Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI PHẠT VI PHẠM TRONG THƯƠNG MẠIVÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI VÀ SẢN XUẤT NAM PHÁT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.76 KB, 51 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ - LUẬT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
“PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI PHẠT VI PHẠM
TRONG
THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG TY
TNHH THƯƠNG MẠI VÀ SẢN XUẤT
NAM PHÁT”

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT THƯƠNG MẠI

Giáo viên hướng dẫn
- Họ và tên: TS. Nguyễn Thị Tình
- Bộ môn : Luật chuyên ngành

Sinh viên thực tập
- Họ và tên: Nguyễn Văn Việt
- Lớp
: K48P1

HÀ NỘI, 2016


TÓM LƯỢC
Đường lối đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước cùng với xu thế hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới trong những năm gần đây đã cho thấy tính hiệu quả trong việc xây
dựng và phát triển kinh tế một cách mạnh mẽ với những thành tựu to lớn. Cùng
với sự phát triển kinh tế - xã hội, các quan hệ thương mại cũng ngày càng


phong phú và đa dạng hơn.Tuy nhiên, tính thực thi và áp dụng của các quy
phạm pháp luật điều chỉnh ngày càng cho thấy nhiều vướng mắc và thiếu sót.
Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn điều chỉnh các hành vi thương mại, cần xây dựng
một hệ thống cơ sở pháp lý vững chắc và ổn định điều chỉnh một cách đồng bộ
các quan hệ thương mại hướng tới. Cùng với sự ra đời của Bộ luật dân sự 2005,
Luật thương mại 2005 ra đời như là một tính tất yếu đánh dấu bước phát triển
của hệ thống pháp luật thương mại. Trên cơ sở phát huy truyền thống của pháp
luật dân sự Việt Nam và kế thừa những thành tựu từ Luật thương mại 1997,
Luật thương mại 2005 đã điều chỉnh một cách khá toàn diện và có hệ thống các
quan hệ thương mại phát sinh trong nền kinh tế. Một thành tựu đáng ghi nhận
của Luật thương mại 2005 đó là tính ứng dụng cao của các quy định về chế tài
trong thương mại, trong đó có chế tài phạt vi phạm. Các quy định này có vai trò
rất lớn trong việc điều chỉnh và xử lý các hành vi trong thương mại, góp phần
to lớn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên. Tuy nhiên, một
số quy định vẫn còn tồn tại những điểm cần làm sáng tỏ sự bất cập và hạn chế
của nó.
Từ thực tế đó, đề tài khóa luận tốt nghiệp về “Pháp luật về chế tài phạt vi
phạm trong thương mại và thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH thương mại
và sản xuất Nam Phát” tập trung nghiên cứu về những vấn đề xoay quanh chế
tài phạt vi phạm cũng như thực tiễn thực thi và áp dụng. Chương 1 khóa luận
trình bày về một số vấn đề lý luận về các khái niệm liên quan đến chế tài phạt
vi phạm. Chương 2 tập trung phân tích và làm rõ thực trạng các quy định pháp
luật điều chỉnh về vấn đề nghiên cứu, liên hệ đến thực tiễn thực hiện tại Công
ty TNHH thương mại và sản xuất Nam Phát. Từ những vấn đề trên, khóa luận
đưa ra một số quan điểm và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật điều chỉnh về chế tài phạt vi phạm trong thương mại. Nội dung này sẽ
được tổng hợp, làm rõ tại Chương 3 bài khóa luận.
2



LỜI CẢM ƠN
Là một sinh viên chuyên ngành Luật thương mại, trải qua quá trình bốn
năm học tập lý luận tại Trường Đại học Thương mại cùng với quá trình thực
tập tốt nghiệp tại Công ty TNHH thương mại và sản xuất Nam Phát đã giúp em
có được những kiến thức lý luận chuyên ngành và hiểu biết về thực tiễn thực
thi và áp dụng pháp luật tại các doanh nghiệp. Qua đó, em đã hoàn thành xong
bài khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Pháp luật về chế tài phạt vi phạm trong
thương mại và thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH thương mại và sản xuất
Nam Phát”. Để có được bài khóa luận tốt nghiệp hoàn thiện, em xin gửi lời
cảm ơn tới các thầy, cô giáo Trường Đại học Thương mại, Khoa Kinh tế - Luật
đã truyền đạt cho em rất nhiều kiến thức trong quá trình học tập và làm khóa
luận tốt nghiệp. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới TS Nguyễn
Thị Tình đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình hoàn thành bài
khóa luận. Bên cạnh đó, em cũng xin gửi lời cảm ơn đến tập thể các anh chị
trong Công ty TNHH thương mại và sản xuất Nam Phát đã tận tình giúp đỡ em
trong quá trình thực tập.
Bài khóa luận tốt nghiệp được thực hiện trong khoảng thời gian gần hai
tháng. Dù em đã có nhiều cố gắng nhưng do kiến thức còn hạn hẹp, nên bài
khóa luận không thể tránh khỏi những sai sót. Kính mong nhận được sự đóng
góp, nhận xét của quý thầy cô để đề tài khóa luận của em được hoàn thiện và
đầy đủ hơn.
Sau cùng, em xin chúc toàn thể các thầy, cô giáo Khoa Kinh tế - Luật nói
chung và cô giáo Nguyễn Thị Tình nói riêng thật dồi dào sức khỏe để tiếp tục
sứ mệnh truyền đạt kiến thức cho các thế hệ sinh viên Trường Đại học Thương
mại.
Em xin chân thành cảm ơn!

3



4


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài
Nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường trong bối cảnh
tính chất cạnh tranh ngày càng tăng cao khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO); trong vài năm gần đây, lấy nền tảng là Hiến pháp mới năm 2013,
Quốc hội Việt Nam đã chủ động rà soát lại hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật
điều chỉnh các quan hệ xã hội, đặc biệt là quan hệ kinh tế, để tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh, công bằng, bình đẳng, tự do cho các chủ thể. Tuy nhiên, thực tiễn áp
dụng các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường
của các chủ thể cho thấy một số quy định còn tồn tại bất cập và hạn chế. Chính vì thế,
việc nghiên cứu hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh và thực
tiễn áp dụng các hệ thống pháp luật đó tại các doanh nghiệp là hết sức cần thiết.
Ngày nay, các hợp đồng thương mại ngày càng có vị trí và vai trò to lớn trong
nền kinh tế. Chính vì thế, việc quan tâm đến các vấn đề liên quan đến hợp đồng
thương mại thực sự rất cần thiết trong việc đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh
tế. Nhằm đảm bảo cho việc thực hiện các thỏa thuận giữa các bên trong quá trình thực
hiện hợp đồng cũng như đền bù lại những tổn thất đã gây ra cho bên bị thiệt hại do
hành vi của bên vi phạm hợp đồng, pháp luật về chế tài trong thương mại đã ra đời,
trong đó đáng chú ý phải kể đến chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng thương mại. Với
việc quy định về chế tài phạt vi phạm trong Luật thương mại 2005 thì phạt vi phạm
thực sự trở thành một chế tài quan trọng để bảo vệ các bên trong quan hệ thương mại.
Qua quá trình nghiên cứu tìm hiểu thực tế và thực tiễn thực tập tại Công ty TNHH
thương mại và sản xuất Nam Phát cho em thấy, chế tài phạt vi phạm ngày càng được
các bên sử dụng nhiều hơn như một biện pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi của mình

trong các quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, các quy định về chế tài phạt
vi phạm còn nhiều vấn đề chưa cụ thể, quy định còn bất cập, mâu thuẫn giữa Luật
thương mại và Bộ luật dân sự gây khó khăn cho các bên trong việc áp dụng và từ đó dễ
dẫn tới những tranh chấp kiện tụng.
Để khai thác và đi sâu làm rõ nội dung pháp luật về chế tài phạt vi phạm trong
thương mại, từ đó đánh giá và đưa ra đề xuất các giải pháp kiến nghị nhằm tháo gỡ
những vướng mắc, hoàn thiện các quy định pháp lý liên quan, em đã lựa chọn đề tài:
“Pháp luật về chế tài phạt vi phạm trong thương mại và thực tiễn thực hiện tại
Công ty TNHH thương mại và sản xuất Nam Phát” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp
của mình.
6


2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Với sự ra đời của Luật thương mại 2005, vấn đề về các chế tài trong thương mại
nói chung và chế tài phạt vi phạm nói riêng ngày càng thu hút sự quan tâm của rất
nhiều tác giả; có thể kể đến một số công trình nghiên cứu, bài viết, bài nghiên cứu liên
quan đáng chú ý dưới những góc độ và phạm vi nghiên cứu khác nhau như sau:
Thạc sỹ Lê Văn Sua (2015), “Quy định về chế tài trong Luật thương mại 2005 –
một số vướng mắc và kiến nghị”, Trang thông tin điện tử của Bộ Tư pháp, ngày
01/12/2015. Tác giả chỉ ra và phân tích rõ 6 điểm còn vướng mắc khi áp dụng các quy
định của pháp luật về chế tài phạt vi phạm và các quy định có liên quan. Qua đó, tác
giả đưa ra quan điểm của mình về định hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về
chế tài trong thương mại nhằm tạo ra hành lang pháp lý thương mại tự do, công bằng,
bình đẳng.
Tác giả Đoàn Thị Ngọc Hải (2015), “Hoàn thiện các quy định về chế tài trong
thương mại theo Luật Thương mại năm 2005”, Trang thông tin điện tử của Bộ Tư
pháp, ngày 03/11/2015. Bài viết đã chỉ ra một số bất cập và phương hướng hoàn thiện
chế tài trong thương mại, trong đó có chế tài phạt vi phạm. Điều đáng chú ý trong bài
viết của tác giả là hai phương án tiếp cận đối với quy định về mức phạt vi phạm trong

hợp đồng thương mại, qua đó đưa ra kiến nghị sửa đổi quy định về mức phạt vi phạm
cho phù hợp với thực tiễn áp dụng trong các hợp đồng thương mại.
Thạc sỹ Nguyễn Việt Khoa – Giảng viên Khoa Luật kinh tế, Đại học kinh tế
thành phố Hồ Chí Minh (2014), “Chế tài phạt vi phạm hợp đồng theo Luật thương mại
năm 2005”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp – Văn phòng quốc hội. Trong bài viết, tác
giả đã đề cập đến những vấn đề pháp lý liên quan đến hành vi vi phạm hợp đồng và
chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng thương mại. Đồng thời, tác giả cũng đã chỉ ra
những điểm chưa hợp lý kèm theo những căn cứ lý luận và thực tiễn để chứng minh
cho những luận điểm đó. Bên cạnh đó, bài viết đưa ra những kiến nghị đề xuất để hoàn
thiện các quy định pháp luật về chế tài phạt vi phạm trong thương mại.
Tiến sỹ Nguyễn Thị Tình và Thạc sỹ Đỗ Phương Thảo, Đại học thương mại
(2013), “Hoàn thiện các quy định về chế tài trong thương mại theo Luật Thương mại
năm 2005”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, ngày 28/03/2013. Bài viết nêu rõ vai trò của
các chế tài trong thương mại: “Chế tài trong thương mại là một trong những quy định
ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện hợp đồng thương mại, bởi thông qua đó, chúng
ta có thể điều tiết hành vi của các thương nhân trong quá trình thực hiện hợp đồng,
tạo ra sự ổn định tương đối cho sự phát triển của nền kinh tế.” Tác giả đi sâu phân tích
7


về một số bất cập của chế tài trong thương mại cần được nghiên cứu sửa đổi để đạt
được hiệu quả cao hơn trong quá trình điều chỉnh các vấn đề trong hoạt động thương
mại, trong đó có chế tài phạt vi phạm.
Ngoài ra, có thể kể đến một vài công trình nghiên cứu đáng chú ý khác như:
Thạc sỹ Đồng Thái Quang với bài viết “Chế tài trong thương mại – Một số bất
cập và phương hướng hoàn thiện”, Trung tâm tư vấn pháp luật Thành phố Hồ Chí
Minh, ngày 09/08/2014.
Hoàng Thị Hà Phương, “Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại – Những vấn
đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học Luật Hà Nội năm 2012.
Tiến sỹ Dương Anh Sơn và Tiến sỹ Lê Thị Bích Thọ với bài viết “Một số ý kiến

về phạt vi phạm do vi phạm pháp luật hợp đồng theo pháp luật Việt Nam”, Thông tin
pháp luật dân sự, tháng 8 năm 2008.
Với phạm vi nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau, các tác giả chỉ mới tập
trung đi sâu vào những khía cạnh nhất định liên quan đến pháp luật về các chế tài
trong thương mại nói chung và chế tài phạt vi phạm nói riêng mà chưa đầu tư đi sâu
phân tích được cơ sở lý luận pháp lý liên quan đến đề tài, cũng như phân tích đánh giá
thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật liên quan và giải pháp kiến nghị nhằm
khắc phục những thực trạng ấy.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Ngày nay, các quan hệ hợp đồng được xác lập giữa các thương nhân ngày càng
diễn ra thường xuyên, pháp luật thương mại ra đời là cần thiết để duy trì và bảo đảm
sự tự do, bình đẳng cho các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng. Khi một hợp đồng
thương mại đã được giao kết hợp pháp và phát sinh hiệu lực pháp luật thì các bên phải
thực hiện các nghĩa vụ mà mình đã thỏa thuận trong hợp đồng. Chế tài trong thương
mại chính là các hình thức trách nhiệm mà bên vi phạm phải chịu khi vi phạm các
nghĩa vụ đã được thỏa thuận trong hợp đồng, là các biện pháp tác động bất lợi về tài
sản của bên có quyền lợi bị vi phạm đối với chủ thể có hành vi vi phạm hợp đồng
trong thương mại.
Phạt vi phạm là một chế tài thường thấy và được các bên thường xuyên thỏa
thuận áp dụng khi giao kết hợp đồng. Phạt vi phạm được các chủ thể thỏa thuận đưa
vào hầu hết các hợp đồng giao kết với đối tác, khách hàng. Điều đó giúp điều tiết hành
vi của các thương nhân trong quá trình thực hiện hợp đồng, tạo ra sự ổn định tương đối
cho sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các chế tài, đặc biệt là
8


chế tài phạt vi phạm trong thời gian qua vẫn còn một số vấn đề gây tranh cãi, gây khó
khăn trong việc xử lý đối với bên có hành vi vi phạm hợp đồng. Những vấn đề này
phần lớn xuất phát từ sự bất cập của các quy định về chế tài trong thương mại. Dựa
trên những bài học kinh nghiệm từ các công trình nghiên cứu đã có cùng với sự tìm

hiểu, nghiên cứu, cập nhật những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan, khóa luận lấy
đề tài khoa học pháp lý về chế tài phạt vi phạm trong thương mại xin tập trung nghiên
cứu làm rõ các vấn đề lý luận về chế tài trong thương mại nói chung và chế tài phạt vi
phạm nói riêng. Bên cạnh đó, khóa luận đi sâu bám sát vào thực trạng các quy định
pháp luật về vấn đề cần nghiên cứu, từ đó phát hiện những điểm bất hợp lý trong các
quy định về chế tài phạt vi phạm trong thương mại. Từ những phân tích đánh giá đó,
khóa luận đề xuất, kiến nghị phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật điều
chỉnh về chế tài phạt vi phạm trong thương mại.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung phân tích các quy định pháp lý liên quan đến chế tài phạt vi
phạm trong thương mại quy định tại Bộ luật dân sự 2005 và Luật thương mại 2005
cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành, đưa ra những ý kiến khách quan nhằm
chứng minh và làm sáng tỏ các luận điểm đưa ra trong bài viết. Khóa luận cũng phân
tích thực tiễn thực hiện các quy định về chế tài phạt vi phạm tại một doanh nghiệp cụ
thể đó là Công ty TNHH thương mại và sản xuất Nam Phát để qua đó đưa ra những
đánh giá khách quan nhất về đối tượng mà khóa luận tập trung nghiên cứu - pháp luật
về chế tài phạt vi phạm trong thương mại.
4.2. Mục tiêu nghiên cứu
Việc nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến pháp luật thương mại nói chung và
pháp luật về các chế tài trong thương mại nói riêng có vai trò rất quan trọng đối với
quá trình quản lý và điều tiết hành vi của các chủ thể trong nền kinh tế hiện nay. Với
đề tài đi sâu vào pháp luật về chế tài phạt vi phạm trong thương mại, khóa luận được
thực hiện nhằm mục đích làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến chế tài phạt vi
phạm trong thương mại và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật liên quan trong
các quan hệ thương mại trên thực tế tại các doanh nghiệp nói chung và tại Công ty
TNHH thương mại và sản xuất Nam Phát nói riêng. Qua đó, những giải pháp đề xuất
nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan được đưa ra nhằm tháo gỡ
những vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật cũng như giải quyết những tranh
chấp giữa các chủ thể hợp đồng thương mại, góp phần tạo nên một môi trường kinh

doanh tự do, công bằng và bình đẳng.
9


4.3. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của một bài khóa luận tốt nghiệp cử nhân chuyên ngành Luật
thương mại, bài viết tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về chế tài phạt vi
phạm trong thương mại quy định tại Luật thương mại 2005 cùng với các văn bản
hướng dẫn thi hành. Bên cạnh đó, khóa luận đối chiếu, so sánh với các quy định về
phạt vi phạm trong hợp đồng quy định tại Bộ luật dân sự 2005 để làm rõ vấn đề cần
nghiên cứu. Về vấn đề thực tiễn, khóa luận tập trung đi sâu và thực tiễn thực hiện các
quy định của pháp luật về chế tài phạt vi phạm trong thương mại tại Công ty TNHH
thương mại và sản xuất Nam Phát, từ đó liên hệ đánh giá về vấn đề thực hiện pháp luật
trong thực tế tại các doanh nghiệp.
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên các phương pháp nghiên cứu khoa học nói chung và các phương pháp
nghiên cứu chuyên ngành khoa học pháp lý nói riêng, khóa luận đã vận dụng một cách
linh hoạt các phương pháp để giải quyết những vấn đề lý luận pháp lý và thực tiễn liên
quan đến chế tài phạt vi phạm trong thương mại. Cụ thể có thể kể đến các phương
pháp như: phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp thu thập dữ liệu, phương
pháp phân tích xử lý dữ liệu, phương pháp so sánh,…
Phương pháp phân tích – tổng hợp:
Từ những cơ sở thông tin dữ liệu pháp lý liên quan đã thu thập được, tác giả tập
trung phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về chế tài phạt vi phạm trong
thương mại. Từ kết quả phân tích đó, tác giả tổng hợp đánh giá một cách khách quan,
có dẫn chứng thực trạng của pháp luật điều chỉnh về chế tài phạt vi phạm trong thương
mại nhằm định hướng đề xuất các giải pháp cần hoàn thiện. Bên cạnh đó, dựa vào
những hợp đồng mẫu và hợp đồng được ký kết giữa các công ty, đặc biệt là đơn vị mà
người viết đã thực tập – Công ty Nam Phát, tác giả đi sâu phân tích các điều khoản
liên quan đến vấn đề nghiên cứu nhằm làm rõ thực tiễn thực hiện tại đơn vị.

Phương pháp thu thập dữ liệu:
Đối với những dữ liệu sơ cấp, tác giả tiến hành thu thập bằng cách tìm hiểu các
văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể là Luật thương mại 2005, Bộ luật dân sự 2005, và
các văn bản hướng dẫn thi hành dưới luật đồng thời xem xét một số hợp đồng mẫu
chứa các thỏa thuận phạt vi phạm trên thực tế nhằm tìm hiểu thực tiễn thỏa thuận điều
khoản phạt vi phạm giữa các bên; thu thập bằng cách quan sát, trao đổi đối với các
nhân viên tại đơn vị thực tập để có thông tin. Đối với những dữ liệu thứ cấp, tác giả
10


tiến hành thu thập bằng cách tìm hiểu, tra cứu đối với các bài viết hay các công trình
nghiên cứu liên quan.
Phương pháp so sánh:
Bằng các kiến thức chuyên ngành được học trên trường lớp, tác giả đi sâu vào so
sánh các quy định về các chế tài trong thương mại được quy định trong Luật thương
mại 2005 cũng như so sánh các quy định đó trong Luật thương mại với Bộ luật dân sự
2005 để làm rõ sự chồng chéo và khác biệt giữa các văn bản pháp luật quy định về các
chế tài trong hợp đồng thương mại.
Bên cạnh đó tác giả cũng đã vận dụng những hiểu biết xã hội, tìm hiểu đời sống
pháp luật cũng như nắm bắt sự kiện thông qua các phương tiện thông tin đại chúng,
các phương tiện truyền thông, tham khảo ý kiến những cá nhân thuộc chuyên ngành
nghiên cứu làm công cụ trong việc thực hiện nhiệm vụ đề tài khóa luận.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Ngoài lời mở đầu và kết luận, kết cấu của bài khóa luận bao gồm các nội dung sau:
-

-

Chương 1: Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh về chế tài phạt vi
phạm trong thương mại

Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh về chế tài phạt vi phạm trong
thương mại và thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH thương mại và sản xuất
Nam Phát
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về chế tài phạt vi
phạm trong thương mại

CHƯƠNG 1:
11


NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ
CHẾ TÀI PHẠT VI PHẠM TRONG THƯƠNG MẠI
1.1.

Một số khái niệm cơ bản liên quan đến hợp đồng thương mại và chế tài phạt vi
phạm trong thương mại
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến hợp đồng thương mại
1.1.1.1. Hợp đồng
Bàn về lịch sử hình thành, hợp đồng được ra đời khi xã hội xuất hiện sự phân
công lao động cũng như quá trình trao đổi hàng hóa được diễn ra. Có thể nói, hợp
đồng chính là phương thức quan trọng và khái quát nhất để các chủ thể tham gia vào
các mối quan hệ dân sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
Có hai phương diện được đưa ra khi xem xét về khái niệm hợp đồng dân sự: Về
phương diện khách quan, hợp đồng dân sự là do các quy phạm pháp luật của Nhà nước
ban hành nhằm mục đích điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau. Về phương diện chủ quan,
hợp đồng dân sự chính là các giao dịch dân sự theo đó các bên chủ thể tự trao đổi ý chí
với nhau nhằm mục đích đi đến sự thỏa thuận làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân
sự nhất định.
Theo nghĩa chung nhất, định nghĩa “Hợp đồng dân sự” được quy định tại Điều

388 Bộ luật dân sự 2005 như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”. Theo đó, khi nghiên
cứu hợp đồng và pháp luật về hợp đồng cần chú ý một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, hợp đồng phải thể hiện được sự tự do thỏa thuận thống nhất ý chí của
các bên tham gia và ý chí đó phải phù hợp với ý chí của Nhà nước. Đặc điểm này được
đưa ra nhằm mục đích phân biệt hợp đồng với hành vi pháp lý đơn phương. Rõ ràng,
hợp đồng phải là sự thỏa thuận của ít nhất là hai bên tham gia, nếu chỉ là ý chí của một
bên thì đó sẽ là hành vi pháp lý đơn phương của cá nhân chủ thể đó mà thôi. Một thỏa
thuận không dựa trên sự tự nguyện của các bên, tức là không có sự thống nhất ý chí thì
hợp đồng dân sự đó bị tuyên vô hiệu khi có yêu cầu. Nguyên tắc của pháp luật dân sự
là bình đẳng, dựa trên sự thỏa thuận, tự nguyện thiện chí của các bên nên nếu không có
sự thống nhất ý chí thì không được coi là hợp đồng dân sự. Chỉ khi thống nhất ý chí thì
quyền và nghĩa vụ mới phát sinh. Việc thay đổi hợp đồng cũng chỉ có thể được thực
hiện bởi sự thoả thuận của các chủ thể trong hợp đồng và không ai có quyền can thiệp
vào quan hệ của họ cũng như không có quyền làm thay đổi ý chí của họ. Đồng thời, sự
thỏa thuận thống nhất ý chí còn phải phù hợp với ý chí của Nhà nước để Nhà nước
kiểm soát và cho phép hợp đồng dân sự phát sinh trên thực tế.
12


Thứ hai, hợp đồng phải là một sự kiện pháp lý làm phát sinh một hay nhiều hậu
quả pháp lý nhất định, bao gồm: xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các
bên chủ thể. Sự kiện pháp lý là sự biến hoặc hành vi mà pháp luật quy định khi xuất
hiện thì sẽ xác lập, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật nhất định. Hợp đồng dân
sự là một sự kiện pháp lý, theo đó các bên tham gia vào các giao dịch dân sự thông qua
hợp đồng nhằm thỏa mãn mục đích của mình.
Thứ ba, nội dung của hợp đồng dân sự là quyền và nghĩa vụ mà các bên chủ thể
quy định cho nhau. Pháp luật về hợp đồng được xây dựng theo hướng đề cao tự do ý
chí của các bên và pháp luật chỉ can thiệp ở một giới hạn cần thiết nhất định. Với
nguyên tắc tôn trọng quyền tự do thỏa thuận của các bên trong hợp đồng, pháp luật

cho phép các bên quy định cho nhau các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng các bên
giao kết. Tuy nhiên, nội dung của hợp đồng không được trái với các nguyên tắc chung
của pháp luật Việt Nam.
Thứ tư, mục đích của hợp đồng dân sự là lợi ích hợp pháp, không trái đạo đức xã
hội mà các bên cùng hướng tới. Chỉ khi mục đích của hợp đồng dân sự được chứng
minh hoặc được thừa nhận là hợp pháp, không trái đạo đức xã hội thì hợp đồng dân sự
mới phát sinh hiệu lực, qua đó quyền và nghĩa vụ của các bên mới có thể thực hiện
được trên thực tế.
1.1.1.2. Hợp đồng thương mại
Từ lâu, khoa học pháp lý và pháp luật Việt Nam sử dụng nhiều khái niệm pháp lý
để chỉ hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh như: hợp đồng kinh doanh, hợp đồng trong
hoạt động kinh doanh, hợp đồng kinh tế, hợp đồng thương mại… Tại Điều 1 Pháp lệnh
Hợp đồng kinh tế năm 1989 đã đưa ra khái niệm về hợp đồng kinh tế như sau: “… là
sự thỏa thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực hiện
công việc sản xuất, trao đổi hàng hóa, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng nghiên cứu khoa
học – kỹ thuật và các thỏa thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng
quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình”. Với
khái niệm này, hợp đồng kinh tế được đặc trưng với ba tiêu chí cơ bản là chủ thể, mục
đích, hình thức hợp đồng nên chưa bao quát hết được các quan hệ hợp đồng trong hoạt
động thương mại. Hiện nay, Luật thương mại 2005 không đưa ra định nghĩa về hợp
đồng thương mại nhưng có thể hiểu hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận giữa các
chủ thể kinh doanh với nhau và với các bên có liên quan về việc xác lập, thay đổi,
hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong hoạt động thương mại. Các hoạt động
thương mại ở đây được xác định theo Khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005 “… là
13


hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư,
xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
Hợp đồng thương mại có những đặc điểm của hợp đồng dân sự nói chung và có

những đặc điểm riêng của các hoạt động thương mại và đây cũng chính là các căn cứ
để phân biệt giữa hợp đồng thương mại và hợp đồng dân sự nói chung:
Về chủ thể: Chủ thể của hợp đồng thương mại là thương nhân hoặc một bên là
thương nhân. Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân
hoạt động thương mại một cách độc lập, thương xuyên và có đăng ký kinh doanh. 1
Trong trường hợp thương nhân là người nước ngoài sẽ được đặt Văn phòng đại diện,
Chi nhánh tại Việt Nam, thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam theo các hình thức do pháp luật Việt Nam quy định. Đặc điểm về chủ thể cũng là
một tiêu chí để phân biệt hợp đồng thương mại với hợp đồng dân sự nói chung. Bởi lẽ,
hợp đồng dân sự được giao kết giữa cá nhân với cá nhân, tổ chức có thể có hoặc không
có tư cách pháp nhân.
Về hình thức: Hợp đồng thương mại được thể hiện bằng hình thức lời nói, văn
bản hoặc hành vi cụ thể. Trong một số trường hợp, pháp luật bắt buộc các bên phải
giao kết hợp đồng bằng hình thức văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương
đương như hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa,
hợp đồng đại lý,… Nếu như các hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng miệng
nhiều hơn thông qua sự tín nhiệm, giao dịch đơn giản, có tính phổ thông và giá trị thấp
thì các hợp đồng thương mại thường được giao kết bằng văn bản và được công chứng
để tăng giá trị pháp lý và đảm bảo sự rõ ràng trong quyền và nghĩa vụ của các bên.
Về mục đích: Hợp đồng thương mại được lập ra nhằm hướng tới phát sinh lợi
nhuận từ hoạt động kinh doanh thương mại. Trong khi đó, hợp đồng dân sự có thể có
mục đích sinh lợi hoặc không có mục đích sinh lợi. Tuy nhiên, một số hợp đồng về
nguyên tắc không đương nhiên chịu sự điều chỉnh bởi pháp luật thương mại. Theo
Khoản 3, Điều 1, Luật thương mại 2005: “Hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi
của một bên trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm
mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật này” thì mới thuộc sự điều chỉnh của Luật
thương mại.
1.1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến chế tài phạt vi phạm trong thương mại
1.1.2.1. Chế tài trong thương mại

1 Khoản 1, Điều 6, Luật thương mại 2005

14


Chế tài là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những biện pháp tác động
mà Nhà nước dự kiến sẽ áp dụng đối với chủ thể nào không thực hiện đúng mệnh lệnh
của Nhà nước đã nêu ở phần quy định của quy định pháp luật. 2 Nền kinh tế thị trường
ở nước ta dựa trên sự thiết lập nền tảng pháp lí quyền tự do kinh doanh trong quan hệ
thương mại và phương thức hình thành chủ yếu là thông qua các quan hệ hợp đồng.
Các quan hệ hợp đồng trong thương mại cũng vì thế mà trở nên đa dạng và phức tạp
hơn. Hiện tượng vi phạm hợp đồng cũng diễn ra nhiều hơn. Để giúp đảm bảo cam kết
giữa các bên được thực hiện, hoặc đền bù lại những tổn thất đã gây ra cho bên bị thiệt
hại do hành vi của bên vi phạm hợp đồng, pháp luật về chế tài trong thương mại ra đời
và ngày càng hoàn thiện hơn.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về chế tài trong thương mại.
Theo nghĩa rộng: Chế tài trong thương mại được hiểu là hình thức xử lý được cơ
quan Nhà nước hoặc bên có quyền lợi bị vi phạm áp dụng đối với mọi tổ chức cá nhân
có hành vi vi phạm pháp luật thương mại. Theo cách hiểu này, chỉ cần chủ thể tham
gia pháp luật thương mại có hành vi vi phạm pháp luật thương mại là đều có căn cứ để
áp dụng chế tài. Để tìm hiểu kĩ hơn về chế tài trong thương mại theo cách hiểu này đòi
hỏi cần các công trình nghiên cứu chuyên sâu, nghiên cứu trên rất nhiều các phương
diện. Trong phạm vi bài khóa luận, người viết chỉ tập trung nghiên cứu về chế tài trong
thương mại cũng như chế tài phạt vi phạm trong thương mại theo cách hiểu trong
phạm vi quan hệ hợp đồng (hiểu theo nghĩa hẹp).
Theo nghĩa hẹp: Chế tài trong thương mại là hình thức trách nhiệm mà bên vi
phạm phải chịu khi vi phạm các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng. Đó là các biện
pháp tác động bất lợi về tài sản của bên có quyền lợi bị vi phạm đối với chủ thể có
hành vi vi phạm thỏa thuận trong hợp đồng thương mại. Rõ ràng, khi hợp đồng thương
mại đã được giao kết và phát sinh hiệu lực pháp luật thì các bên phải thực hiện các

nghĩa vụ mà mình đã thỏa thuận trong hợp đồng. Do đó, việc gánh chịu những hậu quả
pháp lý bất lợi (chế tài) nhất định do hành vi vi phạm đó gây ra là điều mà pháp luật
thương mại hướng đến nhằm điều tiết các hành vi của các chủ thể trong quan hệ
thương mại.
Căn cứ chung để áp dụng chế tài trong thương mại hiểu theo nghĩa hẹp bao gồm:

2 TS Nguyễn Thế Thuấn và TS Trần Hậu Thành, 100 câu hỏi liên quan đến hợp đồng, NXB Đà Nẵng,
năm 2006.

15


Thứ nhất, có hành vi vi phạm: Bao gồm các hành vi thực hiện không đúng hoặc
không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng. Đây là căn cứ cần được đưa ra chứng minh
trong việc áp dụng đối với tất cả các hình thức chế tài.
Thứ hai, có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra: Căn cứ này bắt buộc phải được viện
dẫn khi áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại.
Thứ ba, phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt
hại thực tế.
Nếu như trước đây, “lỗi” là căn cứ để áp dụng chế tài thì hiện nay căn cứ “lỗi”
không được đưa ra trong pháp luật thương mại khi áp dụng chế tài phạt vi phạm. Thay
vào đó, theo nguyên tắc của pháp luật thương mại hiện hành, yếu tố “lỗi” được tiếp
cận dưới khía cạnh là “lỗi suy đoán” khi có hành vi vi phạm hợp đồng xảy ra. Điều
này có nghĩa là, khi có hành vi vi phạm hợp đồng thì mặc nhiên bị coi là có lỗi mà
không cần phải chứng minh yếu tố “lỗi” như trước đây nữa.
Tùy từng trường hợp, mức độ vi phạm khác nhau mà các chủ thể có thể phải chịu
những loại chế tài khác nhau quy định tại Luật thương mại 2005, bao gồm các chế tài
sau: Buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, buộc bồi thường thiệt hại, tạm
ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, huỷ bỏ hợp đồng, và các biện
pháp khác do các bên thoả thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt

Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập
quán thương mại quốc tế.3
Như vậy, trong quan hệ thương mại, giữa các chủ thể khi giao kết hợp đồng có
thể thỏa thuận về các chế tài xử lý vi phạm trong bản hợp đồng ký kết giữa các bên.
Khi một trong các bên vi phạm có thể sẽ phải chịu các hình thức chế tài nêu trên trừ
trường hợp được miễn trách nhiệm theo quy định. Nếu các bên không tự nguyện thực
hiện có thể yêu cầu Tòa án hoặc trong trường hợp có thỏa thuận trọng tài thì sẽ đề nghị
cơ quan Trọng tài giải quyết.
1.1.2.2. Chế tài phạt vi phạm
Phạt vi phạm là một trong các chế tài xử lý vi phạm trong thương mại. Chế tài
phạt vi phạm được xem là chế tài tiền tệ, được các bên giao kết hợp đồng áp dụng một
cách phổ biến đối với tất cả các hành vi vi phạm các điều khoản của hợp đồng. Chức
năng chủ yếu mà các bên hướng đến khi áp dụng chế tài phạt vi phạm là nhằm trừng
phạt, tác động vào ý thức của các chủ thể khi tham gia quan hệ hợp đồng để từ đó giáo
3 Điều 292 Luật thương mại 2005

16


dục, ngăn ngừa hành vi vi phạm hợp đồng, đề cao ý thức tôn trọng pháp luật nói chung
và pháp luât hợp đồng thương mại nói riêng.
Khái niệm “Phạt vi phạm” được Bộ luật dân sự 2005 và Luật thương mại 2005
quy định như sau: Khoản 1, Điều 422 Bộ luật dân sự 2005 quy định, “Phạt vi phạm là
sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp
một khoản tiền cho bên bị vi phạm”. Điều 300 Luật thương mại 2005 nêu định nghĩa:
“Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do
vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận”. Từ hai khái niệm này, có thể
nhận thấy điểm không thống nhất của hai nguồn văn bản pháp luật khi quy định về
khái niệm phạt vi phạm. Rõ ràng, theo Bộ luật dân sự 2005, phạt vi phạm được đề cập
đến khi các bên có “sự thỏa thuận”. Trong khi Luật thương mại 2005 lại nêu rõ, phạt

vi phạm được đề cập đến khi “bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền
do vi phạm hợp đồng”. Vậy khi hai bên tham gia ký kết hợp đồng, có thỏa thuận về
điều khoản phạt vi phạm trong hợp đồng, thì giai đoạn thỏa thuận mức phạt vi phạm
này gọi là gì? Phải chăng đó là giai đoạn thỏa thuận phạt vi phạm?
Từ hai khái niệm trên, có thể đưa ra định nghĩa cụ thể về chế tài phạt vi phạm
như sau: Chế tài phạt vi phạm trong thương mại là một loại chế tài gây bất lợi cho
người có hành vi vi phạm, được các bên thỏa thuận một cách cụ thể trong hợp đồng
thương mại về một mức phạt nhất định khi có hành vi vi phạm mà ở đó các bên dù có
lỗi hay không có lỗi vẫn phải chịu hậu quả bất lợi này.4
Cũng như các loại chế tài khác, chế tài phạt vi phạm là một trong những quy định
ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện hợp đồng thương mại, bởi thông qua đó, chúng
ta có thể điều tiết hành vi của các thương nhân trong quá trình thực hiện hợp đồng, tạo
ra sự ổn định tương đối cho sự phát triển của nền kinh tế.5 Có thể kể đến một số vai trò
chủ yếu của chế tài phạt vi phạm trong thương mại như sau:
Thứ nhất, nâng cao ý thức kỉ luật trong việc thực hiện hợp đồng trong thương
mại, phòng ngừa vi phạm hợp đồng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên trong hợp đồng:
Rõ ràng, chế định hợp đồng luôn đề cao quyền tự do thỏa thuận giữa các bên,
pháp luật tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng cho quá trình thỏa thuận và cam kết
thực hiện các thỏa thuận đó diễn ra một cách công bằng và bình đẳng. Sự ràng buộc
4 Lê Trung Thảo, Tài liệu nghiên cứu pháp luật về thương mại, NXB Thời đại, năm 2009, trang 278 - 302
5 TS Nguyễn Thị Tình, Th.S Đỗ Phương Thảo, Hoàn thiện các quy định về chế tài trong thương mại theo
Luật thương mại năm 2005, năm 2013.

17


trong thỏa thuận giữa các bên được thể hiện ngay trong chính hợp đồng mà các bên đã
ký kết. Do đó, khi không thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng, bên bị vi
phạm có quyền tự bảo vệ quyền lợi của mình bằng cách áp dụng các chế tài hợp đồng

để buộc bên vi phạm phải chịu các hậu quả bất lợi do hành vi vi phạm của mình gây
ra. Qua đó, chế tài phạt vi phạm cũng thể hiện được vai trò củng cố ý thức trong việc
thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng. Chế tài phạt vi phạm cho các bên phải thấy
trước được khoản giá trị vi phạm mà mình phải trả cho bên bị vi phạm, từ đó có một
hướng nhìn trước về tương lai của việc thực hiện hợp đồng, việc thực hiện các cam kết
đảm bảo cho hợp đồng được thực hiện theo đúng những gì các bên đã thỏa thuận, nâng
cao ý thức, tính trách nhiệm trong quá trình giao kết hợp đồng. Chế tài phạt vi phạm
bảo vệ quyền lợi của bên bị vi phạm thông qua việc bên bị vi phạm có thể tự mình
hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng chế tài phạt vi phạm đối với
hành vi vi phạm. Bên cạnh đó, chế tài phạt vi phạm cũng bảo vệ quyền lợi của bên vi
phạm, việc quy định rõ về căn cứ, thủ tục áp dụng, mức phạt vi phạm,… sẽ đảm bảo
bên vi phạm chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi mà hành vi của mình gây ra và
những thỏa thuận trong hợp đồng về phạt vi phạm.
Thứ hai, phạt vi phạm trong thương mại được xem là một hình thức trách nhiệm
do vi phạm hợp đồng.
Bản chất của việc trả tiền phạt vi phạm trong thương mại chính là sự đền bù về
vật chất cho bên bị vi phạm. Xét trên khía cạnh của việc thực hiện hợp đồng, chế tài
phạt vi phạm giống như một hình thức trách nhiệm có chức năng đền bù hơn là trừng
phạt. Cách nhìn nhận này được Tiễn sỹ Dương Anh Sơn và Lê Thị Bích Thọ nêu ra
trong bài viết “Một số ý kiến về phạt vi phạm hợp đồng theo quy định của pháp luật
Việt Nam’, Tạp chí Khoa học pháp lý số 01/2005. Tác giả cũng bình luận thêm, pháp
luật của nhiều nước trên thế giới cũng không coi tính trừng phạt là chức năng của phạt
vi phạm. Cách nhìn nhận này trong pháp luật của các nước rõ ràng phù hợp với thực
tiễn lưu thông dân sự và thương mại. Trong thực tiễn có những trường hợp mặc dù có
hành vi vi phạm hợp đồng nhưng thiệt hại không xảy ra, nếu bên bị vi phạm trong
trường hợp đó yêu cầu bên vi phạm trả tiền phạt đã thoả thuận trước thì rõ ràng họ đã
vi phạm nguyên tắc thiện chí, trung thực trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng và tất
nhiên toà án sẽ không ra phán quyết thoả mãn yêu cầu của họ. Bởi vì trong mọi trường
hợp toà án có nghĩa vụ phải ra phán quyết không những đúng pháp luật mà còn phải
công bằng.


18


Thứ ba, phạt vi phạm trong thương mại nhằm chi trả một khoản tiền cho bên bị
vi phạm theo mức định trước.
Rõ ràng, chức năng này của chế tài phạt vi phạm thể hiện rõ vai trò trong việc
ngăn chăn bên bị vi phạm lợi dụng việc vi phạm của bên kia mà tăng mức phạt vi
phạm đã thỏa thuận trước đó. Điều này tạo nên một khung pháp lý vững chắc cho các
bên khi xảy ra tranh chấp. Nếu có vi phạm xảy ra, bên bị vi phạm không được phép
đòi mức phạt vi phạm cao hơn mức mà hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng từ trước.
1.2.

Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh về chế tài phạt vi phạm trong
thương mại
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh về chế tài phạt vi phạm trong thương mại
Kể từ ngày Việt Nam bắt đầu bước vào công cuộc xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc đổi mới cơ chế quản lý nền kinh tế đã làm
thay đổi cơ bản tính chất của các quan hệ kinh doanh. Để đáp ứng như cầu của cơ chế
quản lý nền kinh tế mới, Nhà nước đã ban hành một loạt các văn bản quy phạm pháp
luật về kinh tế mới để thay thế những văn bản quy phạm được ban hành trước đây. Các
vấn đề về hợp đồng trong kinh doanh được điều chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp
luật: Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, Bộ luật dân sự năm 1995 và Luật thương
mại năm 1997. Tuy nhiên, trải qua một thời gian áp dụng, các quy định trong ba văn
bản quy phạm pháp luật này cho thấy có nhiều điểm chưa thống nhất và còn nhiều bất
cập. Điều đó dẫn tới những khó khăn trong việc áp dụng trên thực tiễn.
Cho đến nay, với sự phát triển của nền kinh tế cùng xu hướng hội nhập kinh tế
quốc tế, Đảng và Nhà nước đang cố gắng để tạo nên một hành lang pháp lý ổn đinh,
thông thoáng nhằm đáp ứng nhu càu hoạt động trong một môi trường cạnh tranh tự do,
công bằng, bình đẳng giữa các doanh nghiệp và chủ thể khác trong nền kinh tế. Chính

vì thế, ngày 14 tháng 6 năm 2005, Quốc hội đã thông qua Bộ luật dân sự mới 2005 và
cho thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2006 trên cơ sở kế thừa truyền thống của pháp
luật dân sự Việt Nam, phát huy thành tựu của Bộ luật dân sự năm 1995 và kinh nghiệm
gần 20 năm đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế. Sau hơn 10 năm thi hành, Bộ luật dân sự cơ bản đã có tác động tích
cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như đối với việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự
do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm của chủ thể trong các lĩnh vực dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động … 6. Luật thương mại 2005
6 Tờ trình Về dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi) của Chính phủ Số 390/TTr – CP ngày 12/10/2014

19


cũng được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 01 năm 2006.
Đây là nguồn luật chính điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh
thương mại. Bên trong đó cũng chứa các quy định của pháp luật về chế tài trong
thương mại nói chung và chế tài phạt vi phạm nói riêng.
Nhìn chung, các quy định về các hình thức chế tài trong thương mại luôn được
các nước trên thế giới hướng tới ban hành trong các văn bản quy phạm pháp luật quan
trọng của quốc gia nhằm điều tiết, ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm hợp đồng. Về
cơ bản, Luật thương mại Việt Nam 2005 đã và đang đáp ứng được yêu cầu khi các
quan hệ thương mại luôn vận động và biến đổi không ngừng, đặc biệt trong bối cảnh
hội nhập kinh tế và Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO.
Pháp luật về chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại nói chung và pháp luật về chế
tài phạt vi phạm nói riêng đã đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hợp đồng cũng như đảm bảo sự vận hành và
phát triển có định hướng của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, trong thực tiễn vẫn còn
nhiều bất cập nên cần được nghiên cứu toàn diện và sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh về chế tài phạt vi phạm trong thương mại

1.2.2.1. Đối tượng áp dụng và phạm vi điều chỉnh của chế tài phạt vi phạm trong thương mại
Chế tài phạt vi phạm được quy định cả trong Bộ luật dân sự 2005 và Luật thương
mại 2005. Quy định về phạt vi phạm tại Bộ luật dân sự 7 được áp dụng cho các giao
dịch dân sự giữa cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác (có thể có hoặc không có tư
cách pháp nhân) có thể có hoặc không nhằm mục đích kinh doanh 8. Quy định về phạt
vi phạm tại Luật thương mại chủ yếu được áp dụng cho đối tượng là thương nhân và
giao kết hợp đồng nhằm mục đích kinh doanh, sinh lợi, điều này được Luật thương
mại quy định cụ thể tại Điều 2 về Đối tượng áp dụng. Thương nhân ở đây bao gồm tổ
chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc
lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh 9. Hoạt động thương mại một cách độc lập
có thể được hiểu là hoạt động của chủ thể nhân danh mình, vì lợi ích của bản thân,
không bị ràng buộc, không bị chi phối bởi ý chí của các chủ thể khác mà được hoạch
định bởi chính ý chí của chủ thể đó. Chủ thể hoạt động thương mại một cách độc lập
được toàn quyền quyết định nội dung hoạt động cũng như chịu trách nhiệm trực tiếp
về hành vi của mình.
7 Điều 422, Bộ luật dân sự 2005
8 Căn cứ Điều 1. Nhiệm vụ và phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân sự - Bộ luật dân sự 2005
9 Khoản 1, Điều 6, Luật thương mại 2005

20


Bộ luật dân sự ra đời đã làm cho các vấn đề dân sự, kinh tế, thương mại không
còn là các lĩnh vực tách rời độc lập với nhau nữa. Khái niệm quan hệ dân sự quy định
tại Điều 1 Bộ luật dân sự 2005 lúc này bao hàm cả các quan hệ kinh doanh thương
mại. Bên cạnh đó, những hoạt động thương mại không được quy định trong Luật
thương mại và trong các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự 10. Điều này
đã thiết lập nên quan hệ luật chung và luật riêng giữa hai nguồn luật với nguyên tắc,
nếu luật riêng quy định thì không áp dụng quy tắc của luật chung. Mối quan hệ này
một mặt cho phép Luật thương mại lược bỏ (không quy định) những vấn đề không cần

quy định khác đi so với Bộ luật dân sự 2005. Do đó, tìm hiểu về các quy phạm pháp
luật điều chỉnh về chế tài phạt vi phạm trong thương mại, bài khóa luận chỉ đi sâu
phân tích các quy định trong Luật thương mại 2005, đồng thời so sánh đối chiếu với
các quy định tại Bộ luật dân sự 2005 để thấy sự khác biệt trong việc quy định các vấn
đề liên quan trong hai nguồn luật nhằm làm rõ vấn đề cần nghiên cứu.
1.2.2.2.

Căn cứ áp dụng chế tài phạt vi phạm trong thương mại
Chế tài phạt vi phạm là một chế định quan trọng để bảo vệ các bên trong quan hệ
thương mại, là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi
phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận. Mặc dù pháp luật thương mại chưa
có quy định cụ thể nào chỉ ra các căn cứ để áp dụng chế tài phạt vi phạm trong thương
mại, tuy nhiên từ quy định tại Điều 300 Luật thương mại 2005, có thể hiểu hành vi vi
phạm hợp đồng thương mại và sự thỏa thuận của các bên chủ thể trong hợp đồng chính
là hai căn cứ để áp dụng chế tài này. Việc làm rõ các căn cứ để áp dụng các loại chế tài
trong thương mại nói chung và chế tài phạt vi phạm nói riêng là vấn đề pháp lý quan
trọng trong việc xác định điều kiện để các bên trong quan hệ hợp đồng cũng như cơ
quan giải quyết tranh chấp có thể áp dụng các chế tài xử lý hành vi vi phạm.
Pháp luật thương mại được ban hành với mục đích tạo dựng hành lang pháp lý an
toàn, lành mạnh cho các bên tham gia quan hệ thương mại mà điển hình là quan hệ
hợp đồng. Các quy định về chế tài trong đó có chế tài phạt vi phạm cũng được ban
hành nhằm mục đích chung đó. Theo đó, các căn cứ để áp dụng chế tài sẽ cung cấp cơ
sở pháp lý quan trọng trong việc xác định điều kiện áp dụng chế tài để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên để chế tài phạt vi phạm
trong thương mại có thể phát huy được hết vai trò trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên thì trong hợp đồng, khi tiến hành thỏa thuận soạn thảo các điều
khoản, các bên cần có quy định về các trường hợp phạt vi phạm cũng như điều kiện
10 Khoản 3, Điều 4, Luật thương mại 2005

21



phạt vi phạm một cách chi tiết và cụ thể nhất. Để khi có vi phạm xảy ra, các bên không
phải lúng túng, đồng nhất trong việc xác định tính đúng sai của sự việc nhằm hạn chế
các tranh chấp không đáng có xảy ra gây tổn hại cho các bên trong hợp đồng, ảnh
hưởng đến quan hệ làm ăn với đối tác khách hàng.
1.2.2.3.

Mức phạt vi phạm
Hợp đồng là quan hệ mang lại quyền và lợi ích cho các bên, thỏa mãn cho ý chí
và nguyện vọng mà các bên hướng tới. Tuy nhiên, quan hệ hợp đồng hiện nay luôn
tiềm ẩn những rủi ro, những cố ý vi phạm của đối tác có thể gây ra những thiệt hại rất
lớn cho bên kia. Việc giới hạn mức phạt vi phạm đối với chế tài phạt vi phạm thực sự
cần thiết trong việc bảo vệ một cách tốt nhất lợi ích chính đáng của các bên trong quan
hệ hợp đồng.
Mức phạt vi phạm theo pháp luật thương mại hiện hành được quy định tại Điều
301 Luật thương mại 2005. Theo đó các bên có quyền thỏa thuận về mức phạt vi phạm
trong hợp đồng nhưng không được quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm.
Vấn đề phạt vi phạm và thỏa thuận phạt vi phạm luôn gắn liền với quyền và lợi ích của
các bên trong mọi hợp đồng. Phạt vi phạm trong hợp đồng thể hiện niềm tin pháp lý
cho các bên, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, góp phần xây dựng mối quan hệ
với đối tác được lâu dài, bền vững và cùng có lợi. Câu chuyện về mức phạt vi phạm
các bên thỏa thuận trên thực tế còn có nhiều điều khác biệt so với quy định của pháp
luật, tuy nhiên nó không nằm ngoài khuôn khổ quy định của pháp luật. Trong nhiều
trường hợp các bên vẫn chẳng quan tâm đến hậu quả hay bất lợi có thể gặp phải trong
quá trình thực hiện hợp đồng mà thỏa thuận một cách tùy tiện trong hợp đồng về mức
phạt vi phạm. Do đó, việc giới hạn mức phạt vi phạm trong hợp đồng thương mại sẽ
thực sự cần thiết để điều tiết các hành vi thương mại cũng như bảo vệ một cách tốt
nhất quyền lợi chính đáng của các bên trong quan hệ hợp đồng, tránh tình trạng lợi
dụng để cố tình vi phạm nhằm thu lợi bất chính. Ngoài ra, đây cũng là căn cứ để cơ

quan xét xử áp dụng mức phạt vi phạm vừa đúng pháp luật vừa đảm bảo tính công
bằng bình đẳng cho các bên. Trong thực tiễn xét xử Tòa án thường áp dụng mức phạt
vi phạm tối đa là 8% nếu trong hợp đồng các bên thỏa thuận mức phạt vi phạm vượt
quá 8%.

1.2.2.4.

Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với chế tài phạt vi phạm trong thương mại
Trong quá trình thực hiện hợp đồng thương mại, nhằm ngăn chặn, xử lý các hành
vi vi phạm hợp đồng, hệ thống pháp luật các quốc gia và quốc tế đều có quy định các
22


hình thức chế tài trong thương mại, trong đó có chế tài phạt vi phạm, mỗi hình thức
chế tài mang lại những hậu quả bất lợi khác nhau đối với bên vi phạm hợp đồng. Cùng
với các chế tài, pháp luật cũng quy định một số trường hợp, theo đó bên vi phạm
không phải gánh chịu những hậu quả bất lợi do bị áp dụng các hình thức chế tài
thương mại, đó là các trường hợp miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Quy định
này của pháp luật thương mại nhằm dự liệu trước những sự cố nằm ngoài dự đoán có
thể xảy ra khiến cho một hoặc cả hai bên trong quan hệ hợp đồng thương mại không
thể thực hiện được nghĩa vụ của mình dẫn đến việc vi phạm hợp đồng.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, các trường hợp miễn trách nhiệm này được
quy định tại Điều 294 Luật thương mại 2005. Điều 300 Luật thương mại 2005 về phạt
vi phạm cũng đã loại trừ áp dụng chế tài phạt vi phạm đối với các trường hợp miễn
trách nhiệm quy định tại Điều 294. Theo đó, chế tài phạt vi phạm trong thương mại sẽ
được miễn trách nhiệm cho bên vi phạm nếu rơi vào một trong các trường hợp sau:






Xảy ra các trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên thỏa thuận
Xảy ra sự kiện bất khả kháng
Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia
Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết
hợp đồng.

Bản chất của các trường hợp miễn trừ trách nhiệm đối với chế tài trong thương
mại là việc bên chủ thể vi phạm nghĩa vụ đáng lẽ phải gánh chịu toàn bộ và đầy đủ
trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng như chịu các chế tài xử lý vi phạm khác, trong
đó có chế tài phạt vi phạm, tuy nhiên, vì hành vi vi phạm xảy ra trong những điều kiện,
hoàn cảnh nhất định mà bên vi phạm nghĩa vụ được miễn trừ toàn bộ hoặc một phần
trách nhiệm cũng như các chế tài. Đây là một trong những vấn đề có ý nghĩa quan
trọng của pháp luật thương mại, không chỉ bảo đảm quyền lợi của các bên giao kết hợp
đồng, bảo đảm sự tự nguyện thỏa thuận của các bên mà còn là yếu tố hạn chế việc một
bên lợi dụng quy định về miễn trừ trách nhiệm để trốn tránh các chế tài xử lý vi phạm.

CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ CHẾ TÀI PHẠT VI PHẠM
TRONG THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI
CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI VÀ SẢN XUẤT NAM PHÁT
23


Pháp luật nói chung, pháp luật thương mại nói riêng là một trong những yếu tố
của kiến trúc thượng tầng xã hội có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình hình thành, tồn tại
và phát triển của các doanh nghiệp. Pháp luật thương mại, trong đó có pháp luật về các
chế tài trong thương mại đã tạo cho các doanh nghiệp một môi trường kinh doanh tự
do, an toàn, lành mạnh; là công cụ để các doanh nghiệp bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của chính mình, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật thương mại. Tuy
nhiên, thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật về chế tài, đặc biệt là chế tài phạt vi
phạm ở nước ta cho thấy còn tồn tại nhiều bất cập, đòi hỏi các nhà làm luật cần tiếp
tục sửa đổi bổ sung để bắt kịp với thực tiễn xã hội và xu hướng phát triển kinh tế đất
nước, đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Chương 2 của bài khóa luận tốt
nghiệp với đề tài “Pháp luật về chế tài phạt vi phạm trong thương mại và thực tiễn
thực hiện tại Công ty TNHH thương mại và sản xuất Nam Phát” sẽ tập trung vào việc
phân tích nhằm chỉ ra những điểm bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành
về chế tài phạt vi phạm và thực trạng áp dụng chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng
thương mại nói chung cũng như thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH thương mại và
sản xuất Nam Phát.
2.1.

Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật điều chỉnh về chế
tài phạt vi phạm trong thương mại
2.1.1. Tổng quan tình hình
Luật thương mại 2005 được Quốc hội Việt Nam thông qua vào ngày 14 tháng 6
năm 2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2006. Với những nội dung
tiến bộ, trong đó có các quy định về chế tài trong thương mại nói chung và chế tài phạt
vi phạm nói riêng, Luật thương mại 2005 đã có những tác động tích cực đến đời sống
kinh tế - xã hội của Việt Nam, từng bước đưa hoạt động thương mại ngày càng phát
triển lên tầm cao mới, khuyến khích và phát triển hoạt động thương mại hợp pháp,
ngăn chặn, xử lý các hành vi bất hợp pháp gây ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh
doanh và tạo cơ sở pháp lý phù hợp để Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế.
Chế tài phạt vi phạm đã được quy định trong các văn bản pháp luật như Luật
thương mại 1997, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989, Bộ luật Dân sự 2005… Và với sự
ra đời của chế tài phạt vi phạm được quy định trong Luật thương mại 2005 thì phạt vi
phạm thực sự trở thành một chế định quan trọng để bảo vệ các bên trong quan hệ
thương mại. Hiện nay, chế định này ngày càng được các bên sử dụng nhiều hơn như
một biện pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi của mình trong các quan hệ hợp đồng hợp

tác kinh tế. Tuy nhiên quy định của pháp luật về chế tài này còn chưa chi tiết, chưa có
những văn bản dưới luật hướng dẫn cụ thể để thuận tiện cho các bên trong việc áp
24


dụng, chế tài phạt vi phạm còn tồn tại một số điểm chưa hợp lý, còn những vướng mắc
khi thực hiện trên thực tiễn, khi giải quyết tranh chấp. Luật thương mại 2005 chưa có
đầy đủ các quy định để làm rõ nội dung này, hiện tại chỉ có ba điều khoản trong Luật
thương mại 2005 quy định và có nội dung liên quan đến chế tài phạt vi phạm trong
hợp đồng, đó là các Điều 266, Điều 300 và Điều 301. Có thể thấy chỉ với ba điều
khoản trong Luật thương mại hiện hành chưa thể nào quy định được cụ thể và đưa ra
được căn cứ đầy đủ cho việc áp dụng chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng thương mại.
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng
2.1.2.1.Sự phát triển kinh tế - xã hội và quá trình hội nhập kinh tế
Luật thương mại 2005 ra đời trong bối cảnh Việt Nam hoàn thành 20 năm thực
hiện công cuộc đổi mới, đã và đang đạt được nhiều thành tựu kinh tế quan trong, từng
bước hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới, hướng tới gia nhập Tổ chức thương mại
thế giới (WTO). Những thành công của công cuộc đổi mới đã thực sự làm thay đổi bộ
mặt kinh tế đất nước, tạo nhiều tiền đề vật chất để tiếp tục tăng cường đổi mới theo
hướng hội nhập kinh tế quốc tế. Một nền kinh tế phát triển đòi hỏi hệ thống pháp luật
phải có sự thay đổi sao cho phù hợp với tình hình phát triển để có thể đủ sức điều
chỉnh các mối quan hệ thương mại phát sinh trong quan hệ hợp tác kinh tế giữa các
chủ thể trong nên kinh tế cũng như với các nước trong khu vực và thế giới. Luật
thương mại 2005 ra đời như một đòi hỏi cấp thiết bởi lẽ Luật thương mại 1997 bị các
nước phê phán là có phạm vi điều chỉnh quá hẹp, có nhiều quy định không phù hợp
với luật của WTO.
Sự phát triển kinh tế - xã hội, cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã dẫn
đến sự ra đời của Luật thương mại 2005 như một tất yếu để đáp ứng yêu cầu hội nhập
và quá trình thực hiện các cam kết quốc tế. Trong bối cảnh hoạt động thương mại diễn
ra một cách thường xuyên và ngày càng phức tạp, các chế tài trong thương mại trong

đó có chế tài phạt vi phạm được quy định trong Luật thương mại 2005 lại càng cho
thấy được vai trò của mình trong việc đảm bảo tính công bằng, bình đẳng cho các giao
dịch thương mại giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Chế tài phạt vi phạm ngày càng
được quan tâm và được các bên thỏa thuận áp dùng nhiều trong hợp đồng thương mại
để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong hợp đồng.
2.1.2.2.Nhận thức của các chủ thể, đặc biệt là thương nhân
Kinh tế - xã hội phát triển, các giao dịch thương mại không ngừng tăng và có
nhiều vấn đề phát sinh, các thương nhân cũng ngày càng “khôn khéo” hơn trong việc
ký kết các điều khoản trong hợp đồng thương mại. Bên cạnh vấn đề lợi nhuận khi
tham gia giao kết các hợp đồng thương mại, những rủi ro luôn là bài toán mà các chủ
25


×