Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tổng Quan Các Vấn Đề Về Chính Sách Lãi Suất Và Tỷ Giá Hối Đoái Của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.63 KB, 32 trang )

MỤC LỤC


Chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoái
của Việt Nam
1. Lời mở đầu
Việt Nam đang trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên,
nền kinh tế thế giới đang bước vào thời kì khủng hoảng tài chính toàn
cầu. Vì vậy, Việt Nam khó tránh khỏi những tác động của khủng hoảng
đến nền kinh tế. Cho nên, việc có những chính sách kinh tế phù hợp là rất
quan trọng trong giai đoạn khủng hoảng hiện nay.
Lãi suất - một biến số quan trọng rất được quan tâm trong nền kinh
tế. Và lãi suất còn trực tiếp tác động đến các mối quan hệ trong nền kinh
tế liên quan trực tiếp đến các lợi ích vật chất trong xã hội. Do đó, nó cũng
đồng thời tác động đến đời sống của mỗi chúng ta. Trong nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, vai trò của lãi suất đã bị xem nhẹ. Còn trong nền
kinh tế thị trường thì vai trò của lãi suất đã có sự thay đổi, lãi suất trong
nền kinh tế thị trường đã được khẳng định là giá cả để vay mượn hoặc
thuê những dịch vụ tiền có liên quan đến việc tạo ra tín dụng, do đó người
ta có thể coi lãi suất là giá cả của thị trường.
Đối với nền kinh tế Việt Nam, sau năm 1986 đánh dấu sự chuyển
đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, lãi suất trở thành công cụ
quản lý vĩ mô quan trọng của nhà nước. Lãi suất đã góp phần kiềm chế
lạm phát cũng như kích thích tăng trưởng và phát triển kinh tế trong công
cuộc đổi mới của đất nước. Thực tiễn đã chứng minh với chính sách đúng
đắn về lãi suất đã giải quyết được vấn đề về lạm phát từ những năm cuối
thập niên 1980 lạm phát từ 3 con số giảm xuống còn 2 số ; riêng năm
1993 tỉ lệ lạm phát chỉ còn một chữ số mức thấp nhất trong lịch sử điều
tiết lãi suất ở Việt Nam.
Cùng với tác động lãi suất thì tỷ giá hối đoái cũng là 1 biến số quan


trọng ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây.
Qua phân tích và đánh giá những nguyên nhân và bài học từ cuộc khủng
hoảng tài chính – tiền tệ khu vực cho thấy, mặc dù thị trường tài chính –
tiền tệ của Việt Nam chưa phát triển đầy đủ và mở cửa nên không bị tác
động của cuộc khủng hoảng. Nhưng Việt Nam đã nhận thấy tính chất
nghiêm trọng của việc ổn định chế độ tỷ giá danh nghĩa kéo dài – một
nguyên nhân quan trọng tạo ra cuộc khủng hoảng. Cho nên, chính sách tỷ
giá phải được điều chỉnh linh hoạt, phản ánh đúng tình hình kinh tế thực
tế nhằm chống đỡ lại các cú sốc của nền kinh tế.
Thiết nghĩ, nghiên cứu tác động của chính sách lãi suất và tỷ giá hối
đoái đến nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh nước đã trở thành thành
viên của tổ chức thương mại thế giới WTO là một vấn đề cần thiết và cần
được quan tâm đúng mực.
1


2. Mục đích nghiên cứu vấn đề:
Đề tài nghiên cứu hướng đến 2 mục tiêu chính đó là: Đầu tiên là
Thực trạng của chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong
những năm gần đây và thứ 2 là Các giải pháp để điều chỉnh chính sách
này cho phù hợp với nền kinh tế Việt Nam trong những năm tiếp theo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu tập trung nghiên cứu các ảnh hưởng của lãi suất
và tỷ giá đến kinh tế Việt Nam qua các giai đoạn. Xét về phương diện
tổng quát, nền kinh tế của quốc gia chịu tác động của rất nhiều các nhân
tố. Tuy nhiên, các chính sách này tác động mạnh mẽ đến xuất nhập khẩu,
tăng trưởng kinh tế và lạm phát của Việt Nam. Vì vậy đề tài của chúng tôi
tập trung nghiên cứu về các vấn đề trên.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu mang tính ứng dụng giải quyết vấn đề kinh tế xã

hội của quốc gia,vì vậy để đạt được hiệu quả cao và tận dụng được tính
ưu việt của các phương pháp nghiên cứu đề tài kết hợp nhiều phương
pháp nghiên cứu khác nhau.
Phương pháp sử dụng chủ yếu là điều tra, quan sát để thu thập
thông tin liên quan đến lãi suất, lạm phát, tỷ giá,… các chỉ số liên quan
đến thực trạng nền kinh tế Việt Nam.
Sau đó, sử dụng phương pháp phân tích, đánh giá nhằm tìm hiểu các
tác động của chính sách lãi suất và tỷ giá tác động đến kinh tế Việt Nam
như thế nào? Trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả
của các chính sách này.
5.Kết cấu đề tài:
Chương1: Tổng quan các vấn đề về chính sách lãi suất và tỷ giá
hối đoái của Việt Nam:
1. Khái niệm.
2. Quá trình hình thành chính sách.
3. Vai trò của chính sách.
Chương 2: Thực trạng của chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoái:
1.
Tác động của chính sách tỷ giá:
1.1. Tác động của chính sách tỷ giá đối với hoạt động xuất nhập
khẩu của Việt Nam:
1.2. Tác động của chính sách tỷ giá đối với việc ổn định thị trường
tiền tệ và lạm phát:
2.
Tác động của chính sách lãi suất:
2.1. Tác động của chính sách lãi suất đến sản lượng và giá cả:
2.2. Tác động của chính sách lãi suất đến tăng trưởng và lạm phát:
Chương 3: Giải pháp của chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoái:
1. Điều chính chính sách lãi suất
2. Điều chỉnh chính sách tỷ giá hối đoái

Kết Luận và Danh mục lục tham khảo:
2


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA VIỆT NAM
1. Khái niệm:
1.1. Lãi suất:
1.1.1 Khái niệm chung:
Lãi suất là một biến số rất quan trọng của kinh tế học. Chúng ta hiểu
lãi suất theo nghĩa "giá cả" giống như mọi loại giá cả hàng hóa khác trên
thị trường. Điều khác biệt duy nhất của lãi suất so với các loại giá cả khác
đó là nó chính là giá của một loại hàng hóa rất trừu tượng. Chúng ta cần
định nghĩa chính xác cái hàng hóa và trên đó lãi suất trở thành giá cả. Đó
là cái giá phải trả cho "sự trì hoãn thanh toán." Bản thân cách gọi này tuy
chính xác, nhưng lại cũng rất trừu tượng. Một cách nhìn cụ thể hơn là chi
phí cơ hội do việc không có sẵn tiền mặt gây ra, chẳng hạn bất tiện khi
cần thanh toán mà không có tiền hoặc có nhu cầu sử dụng bây giờ nhưng
không thể thỏa mãn được ngay lập tức, v.v.. Như thế cách hiểu rõ và
chính xác nhất của lãi suất là "cái giá phải trả cho hi sinh tiêu dùng tương
ứng với khoản tiền cho vay đi." Bản chất của nó chính là chi phí cơ hội
cho việc nhận tiền lại muộn hơn và trì hoãn tiêu dùng trước mắt. Ta có
thể định nghĩa: lãi suất là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả so với tổng số tiền
vay trong một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất là giá mà người vay
phải trả để được sử dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức
người cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu.
Đơn giản hơn trong cuộc sống, theo nghĩa rộng thì như trên còn
theo nghĩa hẹp là "giá của một khoản tiền vay." Từ năm 1500 Trước
Công Nguyên, tín dụng đã ra đời và kèm theo nó là lãi suất trong tộc

người Assyrians. Thời Trung Cổ ở Châu Âu, lãi suất vẫn tồn tại, nhưng vì
lý do nhà thờ khi đó nắm quyền hành lớn và thực tế là kỳ thị việc họ cho
là tranh chấp quyền của Chúa, quyền quyết định một khoản tiền trong
tương lai. Lãi suất khi này được xem là công cụ "hạn chế" bản chất hợp
đồng của tín dụng và lòng tin tài chính. Đối với Việt Nam, lãi suất được
hiểu là phần (suất) lãi trả tính trên đơn vị nào đó, ví dụ % trong một năm.
1.1.2. Các loại lãi suất:
1.1.2.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng:
Lãi suất được chia thành 3 loại:
- Lãi suất ngắn hạn: áp dụng với các khoản tín dụng ngắn hạn.
- Lãi suất trung hạn: áp dụng với các khoản tín dụng trung hạn.
- Lãi suất dài hạn: áp dụng với các khoản tín dụng dài hạn.
1.1.2.2. Căn cứ vào loại hình tín dụng:
Lãi suất được chia thành các loại:
- Lãi suất tín dụng thương mại: áp dụng khi các doanh nghiệp cho
3


nhau vay dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá.
- Lãi suất tiền gửi: là lãi suất trả cho các khoản tiền gửi, áp dụng để
tính tiền lãi phải trả cho người giữ tiền.
- Lãi suất tiền vay: là lãi suất người đi vay phải trả cho ngân hàng do
việc sử dụng vốn vay của ngân hàng, áp dụng để tính lãi mà khách hàng
phải trả cho ngân hàng.
- Lãi suất chiết khấu: áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay
dưới hình thức chiết khấu thường phiếu hoặc giấy tờ có giá trị khác chưa
đến hạn thanh toán của ngân hàng.
- Lãi suất liên ngân hàng: là lãi suất mà ngân hàng áp dụng khi cho
nhau vay trên thị trường liên ngân hàng.
- Lãi suất cơ bản: là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở

để ổn định mức lãi suất kinh doanh của mình.
- Lãi suất tín dụng Nhà nước: áp dụng khi nhà nước đi vay các chủ
thể khác nhau trong xã hội dưới hình thức phát hành tín phiếu hoặc trái
phiếu.
- Lãi suất tín dụng tiêu dùng: áp dụng khi doanh nghiệp cho người
tiêu dùng vay phục vụ cho nhu cầu cá nhân.
1.1.2.3. Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất:
Lãi suất được chia làm 2 loại:
- Lãi suất danh nghĩa: là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền
tệ vào thời điểm nghiên cứu hay nói cách khác là loại lãi suất chưa trừ đi
tỷ lệ lạm phát.
- Lãi suất thực tế: là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo
những thay đổi về lạm phát hay nói cách khác là lãi suất đã loại trừ đi tỷ
lệ lạm phát.
1.1.2.4. Căn cứ vào mức độ ổn định của lãi suất:
Lãi suất được chia làm 2 loại:
- Lãi suất ổn định: là lãi suất áp dụng cố định trong suốt thời gian vay.
- Lãi suất thả nổi: là lãi suất có thể thay đổi lên xuống và có thể báo
trước hoặc không báo trước.Nó có lợi cho cả 2 bên khi nhận và trả tiền
đều tính theo 1 lãi suất chung là lãi suất hiện tại.
1.2. Tỉ giá hối đoái:
1.2.1. Khái niệm chung:
- Samuelson, nhà kinh tế học người Mỹ cho rằng: “Tỷ giá hối đoái là
tỷ giá để đổi tiền 1 nước lấy tiền của 1 nước khác”.
- Statyer, nhà kinh tế học người Úc lại cho rằng: “Một đồng tiền của
1 nước nào đó thì bằng giá trị của 1 số lượng đồng tiền nước khác”.
- Christopher Pass và Bryan Lowes, người Anh cho rằng: “Tỷ giá
hối đoái là giá của 1 loại tiền tệ được biểu hiện giá của tiền tệ khác”.
Các khái niệm trên phản ánh 1 số khía cạnh khác nhau của tỷ giá
hối đoái. Để thống nhất, ta có khái niệm tổng quát là: Tỷ giá hối đoái là tỷ

giá so sánh đồng tiền giữa các nước, xét về mặt giá trị.
4


1.2.2. Các loại tỷ giá:
1.2.2.1. Phân theo đối tượng xác định:
Chia ra làm 2 loại tỷ giá:
- Tỷ giá chính thức: là 1 loại tỷ giá do Ngân hàng trung ương của
nước đó xác định.
- Tỷ giá thị trường: là tỷ giá hình thành theo quan hệ cung cầu trên
thị trường hối đoái.
1.2.2.2. Phân theo kỹ thuật giao dịch:
Bao gồm các loại tỷ giá sau:
- Tỷ giá giao ngay(Spot): là tỷ giá do tổ chức tín dụng yết giá tại thời
điểm giao dịch hoặc do 2 bên thoả thuận nhưng phải đảm bảo theo biểu
độ do Ngân hàng Nhà nước qui định. Việc thanh toán giữa các bên phải
được thực hiện trong vòng 2 ngày làm việc tiếp theo, sau ngày cam kết
mua hoặc bán.
- Tỷ giá giao dịch kỳ hạn(Forwards): là tỷ giá giao dịch do tổ chức
tín dụng yết giá hoặc do 2 bên tham gia giao dịch tự tính toán và thoả
thuận với nhau nhưng phải đảm bảo trong biên độ qui định về tỷ giá kỳ
hạn hiện hành của ngành Ngân hàng Nhà nước tại thời điểm ký hợp đồng.
1.2.2.3. Phân theo hoạt động xuất nhập khẩu:
Người ta phân ra là 2 loại:
- Tỷ giá xuất khẩu: là tỷ giá so sánh giữa tổng giá vốn hàng xuất
khẩu tính tiền sàn tàu bằng tiền nội địa so với số ngoại tệ thu được theo
giá FOB tại cảng xuất khẩu. Nếu tỷ giá xuất khẩu nhỏ hơn tỷ giá thị
trường (giá mua của ngân hàng) là nhà xuất khẩu có lời.
- Tỷ giá nhập khẩu: là tổng giá bán hàng nhập khẩu tại cảng nhập
khẩu tính theo nội tệ so với ngoại tệ phải trả theo giá CIF tại cảng nhập

khẩu. Nếu tỷ giá nhập khẩu lớn hơn tỷ giá thị trường (giá bán ngoại tệ của
ngân hàng) là nhà nhập khẩu có lời.
1.2.2.4. Căn cứ vào giá trị của tỷ giá:
Người ta chia ra làm 2 loại tỷ giá:
- Tỷ giá hối đoái danh nghĩa: là tỷ giá của 1 loại tiền tệ được biểu
hiện theo giá hiện tại, không tính đến bất kì ảnh hưởng nào của lạm phát.
- Tỷ giá hối đoái thực: là tỷ giá có tác động của lạm phát và sức mua
trong 1 cặp tiền tệ phản ánh giá cả hàng hoá tương quan có thể bán ra
nước ngoài và hàng tiêu thụ trong nước.
Đặc tính quan trọng nhất của tỷ giá hối đoái thực là nó đại diện cho
khả năng cạnh quốc tế của nước đó.
1.2.2.5. Căn cứ vào thời điểm giao dịch:
Tỷ giá hối đoái được chia làm 2 loại:
- Tỷ giá mở cửa: là tỷ giá được công bố vào đầu giờ của ngày giao
dịch
- Tỷ giá đóng cửa: là tỷ giá được công bố vào cuối giờ của ngày giao
dịch.
5


2. Quá trình hình thành và phát triển:
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của lãi suất ở Việt Nam:
* Giai đoạn từ 1986 – 1993: Giai đoạn Việt Nam chuyển từ lãi suất
âm sang lãi suất dương.
Lãi suất thời kỳ này là lãi suất âm và thấp hơn nhiều so với lạm
phát.Lạm phát năm 1986 là 774% trong khi lãi suất chỉ là 12%. Tháng
10/1990, pháp lênh ngân hàng công bố tách hệ thống Ngân hàng thành 2
cấp Ngân hàng nhà nước và các tài chính tín dụng, qui định rõ lãi suất
tiền gửi và lãi suất tiền vay.
Sang năm 1992, lạm phát mới được đẩy lùi và ở mức thấp, đây là

điều kiện để chuyển sang lãi suất dương.
* Giai đoạn 1994 – 2000:
NHNN cho phép các tổ chức tín dụng cho vay theo mức lãi suất
thoả thuận mà Ngân hàng thương mại thoả thuận với khách hàng. Ở giai
đoạn này vẫn có sự phân biệt giữa lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp
quốc doanh và doanh nghiệp tư nhân.Bên cạnh đó với cơ chế cho vay
theo lãi suất thoả thuận Ngân hàng thương mại có nơi cho vay cao hơn
mức lãi suất 22%/năm và có nơi cho vay đến 30 – 35%/năm, điều này
đem lại cho các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng lợi nhuận rất
cao trong khi đó các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó
khăn về tài chính.Vì vậy tháng 10/1995 sau kỳ họp VIII khoá IX thông
qua bỏ thuế doanh thu của các Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín
dụng, yêu cầu các đơn vị kinh doanh tiền tệ phải giảm chi phí hoạt động
để giảm lãi suất cho vay của mình.Ngân hàng trung ương khống chế mức
cho vay và tiền gửi là 0,35%/tháng, là tiền đề để hình thành chính sách lãi
suất mới, thực hiện khống chế trần lãi suất cho vay với các Ngân hàng
thương mại và các tổ chức tín dụng khác.
Trong năm 1999, NHNN đã 5 lần hạ trần lãi suất cho vay với đối
với các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác. Đây là biện
pháp thiết yếu để khắc phục những dư âm của cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ Châu Á năm 1998.
* Giai đoạn 2001 – nay:
Thực hiện lãi suất trần với các doanh nghiệp tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp vay vốn để hoạt động.
NHNN tăng lãi suất cơ bản, phát tín hiệu tăng lãi suất trên thị
trường tiền tệ.NHNN hạn chế cung ứng tiền cho các Ngân hàng thương
mại để mở tín dụng thông qua việc tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất.
Đồng thời để đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng các Ngân hàng
thương mại phải đẩy mạnh huy động vốn trên thị trường, để huy động
vốn các Ngân hàng thương mại phải tăng lãi suất huy động vốn.Có nhiều

hình thức huy động vốn: lãi suất tiền gửi luỹ tuyến theo thời gian và theo
cả số tiền gửi nhiều hay ít…Các Ngân hàng thương mại nhiều lần thực
hiện tăng lãi suất tiền gửi.
6


2.2. Quá trình hình thành và phát triển của tỷ giá hối đoái ở Việt
Nam:
* Trong những năm 1988-1991, tỷ giá hối đoái của Việt Nam từ
chế độ đa tỷ giá chuyển sang chế độ tỷ giá thống nhất được xác định theo
cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Tỷ giá hối đoái danh
nghĩa đã được điều chỉnh theo sát những diễn biến của lạm phát đã làm
cho tỷ giá hối đoái thực tế ổn định, nên đã có những tác động tích cực đến
việc khôi phục cả cân đối bên trong và bên ngoài nền kinh tế, từng bước
nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nội địa, thúc đẩy xuất khẩu phát
triển, do đó làm gia tăng nguồn cung ngoại tệ, giảm dần thâm hụt cán cân
thương mại và cán cân thanh toán qua các năm. Sự điều chỉnh hợp lý tỷ
giá hối đoái danh nghĩa phối hợp với việc thắt chặt cung tiền, cắt giảm chi
tiêu Chính phủ, hạn chế tín dụng, tăng lãi suất… và những chính sách
kinh tế khác đã chặn đứng được lạm phát, đưa nền kinh tế Việt Nam ra
khỏi suy thoái và bước vào thời kỳ phát triển.
*Từ năm 1992 đến năm 1997, chính sách tỷ giá hối đoái được điều
chỉnh để chống lạm phát và thu hút đầu tư nước ngoài. Để thực hiện mục
tiêu chống lạm phát, chính sách tỷ giá được điều hành cố gắng duy trì sự
ổn định của tỷ giá hối đoái danh nghĩa. Vì vậy, nếu so sánh chỉ số CPI
của Mỹ và CPI của Việt Nam, các nhà kinh tế tính toán cho rằng, tỷ giá
hối đoái thực tế đã bị giảm tới hơn 20%.
Sự ổn định tỷ giá hối đoái danh nghĩa những năm này đã tạm thời
góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, thu hút đầu tư nước ngoài,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao trên 8% năm. Nhưng việc duy

trì tỷ giá hối đoái danh nghĩa gần như cố định trong điều kiện lạm phát đã
được kiềm chế song vẫn cao hơn lạm phát của Mỹ và các nước có quan
hệ thương mại chủ yếu của Việt Nam, đồng thời đồng USD có xu hướng
tăng giá từ năm 1995 đã làm cho VNĐ có xu hướng ngày càng bị đánh
giá cao hơn thực tế. Điều này đã tạo ra và tích luỹ những nhân tố gây mất
ổn định và kìm hãm sự phát triển kinh tế.
Do tỷ giá hối đoái thực tế giảm xuống, VND được đánh giá cao đã
làm suy giảm sức cạnh tranh quốc tế của hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam,
làm cán cân thương mại và cán cân thanh toán chuyển trạng thái từ thặng
dư năm 1991-1992 sang trạng thái thâm hụt, bắt đầu tích luỹ sự mất cân
đối bên ngoài và dần chuyển sang gây mất ổn định và mất cân đối bên
trong nền kinh tế. Bởi vì, về bản chất, tỷ giá hối đoái không chỉ tác động
đến những vấn đề kinh tế đối ngoạ mà nó còn tác động đến các vấn đề
kinh tế đối nội thông qua sự tác động của tỷ giá đến thị trường tiền tệ và
thị trường vốn.
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa ổn định đã có tác dụng tích cực trong
việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng do ngoại tệ được đánh giá
rẻ nên đã khuyến khích các nhà đầu tư vay ngoại tệ để đầu tư vào các
ngành sử dụng nhiều vốn và nguyên liệu nhập khẩu – một nguồn lực
7


được coi là khan hiếm ở Việt Nam. Điều này đã đi ngược với chiến lược
phát triển kinh tế dựa trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực sẵn
có và những lợi thế so sánh của đất nước, đó là nguồn lực lao động.
Một yếu tố khác càng làm trầm trọng hơn tác động tiêu cực của tỷ giá hối
đoái giai đoạn này là việc phá giá đồng NDT 50% vào năm 1994 của
Trung Quốc. Việc phá giá NDT đã làm cho hàng hóa, dịch vụ của Trung
Quốc quá rẻ đã tràn ngập thị trường Việt Nam qua con đường buôn bán
mậu dịch và buôn lậu, gây khó khăn cho sản xuất trong nước và tăng

nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc.
* Từ năm 1997 đến nay, chính sách tỷ giá hối đoái được điều hành
nhằm chống đỡ tác động của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu
vực và khắc phục tình trạng đánh giá cao VND thời gian trước đó.
Tháng 7 năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực Đông
Nam á đã làm cho một loạt đồng tiền của các nước trong khu vực giảm
giá mạnh so với đồng USD và VND. Điều đó cũng có nghĩa là, VND đã
bị đánh giá cao hơn nữa, trong bối cảnh các nước trong khu vực là bạn
hàng chủ yếu và quan trọng của Việt Nam, đã làm cho xuất khẩu của Việt
Nam giảm sút nhanh chóng.
Phân tích những nguyên nhân và bài học từ cuộc khủng hoảng tài
chính – tiền tệ khu vực cho thấy, mặc dù thị trường tài chính – tiền tệ của
Việt Nam chưa phát triển đầu đủ và mở cửa nên không bị kéo ngay vào
làn sóng của cuộc khủng hoảng, nhưng Chính phủ và NHNN Việt Nam
đã nhận thấy tính chất nghiêm trọng của ổn định chế độ tỷ giá danh nghĩa
kéo dài – một nguyên nhân quan trọng tạo ra cuộc khủng hoảng nên đã có
những biện pháp xử lý tương đối hợp lý, ngăn chặn được những cú sốc
không cần thiết đối với nền kinh tế. Vì vậy tháng 10 năm 1997, NHNN đã
quyết định mở rộng biên độ giao dịch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá
giao dịch tại các thị trường liên ngân hàng từ (+) (-) 5% lên (+) (-)10%.
Nới rộng biên độ giao dịch đã làm cho tỷ giá thị trường tăng mạnh. Mặc
dù tỷ giá tăng, nhưng giá cả trên thị trường không có những biến động
đáng kể.
Việc điều chỉnh tỷ giá của NHNN trên đây đã có tác động tích cực
đối với xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu của Việt Nam, giảm nhập siêu
trong các năm 1997-1999, cán cân tài khoản vãng lai và cán cân thanh
toán cũng giảm dần thâm hụt, mặc dù đầu tư nước ngoài suy giảm mạnh
trong các năm này. Nhưng điều chỉnh tỷ giá như trên cũng có những tác
động tiêu cực đến nền kinh tế, bởi vì khi VND giảm giá đã làm tăng thêm
gánh nặng nợ nước ngoài của cả chính phủ và các doanh nghiệp có vốn

vay nước ngoài, giảm đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Vì vậy có thể thấy rằng, đó cũng chính là cái giá phải trả khi lựa
chọn chính sách tỷ giá thiên về cố định bằng cách duy trì sự ổn định của
tỷ giá danh nghĩa quá lâu. Và một khi duy trì tỷ giá cố định càng dài thì
cái giá phải trả càng lớn.
8


Để tránh những hậu quả tương tự, chính sách tỷ giá phải được điều
chỉnh linh hoạt, phản ánh đúng với quan hệ cung cấp về ngoại hối, sở
thích của người tiêu dùng, lạm phát, lợi tức của tài sản nội, ngoại tệ… để
chống đỡ được các cú sốc của nền kinh tế.
Vì vậy, từ năm 1999, NHNN chấm dứt công bố tỷ giá chính thức,
mà chỉ công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng,
đồng thời biên độ giao dịch dao động cũng giảm xuống chỉ còn (+) (-)
0,1%. Việc can thiệp của Nhà nước đối với tỷ giá được thực hiện chủ yếu
thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ của NHNN trên thị trường ngoại
hối, xoá bỏ phương thức quản lý mang nặng tính chất hành chính chủ
quan trước đây. Từ đó cho đến nay, tỷ giá hối đoái đã được hình thành
theo cơ chế thị trường, bám sát sự biến động của thị trường thế giới, phản
ánh tương đối sát quan hệ kinh tế quốc tế giữa đồng nội tệ và ngoại tệ,
nên đã cải thiện cơ bản cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế
của Việt Nam.
3. Vai trò của lãi suất và tỷ giá hối đoái:
3.1. Vai trò của lãi suất:
3.1.1. Lãi suất là công cụ để khuyến khích tiết kiệm đầu tư:
Lãi suất là công cụ khuyến khích lợi ích vật chất để thu hút các
khoản tiết kiệm của các chủ thể kinh tế tạo nên các quỹ cho vay đáp ứng
nhu cầu của nền kinh tế.
Phương trình về thu nhập:

Thu nhập = Tiêu dùng + Tiết kiệm
Để tăng tỷ lệ tiết kiệm cho nền kinh tế quốc dân thì biện pháp hiệu
quả là tăng lãi suất huy động vốn.Khi đó hộ gia đình sẽ giảm chi để tăng
tiết kiệm, khoản tiết kiệm này họ sẽ gửi vào Ngân hàng, vào quỹ bảo
hiểm…
Như vậy, lãi suất là công cụ can thiệp có hiệu lực để phân chia tỷ lệ
giữa tiêu dùng và tiết kiệm.
Ở Việt Nam, huy động vốn là vấn đề hết sức then chốt, vấn đề là cần
duy trì mức lãi suất như thế nào để huy động tối đa vốn nhàn rỗi trong xã
hội.
3.1.2. Lãi suất ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp:
- Lãi suất khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn đầu tư phát triển
sản xuất kinh doanh.Ngược lãi, lãi suất cho vay cao sẽ thu hẹp đầu tư của
các doanh nghiệp.
- Lãi suất là công cụ của Nhà nước khuến khích các doanh nghiệp đầu
tư vào các ngành sản xuất cần ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế.
3.1.3. Lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô:
- Lãi suất thấp => kích thích đầu tư,kích thích tiêu dùng => tăng
tổng cầu => sản lượng tăng, giá tăng, thất ngiệp giảm => nội tệ có xu
hướng giảm giá so với ngoại tê.
9


- Lãi suất cao => hạn chế đầu tư, hạn chế tiêu dùng => giảm tổng
cầu => sản lượng giảm, giá giảm, thất nghiệp tăng => nội tệ có xu hướng
tăng giá so với ngoại tệ.
3.1.4. Lãi suất là công cụ đo lường tình trạng của nền kinh tế:
Trong giai đoạn đang phát triển của nền kinh tế lãi suất có xu hướng
tăng do cung cầu quỹ cho vay tăng trong đó tốc độ tăng của cầu lớn hơn

tốc độ tăng của cung.Ngược lại trong giai đoạn suy thoái của nền kinh tế
lãi suất có xu hướng giảm.
Do vậy, thông thường nhìn vào xu hướng biến động của lãi suất ta
thấy được tình trạng của nền kinh tế.
3.2. Vai trò của tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá là quan trọng vì nó tác động đến giá cả tương đối của hàng
hóa trong nước và hàng hóa nước ngoài. Tuy nhiên, cùng một sự việc
tăng giá như vậy lại làm cho giá hàng ngoại tại nước đó rẻ hơn. Cách lập
luận như vậy đưa đến kết luận: Khi đồng tiền của một nước tăng giá (tăng
trị giá so với các đồng tiền khác) thì hàng hóa của nước đó tại nước ngoài
trở thành đắt hơn và hàng hóa nước ngoài tại nước đó trở thành rẻ hơn
(giá nội địa tại hai nước giữ nguyên). Ngược lại, khi đồng tiền của một
nước sụt giá, hàng hóa của nước đó tại nước ngoài trở thành rẻ hơn trong
khi hàng hóa nước ngoài tại nước đó trở thành đắt hơn.
Một việc tăng giá của một đồng tiền có thể làm cho những nhà sản
xuất nước đó khó khăn trong việc bán hàng của họ ở nước ngoài và có thể
tăng sự cạnh tranh của hàng nước ngoài tại nước mình bởi vì giá nó giảm
đi. Từ năm 1980 đến đầu năm 1985, việc tăng giá đồng đôla làm thiệt hại
các ngành công nghiệp Mỹ. Ví dụ, công nghiệp thép của Mỹ bị thiệt hại
không phải là chỉ do việc bán ở nước ngoài thép Mỹ với giá đắt hơn bị
giảm xuống, mà còn do việc bán thép giá tương đối rẻ hơn của nước
ngoài tại Mỹ tăng lên. Mặc dù việc nâng giá đôla Mỹ làm thiệt hại một số
nhà kinh doanh trong nước, những người tiêu dùng Mỹ được lợi, bởi vì
hàng ngoại rẻ đi hơn. Máy video cassette và máy ảnh của Nhật và giá đi
nghỉ châu Âu giảm giá là kết quả của đồng đôla vững mạnh.
4.Mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái:
4.1. Lý thuyết ngang giá lãi suất:
Mối quan hệ giữa lãi suất trên thị trường tiền tệ với tỷ giá trên thị
trường hối đoái sẽ được hiểu rõ thông qua việc nghiên cứu hiệu ứng
Fisher quốc tế (International Fisher Effect) và lý thuyết ngang giá lãi

suất. Hai lý thuyết này khác nhau ở các hàm ý.
Lý thuyết ngang giá lãi suất giải thích vì sao tỷ giá kỳ hạn khác với
tỷ giá giao ngay và mức độ chênh lệch sẽ có. Tại một thời điểm nhất
định (tỷ giá kỳ hạn), khẳng định tỷ giá hối đoái chịu ảnh hưởng sự sai
biệt trong lãi suất. Theo lý thuyết ngang giá về lãi suất, đồng tiền của
một quốc gia nào đó có lãi suất thấp hơn thì nhất định sẽ là bù kỳ hạn
cho hợp đồng kỳ hạn đối với đồng tiền của một quốc gia nọ có lãi suất
10


cao hơn. Ngược lại, hiệu ứng Fisher quốc tế chú trọng đến việc tỷ giá
giao ngay của một đồng tiền sẽ thay đổi theo thời gian, khẳng định rằng
tỷ giá giao ngay sẽ thay đổi theo chênh lệch lãi suất giữa hai nước.
Từ phân tích theo lý thuyết ngang giá lãi suất và hiệu ứng Fisher quốc
tế, có thể thấy rằng lãi suất là công cụ giúp các nhà quản trị tài chính dự
đoán và xác định tỷ giá trong tương lai để hoạch định chiến lược phòng
chống rủi ro và chiến lược kinh doanh hiệu quả.
4.2. Công cụ điều chỉnh tỷ giá:
Lãi suất là công cụ được các ngân hàng trung ương sử dụng để điều
chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường, điều chỉnh giá trị đối ngoại của nôi
tệ. Chính sách lãi suất cao có xu hướng hỗ trợ sự lên giá của nội tệ, bởi
vì nó hấp dẫn các luồng vốn nước ngoài chảy vào trong nước, nếu lãi
suất trong nước cao hơn so với lãi suất nước ngoài hay lãi suất ngoại tệ
sẽ dẫn đến những dòng vốn chảy vào hay sẽ làm chuyển lượng hóa ngoại
tệ trong nền kinh tế sang đồng nội tệ để hưởng lãi suất cao hơn. Điều này
làm cho tăng cung ngoại tệ trên thị trường từ đó đồng ngoại tệ sẽ có xu
hướng giảm giá trên thị trường, hay đồng nội tệ sẽ tăng giá.
Về cơ bản, những trình bày trên đây chỉ đúng với các nền kinh tế mở
(open economy), nơi có đồng tiền chuyển đổi và tự do lưu chuyển vốn.
Về mặt lý thuyết, nếu lãi suất nước ngoài cao hơn, thì dẫn đến xuất khẩu

tiền tệ, và trong trường hợp ngược lại, là nhập khẩu tiền tệ. Thực chất,
những khác biệt về lãi suất chỉ dẫn tới sự chuyển đổi vốn, và kết quả là
dẫn tới sự thay đổi về tỷ giá, nếu dự đoán về lợi nhuận, lãi suất thu được
do đầu tư tiền tệ không được đảm bảo hay do việc nhân tín dụng bằng
ngoại tệ không cân bằng, bởi những mất mát về tỷ giá. Một khi còn tồn
tại những mối lo ngại như vậy, thì ngay cả khi có sự khác biệt lớn về lãi
suất cũng không thể dẫn tới sự chuyển đổi vốn đến mức giảm lãi suất.
Dự đoán về một quá trình phát triển tỷ giá đảo ngược để dẫn tới chênh
lệch về lãi suất thường xuất hiện khi xem xét lãi suất danh nghĩa của một
đồng tiền chứ không phải là lãi suất thực, tức là khi chiết trừ tỷ lệ lạm
phát thì đồng tiền với lãi suất danh nghĩa thấp lại có lãi suất thực cao hơn
và ngược lại. Thí dụ, đồng tiền A có lãi suất 10%/năm và tỷ lệ tăng giá là
9%/năm; đồng tiền B có lãi suất là 8%/năm và tỷ lệ lạm phát là 5%/năm,
như vậy lãi suất danh nghĩa của đồng tiền A cao hơn của đồng tiền B là
2%/năm, nhưng lãi suất thực thì ngược lại, lãi suất của đồng tiền B lại
cao hơn so với đồng tiền A là 2%/năm. Theo cách phân tích này, chỉ có
lãi suất thực mới tạo ra được sự nhập vốn; ngược lại, khi đồng tiền có lãi
suất thực thấp thì sẽ dẫn tới hiện tượng nhận tín dụng, bởi vì người ta hy
vọng rằng, khi thanh toán tín dụng người ta chỉ cần phải chi phí ít đơn vị
nội tệ để mua lại số ngoại tệ đã vay, thậm chí còn ít hơn cả khi chưa trao
đổi giá trị tín dụng.
Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, mức lãi suất cao là
công cụ để chống lạm phát và nó thường được sử dụng để đáp ứng yêu
11


cầu can thiệp vào nền kinh tế. Ngoài ra, chính sách lãi suất còn được sử
dụng vào mục đích điều chỉnh giá trị đối ngoại của nội tệ. Phương pháp
dùng lãi suất tái chiết khấu để điều chỉnh tỷ giá hối đoái có thể nó là
phương pháp thường được sử dụng với mong muốn có những thay đổi

cấp thời về tỷ giá. Cơ chế tác động của công cụ này đến tỷ giá hối đoái
như sau: Trong thế cân bằng ban đầu của cung cầu ngoại tệ trên thị
trường, khi lãi suất tái chiết khấu thay đổi, sẽ kéo theo sự thay đổi cùng
chiều của lãi suất trên thị trường. Từ đó, tác động đến xu hướng dịch
chuyển của các dòng vốn quốc tế làm thay đổi tài khoản vốn (trong cán
cân thanh toán quốc tế) hoặc ít nhất cũng làm những người sở hữu vốn
trong nước chuyển đổi đồng vốn của mình sang đồng tiền có lãi suất cao
hơn để thu lợi và làm thay đổi tỷ giá hối đoái. Cụ thể, nếu lãi suất tăng sẽ
dẫn đến xu hướng là một đồng vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới
sẽ đổ vào trong nước và những người sở hữu vốn ngoại tệ trong nước sẽ
có khuynh hướng chuyển đổi đồng ngoại tệ của mình sang nội tệ để thu
lãi cao hơn. Kết quả là tỷ giá giảm (đồng nội tệ tăng). Trong trường hợp
ngược lại, nếu muốn tỷ giá tăng thì sẽ giảm lãi suất tái chiết khấu.
4.3. Những hạn chế:
Lãi suất và tỷ giá chỉ có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau một
cách gián tiếp, chứ không phải là mối quan hệ trực tiếp và nhân quả. Các
yếu tố để hình thành lãi suất và tỷ giá không giống nhau. Lãi suất biến
động do tác động của quan hệ cung cầu của vốn cho vay. Còn tỷ giá hối
đoái thì do quan hệ cung cầu về ngoại hối quyết định, mà quan hệ này lại
do tình hình của cán cân thanh toán dư thừa hay thiếu hụt quyết định.
Như vậy là nhân tố hình thành lãi suất và tỷ giá không giống nhau, do đó
biến động của lãi suất (lên cao chẳng hạn) không nhất thiết đưa đến tỷ
giá hối đoái biến động theo ( hạ xuống chẳng hạn). Lãi suất lên cao có
thể thu hút vốn ngắn hạn của nước ngoài chạy vào, nhưng khi tình hình
chính trị, kinh tế và tiền tệ trong nước không ổn định, thì không nhất
thiết thực hiện được, bởi vì với vốn nước ngoài, vấn đề lúc đó lại đặt ra
trước tiên là sự đảm bảo an toàn cho số vốn chứ không phải là vấn đề thu
hút được lãi nhiều. Để minh hoạ vấn đề này, có thể sử dụng hai ví dụ
điển hình trong lịch sử:
- Một là, trước thế chiến 2, Anh là một trong những nước điển hình

về việc sử dụng lãi suất chiết khấu để can thiệp vào thị trường hối đoái và
đã thu được nhiều kết quả đáng kể, do nền kinh tế và tiền tệ nước Anh lúc
đó khá ổn định.
- Hai là, có thể lấy cuộc khủng hoảng USD thời kỳ 1971-1973 làm ví
dụ. Tổng thống Mỹ Nixon, đã phải áp dụng những biện pháp khẩn cấp để
cứu nguy cho USD bằng cách tăng lãi suất chiết khấu lên rất cao để thu
hút vốn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ quốc tế. Vào lúc này, mặc dù lãi
suất trên thị trường New York cao gấp rưỡi thị trường London, gấp 3 lần
thị trường Frankfurk, nhưng vốn ngắn hạn cũng không được chuyển vào
12


Mỹ mà lại đưa đến Tây Đức và Nhật Bản, dù rằng các nước này thực hiện
chính sách lãi suất thấp, vì lúc đó USD đang đứng bên bờ của nguy cơ
mất giá.
Như vậy, chính sách lãi suất chiết khấu cũng chỉ có ảnh hưởng nhất
định và có giới hạn đối với tỷ giá hối đoái, bởi vì giữa tỷ giá và lãi suất
chỉ có quan hệ lôgic chứ không phải quan hệ nhân quả, lãi suất không
phải là nhân tố duy nhất quyết định sự vận động vốn giữa các nước. Tuy
nhiên, không nên hoàn toàn coi thường chính sách chiết khấu. Nếu tình
hình tiền tệ của các nước đều đại thể như nhau, thì phương hướng đầu tư
ngắn hạn vẫn hướng vào những nước có lãi suất cao. Do vậy, hiện nay
chính sách lãi suất chiết khấu vẫn có ý nghĩa của nó. Đồng thời, can thiệp
vào tỷ giá là phải có một thị trường vốn (nhất là thị trường vốn ngắn hạn)
đủ mạnh, tự do và linh hoạt: tài khoản vốn đã được mở cửa.
4.4. Quan hệ biện chứng:
Lãi suất và tỷ giá là hai yếu tố nhạy cảm trong nền kinh tế và là các
công cụ hữu hiệu của chính sách tiền tệ. Lãi suất và tỷ giá luôn có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và cùng tác động lên các
hoạch định của nền kinh tế. Sự khập khểnh giữa chính sách lãi suất và tỷ

giá có thể gây ra những hậu quả bất lợi như: nội tệ bị mất giá gây nguy cơ
lạm phát “chảy máu” ngoại tệ, đầu cơ tiền tệ, hạn chế nguồn vốn đầu tư
nước ngoài…Vì vậy, trong quản lý vĩ mô chính sách lãi suất và tỷ giá
phải được xử lý một cách đồng bộ và phù hợp với thực trạng của nền kinh
tế trong từng thời kỳ nhất định.
Điều hành và xử lý mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá là một kỹ
thuật vi diệu, vì rằng hai biến số này bị tác động bởi nhiều yếu tố như tình
hình xuất, nhập khẩu, lạm phát, đầu tư nước ngoài, chính sách, kinh tế, tài
chính của chính phủ, các yếu tố tâm lý… Trong quá trình vận hành hai
biến số này tác động ngược lại nhằm thúc đẩy hoặc kiềm chế sự phát triển
của các yếu tố trên các yếu tố tác động đến quá trình hình thành và lãi
suất và tỷ giá là kết quả hàng loạt quá trình tương tác khác nhau. Vai trò,
phương thức, cường độ của từng yếu tố lại phụ thuộc vào môi trường,
hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước và thay đổi theo từng giai đoạn phát triển.
Như vậy, sự thay đổi của lãi suất và tỷ giá tùy thuộc rất nhiều yếu tố, các
yếu tố lại thường đan xen vào nhau và tùy thuộc lẫn nhau ở một thời điểm
cụ thể, tình hình cụ thể, sẽ có yếu tố nổi bật là nguyên nhân làm thay đổi
lãi suất và tỷ giá và cũng có yếu tố trở thành hệ quả của sự thay đổi lãi
suất và tỷ giá. Chính mối quan hệ biện chứng này làm cho việc điều hành
và xử lý mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá trở nên khó khăn, phức tạp.
Vai trò của lãi suất và tỷ giá như là những công cụ tích cực trong phát
triển kinh tế, đồng thời là những công cụ kềm hãm của chính sự phát triển
ấy, tùy thuộc vào sự khôn ngoan hay vụng về trong việc sử dụng chúng.

13


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA VIỆT NAM

1. Tác động của chính sách tỷ giá hối đoái:
1.1. Tác động của chính sách tỷ giá hối đoái đến hoạt động xuất
nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam:
Mỗi quốc gia đều căn cứ theo tình hình kinh tế và hoàn cảnh xã hội
của đất nước trong 1 thời gian nhất định để đưa ra những chính sách về tỷ
giá thích hợp với nền kinh tế của quốc gia đó. Đối với các nước đang phát
triển trong đó có Việt Nam hầu hết đều theo đuổi chính sách tỷ giá hối
đoái cố định. Do tỷ lệ lạm phát của những nước này đều cao hơn so với
các nước phát triển. Vì vậy việc duy trì 1 hệ thống tỷ giá cố định sẽ làm
cho đồng tiền của các nước này lên giá và có tác động rất lớn đến khả
năng cạnh tranh về xuất nhập khẩu trong trung và dài hạn. Tuy nhiên, bất
kỳ 1 chính sách nào cũng có 2 mặt những mặt tích cực và tiêu cực ảnh
hưởng đến nền kinh tế vì vậy mà cần có những biện pháp cụ thể để có thể
giảm thiểu được tối đa những hạn chế đó của các chính sách. Từ đó làm
cho chính sách khi áp dụng vào nền kinh tế sẽ giúp cho nền kinh tế phát
triển hơn.
1.1.1. Ưu điểm của chính sách:
Để nghiên cứu tác động của tỷ giá hối đoái lên hoạt động xuất nhập
khẩu của nước ta chúng ta cần nghiên cứu mối quan hệ giữa giá trị đồng
Việt Nam và các đồng tiền khác của Asean. Trong giai đoạn từ năm
2001-2006, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ tăng
đột biến so với các nước ASEAN. Trong giai đoạn này, giá trị của các
đồng tiền ASEAN sau khủng hoảng có khuynh hướng phục hồi và lên giá
nhanh hơn so với VND nên hoạt động thương mại và đầu tư của Việt
Nam có sự cạnh tranh tốt hơn tương đối so với các đối thủ cạnh tranh
trong khu vực. Tuy nhiên, có thể nói nhân tố có ý nghĩa quyết định tạo
nên sự thành công này đó chính là việc Việt Nam ký kết với Mỹ được
“Hiệp định Thương mại song phương Việt Mỹ” và triển khai thực hiện.
Nếu lấy chỉ số xuất khẩu vào Mỹ của Việt Nam và các nước Asean +
Trung Quốc trong giai đoạn từ 1997-2006 với thời điểm 1997 được lấy

mốc là 100. Có thể nói Việt Nam và Campuchia là 2 nước đạt được
những kết quả xuất khẩu ấn tượng nhất và Việt Nam là nước có mức tăng
trưởng xuất khẩu sang Mỹ cao nhất. Trong giai đoạn này, xuất khẩu vào
Mỹ của Việt Nam đã tăng 22,5 lần, Campuchia tăng 21 lần, Trung Quốc
tăng 4,6 lần, trung bình các nước Asean tăng 1,5 lần.
Năm 1997, Việt Nam chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 0,56% trong tổng
xuất khẩu của Asean vào thị trường Mỹ thì đến năm 2006, Việt Nam đã
chiếm 7,99% tổng lượng xuất khẩu vào thị trường Mỹ của Asean. Lượng
14


xuất khẩu tăng mạnh trong giai đoạn 2001-2003 khi Hiệp định Thương
mại Việt Mỹ bắt đầu có hiệu lực. Giai đoạn 2003-2006, tỷ trọng xuất
khẩu vào Mỹ của Việt Nam vẫn được tăng lên ở mức độ thấp hơn thời kỳ
trước nhưng vẫn chứng tỏ Việt Nam duy trì được lợi thế cạnh tranh so với
1 số nước Asean khác.
Với các nước thuộc Liên minh Châu Âu, do Việt Nam đã thâm nhập
vào thị trường này từ lâu và không có những thay đổi đột phá trong quan
hệ thương mại và đầu tư nên chúng ta không đạt được mức tăng trưởng
ấn tượng như ở thị trường Mỹ. Tỷ trọng xuất khẩu vào EU của Việt Nam
tăng tương đối ổn định từ 4,95% lên 8,82% trong khoảng thời gian từ
năm 1997-2006.
Còn trong năm 2008, mặc dù hoạt động xuất nhập khẩu của các
doanh nghiệp Việt Nam phải trải qua rất nhiều biến động về thị trường,
giá cả, khó khăn của những rào cản thương mại, tác động của cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu… Đi cùng với đó là nhiều thay đổi trong cơ chế
điều hành, hoạch định chính sách. Nhưng nước ta vẫn có tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu ấn tượng, theo số liệu ước tính của Bộ Công thương,
kim ngạch xuất khẩu cả năm 2008 của Việt Nam ước đạt gần 63 tỷ USD,
tăng trên 29,5% so với năm 2007. Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong

nhiều năm trở lại đây của Việt Nam.
Vì vậy, Việc có những chính sách thích hợp qua các thời kỳ đã có
những ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế giúp cho những chính sách
kinh tế của Chính phủ được thực hiện và được sự ủng hộ của cả xã hội.
1.1.2. Hạn chế của chính sách:
Bên cạnh những ưu điểm của chính sách thì cũng có những hạn chế
cần phải được khắc phục trong quá trình phát triển nền kinh tế để những
chính sách về tỷ giá phát huy được tác dụng trong hoạt động xuất khẩu
của Việt Nam.
Tác động của tỷ giá hối đoái tới hoạt động xuất khẩu của Việt Nam
là 1 vấn đề có ảnh hưởng rất lớn tới năng lực cạnh tranh của các hàng hoá
và dịch vụ xuất khẩu của nước ta. Vì vậy việc hoạch định chính sách cần
phải có những nghiên cứu cụ thể để đưa ra được những điều chỉnh hợp lý
phù hợp với nền kinh tế đang biến động như hiện nay. Tỷ giá tác động
mạnh đến hoạt động xuất nhập khẩu nhưng bên cạnh tỷ giá thì còn có
nhiều yếu tố khác cũng tác động đến nó vì vậy việc nghiên cứu sẽ khó
khăn hơn rất nhiều. Ngoài ra tỷ giá hối đoái có tác động tới khả năng cạnh
tranh của các hàng hoá xuất khẩu hay không, còn phụ thuộc vào chính sách
ngoại hối của các nước cạnh tranh xuất khẩu trực tiếp tới Việt Nam.
Năm 2008 - năm chứng kiến sự biến động mạnh của tỷ giá đô la/tiền
đồng. Khả năng cạnh tranh về xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam
đã trở nên khó khăn hơn rất nhiều do sự biến động mạnh của tỷ giá hối
đoái trên thị trường. Ảnh hưởng của tỷ giá đã gây ra những khoản thiệt
hại lớn cho các doanh nghiệp bên cạnh tác động của lạm phát, chi phí đầu
15


vào tăng cao…
Ví dụ, tháng 5 và 6/2008, thị trường chứng kiến sự leo thang của giá
đồng USD so với VND. Doanh nghiệp nhập khẩu phải mua vào với giá

phổ biến từ 18.000 – 19.000 VND/1 USD; có thời điểm lên đến gần
20.000 VND.
Theo lãnh đạo Tập đoàn Dệt may Việt Nam, trong thời điểm đó, Tập
đoàn thiệt hại tới khoảng 50 tỷ đồng do chênh lệch giữa giá USD thu từ
xuất khẩu bán cho các ngân hàng thương mại và giá USD mua phục vụ
cho nhập khẩu nguyên liệu.
Còn theo tính toán của đại diện Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu
Hàng không, với một doanh nghiệp ký hợp đồng nhập khẩu thiết bị là 5
triệu USD cho thị trường Việt Nam và khách hàng chỉ trả bằng VND theo
tỷ giá quy định của Ngân hàng Nhà nước, theo tính toán của doanh
nghiệp, mức lãi suất là 5% và họ sẽ bán với giá 5,25 triệu USD.
Năm 2008 là năm tương đối đặc thù để có thể cho thấy rõ chính sách
điều hành tỷ giá có ảnh hưởng lớn không chỉ đến kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp, mà còn tạo áp lực lớn trong quan hệ cấp hạn mức tín dụng
của các ngân hàng thương mại. Khiến cho các doanh nghiệp khổ vì tỷ giá
giữa đồng USD so với VND.
Từ đầu năm đến cuối tháng 3/2008, ngân hàng thừa cung ngoại tệ,
hạn chế mua của các doanh nghiệp xuất khẩu; tỷ giá thị trường thấp hơn
tỷ giá công bố trên thị trường liên ngân hàng nhưng doanh nghiệp lại
không thể mua trực tiếp theo tỷ giá thấp đó
Đến đầu tháng 4/2008, thị trường ngoại tệ bất ngờ đảo chiều và biến
động quá mạnh, doanh nghiệp xuất khẩu không bán, nguồn cung thiếu,
ngân hàng không đủ nguồn lực để gia tăng hạn mức tín dụng ngoại tệ do
giá xăng dầu tăng quá cao. Tỷ giá cộng hết biên độ dẫn đến chênh lệch tỷ
giá phát sinh thời điểm nhập khẩu đến thời điểm thanh toán với nước
ngoài tăng mạnh.
Bên cạnh đó, mặc dù chính sách can thiệp đã đi đúng hướng song,
theo các chuyên gia, các chính sách can thiệp tỷ giá thời gian qua chưa
phát huy được hiệu quả là do dòng tiền ngoại hối vào và ra không khớp
nhau khi các nhà đầu tư nước ngoài dồn vốn để đầu tư vào đầu năm và rút

vốn ồ ạt tại thời điểm tháng 5, tháng 6 và quí 4-2008. Việc điều hành tỷ
giá sẽ hiệu quả hơn nếu Ngân hàng Nhà nước thực hiện được chính sách
tỷ giá rõ ràng và nhất quán, có cách thức để đo lường mức tỷ giá phản
ánh được cung, cầu thị trường, kết hợp chặt chẽ giữa chính sách ngoại hối
và chính sách tiền tệ và phải có quyết sách linh hoạt, đúng thời điểm.
Qua nghiên cứu về những tác động của chính sách tỷ giá hối đoái
đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam chúng ta thấy được những
thành công và bất cập mà chính sách đó tạo ra. Từ đó, có những điều
chỉnh phù hợp để kích thích tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội trong
những năm tiếp theo.
16


1.2. Tác động của chính sách tỷ giá đến ổn định thị trường tiền
tệ và lạm phát:
Giai đoạn năm 1990-2008, Cơ chế điều hành tỷ giá của Việt Nam đã
có nhiều thay đổi linh hoạt hơn so với thời kỳ trước đó. Tuy nhiên trong
giai đoạn này, Ngân hàng nhà nước (NHNN) xem tỷ giá hối đoái như 1
cái “neo” của lạm phát, nhất là năm 2004-2006, NHNN cam kết tỷ giá chỉ
biến động nhẹ hoặc VND mất giá không quá 1% trong 1 năm. Thành
công của chính sách tỷ giá này trong kiểm soát lạm phát chưa được thấy
rõ nét, song cũng có thể nhìn nhận thực tế thị trường tiền tệ Việt Nam và
đặc điểm nền kinh tế đôla hóa thì bình ổn tỷ giá sẽ có tác động ổn định thị
trường tiền tệ. Còn trong giai đoạn tỷ giá không ổn định, thị trường tiền tệ
sẽ xuất hiện những bất ổn cần có những giải pháp thích hợp. Những điều
trên chúng ta có thể thấy qua các giai đoạn nổi bật sau:
1.2.1. Khủng hoảng tài chính của khu vực Đông Nam Á:
Năm 1997 là năm mà nền kinh tế của các nước trong khu vực rơi
vào khủng hoảng tài chính trầm trọng. Khi đó Việt Nam buộc phải phá
giá VND để hạn chế những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng đến

nền kinh tế Việt Nam. Đồng thời, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế lãi suất
VND có xu hướng giảm, lãi suất quốc tế tăng xảy ra hiện tượng chuyển
dịch từ VND sang USD. Tỷ lệ tiền gửi USD/ tổng tiền gửi tăng từ 33%
năm 1997 lên mức 36,6% năm 2000 và 41% năm 2001. Điều này đã gây
nên mất cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại.
1.2.2. Giai đoạn năm 2007- đầu năm 2008:
Ở giai đoạn này thì diễn ra 1 xu hướng ngược lại với xu hướng trên.
Đó là việc VND có xu hướng lên giá so với USD gây ra hiện tượng
chuyển dịch tiền gửi từ USD sang VND: Tỷ trọng tiền gửi USD/tổng tiền
gửi từ mức 25,9% năm 2006 xuống 21,7% vào tháng 2/2008. Qua đó ta
thấy việc có một chính sách tỷ giá linh hoạt phù hợp với tình hình kinh tế
hiện nay là 1 yêu cầu cấp thiết để ổn định thị trường tiền tệ của Việt Nam.
1.2.3. Tác động của tỷ giá đến lạm phát:
Đối với 1 nền kinh tế bị đôla hoá như Việt Nam cho dù NHNN
không can thiệp mua ngoại tệ thì áp lực tăng khối lượng tiền trong nền
kinh tế vẫn ở mức cao, do tổng phương tiện thanh toán (TPTTT) của Việt
Nam có cả ngoại tệ khi không chuyển đổi ra VND thì ngoại tệ vẫn là
nguồn cho vay để tạo tiền tăng TPTTT. Trong năm 2007, NHNN thực
hiện rút tiền để trung hoà hoá lượng tiền mua ngoại tệ, nhưng TPTTT vẫn
cao. Quí 1/2008, NHNN hạn chế mua ngoại tệ nhưng tín dụng vẫn tăng
cao. Điều đó cho thấy, tác động của chính sách tỷ giá theo hướng để
VND lên giá theo quan hệ cung cầu không có sự can thiệp của NHNN thì
hiệu quả kiềm chế lạm phát không cao. Kết quả nghiên cứu của IMF giai
đoạn 2004-2006 về tác động của tỷ giá thực đến lạm phát cho thấy: 1%
giảm tỷ giá thực hiệu quả thì có tác động làm tăng lạm phát 0,12%. Từ đó
ta thấy tác động của tỷ giá đến lạm phát là rất thấp.
17


2. Tác động của chính sách lãi suất:

2.1. Tác động của chính sách lãi suất đến sản lượng và giá cả:
Lãi suất là biến số kinh tế nhạy cảm, sự thay đổi của lãi suất sẽ tác
động làm thay đổi hành vi sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Thực tế cho
thấy, sự thay đổi lãi suất thực sẽ có tác động nhạy cảm đến sản lượng và
giá cả. Vì vậy, Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) đã rất coi trọng việc điều
tiết lãi suất nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ
(CSTT) là kiềm chế lạm phát và góp phần tăng trưởng kinh tế.
2.1.1. Tác động của lãi suất thực đến chi tiêu dùng và đầu tư:
Một sự gia tăng lãi suất làm sẽ làm giảm sức hấp dẫn trong việc chi
tiêu hiện tại hơn là chi tiêu trong tương lai của các cá nhân và doanh nghiệp.
Khi lãi suất thực tăng lên quyết định chi tiêu của các chủ thể sẽ như sau:
Đối với hộ gia đình, lãi suất tăng sẽ giảm nhu cầu mua sắm nhà ở
hoặc các hàng tiêu dùng lâu bền do chi phí tín dụng để mua các hàng hoá
này tăng lên. Cùng với lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi thực cũng tăng
lên. Sự gia tăng lãi suất này tác động tới quyết định tiêu dùng của khu
vực hộ gia đình theo hướng giảm tiêu dùng hiện tại và tăng tiết kiệm để
cho tiêu dùng trong tương lai.
Đối với khu vực doanh nghiệp, sự gia tăng lãi suất làm tăng chi phí
vốn vay ngân hàng. Điều này đòi hỏi dự án đầu tư sử dụng vốn vay ngân
hàng phải có tỷ lệ lợi nhuận lớn hơn và kết quả là số dự án đầu tư có thể
thực hiện với mức lãi suất cao hơn này có thể giảm hay nói cách khác,
đầu tư cố định có thể giảm. Ngoài ra, lãi suất cao cũng làm tăng chi phí
lưu giữ vốn lưu động và do vậy, tạo sức ép các doanh nghiệp phải giảm
đầu tư dưới dạng vốn lưu động.
2.1.2. Tác động của lãi suất thực đến phân phối lại thu nhập:
Lãi suất tăng cao hơn sẽ phân phối lại thu nhập từ người vay tiền
sang người gửi tiền. Điều này làm tăng sức chi tiêu của người tiết kiệm,
nhưng sự chi tiêu này bị hạn chế bởi mức tiêu dùng cận biên, do vậy
người tiết kiệm có xu hướng tăng chi tiêu dùng thấp hơn sự hạn chế chi
tiêu đầu tư của người đi vay, nhất là khi lãi suất tăng cao vượt tỷ suất lợi

nhuận đầu tư và các danh mục đầu tư và dự án, làm thu nhập của người đi
vay giảm. Do vậy, dẫn đến tổng chi tiêu giảm, GDP giảm. Mặt khác, đối
với các hộ gia đình nắm giữ nhiều cổ phiếu, trái phiếu, lãi suất tăng sẽ
làm giảm giá tài sản tài chính, do đó, giảm thu nhập, từ đó tạo sức ép
giảm tiêu dùng của các hộ gia đình.
Ví dụ, trong những tháng đầu năm 2008, lãi suất tiền đồng liên tục
tăng vọt trong khi đó lãi suất đồng USD lại giảm mạnh và dự báo còn
giảm. Các Ngân hàng thương mại đồng loạt bước vào cuộc đua tăng lãi
suất khốc liệt nhất từ trước đến nay gây không ít khó khăn cho các doanh
nghiệp khi đưa ra các quyết định vay vốn của mình. Với việc tăng lãi suất
huy động vốn VND tăng thêm từ 0,12% - 0,48%/năm so với trước đó. Thời
18


điểm cuối tháng 1-2008, lãi suất thị trường liên ngân hàng đã lên tới
27%/năm là một mức lãi suất chính bản thân các NHTM cũng không ngờ tới.
Còn đến cuối năm 2008, lãi suất giảm làm cản trở việc cho vay tiêu
dùng của các ngân hàng. Sau khi lãi suất cơ bản giảm xuống còn 8,5%,
các ngân hàng hiện chỉ có thể cho vay với lãi suất cao nhất là 12,75% đối
với tất cả các khoản vay, kể cả tín chấp và thế chấp, ngắn hạn và dài hạn.
Vì vậy, với cùng một mức lãi suất trần thì ít có ngân hàng nào mặn mà
với việc cho vay tín chấp.
2.2. Tác động của chính sách lãi suất đến tăng trưởng và lạm phát:
Trong giai đoạn từ năm 2000-2008, có thể thấy tác động của lãi suất
qua việc xem xét ảnh hưởng của lãi suất trên thị trường tiền tệ Việt Nam
đối với hành vi của cá nhân và các doanh nghiệp, từ đó đánh giá ảnh
hưởng của lãi suất đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát.
2.2.1. Đối với cá nhân:
Theo quan sát mức lãi suất tiết kiệm thực VND từ năm 1995 - 2006,
có xu hướng giảm từ mức 7,5%/ năm của năm 1999 xuống còn 4,9%/năm

của năm 2000 và -1,2% của năm 2005 và tiết kiệm cũng có xu hướng
giảm từ mức 19,0% năm 2000 xuống mức 8,7% năm 2005. Nhưng tiêu
dùng có xu hướng tăng tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ đã loại trừ
tăng giá đã tăng từ mức mức 8,1% năm 1999 lên 15% năm 2007. Như
vậy có thể thấy rằng, lãi suất thực trong giai đoạn này có tác động cùng
chiều đến hành vi tiết kiệm và ngược chiều với tiêu dùng của người
dân... Như vậy, nếu như các yếu tố khác không đổi ảnh hưởng của lãi suất
đến hành vi của cá nhân là lãi suất thực giảm sẽ khuyến khích tiêu dùng
hơn là tiết kiệm.
2.2.2. Đối với doanh nghiệp:
Trong giai đoạn 2000 – 2007, mối quan hệ giữa lãi suất thực ngắn
hạn (3 tháng) với lãi suất thực dài hạn có sự gắn kết chặt chẽ với nhau,
biến động cùng xu hướng, sự tăng lên trong lãi suất ngắn hạn có tác động
làm tăng lãi suất dài hạn. Rồi sau đó là mối quan hệ giữa lãi suất thực
trung, dài hạn với mức độ đầu tư của toàn xã hội từ năm 2000 - 2006.
Nhìn chung, lãi suất có tác động ngược chiều với đầu tư, trong đó tác
động của lãi suất đến đầu tư của khu vực tư nhân là nhạy cảm hơn đầu tư
khu vực Nhà nước. Do đó, các doanh nghiệp của Nhà nước được tiếp cận
nhiều nguồn vốn ngoài ngân hàng hơn các doanh nghiệp thuộc khu vực tư
nhân và được hưởng nhiều nguồn vốn ưu đãi với mức lãi suất thấp hơn so
với khu vực tư nhân (kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê về nguồn
vốn của các DNNN năm 2000-2004, cho kết quả là nguồn vốn vay ngân
hàng chỉ chiếm 42% tổng nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp).
Ví dụ để chống lạm phát trong thời kỳ trước, cùng với các biện pháp
mở rộng sản xuất, cho phép nhập khẩu tiểu ngạch và người đi nước ngoài
được mua hàng về, Nhà nước chủ trương “thu lấy mà chi” (đối với ngân
sách), “vay lấy mà cho vay” (đối với ngân hàng) và đặc biệt đã đưa lãi
19



suất lên rất cao tới 13%/tháng. Lạm phát lập tức bị chặn lại, năm 1992 chỉ
còn tăng 17,5%. Năm 1993, mặc dù tiến hành cải cách tiền lương, nhưng
tốc độ tăng giá tiêu dùng chỉ còn 5,2%. Sản xuất nhập khẩu tiểu ngạch
(trong điều kiện nền kinh tế thiếu hụt) là rất quan trọng, nhưng phải đưa
tiền ra mới thực hiện được và phải có thời gian. Nhưng chính đưa lãi suất
tiết kiệm lên để hút tiền từ lưu thông về đã có hiệu quả tức thời, chặn
đứng được lạm phát.
Còn trong năm ngoái, việc liên tục “tăng” cao trong nửa đầu của
năm rồi lại “giảm” vào những tháng cuối năm, tốc độ tăng chỉ số giá tiêu
dùng (CPI) năm 2008 tạo thành hai nỗi lo “trái dấu”: lạm phát (+) và suy
giảm (-). Đó là:
Chỉ số giá khởi đầu năm 2008 tăng “ấn tượng” 2,38%, đã báo hiệu
một năm đầy sóng gió với lạm phát cao. Sau thời điểm Tổng cục Thống
kê công bố chỉ số giá tiêu dùng tháng 2/2008 đạt mức tăng 3,56% so với
tháng trước thì nỗi lo lạm phát đã xuất hiện. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn
uống trong tháng 2 đã tăng 3,2%, riêng lương thực tăng tới 3,7%. Các
tháng tiếp theo chỉ số giá tiêu dùng tiếp tục tăng cho đến tháng 9 đã gây
ra những ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Đồng thời, CPI cũng đẩy lãi
suất huy động và cho vay của các ngân hàng thương mại tăng liên tục
trong giai đoạn này, có những thời điểm vượt trên 18-19%, đối với huy
động tiền gửi, và 21-24% với cho vay.
Trong khi thế giới nhìn nhận rõ nét hơn cuộc khủng hoảng kinh tế
toàn cầu thì vào tháng 9 năm 2008, Việt Nam lại “hân hoan” với chiến
thắng trước lạm phát đã được kìm hãm. CPI chỉ tăng có 0,18% trong
tháng này, khiến những tính toán rằng lạm phát cả năm có thể khống chế
dưới 24% bắt đầu trở nên đáng tin tưởng hơn. Ở thời điểm đó, nhiều ý
kiến cho rằng đã đến lúc cắt giảm lãi suất cơ bản nhằm tạo điều kiện cho
các ngân hàng giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp, nhất là doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Sau tháng 9 với chỉ số giá tăng nhẹ 0,18%, ba tháng
của quý 4/2008, chỉ số giá giảm liên tiếp: tháng 10 giảm 0,19; tháng 11

giảm 0,76; và tháng 12 giảm 0.68%. Năm 2008 khép lại với mức lạm
phát 19,89% - nếu so với tháng 12/2007, và xấp xỉ 23% - nếu so với giá
tiêu dùng bình quân của năm 2007, nhưng hiện tại, nỗi lo chính đã không
còn là lạm phát, mà là giảm phát. Sau khi Ngân hàng Nhà nước công bố
một loạt các chính sách tiền tệ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong đó có
giảm lãi suất cơ bản, các ngân hàng đã bắt đầu giảm mạnh lãi suất, đưa
mặt bằng lãi suất huy động về gần mức 16%/năm cuối năm 2008.
Qua phân tích trên, có thể thấy tác động của lãi suất trên thị trường
tiền tệ đã có tác động tương đối rõ nét đến hành vi tiết kiệm, tiêu dùng
của cá nhân và đầu tư của doanh nghiệp và phù hợp với lý thuyết kinh tế,
qua đó sẽ có tác động đến tổng cầu của nền kinh tế, đến tăng trưởng kinh
tế và lạm phát. Vì vậy, việc điều tiết lãi suất của NHNN để tác động đến
tăng trưởng và lạm phát trong giai đoạn hội nhập này là rất cần thiết.
20


CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ
TỶ GIẢ HỐI ĐỔI CỦA VIỆT NAM:
1. Điều chỉnh chính sách lãi suất:
Trong các giai đoạn khác nhau thì chính phủ đều có những điều
chỉnh thích hợp trong các chính sách của mình đặc biệt là chính sách lãi
suất. Bởi vì nó tác động mạnh mẽ đến đời sống của người dân, hoạt động
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như hoạt động của các tổ
chức tín dụng.
* Trước những diễn biến nhanh, phức tạp của tình hình kinh tế trong
và ngoài nước năm 2008, NHNN đã điều chỉnh lãi suất cơ bản tới 7 lần,
trong đó có 3 lần điều chỉnh tăng (từ mức 8,25%/năm lên 8,75%, 12% và
14%/năm) nhằm kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng dư nợ tín dụng; 4 lần điều
chỉnh giảm (từ 14%/năm xuống 13%, 12%, 11% và 8,5%/năm) nhằm nới

lỏng từng bước chính sách tiền tệ, góp phần ngăn chặn đà suy giảm kinh
tế. Với sự điều chỉnh này, mức ấn định lãi suất cho vay tối đa của các
TCTD đối với khách hàng đã giảm từ mức 21%/năm xuống 12,75%/năm;
mặt bằng lãi suất cho vay VND của các tổ chức tín dụng đối với khách
hàng thấp hơn so với cuối năm 2007.
Để hỗ trợ tăng trưởng hợp lý trong bối cảnh kiềm chế lạm phát là ưu
tiên hàng đầu, NHNN đã điều chỉnh tăng lãi suất tín phiếu bắt buộc (từ
7,8% lên 13%/năm kể từ ngày 1/7/2008) và lãi suất tiền gửi dự trữ bắt
buộc (từ 1,2% lên 3,6%/năm kể từ ngày 1/9/2008, lên 5%/năm kể từ ngày
01/10/2008 và lên 10%/năm kể từ ngày 21/10/2008) nhằm khuyến khích
các tổ chức tín dụng điều chỉnh giảm lãi suất cho vay thấp hơn mức ấn
định lãi suất kinh doanh tối đa.
* Ngân hàng Nhà nước ngày 20/10/2008, mạnh tay cắt giảm một
loạt lãi suất và quyết định thanh toán tín phiếu trước hạn cho các ngân
hàng thương mại. Riêng lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam giảm từ mức
14% xuống còn 13%, áp dụng ngay từ ngày 21/10/2008.
Với quyết định này của Ngân hàng Nhà nước, lãi suất cho vay của
các ngân hàng thương mại sẽ không vượt quá 19,5%. Theo quy định, lãi
suất cho vay tối đa bằng 150% lãi suất cơ bản.
Mức cắt giảm một điểm phần trăm (1%) cũng áp dụng với các loại
lãi suất khác như lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu cho các ngân hàng
thương mại và lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên
ngân hàng, lần lượt xuống còn 14%, 12% và 14%.
Không những giảm chi phí vay vốn, tái cấp vốn cho các ngân hàng
thương mại, Ngân hàng Nhà nước còn hỗ trợ thanh khoản bằng cách tăng
gấp đôi lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc. Từ ngày 21/10/2008, các ngân
hàng thương mại sẽ hưởng lãi suất 10% cho số tiền gửi dự trữ bắt buộc,
thay vì mức cũ 5%. Đây là lần thứ ba trong vòng hai tháng, Ngân hàng
21



Nhà nước tăng lãi suất đối với khoản tiền gửi này của các ngân hàng
thương mại. Trước tháng 9, các ngân hàng chỉ được hưởng lãi suất 1,2%
một năm. Theo quy định, sau khi huy động từ dân cư và doanh nghiệp,
các ngân hàng phải trích 11% để dự trữ bắt buộc (đối với các kỳ hạn dưới
12 tháng).
Cũng trong ngày 20/10/2008, Ngân hàng Nhà nước quyết định thanh
toán trước hạn tín - phiếu bắt buộc. Trước đó, ngày 17/3/2008, để kiểm
soát lạm phát, hạn chế tiền ra lưu thông, Ngân hàng Nhà nước đã phát
hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu dưới hình thức bắt buộc. 41 ngân hàng
thuộc diện phải mua, nếu có nhu cầu rút trước hạn, sẽ được thanh toán kể
từ ngày 21/10/2008.
Quyết định của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng có điều kiện
giảm lãi suất cho vay, thúc đẩy đầu tư Quyết định của Ngân hàng Nhà
nước được xem như một động thái nới lỏng dần chính sách tiền tệ, sau
nhiều tháng thắt chặt để kiểm soát lạm phát. Đây là lần đầu tiên trong hơn
4 năm qua, lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam được điều chỉnh theo xu
hướng giảm. Từ 1/3/2004 đến thời điểm hiện tại, Ngân hàng Nhà nước
chỉ điều chỉnh lãi suất 5 lần, tất cả đều là tăng. 3 lần tăng gần nhất dồn
dập diễn ra trong 6 tháng trở lại đây, đưa lãi suất cơ bản từ mức 8,25%
lên 8,5% rồi 12% và 14%.
Ngân hàng Nhà nước cho biết các biện pháp nói trên được đưa ra
nhằm thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về kiềm chế lạm phát, chủ động
hạn chế tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
toàn cầu, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng hợp lý, bền
vững. Với quyết định của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng có điều
kiện giảm lãi suất cho vay, thúc đẩy đầu tư, sản xuất, kinh doanh.
Quyết định giảm lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước không chỉ
“hợp thức hoá” mà còn là sự phản ánh xu hướng thực tế giảm lãi suất của
thị trường. Biểu lãi suất của các ngân hàng thương mại đang thay đổi

hằng tuần, thậm chí hàng ngày. Mặt bằng lãi tiết kiệm đã xuống dưới
ngưỡng 16%, thấp đáng kể so với đỉnh cao 19,2% hồi tháng 6.
*Ngày 30/1/2009, tại Hà Nội, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam (BIDV) chính thức công bố thông tin đặc biệt về việc điều chỉnh
giảm lãi suất bằng nội tệ lần thứ 2 năm 2009.
Lần giảm gần đây nhất được BIDV công bố vào ngày 4/12/2008.
Với quyết định điều chỉnh lãi suất lần này, BIDV một lần nữa thể hiện vai
trò tiên phong, ấn tượng trên thị trường tiền tệ hiện nay.
Mức lãi suất mới của BIDV và những tiêu chí áp dụng được coi là
hấp dẫn, phù hợp với thời điểm hiện tại của nền kinh tế, đồng thời chia sẻ
rất thiết thực đối với các doanh nghiệp hiện nay.
- Thời gian thực hiện: Từ ngày 01/02/2009.
- Lãi suất cho vay tối đa VNĐ là 10,5%/năm.
- Lãi suất cho vay ngắn hạn thời hạn đến 3 tháng là 8%/năm đối với:
22


Các khoản vay xuất khẩu có hợp đồng xuất khẩu trực tiếp và khách hàng
có cam kết bán lại ngoại tệ tương ứng cho BIDV.
- Lãi suất cho vay ngắn hạn đồng loạt:
+Thời hạn cho vay đến 3 tháng áp dụng lãi suất 9%/năm.
+Thời hạn cho vay trên 3 tháng: trên 9%/năm đến 10%/năm.
- Lãi suất cho vay trung dài hạn VNĐ = Lãi suất tiết kiệm 12 tháng
trả sau + phí tối thiểu là 3%/năm nhưng không vượt quá 150% lãi suất cơ
bản.
- Đối với lãi suất cho vạy cầm cố giấy tờ có giá do BIDV phát hành,
chi nhánh chủ động áp dụng lãi suất cho vay phù hợp nhưng không vượt
quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố từng thời kỳ.
Với việc giảm lãi suất liên tục, BIDV đã góp phần kích cầu sản xuất
kinh doanh, tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng của các doanh

nghiệp, bạn hàng. Cụ thể, qua 7 lần hạ lãi suất trong tháng 10/2008 và
1/2009, đã có hàng ngàn tỷ VNĐ được các doanh nghiệp hấp thụ.
Việc BIDV liên tục chủ động thực hiện điều chỉnh giảm lãi suất thời
gian qua là hệ quả tất yếu từ công tác đón nhận các tín hiệu thị trường,
lắng nghe ý kiến cũng như nhu cầu của các khách hàng, doanh nghiệp,
góp phần tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, bạn hàng. Đồng thời,
công tác phân loại khách hàng để áp dụng các mức lãi suất hấp dẫn, thiết
thực luôn được BIDV tuân thủ và thực hiện tốt trong thời gian qua, mang
lại hiệu quả đặc biệt, được khách hàng ghi nhận, đánh giá cao.
Các chính sách tín dụng theo nhiều chương trình, đối tượng này của
BIDV đã nhận được sự ủng hộ, tin tưởng và được nhiều đối tượng khách
hàng đánh giá tích cực. Đây cũng là hoạt động để giữ nguyên các cam kết
với khách hàng theo các chương trình đã triển khai, hỗ trợ khách hàng
vượt qua khó khăn trong giai đoạn hiện nay, đồng thời điều chỉnh lãi suất
cho vay phù hợp hơn với diễn biến thị trường, khẳng định rõ chính sách
tín dụng của BIDV.
*Lãi suất cơ bản giảm xuống còn 7%/năm, mở cơ chế cho vay thỏa
thuận, thực hiện bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ, triển khai hỗ
trợ lãi suất cho vay 4%/năm… là những chính sách tài chính tiền tệ mới
trong những ngày đầu năm Kỷ Sửu 2009.
- Khơi thông dòng vốn:
Từ ngày 1-2-2009 trở đi, lãi suất cơ bản của VND sẽ giảm từ
8,5%/năm xuống còn 7%/năm. Điều này cũng có nghĩa là lãi suất cho vay
tối đa của các tổ chức tín dụng bằng VND đối với khách hàng giảm từ
12,75%/năm xuống 10,5%/năm.
Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Giàu,
mục đích của việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản lần này là triển khai
thực hiện các giải pháp cấp bách của Chính phủ nhằm ngăn chặn suy
giảm kinh tế, duy trì sản xuất, kinh doanh và tạo việc làm cho người lao
động, trong điều kiện nền kinh tế bị tác động của khủng hoảng tài chính

23


và suy thoái kinh tế thế giới.
Năm 2009 được đánh giá là một năm đầy khó khăn đối với giới
doanh nghiệp. Vì thế, việc giảm lãi suất cơ bản sẽ góp phần hỗ trợ thêm
nguồn vốn giá rẻ cho doanh nghiệp; mặt khác cũng để lưu thông mạnh
dòng vốn, góp phần thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ.
Bên cạnh đó, từ ngày 10-2, hệ thống Ngân hàng Phát triển Việt Nam
(VDB) sẽ bắt đầu triển khai việc bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp
có vốn điều lệ từ 20 tỷ đồng trở xuống và sử dụng 500 lao động trở
xuống. Chỉ cần có 10% vốn tự có, các doanh nghiệp đủ điều kiện sẽ được
vay 90% vốn ngân hàng với lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay thông
thường, dưới sự bảo lãnh của VDB.
Lãi suất cho vay giảm thì lãi suất huy động chắc chắn cũng sẽ giảm
theo. Điều này khiến nhiều người lo ngại rằng người dân sẽ không mặn
mà gửi tiết kiệm, có thể ảnh hưởng đến thanh khoản của các ngân hàng.
Tuy nhiên, theo PGS-TS Trần Hoàng Ngân (Đại học Kinh tế
TPHCM), để các ngân hàng không phụ thuộc nguồn vốn huy động tiết
kiệm, Ngân hàng Nhà nước cần mạnh tay “bơm” tiền cho hệ thống ngân
hàng thông qua nghiệp vụ thị trường mở, cho vay tái cấp vốn, tái chiết
khấu các loại giấy tờ có giá... với lãi suất thấp. Như vậy, vấn đề vốn của
các ngân hàng sẽ được giải quyết.
Trên thực tế, từ ngày 1-2, ngoài lãi suất cơ bản, một số lãi suất chủ
chốt khác của VND cũng được điều chỉnh giảm. Cụ thể, lãi suất tái cấp
vốn giảm từ 9,5%/năm xuống 8%/năm, lãi suất tái chiết khấu giảm từ
7,5%/năm xuống 6%/năm, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện
tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng giảm từ 9,5%/năm
xuống 8%/năm.

- “Cởi trói” lãi suất cho vay:
Một dấu ấn quan trọng khác trong chính sách tiền tệ đầu năm 2009
là Ngân hàng Nhà nước đã chính thức ban hành Thông tư số 01/2009/TTNHNN, hướng dẫn về lãi suất thỏa thuận của tổ chức tín dụng đối với cho
vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông qua nghiệp vụ phát
hành và sử dụng thẻ tín dụng.
Với thông tư này, việc cho vay theo lãi suất thỏa thuận được mở
rộng, thay vì chỉ áp dụng đối với những dự án có tính hiệu quả cao như
quy định trước đó.
Cụ thể, từ ngày 1-2-2009, các tổ chức tín dụng được thực hiện lãi
suất thỏa thuận đối với cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho
vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, theo quy
định của Ngân hàng Nhà nước về cho vay của tổ chức tín dụng đối với
khách hàng và trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường, mức độ tín nhiệm của
khách hàng vay.
Các tổ chức tín dụng sẽ xác định các giới hạn tín dụng đối với một
24


×