Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp tại agribank chi nhánh ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.32 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
*************
Nguyễn Trung Thành

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP

TẠI AGRIBANK - CHI NHÁNH NINH BÌNH

Chuyên ngành: Kinh tế tài chính ngân hàng

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS Vũ Duy Hào

Ninh Bình, năm 2012


2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Hiện nay, đất nước ta đang trong quá trình hội nhập WTO, nền
kinh tế đang trên đà phát triển mạnh mẽ nhiều mặt, vì vậy hệ thống
ngân hàng thương mại (NHTM) cũng phải có những bước phát triển
vượt bậc, lớn mạnh về mọi mặt, kể cả số lượng, qui mô, nội dung và
chất lượng để có những đóng góp xứng đáng vào công cuộc công
nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế nói chung và quá trình đổi mới,
phát triển của các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp và dân doanh
nói riêng. Mặt khác đứng trước những ảnh hưởng tiêu cực từ cuộc


khủng hoảng kinh tế thế giới, Chính phủ nước ta đã thực hiện chính
sách tiền tệ thắt chặt, ngân hàng càng là ngành tiên phong, là công cụ
đắc lực hỗ trợ cho nhà nước trong việc kiềm chế, đẩy lùi lạm phát, ổn
định giá cả, phát triển kinh tế, tạo tiền đề quan trọng để nước ta vượt
qua khó khăn, giúp nền kinh tế tăng trưởng ổn định.
Hoạt động tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu của hệ thống NHTM ở
nước ta, nó mang lại 80 - 90% thu nhập của mỗi ngân hàng, song rủi
ro của nó cũng rất lớn, rủi ro tín dụng cao quá mức sẽ huỷ hoại giá trị
của ngân hàng và có thể dẫn đến phá sản. Do đó, đứng trước những
thời cơ của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, những ảnh hưởng của
khủng hoảng kinh tế thế giới, những thách thức từ cạnh tranh của các
NHTM nước ngoài thì vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng, giảm
thiểu rủi ro đã trở nên cấp thiết đối với hệ thống NHTM.
Agribank Chi nhánh Ninh Bình là một Chi nhánh của Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - ngân hàng lớn nhất


3

Việt Nam cả về vốn, tài sản, đội ngũ cán bộ nhân viên, màng lưới hoạt
động và số lượng khách hàng. Trong hoạt động tín dụng của chi
nhánh, tín dụng doanh nghiệp chiếm một tỷ trọng lớn, các doanh
nghiệp lại là đối tượng chịu ảnh hưởng lớn nhất từ khủng hoảng kinh
tế và chính sách thắt chặt tiền tệ của chính phủ.
Vì vậy đề tài: “Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh
nghiệp tại Agribank - Chi nhánh Ninh Bình” đã được chọn làm lận
văn thạc sĩ để giải quyết vấn đề cấp thiết ở trên.
Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu lý luận về tín dụng và chất lượng tín dụng doanh
nghiệp, thực tiễn về chất lượng tín dụng doanh nghiệp tại Agribank

Chi nhánh Ninh Bình, từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng tín dụng doanh nghiệp tại Agribank Chi nhánh Ninh Bình
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiêm cứu: Chất lượng tín dụng doanh nghiệp tại
Agribank Chi nhánh Ninh Bình.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu đối với doanh nghiệp, trong
phạm vi Agribank Chi nhánh Ninh Bình từ năm 2009 - 2011.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn sử dụng phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy
vật biện chứng, cụ thể: thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh …
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Hệ thống một số vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng tín dụng
doanh nghiệp.
Phân tích thực trạng chất lượng tín dụng doanh nghiệp tại
Agribank Chi nhánh Ninh Bình, chỉ rõ kết quả đạt được, hạn chế và
nguyên nhân những hạn chế đó.
2.


4

Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng doanh
nghiệp tại Agribank Chi nhánh Ninh Bình.
6. Bố cục luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn chia thành 3 chương
chính:
Chương 1: Lý luận chung về chất lượng tín dụng doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng doanh nghiệp tại
Agribank Chi nhánh Ninh Bình.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng doanh

nghiệp tại Agribank Chi nhánh Ninh Bình.

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP CỦA NHTM
1.1. TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP CỦA NHTM.
1.1.1.Khái niệm, đặc điểm và vai trò.
1.1.1.1. Khái niệm:
Như ta đã biết, tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các
NHTM nói riêng và các trung gian tài chính nói chung, nó chiếm tỷ
trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất nhưng
cũng là hoạt động mang lại rủi ro nhiều nhất. Có rất nhiều khái niệm


5

về tín dụng nhưng tập trung lại tín dụng có nghĩa như sau: Tín dụng là
sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị nhất định dưới
hình thức hiện vật hay tiền tệ trong một thời hạn nhất định từ người sở
hữu sang người sử dụng, và khi đến hạn người sử dụng phải hoàn trả
cho người sở hữu với một lượng giá trị lớn hơn.
Khái niệm trên của tín dụng được thể hiện qua sơ đồ:
Sơ đồ tín dụng:

Vốn

Người cho vay

Người đi vay
Vốn + Lãi


Như vậy tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và đi
vay. Vì vậy, khi gắn tín dụng với chủ thể nhất định như ngân hàng thì
tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín
dụng khác với các nhà doanh nghiệp và cá nhân.
Trong nền kinh tế, ngân hàng đóng vai trò là một định chế tài
chính trung gian, vì vậy trong quan hệ tín dụng với các nhà doanh
nghiệp và cá nhân, ngân hàng vừa là người đi vay đồng thời là người
đi vay. Với tư cách là người đi vay, ngân hàng nhận tiền gửi của các
nhà doanh nghiệp và cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái


6

phiếu để huy động vốn trong xã hội. Trái lại với tư cách là người cho
vay, ngân hàng cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và cá nhân.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng
vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với
một khoản chi phí nhất định.
Như vậy tín dụng ngân hàng chứa đựng 3 nội dung:
Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng
sang người sử dụng vốn.
Sự chuyển nhượng này có thời hạn hoặc mang tính tạm
thời: Để đảm bảo đúng thời hạn, tránh rủi ro, ngân hàng thường xác
định rõ thời hạn cấp tín dụng.
Sự chuyển nhượng này kèm theo chi phí: tín dụng ngân
hàng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị trên nguyên tắc
phải hoàn trả gốc và lãi, đây là thuộc tính riêng của tín dụng. Vì vốn
cho vay của ngân hàng là vốn huy động của những người tạm thời
thừa vốn nên sau một thời gian nhất định, ngân hàng phải trả lại cho
người gửi tiền. Mặt khác ngân hàng cần phải có nguồn để bù đắp chi

phí hoạt động như: khấu hao tài sản cố định, trả lương cán bộ công
nhân viên... nên người vay vốn ngoài việc trả nợ gốc còn phải trả lãi
cho ngân hàng.
Theo khái niệm của Agribank: Cấp tín dụng là việc Agribank
thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho
phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng các
nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng, mở
L/C và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.


7

Trong khuôn khổ luận văn này, em xin nghiên cứu tín dụng trong
quan hệ ngân hàng là người cấp tín dụng. Và khi khách hàng được cấp
tín dụng là doanh nghiệp thì đó là tín dụng doanh nghiệp.
1.1.1.2. Vai trò:
Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của các
doanh nghiệp là một tất yếu khách quan, đóng vai trò quan trọng đối
với sự phát triển của nền kinh tế, các doanh nghiệp sử dụng một số
lượng lớn vốn tín dụng ngân hàng để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn
cũng như để tối ưu hoá hiệu quả sử dụng vốn của mình. Vốn tín dụng
ngân hàng đầu tư cho các doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng, nó
chẳng những thúc đẩy sự phát triển khu vực kinh tế này mà thông qua
đó tác động trở lại thúc đẩy hệ thống ngân hàng, đổi mới chính sách
tiền tệ hoàn thiện các cơ chế chính sách về tín dụng, thanh toán ngoại
hối… Để thấy được tầm quan trọng của tín dụng ngân hàng trong việc
phát triển doanh nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế nói chung, ta xét
một số vai trò sau:
- Đáp ứng nhu cầu vốn để doanh nghiệp duy trì quá trình sản
xuất kinh doanh liên tục đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế:

Trên thực tế không một doanh nghiệp nào có thể đảm bảo đủ
100% vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Thừa thiếu vốn tạm thời
thường xuyên xảy ra ở các doanh nghiệp, việc phân phối tín dụng đã
góp phần điều hòa vốn trong toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện cho quá
trình sản xuất được liên tục.
Ngoài ra tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, nó là
động lực kích thích tiết kiệm đồng thời là phương tiện đáp ứng nhu
cầu vốn cho quá trình đầu tư phát triển kinh tế. Trong nền kinh tế sản


8

xuất hàng hóa, tín dụng là một trong những nguồn hình thành vốn lưu
động và vốn cố định cho doanh nghiệp, vì vậy tín dụng động viên hàng
hóa đi vào sản xuất, thúc đẩy ứng dụng khoa học, kỹ thuật tiến bộ vào
trong quá trình sản xuất.
Riêng trong điều kiện nước ta hiện nay, cơ cấu kinh tế còn nhiều
mặt mất cân đối, lạm phát và thất nghiệp vẫn đang ở mức cao, tiềm ẩn
nhiều yếu tố bất lợi, hoạt động đầu tư tín dụng sẽ góp phần sắp xếp và
tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Mặt khác thông
qua hoạt động tín dụng mà các doanh nghiệp sử dụng nguồn lao động
và nguyên liệu hợp lý thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, đồng thời
giải quyết các vấn đề xã hội.
- Góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng cường chế độ
hạch toán kinh tế của các doanh nghiệp:
Đặc trưng cơ bản của tín dụng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả
và có lợi tức. Nhờ vậy mà hoạt động tín dụng đã kích thích sử dụng
vốn và sử dụng có hiệu quả.
Khi sử dụng vốn vay ngân hàng doanh nghiệp phải tôn trọng hợp
đồng tín dụng, tức phải là hoàn trả nợ vay đúng hạn và tôn trọng các

điều kiện khác đã ghi trong hợp đồng tín dụng, bằng các tác động như
vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải có phương án sản xuất kinh doanh khả
thi, sử dụng vốn đúng mục đích, quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng vòng quay của vốn tạo điều
kiện nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho
doanh nghiệp: Trong nền kinh tế thị trường hiếm doanh nghiệp nào
dùng vốn tự có để sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn vay chính là công


9

cụ đòn bẩy để doanh nghiệp tối ưu hoá hiệu quả sử dụng vốn. Đối với
các doanh nghiệp do hạn chế về vốn nên việc sử dụng vốn tự có để sản
xuất là rất khó khăn, nếu chỉ sử dụng vốn tự có thì giá vốn sẽ cao và
sản phẩm khó được thị trường chấp nhận. Để nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh thì doanh nghiệp phải có một cơ cấu vốn tối ưu, kết
hợp giữa nguồn vốn tự có và vốn vay nhằm tối đa hoá lợi nhuận tại
mức giá vốn bình quân rẻ nhất.
- Tín dụng ngân hàng góp phần tập trung vốn sản xuất, nâng cao
khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp: Cạnh tranh là một quy luật
tất yếu của nền kinh tế thị trường, muốn tồn tại và đứng vững thì đòi
hỏi các doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh. Xu hướng
hiện nay của các doanh nghiệp là tăng cường liên doanh, liên kết, tập
trung vốn đầu tư và mở rộng sản xuất, trang bị kỹ thuật hiện đại để
tăng sức cạnh tranh. Tuy nhiên để có một lượng vốn đủ lớn đầu tư cho
sự phát triển trong khi vốn tự có lại hạn hẹp, khả năng tích luỹ thấp thì
phải mất nhiều năm mới thực hiện được. Và khi đó cơ hội đầu tư phát
triển không còn nữa. Như vậy có thể đáp ứng kịp thời nhu cầu trên,
các doanh nghiệp chỉ có thể tìm đến tín dụng ngân hàng. Chỉ có tín

dụng ngân hàng mới có thể giúp doanh nghiệp thưc hiện được mục
đích của mình là mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh.
- Tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế với các doanh
nghiệp nước ngoài:
Trong nền kinh tế toàn cầu ngày nay, sau khi nước ta đã gia nhập
WTO, phát triển nền kinh tế trong nước phải gắn liền với mở rộng ra
thị trường thế giới, nền kinh tế “đóng” đã nhường bước cho nền kinh


10

tế “mở”, tín dụng ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện
nối liền nền kinh tế các nước với nhau.
Đối với các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng,
tín dụng đóng vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu
hàng hóa, đồng thời tranh thủ nguồn tín dụng của các ngân hàng nước
ngoài, các quỹ đầu tư nước ngoài, các tổ chức kinh tế - xã hội nước
ngoài để CNH - HĐH nền kinh tế trong nước.
- Thúc đẩy nền kinh tế phát triển:
Hoạt động của các trung gian tài chính là tập trung vốn tiền tệ
tạm thời nhàn rỗi, mà vốn này nằm phân tán khắp mọi nơi, trong tay
các nhà doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước và cá nhân, trên cơ sở đó
cho vay các đơn vị kinh tế và từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Tín dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển
và ngành mũi nhọn:
Trong điều kiện nước ta hiện nay, nông nghiệp là ngành sản xuất
đáp ứng nhu cầu cần thiết cho xã hội trong quá trình CNH - HĐH và là
ngành chịu ảnh hưởng nhiều nhất. Trong giai đoạn trước mắt Nhà
nước phải tập trung đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn để giải
quyết những nhu cầu tối thiểu của xã hội đồng thời tạo điều kiện để

phát triển các ngành kinh tế khác.
Bên cạnh đó Nhà nước còn tập trung tín dụng để tài trợ cho các
ngành kinh tế mũi nhọn, mà phát triển các ngành này sẽ tạo cơ sở và
lôi cuốn các ngành kinh tế khác phát triển như sản xuất hàng xuất
khẩu, ngành công nghiệp phụ trợ, khai thác dầu khí…
1.1.2.Các hình thức và hoạt động cơ bản.


11

Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản tín dụng theo từng
nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại tín dụng có
cơ sở khoa học là tiền đề để thiết lập các quy trình tín dụng thích hợp
và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Có nhiều cách phân loại
tín dụng khác nhau tùy theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản
lí của ngân hàng. Sau đây là một số cách phân loại:
1.1.2.1. Hình thức tài trợ tín dụng: Theo căn cứ này tín dụng
được chia thành:
- Cho vay: là một hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng giao
cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và
thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc
và lãi.
Cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất trong khoản mục tín dụng. Cho
vay thường được định lượng theo hai chỉ tiêu: Dư nợ cho vay trong kỳ
và dư nợ cuối kỳ. Dư nợ cho vay trong kì là tổng số tiền mà ngân hàng
đã cho vay trong kì, còn dư nợ cuối kì là số tiền mà ngân hàng hiện
đang còn cho vay vào thời điểm cuối kì. Khi lập báo cáo tài chính, cho
vay được ghi dưới hình thức dư Nợ.
- Chiết khấu thương phiếu: là việc ngân hàng ứng trước tiền cho
khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu

nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc
một giấy nợ). Về mặt pháp lí thì ngân hàng không phải đã cho vay đối
với chủ thương phiếu. Đây chỉ là hình thức trao đổi trái quyền. Tuy
nhiên đối với ngân hàng, việc bỏ tiền ra hiện tại để thu về một khoản
lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định trước được coi như là hoạt


12

động tín dụng. Ngân hàng ứng tiền cho người bán nhưng thực chất là
thay thế người mua trả tiền trước cho người bán.
- Bảo lãnh: là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo
lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của
ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam
kết. Mặc dù không phải xuất tiền ra nhưng ngân hàng đã cho khách
hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
- Cho thuê: là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách
hàng thuê theo những thỏa thuận nhất định. Sau thời gian nhất định,
khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng.
- Bao thanh toán: là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín
dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát
sinh từ việc mua, bán hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua
hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
- Các nghiệp vụ cấp tín dụng khác theo quy định của pháp luật.
1.1.2.2. Thời hạn tín dụng: Theo căn cứ này tín dụng được chia
ra làm ba loại:
- Tín dụng ngắn hạn: Loại tín dụng này có thời hạn đến 12 tháng
trở xuống và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của
các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: Theo quy định hiện nay của NHNN Việt

Nam, tín dụng trung hạn có thời hạn từ trên 12 tháng đến 5 năm.
Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài
sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất
kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu
hồi vốn nhanh.


13

- Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Tín
dụng dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu
dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có qui
mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể (ngày, tháng,
năm) và ghi trong hợp đồng tín dụng. tuy nhiên việc xác định thời hạn
trên cũng chỉ có tính chất tương đối vì nhiều khoản cho vay không xác
định trước được chính xác thời hạn. Phân chia tín dụng theo thời gian
có ý nghĩa quan trọng đối với khách hàng vì thời gian liên quan mật
thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn
trả của khách hàng.
1.1.2.3. Dựa vào tài sản đảm bảo: Theo căn cứ này tín dụng
được chia thành:
- Tín dụng có đảm bảo bằng uy tín của chính khách hàng: là loại
tín dụng không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người
thứ ba, mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đây thường là
những khách hàng truyền thống đối với ngân hàng, sản xuất kinh
doanh có lãi, trung thực trong kinh doanh, có tình hình tài chính vững
mạnh, quản trị có hiệu quả, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa hoặc
món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay thì ngân hàng có thể
cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần

một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung. Hoặc là các khoản cho vay theo chỉ
thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu không cần tài sản đảm bảo.
- Tín dụng có đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản: là loại cho
vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải
có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối với khách hàng không có uy tín


14

cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo
đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai,
bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn. Loại tín dụng này
yêu cầu ngân hàng và khách hàng phải kí hợp đồng đảm bảo. Ngân
hàng phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng của tài sản đảm bảo như:
tính pháp lý, quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng bán,
chuyển nhượng, khả năng tài chính của người thứ ba… Đây là hình
thức tín dụng được các ngân hàng áp dụng nhiều nhất để đảm bảo an
toàn tín dụng, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay.
Trong thời gian qua, các NHTM Việt Nam chỉ áp dụng một vài
loại tài sản bảo đảm, trong đó chủ yếu là nhà ở và quyền sử dụng đất.
Vì vậy, đôi lúc diễn đạt về bảo đảm tín dụng người ta thường dùng từ
thế chấp tài sản. Trong nền kinh tế thị trường, tính chất hoạt động của
các doanh nghiệp hết sức đa dạng, do đó để đạt được mục tiêu phát
triển là mở rộng tín dụng gắn với hạn chế rủi ro đòi hỏi ngân hàng phải
sử dụng đồng thời nhiều loại tài sản bảo đảm và hình thức bảo đảm;
vận dụng nó thích ứng với điều kiện của mỗi một khách hàng.
1.1.2.4. Dựa vào rủi ro: Theo căn cứ này tín dụng được chia
thành:
- Nợ tiêu chuẩn (Nhóm 1): Các khoản nợ được tổ chức tín dụng
đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn

- Nợ cần chú ý (Nhóm 2): Các khoản nợ được tổ chức tín dụng
đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu
hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ
- Nợ dưới tiêu chuẩn (Nhóm 3): Các khoản nợ được tổ chức tín
dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn.


15

Các khoản nợ này được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn
thất một phần nợ gốc và lãi.
- Nợ nghi ngờ (Nhóm 4): Các khoản nợ được tổ chức tín dụng
đánh giá là khả năng tổn thất cao.
- Nợ có khả năng mất vốn (Nhóm 5): Các khoản nợ được tổ chức
tín dụng đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Trong đó, nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4, 5. Tỷ lệ
nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ
chức tín dụng.
1.1.2.5. Phân loại khác:
- Theo ngành kinh tế: Công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ …
- Theo đối tượng tín dụng: tài sản lưu động, tài sản cố định
- Theo mục đích: sản xuất, kinh doanh, xây dựng, tiêu dùng…
Các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng, chuyên môn hóa
trong cấp tín dụng của ngân hàng. Với xu hướng ngày càng đa dạng
hóa, các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì
những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế. Ví dụ: Agribank bên cạnh
việc đa dạng hóa các ngành công nghiệp, xây dựng vẫn tập trung tài
trợ cho lĩnh vực truyền thống là nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Cách phân loại trên cho phép ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh lợi gắn
liền với những lĩnh vực tài trợ để có chính sách lãi suất, bảo đảm, hạn

mức và chính sách mở rộng tín dụng phù hợp.
1.2.
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP CỦA
NHTM.
1.2.1.

Quan niệm về chất lượng tín dụng doanh nghiệp và rủi

ro tín dụng


16

1.2.1.1. Chất lượng tín dụng doanh nghiệp.
Chất lượng tín dụng là một trong những biểu hiện của hiệu quả
kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng, nó phản ánh chất lượng của các hoạt
động tín dụng ngân hàng. Đó là khả năng cung ứng tín dụng phù hợp
với yêu cầu phát triển của các mục tiêu kinh tế xã hội và nhu cầu của
khách hàng đảm bảo nguyên tắc hoàn trả nợ vay đúng hạn, mang lại
lợi nhuận cho NHTM từ nguồn tích luỹ do đầu tư tín dụng và do đạt
được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Trên cơ sở đó đảm bảo sự tồn
tại và phát triển bền vững của ngân hàng.
Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể (thể hiện qua
các chỉ tiêu có thể tính toán được như kết quả kinh doanh, nợ quá
hạn…) vừa trừu tượng (thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, tác
động đến nền kinh tế) và khách quan (theo sự thay đổi của môi trường
bên ngoài). Khuynh hướng phát triển của nền kinh tế, sự thay đổi các
yếu tố thị trường, môi trường pháp lý nhìn chung đều ảnh hưởng đến
chất lượng tín dụng. Sau đây là một số quan niệm về chất lượng tín
dụng:

- Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức
độ thích nghi của NHTM với sự thay đổi của môi trường bên ngoài,
thể hiện sức mạnh của một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn
tại, phát triển.
- Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố: thu hút
khách hàng tốt, thủ tục đơn giản, thuận tiện, mức độ an toàn của tín
dụng, chi phí tổng thể về lãi suất, chi phí nghiệp vụ.
- Chất lượng tín dụng không tự nhiên mà có, nó là kết quả của
một quy trình kết hợp hoạt động giữa nhiều con người trong một tổ


17

chức, giữa các tổ chức với nhau vì một mục đích chung. Do đó để đạt
được chất lượng tín dụng tốt cần có sự quản lý khoa học chặt chẽ.
Mặt khác xét từ các giác độ khác nhau, chất lượng tín dụng được
thể hiện cũng khác nhau:
- Chất lượng tín dụng được xét dưới giác độ doanh nghiệp: Do
nhu cầu vốn vay được đáp ứng để doanh nghiệp thực hiện các hoạt
động sản xuất kinh doanh bù đắp được chi phí sản xuất, trả nợ ngân
hàng và có lãi nên chất lượng tín dụng ngân hàng đứng trên góc độ
doanh nghiệp chỉ đơn giản là thoả mãn nhu cầu vay vốn của doanh
nghiệp và làm cho nguồn vốn vay được sử dụng có hiệu quả.
- Xét dưới giác độ ngân hàng: Chất lượng tín dụng thể hiện ở
phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng, thực
lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị
trường, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay đúng hạn và có lãi. Khi
cho vay ngân hàng phải thực hiện theo các văn bản chế độ hiện hành
của pháp luật, của ngành. Xác định đối tượng cho vay và thẩm định kỹ
khách hàng trước khi cho vay, nắm bắt thông tin và hiểu được tình

hình sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính và mục đích sử dụng vốn
vay, cơ sở hoàn trả vốn vay để đảm bảo món vay được hoàn trả cả gốc
và lãi đúng kỳ hạn, hạn chế khả năng rủi ro có thể xảy ra, đây là
nguyên tắc cơ bản nhất đối với ngân hàng.
- Chất lượng tín dụng xét từ giác độ nền kinh tế -xã hội: Tín dụng
ngân hàng trong những năm gần đây phản ánh rõ rệt sự năng động của
nền kinh tế khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tín dụng ngân
hàng phải huy động mức tối đa vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền
kinh tế xã hội để cung ứng cho các doanh nghiệp, hỗ trợ các doanh


18

nghiệp phát triển. Tín dụng đầu tư cho nền kinh tế tạo ra sản phẩm
chất lượng cao, giá thành hạ làm tăng thêm sản phẩm cho xã hội, tạo
thêm việc làm cho người cho người lao động, góp phần tăng trưởng
kinh tế và khai thác mọi khả năng tiềm tàng, tích tụ vốn nhàn rỗi trong
nước, tranh thủ vốn vay nước ngoài có lợi cho kinh tế phát triển.
Chất lượng tín dụng thể hiện ở tính an toàn cao của hệ thống
ngân hàng. Tín dụng ngân hàng đảm bảo được chất lượng thì khả năng
thanh toán chi trả cao, tránh được rủi ro hệ thống. Nâng cao chất lượng
tín dụng làm cho hệ thống ngân hàng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu quản
lý vĩ mô, thúc đẩy nền kinh tế phát triển hoà nhập với thế giới. Như
vậy, chất lượng tín được hình thành và bảo đảm từ hai phía là ngân
hàng và yếu tố bên ngoài. Để tránh rủi ro và thu được lợi nhuận trong
hoạt động tín dụng, không có cách nào khác là ngân hàng phải nâng
cao chất lượng tín dụng của mình.
1.2.1.2. Rủi ro tín dụng.
- Khái niệm: Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất
ngoài dự kiến cho ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn,

không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn cả gốc và lãi.
- Bản chất rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có qui
mô lớn nhất của NHTM – đó là hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một
hoạt động tài trợ cụ thể, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của
người vay sao cho độ an toàn là cao nhất. Và nhìn chung ngân hàng
chỉ quyết định cho vay khi thấy an toàn. Tuy nhiên, không một nhà
kinh doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán chính xác các vấn đề
sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay


19

đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa, nhiều cán bộ tín dụng ngân hàng
không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng một cách chính xác.
Do vậy trên quan điểm quản lí toàn bộ khách hàng, rủi ro tín dụng là
không thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng, rủi
ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế
chứ không thể loại trừ. Do vậy, rủi ro dự kiến luôn được xác định
trước trong chiến lược hoạt động chung của ngân hàng.
- Nguyên nhân của rủi ro tín dụng: Có rất nhiều nguyên nhân gây
ra rủi ro tín dụng :
+ Những nguyên nhân bất khả kháng:
Những nguyên nhân bất khả kháng tác động tới người vay, làm
họ mất khả năng thanh toán cho ngân hàng. Ví dụ như : Thiên tai,
chiến tranh, hoặc những thay đổi tầm vĩ mô (thay đổi chính phủ, chính
sách kinh tế, hàng rào thuế quan...) vượt quá tầm kiểm soát của người
đi vay lẫn người cho vay.
Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục tới
người vay, tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Nhiều người

vay, với bản lĩnh của mình có khả năng dự báo, thích ứng hoặc khắc
phục những khó khăn. Trong những trường hợp khác, người vay có thể
bị tổn thất song vẫn có khả năng trả nợ cho ngân hàng đúng hạn, đủ
gốc và lãi. Tuy nhiên, tác động của những nguyên nhân bất khả kháng
đối với người vay thường rất nặng nề, khiến khả năng trả nợ của họ bị
suy giảm.
+ Nguyên nhân chủ quan thuộc về ngân hàng :
Chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng
hoặc đánh giá không tốt, cố tình làm sai... là một trong những nguyên


20

nhân của rủi ro tín dụng. Nhân viên ngân hàng phải tiếp cận với nhiều
ngành nghề, nhiều vùng, thậm chí nhiều quốc gia. Để cho vay tốt, họ
phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi
trường mà khách hàng sống. Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề
liên quan đến người vay... Như vậy, họ cần phải được đào tạo và tự
đào tạo kĩ lưỡng, liên tục và toàn diện. Khi nhân viên tín dụng cho vay
đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình độ để hiểu kĩ lưỡng, rủi ro tín
dụng luôn rình rập họ. Mặt khác do sống và làm việc trong môi trường
"tiền bạc", nhiều nhân viên ngân hàng đã không tránh khỏi cám dỗ của
đồng tiền. Họ tiếp tay cho khách hàng rút ruột của ngân hàng. Như
vậy, chất lượng nhân viên ngân hàng bao gồm trình độ và đạo đức
nghề nghiệp không đảm bảo là nguyên nhân của rủi ro tín dụng.
+ Nguyên nhân khách quan thuộc về người vay:
Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh
doanh, yếu kém trong quản lí, chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng,
chây ì trong trả nợ ngân hàng… là nguyên nhân gây rủi ro tín dụng.
Rất nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kì vọng thu được lợi

nhuận cao. Để đạt được mục đích của minh, họ sẵn sàng tìm mọi thủ
đoạn ứng phó với ngân hàng như cung cấp thông tin sai, mua chuộc…
Nhiều người vay đã không tính toán kĩ lưỡng hoặc không có khả năng
tính toán kĩ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng
thích ứng và khắc phục khó khăn trong kinh doanh. Trong trường hợp
còn lại, người vay kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân
hàng đúng hạn. Họ chây ỳ với hi vọng có thể quỵt nợ, hoặc có thể sử
dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
- Những thiệt hại do rủi ro tín dụng gây ra.


21

Đối với ngân hàng: Rủi ro tín dụng sẽ tác động trực tiếp đến hoạt
động kinh doanh của ngân hàng như: thiếu tiền chi trả cho khách hàng
khi khách hàng rút tiền với số lượng lớn, lợi nhuận ngày càng giảm
dẫn đến lỗ và mất khả năng thanh toán.
Đối với xã hội: Hoạt động của ngân hàng có liên quan đến hoạt
động của toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, khi rủi ro tín dụng xảy ra có thể
làm phá sản một vài ngân hàng, có khả năng lây lan các ngân hàng
khác tạo cho dân chúng một tâm lý sợ hãi nên đua nhau đến ngân hàng
rút tiền trước thời hạn. Điều đó có thể đưa đến phá sản hàng loạt các
ngân hàng và sẽ tác động xấu đến nền kinh tế, rủi ro tín dụng là vấn đề
chính phủ phải quan tâm, đặc biệt là NHNN phải khuyến cáo thường
xuyên thông qua công tác kiểm tra, thanh tra, chiết khấu, tái chiết khấu
và sẵn sàng tài trợ cho các NHTM khi có các biến cố rủi ro xảy ra.
1.2.2.Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng doanh
nghiệp
Để quản lí việc nâng cao chất lượng tín dụng doanh nghiệp đòi
hỏi phải hiểu rõ ràng các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng. Hệ

thống các chỉ tiêu phản ánh một cách khách quan, khoa học và toàn
diện về chất lượng tín dụng bao gồm:
1.2.2.1. Các chỉ tiêu định tính.
- Trước hết chất lượng tín dụng của một ngân hàng phụ thuộc
vào uy tín của ngân hàng đó.
Nếu một ngân hàng có uy tín thì ngân hàng đó sẽ có khả năng thu
hút được nhiều khách hàng hơn. Và nếu một ngân hàng có đội ngũ


22

khách hàng đông đảo và là các doanh nghiệp làm ăn có uy tín thì đó là
một trong những dấu hiệu chất lượng tín dụng khả quan.
Vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng còn thể hiện ở khả năng
đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng ở chỗ: thủ tục đơn giản, thuận
tiện, cung cấp vốn nhanh chóng kịp thời nhưng vẫn đảm bảo những
nguyên tắc an toàn tối thiểu. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế
cạnh tranh gay gắt và nhiều biến động như hiện nay thì các ngân hàng
phải năng động hơn nữa thì mới có thể mong đợi được hoạt động nâng
cao chất lượng tín dụng tốt.
- Nâng cao chất lượng tín dụng tức là đảm bảo sự tồn tại và phát
triển của NHTM.
Điều này không chỉ phụ thuộc vào NHTM mà còn phụ thuộc rất
lớn vào doanh nghiệp vay vốn. Một khoản tín dụng chỉ có thể coi là
hiệu quả khi các nguyên tắc cho vay được tuân thủ triệt để. Việc tuân
thủ chặt chẽ các nguyên tắc tín dụng vừa là điều kiện cần thiết cho việc
mở rộng tín dụng, vừa là biểu hiện của chất lượng tín dụng tốt. Sử
dụng vốn vay đúng mục đích cùng với sự nhạy bén trong kinh doanh
của doanh nghiệp và sự hiệu quả trong đánh giá của NHTM tạo điều
kiện để doanh nghiệp đạt được kết quả cao trong kinh doanh, là tiền đề

để thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ đảm bảo sự tồn tại và phát triển
của NHTM.
- Một yếu tố nữa để đánh giá chất lượng tín dụng của NHTM là
phải đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội của
vùng địa phương và của quốc gia.
Điều này là hệ quả tất yếu khi cả doanh nghiệp và NHTM hoạt
động có hiệu quả. Nó biểu hiện ở sự ổn định của nền tài chính – tiền tệ


23

quốc gia, nâng cao năng lực sản xuất công nghệ cho doanh nghiệp,
giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập nâng cao mức sống dân cư.
Tuy nhiên, khi đánh giá tiêu thức này cần căn cứ vào từng trường hợp,
từng thời kì chứ không có một tiêu chuẩn chung cho tất cả mọi trường
hợp.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu định lượng.
* Về phía NHTM: Tín dụng nói chung và tín dụng doanh nghiệp
nói riêng là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của NHTM. Do đó, đo
lường chất lượng tín dụng doanh nghiệp là một nội dung quan trọng
trong việc phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM. Tuỳ
theo mục đích phân tích mà người ta đưa ra nhiều chỉ tiêu khác nhau,
tuy mỗi chỉ tiêu có nội dung khác nhau nhưng giữa chúng có mối liên
hệ mật thiết với nhau. Trong phạm vi bảng báo cáo tổng hợp kết quả
hoạt động kinh doanh, ta có thể áp dụng các chỉ tiêu sau để đánh giá
tình hình chất lượng tín dụng doanh nghiệp của ngân hàng:
- Dư nợ cho vay:
Là chỉ tiêu phản ánh tất cả các khoản tín dụng mà ngân hàng đã
phát ra cho vay trong một khoảng thời gian nào đó, không kể món cho
vay đó đã thu hồi hay chưa. Dư nợ cho vay thường được xác định theo

tháng, quí, năm.
- Dư nợ thu nợ:
Là toàn bộ các món nợ mà ngân hàng đã thu về từ các khoản cho
vay của ngân hàng kể cả năm nay và những năm trước đó.
- Dư nợ:


24

Là chỉ tiêu phản ánh tại một thời điểm xác định nào đó ngân
hàng hiện còn cho vay bao nhiêu, và đây cũng là khoản mà ngân hàng
cần phải thu về.
- Nợ quá hạn, nợ xấu:
Nợ quá hạn: Là chỉ tiêu phản ánh các khoản nợ khi đến hạn
khách hàng không trả được cho ngân hàng mà không có nguyên nhân
chính đáng thì ngân hàng sẽ chuyển từ tài khoản dư nợ sang tài khoản
quản lý khác gọi là nợ quá hạn. Nợ quá hạn là chỉ tiêu phản ánh rõ nét
chất lượng của nghiệp vụ tín dụng tại ngân hàng.
Nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4, 5, được tổ chức tín
dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn,
có khả năng mất vốn. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá
chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng.
- Tỷ lệ dư nợ trên vốn huy động.
Chỉ tiêu này đánh giá khả năng sử dụng vốn huy động vào việc
cho vay vốn. Thông thường khi nguồn vốn huy động ở ngân hàng
chiếm tỷ lệ thấp so với tổng nguồn vốn sử dụng thì dư nợ thường gấp
nhiều lần so với vốn huy động. Nếu ngân hàng sử dụng vốn cho vay
phần lớn từ nguồn vốn cấp trên thì không hiệu quả bằng việc sử dụng
nguồn vốn huy động được. Do vậy, tỷ lệ này càng gần 1 thì càng tốt
cho hoạt động ngân hàng, khi đó tức là ngân hàng đã sử dụng tốt nhất,

có hiệu quả nhất đồng vốn huy động được.
Ta có công thức:
Tỷ lệ dư nợ trên vốn huy động = Dư nợ/Vốn huy động *100%
- Tỷ lệ dư nợ trên tổng nguồn vốn:


25

Chỉ tiêu này cho biết tỷ trọng đầu tư vào cho vay của Ngân hàng
so với tổng nguồn vốn, hay là dư nợ cho vay chiếm bao nhiêu phần
trăm trong tổng nguồn vốn sử dụng của Ngân hàng.
Ta có công thức sau:
Tỷ lệ dư nợ trên tổng nguồn vốn = Dư nợ/Tổng nguồn vốn *100%
- Chỉ tiêu dư nợ:
Đây là một chỉ tiêu định lượng, xác định cơ cấu tín dụng doanh
nghiệp trong tổng dư nợ, cơ cấu tín dụng doanh nghiệp được phân theo
thời hạn cho vay (ngắn, trung, dài hạn). Chỉ tiêu này còn cho thấy biến
động của tỷ trọng giữa các loại dư nợ tín dụng doanh nghiệp của một
ngân hàng qua các thời kỳ khác nhau. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ
mức độ phát triển của nghiệp vụ tín dụng doanh nghiệp càng lớn, mối
quan hệ với khách hàng càng có uy tín.
Công thức:
Dư nợ tín dụng doanh nghiệp / Tổng dư nợ
Dư nợ tín dụng doanh nghiệp ngắn hạn / Tổng dư nợ tín dụng
doanh nghiệp
Dư nợ tín dụng doanh nghiệp trung dài hạn / Tổng dư nợ tín
dụng doanh nghiệp
- Chỉ tiêu nợ quá hạn:
Chỉ tiêu nợ quá hạn là một chỉ số quan trọng để đo lường chất
lượng nghiệp vụ tín dụng của một NHTM, các NHTM có chỉ số này

thấp sẽ chứng minh được chất lượng tín dụng cao của mình và ngược
lại. Thông thường chỉ số này dưới mức 5% thì hoạt động kinh doanh
của ngân hàng bình thường. Nếu tại một thời điểm nhất định nào đó tỷ
lệ nợ quá hạn chiếm tỷ trọng trên tổng dư nợ lớn thì nó phản ánh chất


×