - được tạo
ra trong quá trình lịch sử - của những cá nhân với tự nhiên và với những
người khác, quan hệ mà mỗi thế hệ nhận được từ những tiền bối của mình,
một khối lượng lớn những lực lượng sản xuất, những tư bản và những điều
kiện (tức là những thứ một mặt bị thế hệ mới làm biến đổi đi, song mặt khác


18


lại quy định đối với thế hệ mới) những điều kiện sinh hoạt của chính thế hệ
mới và làm cho chính thế hệ mới có một sự phát triển nhất định, một tính chất
riêng biệt. Như vậy, quan niệm đó chỉ ra rằng con người tạo ra hoàn cảnh đến
mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy.
Trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, quá trình phát triển của
xã hội loài người do tuân theo những quy luật chung của sự phát triển nên bao
giờ cũng diễn ra một cách hết sức phong phú, phức tạp và đầy mâu thuẫn,
thậm chí có cả những bước thụt lùi, có trường hợp thoái bộ hoặc vận động
một cách quanh co. Tiến bộ xã hội, do vậy, cần phải được hiểu một cách lịch
sử cụ thể gắn với hoàn cảnh hiện thực của các xã hội. Trong lịch sử nhân loại,
các quá trình xã hội thường diễn ra không phải với tư cách là sự tiến bộ hoặc
thoái bộ đơn thuần. “bên cạnh sự tiến bộ của chúng ta luôn luôn thấy sự thoái
bộ và loanh quanh” [75; Tr.126].
Như vậy, tiến bộ trong quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin là xu hướng phát triển từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện của các hệ thống và tiểu hệ thống trong các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội. Còn thoái bộ, ngược lại, là một khuynh hướng đối lập với tiến
bộ, tức là sự vận động của sự vật theo chiều từ trình độ cao xuống trình độ
thấp - vận động thụt lùi, vận động theo hướng suy đồi, thoái hoá... Trong đời
sống xã hội, hai khuynh hướng này luôn tồn tại dưới dạng khả năng. Trên
thực tế, mỗi cộng đồng vận động theo khả năng nào còn tuỳ thuộc ở trình độ
của các chủ thể hoạt động trong việc nắm bắt các xu hướng khách quan và
trình độ khống chế những xu hướng khách quan ấy. V.I.Lênin cũng khẳng
định: “lịch sử thế giới tiến lên một cách đều đặn, bằng phẳng, không có – đôi
khi – những bước nhảy lùi lớn, thì không là biện chứng, không khoa học
không đúng về mặt lý luận” [63; Tr.8].


19


Mặc dù, trong xã hội còn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về tiến bộ
xã hội, nhưng khái quát lại, có thể hiểu tiến bộ xã hội là một khái niệm nói lên
trình độ của một xã hội đã đạt tới, không những trong lĩnh vực sản xuất vật
chất dựa trên một nền khoa học - kỹ thuật nhất định, mà còn trên tất cả các
lĩnh vực chính trị, văn hóa, tinh thần. Tiến bộ xã hội thể hiện trên sự kết hợp
tương đối thích ứng của các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa
con người với xã hội, giữa con người với thiên nhiên thông qua tác động
thường xuyên điều chỉnh của chủ thể quản lý sự phát triển xã hội theo hướng
phục vụ cuộc sống ngày càng tốt đẹp của con người.
1.2.1.2. Khái niệm công bằng xã hội
Trong kinh tế học, khái niệm về công bằng xã hội được hiểu trên hai
khía cạnh: công bằng xã hội theo chiều ngang nghĩa là đối xử như nhau đối
với những người có đóng góp như nhau, còn công bằng xã hội theo chiều dọc
nghĩa là đối xử khác nhau với những người có những khác biệt bẩm sinh hoặc
có các điều kiện sống khác nhau. Nếu nội hàm của khái niệm công bằng xã
hội theo chiều ngang ở đây là rõ thì nội hàm của khái niệm công bằng xã hội
theo chiều dọc lại không được rõ như vậy, vì đối xử khác nhau với những
người có các điều kiện sống khác nhau thì mức khác nhau như thế nào sẽ
được coi là công bằng? Thêm nữa, cùng một cách giải quyết cụ thể trong một
trường hợp cụ thể nếu xét theo chiều ngang là công bằng, nhưng xét theo
chiều dọc lại là không công bằng, và ngược lại. Chẳng hạn, việc cộng thêm
điểm cư trú theo vùng vào kết quả thi đại học ở Việt Nam hiện nay, nếu xét
theo chiều ngang là không công bằng, nhưng nếu xét theo chiều dọc thì lại
được coi là công bằng. Vì vậy, không thể tán thành với ý kiến cho rằng "việc
phân định và kết hợp công bằng theo chiều dọc và chiều ngang sẽ đảm bảo
công bằng xã hội thực sự". Ngược lại, việc phân định và kết hợp công bằng
như vậy sẽ thủ tiêu luôn vấn đề công bằng, khiến cho vấn đề ấy không còn


20


cần phải xem xét nữa, vì ở khắp nơi, tất cả đều hoặc là công bằng hoặc là
không công bằng tuỳ thuộc vào các góc độ xem xét khác nhau.
Gắn liền với vấn đề về công bằng xã hội, trong những năm gần đây,
những người nghiên cứu ở Việt Nam ngày càng quan tâm đến vấn đề công
bằng về cơ hội. Thậm chí, có tác giả còn đánh giá rằng, trong tư duy phát
triển hiện đại, công bằng về cơ hội phát triển là nội dung bao trùm của công
bằng xã hội. Trong trường hợp này, nội hàm của khái niệm công bằng xã hội
sẽ phải bao hàm sự công bằng trong việc phân phối các cơ hội và điều kiện
thực hiện cơ hội. Nhưng thế nào là "công bằng trong việc phân phối các cơ
hội và điều kiện thực hiện cơ hội"? Khái niệm công bằng ở đây không được
giải thích nên không rõ phải làm thế nào? Chẳng hạn, thế nào là công bằng
trong việc phân phối tư liệu sản xuất? Vì vậy, khái niệm công bằng có thể có
ít nhất có bốn cách hiểu khác nhau: chia đều theo đơn vị hành chính (chia đều
cho 63 tỉnh, thành phố trong cả nước), chia theo mật độ dân số (nơi nào có
mật độ dân số cao hơn sẽ được phân phối nhiều hơn), chia theo hiệu quả sản
xuất kinh doanh (nơi nào có hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn sẽ được
phân phối nhiều hơn), chia theo hiệu quả kinh tế - xã hội (nơi nào đạt hiệu
quả kinh tế - xã hội cao hơn sẽ được phân phối nhiều hơn). Trong bốn cách
trên đây, cách nào là công bằng? Do bản thân khái niệm công bằng không
được giải thích nên nội hàm của khái niệm công bằng xã hội ở đây cũng
không được giải thích.
Khái niệm công bằng về cơ hội được biểu đạt bằng các cụm từ khác
nhau, như: công bằng về cơ hội; tiếp cận công bằng với các cơ hội; bình đẳng
về cơ hội, bình đẳng trong việc tiếp cận các cơ hội, tạo "cơ hội bình đẳng" cho
các tầng lớp dân cư…Rõ ràng, các cụm từ trên đây có nội hàm không hoàn
toàn trùng nhau. Do vậy, nội hàm của các khái niệm công bằng về cơ hội hay
bình đẳng về cơ hội có thể được hiểu hoặc giải thích một cách khác nhau .



21

Ngoài bình đẳng về cơ hội, trình độ phát triển kinh tế có vai trò như thế nào
trong việc thực hiện công bằng xã hội? Một số quan niệm cho rằng, khi trình
độ phát triển kinh tế còn thấp như ở Việt Nam hiện nay thì không thể thực
hiện được công bằng xã hội. Tuy nhiên, không hẳn như vậy, bởi vì cái chủ
yếu của công bằng xã hội, như đã nói trên, chỉ có nghĩa là cống hiến ngang
nhau thì hưởng thụ ngang nhau. Theo nghĩa đó, không nhất thiết phải giàu có
mới thực hiện được công bằng, hơn thế nữa, càng chưa giàu có, càng nghèo
khó lại càng phải thực hiện công bằng nếu muốn tạo bầu không khí hoà thuận
tin yêu lẫn nhau, muốn giữ cho xã hội ổn định. Hồ Chí Minh đã từng căn dặn
ngay trong những năm tháng khi cuộc sống còn hết sức thiếu thốn, gian khổ
trong chiến tranh:
“Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng
Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên” [92; Tr.185].
Ngày nay, ở Việt Nam, người lao động sẵn sàng tạm thời chấp nhận sự
chưa bình đẳng, nhưng không chấp nhận sự không công bằng, sẵn sàng chấp
nhận những người có tài năng sống khá giả, còn những người kém cỏi sống
nghèo hơn, nhưng không chấp nhận những kẻ buôn gian bán lận, tham nhũng,
đặc quyền, đặc lợi, sống xa hoa, phè phỡn, còn những người lao động trung
thực, cần mẫn lại sống trong nghèo khó, ngày đêm phải chật vật mưu sinh. Có
thể nói, đây là một trong những “điểm nóng” nhất hiện nay, giải quyết được
nó trong lúc này sẽ có tác dụng tích cực tới tâm trạng của người lao động,
thúc đẩy họ thêm phấn khởi hăng hái sản xuất, đảm bảo thực hiện đầy đủ hơn
nguyên tắc công bằng xã hội. Tuy nhiên, bản thân nguyên tắc công bằng xã
hội này và khả năng thực hiện nó cần được hiểu đúng. Trước hết, cần nhận
xét rằng, công bằng xã hội không phải là một khái niệm bất di bất dịch. Công
bằng xã hội mang tính tương đối và phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể,
tách khỏi hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà nói tới công bằng thì cái được coi là



22

công bằng ấy có thể sẽ là không hợp lý và do đó, ít có khả năng trở thành hiện
thực. Chẳng hạn, nếu trước đây, chúng ta coi phân phối theo lao động là tiêu
chí duy nhất của sự công bằng (nhưng trên thực tế, trong thời kỳ trước đối
mới, lại thực hiện phân phối bình quân) thì ngày nay, trong quá trình đổi mới,
với việc chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, trong khi vẫn coi việc thực hiện phân phối theo kết quả lao động và
hiệu quả kinh tế chủ yếu, chúng ta đồng thời thực hiện phân phối theo mức
đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua
phúc lợi xã hội. Đây là một nguyên tắc phân phối khá công bằng, phù hợp với
thực tiễn xây dựng đất nước Việt Nam hiện nay, nhưng nguyên tắc phân phối
này vẫn chưa tính đến một cách đầy đủ, một đặc thù rất quan trọng của Việt
Nam. Đó là, khác với nhiều nước, suốt mấy chục năm qua, nhân dân Việt
Nam đã phải chiến đấu liên tục vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Trải qua
cuộc chiến đấu ấy, rất nhiều người hoặc đã hy sinh, hoặc đã trở thành thương
binh, bệnh binh, họ còn rất ít, thậm chí không còn sức lao động nữa. Thêm
vào đó, bản thân những con người ấy cùng gia đình họ, do đã cống hiến tất cả
cho cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của Tổ quốc, nay cũng chẳng có tài sản,
tiền của gì đáng kể để có thể đóng góp vốn liếng cho sản xuất kinh doanh. Vì
vậy, nếu giờ đây, chúng ta chỉ phân phối theo lao động và theo nguồn vốn
đóng góp vào sản xuất kinh doanh thì họ là những người thiệt thòi nhất.
Quan niệm thích hợp về công bằng xã hội hiện nay đòi hỏi phải phân
biệt những loại bất công khác nhau:
- Loại bất công “tự nhiên” là loại bất công do sự cấu tạo thể chất về mặt
sinh học của mỗi người cũng như những khác biệt về trình độ phát triển do
lịch sử để lại (ví dụ như sự khác biệt, cách biệt giữa thành thị và nông thôn,
giữa miền núi và miền xuôi). Đối với loại bất công này, hướng lâu dài là dựa
trên sự phát triển ngày càng cao của xã hội mà thu hẹp dần bất công và trước



23

mắt, cố gắng đến mức tối đa để bù đắp những thiệt thòi do bất công này gây
ra, không để trở thành tình huống căng thẳng và xung đột xã hội có hại cho sự
phát triển chung của cộng đồng.
- Loại bất công tạm thời phải chấp nhận nếu muốn đưa đất nước lên
con đường “dân giàu, nước mạnh”. Chúng ta biết rằng, nói “dân giàu” nhưng
không phải mọi người đều có thể cùng một lúc giàu như nhau. Trong một thời
gian nhất định, chưa thể loại trừ tình trạng nghèo, cả tuyệt đối và tương đối.
Sự phân hóa giàu nghèo là không thể tránh khỏi, nhưng không thể để xảy ra
tình trạng khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng, “kẻ ăn không hết, người
lần không ra”, “nước chảy chỗ trũng”, người nghèo vô phương sinh kế mà
không có một sự giúp đỡ nào có hiệu quả, có lợi cho sự phát triển của đất
nước. Đó là sự làm giàu dựa vào những năng lực và nguồn lực chính đáng, sự
làm giàu này không vấp phải một hạn chế nào. Tài kinh doanh, óc tổ chức,
sáng kiến đều có điều kiện phát huy đến mức cao nhất qua cạnh tranh lành
mạnh.
- Loại bất công phi lý và cũng là phi pháp; đó là tất cả những bất công
nào hoàn toàn đi ngược lại với những lợi ích của sự phát triển xã hội, làm cho
đời sống xã hội biến dạng và đạo đức xã hội bị suy đồi. Trong bức tranh toàn
cảnh về người giàu ở xã hội ta hiện nay, qua dư luận xã hội và các cuộc điều
tra xã hội ở một số ngành và địa phương cho thấy có những mảng sáng và
mảng tối. Mảng sáng là của những người làm giàu chính đáng, mảng tối là
của những kẻ làm giàu phi pháp. Những kẻ làm giàu phi pháp thuộc hai loại
đối tượng: đối tượng thứ nhất là bọn buôn gian, bán lậu, đầu cơ, lừa đảo. Đối
tượng thứ hai là bọn dựa vào quyền lực để tổ chức việc trao đổi, mua bán
quyền lực. Không nên hiểu quyền lực đây chỉ là những người có vị trí quan
trọng, chức vụ cao, quyền lực lớn, mà là bất cứ một cá nhân hay tổ chức nào

trong bộ máy của Đảng và nhà nước từ trung ương đến cơ sở khi thực hiện


24

chức năng được giao, tìm cách lợi dụng chức năng đó để tự cho phép mình
làm trái luật pháp, quy định của nhà nước và bằng cách đó, thu lợi bất chính
cho bản thân hoặc cho tổ chức mà họ được giao hoặc quản lý. Việc xóa bỏ
những bất công phi pháp, điều tiết những bất công tự nhiên và bất công tạm
thời phải chấp nhận tuy là việc làm quan trọng, nhưng dù sao vẫn là mặt thụ
động của thực hiện công bằng xã hội. Mặt quan trọng hơn, mặt tích cực chủ
động của nhiệm vụ quản lý sự phát triển của xã hội là phải dần dần tạo ra
những điều kiện thuận lợi, điều kiện ngang nhau cho mọi thành viên tiếp cận
để phát triển. Hồ Chí Minh nói: “đồng cam cộng khổ là một tinh thần cần phải
có, nhưng nếu bình quân chủ nghĩa thì lại không đúng. Bình quân chủ nghĩa
là gì? Là ai cũng như ai, bằng hết…bình quân chủ nghĩa là trái với chủ nghĩa
xã hội, thế là không đúng” [88; Tr.386]. Mục tiêu của chế độ xã hội mới là
không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, là phấn đấu:
“Làm cho người nghèo thì đủ ăn
Người đủ ăn thì khá giàu
Người khá giàu thì giàu thêm” [86; Tr.65].
Thực hiện công bằng xã hội đòi hỏi phải nhận thức và giải quyết đúng
đắn, hài hoà các mối quan hệ lợi ích. Song, ở đây lại thường nảy sinh những
mâu thuẫn đòi hỏi phải được nghiên cứu và giải quyết. Thực hiện công bằng
xã hội ở Việt Nam hiện nay, những mâu thuẫn nảy sinh đòi hỏi phải được
nghiên cứu và giải quyết là; mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội; mâu thuẫn
giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội của nhà nước; mâu thuẫn giữa lợi
ích nhà đầu tư và lợi ích người lao động; mâu thuẫn trong lĩnh vực giáo dục đào tạo.
1.2.2. Thực hiện tiến bộ xã hội và công bằng xã hội hiện nay ở nước ta
Thực hiện chính sách đổi mới do đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI

của Đảng năm 1986 khởi xướng, chúng ta đã có những đổi mới quan trọng


×