Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

TT giải pháp nâng cao hoạt động mkt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.85 KB, 53 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung trong chuyên đề này là do tôi thực hiện dưới
sự tìm hiểu từ tình hình thực tế tại công ty TNHH VINAE-HWA May xuất khẩu,
mọi tham khảo dùng trong chuyên đề đều được trích dẫn rõ ràng tên tác giả, tên
công trình, thời gian công bố. Mọi sự sao chép không hợp lệ, vi phạm quy chế đào
tạo, hay gian trá tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Sinh viên
Lê Việt Hà


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
AFTA

: Khu vực Mậu dịch Tự do Đông Nam Á



: Hợp đồng

SNG

: Cộng đồng các Quốc gia Độc lập

THPT

: Trung học phổ thông

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn


XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ

HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ
Hình 1.1. Trình tự thực hiện hợp đồng gia công..................................................16
Hình 2.1. Bộ máy quản trị của công ty..................................................................23
Hình 2.2. Quy trình sản xuất – gia công................................................................26

BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Cơ cấu lao động theo giới tính năm 2013 – 2015.................................27
Bảng 2.2. Cơ cấu lao động theo trình độ năm 2015..............................................27
Bảng 2.3. Bảng tổng kết kết quả hoạt động kinh doanh hàng gia công
của công ty TNHH VINAE-HWA (2013 – 2014)...................................................34
Bảng 2.4. Tình hình ký kết và thực hiện hợp đồng gia công
của công ty (2013 – 2014).......................................................................................35


MỤC LỤC


LỜI NÓI ĐẦU
Cơ chế thị trường được vận hành với nhiều thành phần kinh tế song song
và tồn tại đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển nhanh chóng. Sản xuất
kinh doanh mở rộng, nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng cao. Các
đơn vị sản xuất kinh doanh muốn đứng vững và phát triển trên thị trường cần
phải xuất phát từ nhu cầu thị trường, từ khách hàng để xây dựng chiến lược

kinh doanh phù hợp nhằm thỏa mãn nhu cầu khách hàng một cách tối đa.
Cùng với xu hướng đó, vai trò của hoạt động Marketing ngày càng được
khẳng định trên thị trường. Marketing giúp các doanh nghiệp định hướng hoạt
động kinh doanh của mình. Từ việc nghiên cứu thị trường, nhu cầu thị trường
đến việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ và tăng sự thỏa mãn của khách
hàng. Marketing được coi là một trong những bí quyết tạo nên sự thành công
của doanh nghiệp và là công cụ cạnh tranh hiệu quả.
Công ty TNHH VINAE-HWA may xuất khẩu tuy mới thành lập những
năm gần đây, vẫn còn non trẻ trong ngành may gia công xuất khẩu nhưng cũng
không nằm ngoài xu thế, cũng rất cần tới marketing. Tuy nhiên, hiện hoạt động
marketing tại công ty vẫn chưa thực sự được chú trọng, hoàn thiện. Vì vậy, em
thực hiện đề tài: “Giải pháp nâng cao hoạt động marketing của công ty
TNHH VINAE-HWA may xuất khẩu” nhằm tìm hiểu về hoạt động marketing
của công ty và đề xuất một số giải pháp nâng cao hoạt động marketing của
công ty, giúp tạo lợi thế cạnh tranh cho công ty.


CHƯƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MARKETING TRONG DOANH NGHIỆP
VÀ HOẠT ĐỘNG GIA CÔNG MAY MẶC XUẤT KHẨU
1.1. Cơ sở lý luận về marketing trong doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm marketing

Marketing bắt nguồn từ “market” có nghĩa tiếng Anh là chợ, thị trường.
Vậy có thế hiểu cốt lõi của khái niệm marketing là dựa trên thị trường, cụ thể
hơn là dựa trên khách hàng.
Tiếp cận theo quan điểm chức năng Marketing, theo Hiệp hội Marketing
Hoa Kỳ - AMA (1985), Marketing là một quá trình hoạch định và quản lý thực
hiện việc định giá, chiêu thị và phân phối các ý tưởng, hàng hoá, dịch vụ nhằm
mục đích tạo ra các giao dịch để thoả mãn những mục tiêu của cá nhân, tổ chức

và xã hội. Theo đó, sản phẩm được trao đổi không giới hạn là hàng hóa hữu
hình mà có thể là ý tưởng và dịch vụ; Marketing không chỉ áp dụng cho các
hoạt động kinh doanh nhằm mục đích lợi nhuận và chức năng của Marketing
không chỉ là bán hàng hay phân phối mà khi nói đến Marketing là nói đến 4P.
Philip Kotler (2006) cho rằng Marketing là tiến trình qua đó cá nhân và tổ
chức có thể đạt được nhu cầu và ước muốn thông qua việc sáng tạo và trao đổi
sản phẩm và giá trị giữa các bên. Theo đó, ý tưởng cội nguồn của Marketing là
nhu cầu và ước muốn và nội dung cơ bản của Marketing là sự trao đổi giá trị.
Định nghĩa mới đây nhất của AMA (2013) về marketing đó là hoạt động,
tập hợp các tổ chức và các quá trình để sáng tạo, giao tiếp, cung cấp và trao đổi
sản phẩm, dịch vụ đem lại giá trị cho khách hàng, đối tác và xã hội nói chung.
Từ các khái niệm khác nhau trên, ta có thể thấy quan điểm cốt lõi trong
tất cả các khái niệm Marketing vẫn là sự thỏa mãn của khách hàng.

1.1.2. Chức năng và vai trò của marketing trong doanh nghiệp


1.1.2.1. Chức năng của marketing trong doanh nghiệp

Chức năng Marketing được xác định tùy thuộc vào đặc điểm về sản xuất
kinh doanh và sản phẩm của doanh nghiệp. Nhưng nhìn chung có bốn chức
năng chủ yếu:
(1) Chức năng thích ứng: Là chức năng làm sản phẩm thích ứng với nhu
cầu của khách hàng, của thị trường. Tính thích ứng của sản phẩm không chỉ về
đặc tính sử dụng mà còn thích ứng về kiểu dáng, bao bì, mẫu mã, màu sắc…
Để thực hiện chức năng này, bộ phận Marketing phải phân tích môi
trường và nghiên cứu thị trường nhằm dự báo và thích ứng với các yếu tố môi
trường có ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp, tập hợp
thông tin để quyết định các vấn đề Marketing đảm trách. Từ đó chỉ ra cho bộ
phận sản xuất, bộ phận kỹ thuật cần:

- Sản xuất cái gì?
- Sản xuất như thế nào?
- Sản xuất với khối lượng bao nhiêu?
- Bao giờ thì đưa vào thị trường?
- Quy cách, kiểu dáng, bao bì, màu sắc như thế nào để đảm bảo đáp ứng
đòi hỏi của thị trường?
- Cần loại bỏ những sản phẩm nào yếu kém, không còn phù hợp?...
Với chức năng này, Marketing vừa nghiên cứu, thăm dò nhu cầu thị
trường để vừa thỏa mãn tối đa nhu cầu đồng thời tạo ra nhu cầu mới, làm thay
đổi cơ cấu nhu cầu giúp cho doanh nghiệp thu được lợi nhuận ngày càng nhiều
hơn.
(2) Chức năng phân phối: Là chức năng tổ chức quá trình vận động hàng
hóa sau khi sản xuất xong đến khi giao cho người tiêu dùng. Chức năng phân
phối bao gồm các hoạt động sau: Tìm hiểu khách hàng, lựa chọn những khách
hàng có khả năng tiêu thụ lớn nhất. Giới thiệu sản phẩm và tìm kiếm cơ hội để


ký kết hợp đồng tiêu thụ. Tổ chức vận chuyển hàng hóa, bảo quản, dự trữ, phân
loại, đóng gói. Thực hiện các dịch vụ hỗ trợ cho người tiêu dùng như vận
chuyển hàng đến nhà, tư vấn tiêu dùng và sử dụng. Giải quyết trở ngại, ách tắc
làm cho quá trình lưu thông được thông suốt.
(3) Chức năng tiêu thụ: Là chức năng rất quan trọng của Marketing. Nó
giúp doanh nghiệp đẩy nhanh vòng quay của vốn, hạn chế rủi ro. Chức năng
tiêu thụ được thực hiện thông qua hoạt động kiểm soát giá cả, các phương pháp
nghiệp vụ và nghệ thuật bán hàng.
(4) Chức năng yểm trợ: Là chức năng kích thích, tác động và thúc đẩy
tiêu thụ. Chức năng yểm trợ bao gồm các hoạt động tổ chức, thực hiện, kiểm
soát và đánh giá các chiến lược truyền thông tích hợp, chương trình kích thích
tiêu thụ đảm bảo chất lượng toàn diện.
1.1.2.2. Vai trò của marketing đối với hoạt động sản xuất - kinh doanh của

doanh nghiệp
- Marketing là cầu nối giữa doanh nghiệp và khách hàng giúp cả hai tìm
đến nhau. Marketing giúp doanh nghiệp nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu phong
phú, phức tạp và liên tục thay đổi của khách hàng từ đó cung cấp cho doanh
nghiệp những công cụ, biện pháp để phục vụ và thỏa mãn nhu cầu của khách
hàng một cách tốt nhất. Qua đó các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp được
kết nối với nhu cầu của thị trường.
- Marketing còn là công cụ để các nhà kinh doanh hoạch định chiến lược
kinh doanh, tìm ra phương hướng, con đường hoạt động trong tương lai. Từ đó
giúp doanh nghiệp thích ứng với những biến động thường xuyên trên thị
trường, tăng cường khả năng cạnh tranh, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh. Chính việc thỏa mãn nhu cầu khách hàng một cách tốt nhất sẽ giúp
doanh nghiệp có thể tồn tại lâu dài và vững chắc trên thị trường.
- Marketing còn được coi là chức năng quản trị quan trọng của doanh
nghiệp. Ngày nay, Marketing được ví von là “trái tim” cho mọi hoạt động trong
doanh nghiệp. Marketing là một quá trình đa chức năng. Mọi quyết định


Marketing đều ảnh hưởng đến hoạt động của các chức năng, bộ phận khác
trong tổ chức. Cụ thể, các quyết định về: sản xuất, tài chính, nhân sự đều phụ
thuộc vào các quyết định Marketing.
Phạm vi sử dụng marketing rất rộng rãi, marketing liên quan đến nhiều
lĩnh vực như: hình thành giá cả, dự trữ, bao bì đóng gói, xây dựng nhãn hiệu,
hoạt động và quản lý bán hàng, tín dụng, vận chuyển, trách nhiệm xã hội, lựa
chọn nơi bán lẻ, phân tích người tiêu dùng, hoạt động bán sỉ, bán lẻ, đánh giá
và lựa chọn người mua hàng công nghiệp, quảng cáo, mối quan hệ xã hội,
nghiên cứu marketing, hoạch định và bảo hành sản phẩm.
Ngoài ra, hoạt động Marketing còn mang lại lợi ích cho người tiêu dùng
và xã hội như giúp nhu cầu của người tiêu dùng được thỏa mãn một cách tốt
hơn, giúp giải quyết những mâu thuẫn về lợi ích giữa doanh nghiêp – xã hội và

người tiêu dùng,…
1.1.3. Các hoạt động marketing trong doanh nghiệp

Các hoạt động marketing trong doanh nghiệp gồm có các hoạt động cơ bản sau:
1.1.3.1. Điều tra nghiên cứu thị trường

Nghiên cứu marketing là quá trình thu thập có hệ thống, ghi chép, phân
tích có mục tiêu các tài liệu có liên quan đến thái độ ứng xử, nhu cầu, quan
điểm, ý niệm, động cơ,… của các cá nhân và tổ chức tiêu dùng trong mối quan
hệ tương tác với các hoạt động hàng ngày.
Các thông tin tài liệu phục vụ cho nghiên cứu marketing có thể là dữ liệu
đã có sẵn (thứ cấp) hoặc phải tự thu thập, xử lý (sơ cấp), có thể lấy từ nội bộ
doanh nghiệp cũng có thể cần được thu thập từ các nguồn bên ngoài.
Đối tượng của nghiên cứu marketing bao gồm cả môi trường vi mô và vĩ
mô. Môi trường vĩ mô bao gồm các yếu tố, lực lượng mang tính chất xã hội
rộng lớn, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới hoạt động của tất cả các
doanh nghiệp (môi trường nhân khẩu học, môi trường kinh tế, môi trường công
nghệ, môi trường chính trị - pháp luật, môi trường văn hóa xã hội và môi


trường tự nhiên). Môi trường vi mô có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của
doanh nghiệp, gồm môi trường ngành (đối thủ cạnh tranh, các nhà cung cấp,
trung gian, khách hàng và các tổ chức công chúng) và môi trường bên trong
doanh nghiệp chính là các yếu tố tài chính, nhân lực, công nghệ - kỹ thuật, văn
hóa doanh nghiệp,…
Nghiên cứu Marketing là điểm khởi đầu cho hoạt động Marketing của
doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp xác định được điểm mạnh và điểm yếu của
bản thân doanh nghiệp, thị hiếu người tiêu dùng, phát hiện cơ hội mới, dự
phong những nguy cơ có thể xảy ra,… từ đó chuẩn bị những điều kiện cần thiết
và hoạch định chiến lược thích hợp để tham gia thị trường.

1.1.3.2. Phân khúc thị trường

Phân khúc thị trường là quá trình phân chia khách hàng (thị trường tổng
thể) của một loại hàng hóa nào đó thành một số nhóm thị trường nhỏ hơn, khác
biệt nhau nhưng trong mỗi nhóm thị trường có những đặc tính chung như nhu
cầu, mong muốn, cách ứng xử. Nhóm thị trường nêu trên gọi là khúc thị
trường.
Khi phân đoạn thị trường phải đạt các yêu cầu:
- Tính đo lường được: Quy mô và sức mua của các đoạn phải đo lường
được.
- Tính tiếp cận được: Các đoạn thị trường có thể được vươn tới và phục
vụ được bằng hệ thống phân phối và hoạt động truyền thông.
- Tính hấp dẫn: Các đoạn thị trường phải có quy mô đủ lớn và có khả
năng sinh lời.
- Tính khả thi: Công ty có đủ khả năng về nhân lực, tài chính, kỹ thuật,
marketing để đáp ứng đòi hỏi của các đoạn thị trường.
Đối với thị trường khách hàng là người tiêu dùng, tùy thuộc vào đặc tính
của thị trường, đặc điểm của sản phẩm, khả năng của doanh nghiệp mà có thể
lựa chọn, kết hợp các tiêu thức sau để phân khúc thị trường:


(1) Các tiêu thức theo yếu tố địa lý
Phân tích thị trường theo yếu tố địa lý đòi hỏi phải chia thị trường thành
những đơn vị địa lý khác nhau như quốc gia, vùng, tỉnh, thành phố,... Doanh
nghiệp có thể quyết định hoạt động trong một hay một vài vùng địa lý hay hoạt
động trong tất cả các vùng, nhưng chú ý đến những sự khác biệt về các nhu cầu
và sở thích của từng vùng địa lý.
Đây là các tiêu thức được các doanh nghiệp xem xét đầu tiên, được áp
dụng phổ biến vì sự khác biệt về nhu cầu thường gắn với yếu tố địa lý (do sự
khác biệt về đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội trong từng vùng địa lý).

(2) Các tiêu thức về nhân khẩu học
Gồm các yếu tố dân số, kinh tế, xã hội cho biết đặc tính khách quan của
khách hàng như: tuổi tác, giới tính, quy mô gia đình, chu kỳ sống của gia đình,
thu nhập, tình trạng hôn nhân, giai tầng xã hội, nghề nghiệp, trình độ học vấn,
tôn giáo, chủng tộc và nguồn gốc dân tộc...
Các tiêu thức này thường được sử dụng phổ biến trong phân khúc thị
trường vì các tiêu thức này là cơ sở chính tạo ra sự khác biệt về nhu cầu và
hành vi mua hàng của khách hàng và các biến nhân khẩu học dễ đo lường hơn
hầu hết các biến khác. Số liệu cho các tiêu thức này cũng dễ tìm vì có sẵn tài
liệu (từ niên giám thống kê, từ các công ty nghiên cứu thị trường hoặc doanh
nghiệp có thể tự làm).
(3) Các tiêu thức về tâm lý
Gồm các yếu tố thể hiện cá tính gắn liền với từng cá nhân như: tầng lớp
xã hội, nhân cách, thái độ, động cơ, phong cách sống, quan điểm, cá tính, giá trị
văn hóa... Các tiêu thức này ảnh hưởng lớn đến hành vi lựa chọn và động cơ
mua hàng của khách hàng. Tiêu thức này dùng để bổ sung cho các tiêu thức
trên vì những người cùng một nhóm địa lý, một nhóm nhân khẩu học có thể có
những đặc điểm tâm lý rất khác nhau.


(4) Các tiêu thức về hành vi tiêu dùng
Gồm các yếu tố thể hiện thái độ, hành vi tiêu dùng của khách hàng như:
lý do mua hàng, lợi ích tìm kiếm từ sản phẩm, tính trung thành đối với nhãn
hiệu sản phẩm, với cửa hàng, với doanh nghiệp, số lượng và cường độ sử dụng,
tình trạng người sử dụng (đã sử dụng, chưa sử dụng, sử dụng lần đầu, xử dụng
thường xuyên, sử dụng tiềm năng)... Tóm lại, người mua được chia thành nhiều
nhóm căn cứ vào trình độ hiểu biết, thái độ, cách sử dụng và phản ứng đối với
sản phẩm.
1.1.3.3. Lựa chọn thị trường mục tiêu và định vị
1.1.3.3.1.


Lựa chọn thị trường mục tiêu

Dựa vào các phân khúc thị trường, doanh nghiệp đánh giá mức độ hấp
dẫn của các khúc thị trường và chọn thị trường mục tiêu phù hợp với mục tiêu
và nguồn lực mình nhất để theo đuổi.
Doanh nghiệp có thể lựa chọn thị trường mục tiêu theo các phương án
sau:
- Tập trung vào một đoạn thị trường duy nhất: Doanh nghiệp chỉ cung cấp
1 loại sản phẩm cho 1 nhóm khách hàng.
- Chuyên môn hóa có chọn lọc: Chỉ lựa chọn tập trung vào một số đoạn
thị trường riêng biệt, ít liên quan đến nhau.
- Chuyên môn hóa theo đặc tính thị trường: Doanh nghiệp cung cấp đa
dạng sản phẩm cho 1 nhóm khách hàng.
- Chuyên môn hóa theo đặc tính sản phẩm: Doanh nghiệp tập trung cung
cấp 1 loại sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu của nhiều nhóm khách hàng.
- Bao phủ thị trường: Doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu của mọi loại khách
hàng với mọi chủng loại sản phẩm.
1.1.3.3.2. Định vị thị trường


Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần sử dụng những nỗ lực Marketing để
xây dựng một hình ảnh khác biệt (ấn tượng tốt, đặc sắc, khó quên) về sản
phẩm, nhãn hiệu hoặc doanh nghiệp để chiếm được vị trí có giá trị trong tâm trí
khách hàng mục tiêu nói riêng và công chúng nói chung. Đó chính là hoạt động
định vị. Một tuyên bố định vị sâu sắc và toàn diện sẽ định rõ tầm nhìn và
phương hướng hoạt động của doanh nghiệp. Nó nêu rõ những đặc trưng của
doanh nghiệp:

Lĩnh vực kinh doanh thực sự, khách hàng mục tiêu, các lợi


thế cạnh tranh và giá trị độc nhất.
Các phương pháp định vị sản phẩm:
- Định vị dựa trên một thuộc tính của sản phẩm: Doanh nghiệp định vị
căn cứ vào sự khác biệt của chính sản phẩm của mình so với đối thủ cạnh tranh
(dịch vụ, bao bì, chất lượng hoặc một đặc tính khác biệt nào đó của sản phẩm).
- Định vị dựa trên lợi ích của sản phẩm đem lại cho khách hàng: Doanh
nghiệp cho khách hàng thấy được những lợi ích khác biệt họ có thể nhận được
từ sản phẩm của mình.
- Định vị dựa trên công dụng hoặc ứng dụng của sản phẩm: Doanh
nghiệp định vị căn cứ vào những ứng dụng độc đáo của sản phẩm mình cung
cấp.
- Định vị dựa trên đối tượng người sử dụng: Doanh nghiệp tập trung vào
thông điệp là sản phẩm dành riêng cho những đối tượng cụ thể mà doanh
nghiệp quan tâm. Có thể dựa vào cá tính của người sử dụng để xây dựng tính
cách cho sản phẩm (sản phẩm dành cho người mạnh mẽ, lãng mạn,…) hoặc các
đặc điểm cá nhân của khách hàng để định vị (sản phẩm dành cho người già, trẻ
em, người bệnh…).
- Định vị so sánh với đối thủ cạnh tranh: Dựa trên sự khác biệt hoặc tách
biệt hẳn với sản phẩm cạnh tranh để định vị.
- Định vị theo chủng loại sản phẩm: Doanh nghiệp định vị bằng cách so
sánh sản phẩm với các chủng loại vật phẩm khác.


Tùy thuộc vào mỗi sản phẩm hay dịch vụ, người ta lựa chọn chiến lược
định vị cho phù hợp.

1.1.3.4. Xây dựng, thực hiện và điều chỉnh các chiến lược marketing - mix
1.1.3.4.1.


Chiến lược sản phẩm

Chiến lược sản phẩm là định hướng và quyết định liên quan đến sản xuất
và kinh doanh sản phẩm trên cơ sở bảo đảm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng
và các mục tiêu Marketing của doanh nghiệp.
Chiến lược sản phẩm giữ vai trò trụ cột, trọng tâm, quyết định đến việc
lựa chọn và quyết định các chiến lược khác trong Marketing-Mix nhằm nâng
cao uy tín và hiệu quả kinh doanh lâu dài của doanh nghiệp. Chiến lược giá cả,
chiến lược phân phối, chiến lược chiêu thị được xây dựng trên cơ sở chiến lược
sản phẩm và cả bốn chiến lược này phải được phối hợp đồng bộ.
Chiến lược sản phẩm bao gồm các quyết định về:
- Quyết định về danh mục sản phẩm.
- Quyết định về các đặc tính kỹ thuật, bao bì, kích cỡ, tên gọi, nhãn hiệu
cho sản phẩm.
- Các chiến lược theo chu kỳ sống sản phẩm.
- Dịch vụ sau bán hàng.
- Chiến lược về phát triển sản phẩm mới.
1.1.3.4.2.

Chiến lược giá

Chiến lược giá là công việc xác định mức giá cơ bản và sự thay đổi giá có
tính toán nhằm để đạt được các mục tiêu Marketing trên thị trường trọng điểm.
Chiến lược giá bao gồm bốn nội dung cơ bản sau:


- Nắm bắt, dự báo một cách chính xác mức độ ảnh hưởng của các nhân
tố tác động đến các quyết định về giá.
- Xác định mức giá chào hàng, giá bán, giá sản phẩm mới, giá giới hạn,
thời hạn thanh toán,… Đó là việc xác định khác mức giá cụ thể cho từng mặt

hàng, kiểu kênh phân phối, thời gian và địa điểm tiêu thụ, phương thức thanh
toán. Vấn đề quan trọng nhất là tìm kiếm các phương pháp định giá khoa học.
- Ra các quyết định về điều chỉnh và thay đổi giá theo môi trường kinh
doanh luôn biến đổi.
- Lựa chọn những ứng xử thích hợp trước các hoạt động cạnh tranh qua
giá cả.
1.1.3.4.3.

Chiến lược phân phối

Chiến lược phân phối là hệ thống các quyết định nhằm chuyển đưa sản
phẩm về mặt vật chất cũng như về quyền sở hữu hay quyền sử dụng sản phẩm
từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng nhằm đạt hiệu quả cao.
Khi thiết lập kênh phân phối cho mình, doanh nghiệp cần căn cứ vào các
mục tiêu phân phối của doanh nghiệp, đặc điểm khách hàng, đặc điểm của các
trung gian, năng lực và ý muốn cạnh tranh của doanh nghiệp và đặc điểm của
môi trường.
Dựa vào những căn cứ trên, doanh nghiệp đưa ra quyết định về kiểu kênh
và loại trung gian, số lượng trung gian tham gia trong các giai đoạn phân phối
để xây dựng một hệ thống phân phối thích hợp. Những quyết định này có thể
thay đổi do thị trường biến động và những mục tiêu khác nhau trong từng thời
kỳ. Quyết định về số lượng trung gian thể hiện qua những chiến lược phân phối
khác nhau. Có ba chiến lược phân phối điển hình, đó là: Chiến lược phân phối
độc quyền, chiến lược phân phối chọn lọc và chiến lược phân phối rộng rãi.
Sau khi đã xây dựng được một hệ thống phân phối phù hợp, doanh nghiệp
cần có những biện pháp chính sách quản lý, đánh giá và kích thích các thành
viên kênh để hệ thống có thể hoạt động hiệu quả.


1.1.3.4.4.


Chiến lược xúc tiến

Chiến lược xúc tiến là tập hợp các hoạt động thông tin, giới thiệu về sản
phẩm, thương hiệu, về tổ chức và các biện pháp kích thích tiêu thụ nhằm đạt
mục tiêu truyền thông của doanh nghiệp.
Các công cụ xúc tiến gồm có: Quảng cáo, PR, Xúc tiến bán, Khuyến mãi,
Bán hàng trực tiếp, Marketing trực tiếp.
Để có được hệ thống truyền thông xúc tiến hiệu quả, cần phải biết cách
phối kết hợp, sử dụng các công cụ đó một cách phù hợp với doanh nghiệp,
mục tiêu của doanh nghiệp, sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp, khách hàng,
cũng như các động thái của đối thủ,…
1.2. Hoạt động gia công xuất khẩu
1.2.1. Khái niệm gia công xuất khẩu

Theo điều 178, Luật Thương Mại 2005, Gia công trong thương mại là
hoạt động thương mại, theo đó bên nhận gia công sử dụng một phần hoặc toàn
bộ nguyên liệu, vật liệu của bên đặt gia công để thực hiện một hoặc nhiều công
đoạn trong quá trình sản xuất theo yệu cầu của bên đặt gia công để hưởng thù
lao.
Gia công hàng may mặc xuất khẩu là phương thức sản xuất hàng xuất
khẩu. Trong đó, bên đặt gia công ở nước ngoài cung cấp: nguyên phụ liệu hoặc
bán chính thành phẩm theo mẫu và định mức cho trước. Bên nhận gia công
trong nước tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm theo yêu cần của khách. Toàn
bộ sản phẩm làm ra bên nhận gia công sẽ giao lại cho bên đặt gia công để nhận
tiền công.
Như vậy, hoạt động gia công xuất khẩu là quan hệ hợp tác giữa hai hay
nhiều bên để sản xuất ra hàng hóa phục vụ cho xuất khẩu. Trong mối quan hệ
này, bên nhận gia công có lợi thế về nhân lực nhân tổ chức quá trình sản xuất
sản phâm rthoe hợp đồng sau đó sẽ trả sản phẩm hoàn chỉnh cho bên đặt gia

công để lấy tiền công.
1.2.2. Đặc điểm của gia công quốc tế


- Gia công quốc tế là phương thức ủy thác gia công, trong đó hoạt động
xuất nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất.
- Trong quá trình gia công, người nhận gia công trong nước bỏ ra lao
động, tiền chi phí gia công là thu lao lao động. Do đó có thể nói gia công hàng
may mặc xuất khẩu là hình thức mậu dịch lao động, hình thức xuất khẩu lao
động tại chỗ.
- Gia công quốc tế là phương thức buôn bán gia công “ hai đầu ở ngoài”
nghĩa là thị trường nước ngoài vừa là nơi cung cấp nguyên vật liệu đồng thời
cũng là thị trường tiêu thụ sản phẩm may mặc đó.
- Gia công quốc tế có những đặc điểm khác với hình thức mua nguyên vật
liệu và bán thành phẩm trong xuất khẩu trực tiếp (mua đứt bán đoạn):
Thứ nhất, không có sự chuyển dịch quyền sở hữu, hoặc nếu có sự chuyển
dịch quyền sở hữu trong nhập khẩu nguyên liệu nhưng chún đều thuộc một
cuộc giao dịch, các việc có liên quan đều được quy định trong cùng một hợp
đồng. Gia công hàn may mặc xuất khẩu thuộc về ủy thác gia công, dó đó người
cung uwgs nguyên liệu lại chính là người tiếp nhận thành phẩm.
Thứ hai, trong hoạt động gia công quốc tế, sản phẩm làm ra do bên đặt
gia công tiêu thụ, bên nhận gia công chỉ tổ chức sản xuất không phải chịu rủi ro
trong quá trình tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, lợi nhuận thu được từ hoạt động
này không cao, do số tiền gia công chỉ là tiền thù lao lao động.
1.2.3. Các hình thức gia công hàng may mặc xuất khẩu
1.2.3.1.

Căn cứ vào quyền sở hữu nguyên vật liệu

- Hình thức nhận nguyên liệu giao thành phẩm: Bên đặt gia công giao

nguyên vật liệu và phụ kiện cho bên nhận gia công, sau một thời gian ký kết sẽ
thu hồi thành phẩm hàng may mặc theo như quy cách và tài liệu đã phê duyệt
và trả phí gia công cho bên nhận gia công theo như thoả thuận. Hình thức này
trước đây được sử dụng đối với các nước kém phát triển không đủ máy móc
thiết bị kỹ thuật mà phải nhờ vốn của bên đặt gia công có khi cả về kỹ thuật.


- Hình thức mua đứt bán đoạn: Dựa trên hợp đồng mua bán với nước
ngoài, bên đặt gia công bán đứt nguyên phụ liệu cho bên nhận gia công, như
vậy quyền sở hữu nguyên liệu sẽ được chuyển sang bên nhận gia công. Sau
một thời gian sản xuất, bên đặt gia công sẽ mua lại toàn bộ sản phẩm theo như
định mức đã duyệt với số tiền phải trả là toàn bộ chi phí mua nguyên vật liệu
và giá gia công được quy định trong hợp đồng. Phương thức này ngày càng
được áp dụng nhiều với các nước đang phát triển vì nó vừa tiết kiệm cho bên
đặt gia công vừa thuận lợi cho bên nhận gia công.
- Hình thức kết hợp: Đây là phương thức phát triển cao nhất của hoạt
động gia công xuất khẩu, được áp dụng khi trình độ kỹ thuật, thiết kế mẫu mã
của bên nhận gia công đã phát triển cao. Khi đó, bên đặt gia công chỉ giao mẫu
mã và các thông số kỹ thuật của sản phẩm, còn bên nhận gia công tự lo liệu
nguyên vật liệu, tự tổ chức quá trình sản xuất gia công theo yêu cầu của khách
hàng. Bên nhận gia công hâu như chủ động hoàn toàn trong quá trình gia công
sản phẩm, phát huy được lợi thế về nhân công, công nghệ sản xuất nguyên phụ
liệu trong nước.
1.2.3.2.

Căn cứ theo giá gia công

- Hợp đồng thực chi, thực thanh: Bên nhận gian công thanh toán cới bên
đặt gia công toàn bộ những chi phí thực tế của mình cộng với thù lao gia công.
- Hợp đồng khoán: Trong đó người ta xác định mức cho mỗi sản phẩm

bao gồm chi phí định mức và thù lao định mức. Dù chi phí thực tế của bên
nhận gia công là bao nhiêu đi nữa thì hai bện vẫn thanh toán cới nhau theo giá
định mức đó.
1.2.3.3.

Căn cứ theo số bên tham gia quan hệ gia công

- Gia công hai bên: Trong đó có hai bên tham gia quan hệ gia công: bên
đặt gia công và bên nhận gia công
- Gia công nhiều bên: Trong đó bên nhận gia công là một số doanh nghiệp
mà sản phẩm gia công của đơn vị trước là đối tượng gia công của đơn vị sau,


còn bên đặt gia công chỉ là một. Phương thức này tương đối phức tạp, các đơn
vị nhận gia công cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau thì mới đảm bảo được
tiến độ mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng gia công.
1.2.3.4. Căn cứ theo nghĩa vụ của bên nhận gia công
- CM (Cutting and making): bên nhận gia công chỉ tiến hành pha cắt, chế
tạo và chỉnh trang sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công.
- CMP (Cutting, making and packing): sau khi hoàn thành cắt và may sản
phẩm, bên nhận gia công còn đóng gói sản phẩm như đã quy định trong hợp
đồng.
- CMPQ (Cutting, making, packing and quota): Ngoài việc cắt, may và
đóng gói sản phẩm, bên nhận gia công còn phải trả phí hạn ngạch theo quy
định đối với những mặt hàng được quản lý bằng hạn ngạch.
Dù áp dụng hình thức gia công nào thì mối quan hệ giữa bên đặt gia công
và bên nhận gia công cũng cần được xác định rõ ràng trong hợp đồng gia công,
trong đó quyền hạn và nghĩa vụ mỗi bên đều được quy định cụ thểm rõ ràng và
chặt chẽ.
1.2.3.5. Căn cứ theo mức độ cung cấp nguyên vật liệu

- Bên nhận gia công nhận toàn bộ nguyên phụ liệu bán thành phẩm: Bên
đặt gia công cung cấp 100% nguyên phụ liệu. Trong mỗi lô hàng đều có bảng
định mức nguyên phụ liệu chi tiết cho từng loại sản phẩm mà hai bên đã thỏa
thuận và được cấp quản lý xét duyệt.
- Bên nhận gia công chỉ nhận nguyên vật liệu chính theo định mức, còn
nguyên liệu phụ, phụ liệu thì tự khai thác theo yêu cầu của khách hàng.
- Bên nhận gia công không nhận bất cứ nguyên phụ liệu nào từ khách
hàng mà chỉ nhận tiền để mua nguyên liệu theo yêu cầu từ bên đặt gia công.
1.2.4. Một số tiêu chí phân tích hoạt động gia công
-

Doanh thu gia công (TR)
TR = Pi * Qi


Trong đó: Pi: Đơn giá công công của sản phẩm i
Qi: Số lượng sản phẩm i
-

Chi phí gia công (TC): Chi phí gia công bao gồm các cho phí phát sinh trong
quá trình sản xuất như chi phí nhân công, chi phí nguyên vật liệu cung ứng, chi
phí bán hàng,… (trừ chi phí nguyên vật liệu chính)

-

Lợi nhuận gia công (P): Lợi nhuận gia công là toàn bộ khoản tiền thu được
sau khi lấy doanh thu gia công trừ đi chi phí gia công.
P = TR – TC
1.2.5. Hợp đồng gia công
1.2.5.1.


Khái niệm hợp đồng gia công hàng hóa xuất khẩu

Hợp đồng gia công hàng xuất khẩu là sự thỏa thuận giữa hai bên đặt gia
công và nhận gia công. Trong đó, bên đặt gia công là một cá nhân hau một tổ
chức kinh doanh ở nước ngoài. Còn bân nhận gia công Việt Nam được hiểu:
thương nhân nhân Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế được phép nhận gia
công cho các thương nhân nước ngoài, không hạn chế số lượng, chủng loại
hàng gia công.
Thông thường, hợp đồng gia công có những quy định về:
-

Loại hàng gia công.

-

Nguyên phụ liệu, định mức của chúng.

-

Thời gian, phương thức cung cấp, giao nhận nguyên phụ liệu.

-

Đào tạo nhân công.

-

Thời gian, phương thức giao nhận sản phẩm.


-

Tiền gia công và phương thức thanh toán.

-

Các quyền lợi và nghĩa vụ của các bên.
1.2.5.2.

Quy trình thực hiện hợp đồng gia công hàng hóa xuất khẩu


Ký kết
hợp
đồng

Nhận
nguyên
phụ liệu

Cắt,
may
thành
phẩm

Xuất
Phúc tra
hàng
Hình 1.1. Trình
tự thực hiện hợp đồng gia công


Kiểm
tra

Hoàn
thiện

Đây là quy trình mang tính chung nhất cho việc thực hiện hợp đồng gia
công hàng may mặc của công ty, mỗi công đoạn bao gồm nhiều công việc khác
nhau. Tuy từng đơn hàng với mỗi loại mặt hàng khác nhau sẽ có thêm những
công việc cụ thể để hoàn chỉnh đơn hàng theo yêu cầu của từng khách hàng.
Một đặc trưng nổi bật của gia công hàng may mặc đó là sau khi sản phẩm
hoàn thiện được bộ phận quản lý chất lượng sản phẩm của công ty kiểm tra thì
các sản phẩm này phải để cho phía khách hàng kiểm tra lại rồi sau đó mới được
xuất hàng. Tuy việc này làm cho quá trình thực hiện hợp đồng kéo dài thêm
một công đoạn nữa nhưng nó giúp phát hiện kịp thời những lỗi sai hỏng để có
những biện pháp khắc phục ngay từ khi sản phẩm còn ở trong xưởng. Mặt
khác, việc làm này giúp cho công ty tránh khỏi tình trạng xuất khẩu hàng sang
nước bạn rồi lại bị trả lại, như vậy sẽ mất một khoản chi phí rất lớn.
1.2.6. Tổng quan tình hình gia công may mặc xuất khẩu của Việt Nam
1.2.6.1. Thực trạng phát triển

Giai đoạn từ 1955- 1980, đây là giai đoạn hình thành các doanh nghiệp
nhà nước, cơ sở vật chất kỹ thuật nhỏ bé, thô sơ, chủ yếu làm hàng xuất khẩu
thủ công. Do vậy mặt hàng trong thời kỳ này hết sức giản đơn như: áo sơ mi,
quần áo bảo hộ lao động, giầy vải và da, len mỹ nghệ được xuất sang thị trường
các nước trong khối SNG và Liên Xô (cũ). Phương thức gia công xuất khẩu
này là việc bán hàng cho các nước XHCN theo nghị định thư giữa hai chính
phủ và được cụ thể hoá bằng nghị định thư thương mại do Bộ Ngoại Thương



ký kết. Bạn hàng không có nghĩa vụ cung cấp nguyên phụ liệu để sản xuất
những mặt hàng đó.
Giai đoạn 1981 - 1990, Việt Nam chính thức làm hàng gia công xuất
khẩu, bạn hàng có nghĩa vụ cung cấp nguyên phụ liệu tương ứng với số lượng
đặt hàng. Cùng với việc đổi mới phương thức gia công, là việc đổi mới trang
thiết bị, quy trình công nghệ trong sản xuất, lắp rắp thêm nhiều máy chuyên
dụng. Giai đoạn này bạn hàng lớn nhất của Việt nam vẫn là Liên Xô (cũ), khối
SNG đồng thời cũng có thêm một số bạn hàng mới đặt gia công như Pháp,
Thuỵ Điển.
Đầu thập kỷ 90 do sự biến động về kinh tế, chính trị của nhà nước Liên
Xô (cũ) và các nước XHCN, Đông Âu bị sụp đổ kéo theo đó là sự xoá bỏ,
ngừng ký kết các nghị định thư về hợp tác sản xuất hàng gia công may mặc.
Đây là thời kỳ khó khăn đối với nước ta, hoạt động sản xuất gia công may mặc
xuất khẩu suy giảm. Nhưng do có sự chuyển hướng sản xuất kinh doanh sang
các thị trường khác và đổi mới về trang thiết bị máy móc kỹ thuật hiện đại,
cùng với đội ngũ cán bộ kỹ thuật năng động, công nhân kỹ thuật có tay nghề
cao được đào tạo chính quy nên đã đáp ứng được yêu cầu về kỹ thuật, chất
lượng hàng gia công may mặc xuất khẩu cho các nước.
Việc nước ta chính thức gia nhập ASEAN vào tháng 7/1995, ký kết hiệp
định khung hợp tác với EU và bình thường hoá quan hệ với Mỹ đã có tác động
thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với cộng đồng quốc tế và tạo
điều kiện thuận lợi để hoạt động gia công xuất khẩu phát triển mạnh mẽ, tạo đà
phát triển cho ngành dệt may Việt Nam. Từ đó đến nay ngành gia công may
mặc xuất khẩu của Việt Nam đã có thời gian thử thách và thực sự đã trưởng
thành với những công ty hàng đầu như: Công ty may Việt Tiến, Công ty may
Thăng Long, Công ty may 10, ...
Ngoài ra, thông qua các cuộc tiếp xúc, ký kết hợp đồng mua bán, tiến
hành hội thảo với khách hàng về những vấn đề của sản phẩm, từ đó có thể
khẳng định hàng may mặc Việt Nam đã đạt được những bước tiến tốt đẹp. Cụ



thể, năm 2000 ngành dệt may Việt Nam đạt kim ngạch xuất khẩu 1,9 tỷ USD,
trong đó, gia công xuất khẩu chiếm trên 50% tổng kim ngạch. Năm 2001, mặc
dầu đây là một năm đầy khó khăn nhưng kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt
may vẫn đạt trên 2 tỷ USD. Năm 2002 đánh dấu bước phát triển đáng kể của
ngành dệt may Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đạt 2,75 tỷ USD,
tăng 36% so với năm 2001, vượt mức kế hoạch đề ra là 12,5% và trong 8 tháng
đầu năm 2003, kim ngạch xuất khẩu của ngành tăng 57,9%. Đây là mức tăng
trưởng cao nhất từ trước tới nay, là kết quả hết sức khích lệ và là cơ sở tin cậy
để toàn ngành dệt may phấn đấu đạt mục tiêu đề ra trong chiến lược phát triển
2001-2010.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan đã đạt được, ngành dệt may
Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động gia công xuất khẩu cũng cần
phải tiếp tục chuẩn bị sẵn sàng đón nhận những thách thức khắc nghiệt trong
những năm tiếp theo. Thực tế là chỉ còn khoảng hơn hai năm nữa Việt Nam đã
phải hội nhập đầy đủ vào Khu vực Mậu dịch Tự do Đông Nam Á (AFTA) và
cũng chỉ còn hơn một năm nữa hiệp định hàng dệt may trong khuôn khổ WTO
sẽ được thực hiện hoàn toàn. Thương mại thế giới bước vào giai đoạn mới, giai
đoạn tự do thương mại hàng dệt may.
Việc cường quốc xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới là Trung Quốc đã
trở thành thành viên của WTO càng làm gia tăng mối e ngại về khả năng cạnh
tranh của các nhà cung cấp dệt may nhỏ đối với giai đoạn sau 2004. Để có thể
tiếp cận được thị trường xuất khẩu thế giới, các nước chưa phải là thành viên
WTO đang khẩn trương đàm phán để gia nhập tổ chức này. Campuchia, nước
láng giềng của Việt Nam cũng gia nhập WTO trong tháng 9. Song song với
việc tăng cường các cam kết đa phương, xu hướng ký kết các hiệp định tự do
song phương cũng đang diễn ra mạnh mẽ: Singapore vừa ký kết hiệp định
thương mại tự do với Mỹ; Philipin, Srilanca, Chilê đang trong quá trình thảo
luận.

Trong bối cảnh đó, ngành Dệt may các nước đều đang phải đối mặt với
những thay đổi đáng kể. Thuế nhập khẩu hàng dệt may vào các thị trường đi


theo hướng ngày càng giảm khiến cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Hàng nhập
khẩu cạnh tranh với hàng sản xuất nội địa ngay tại thị trường nội địa. Yếu tố
quyết định thắng lợi trong cuộc cạnh tranh này chỉ còn là chất lượng, giá cả và
dịch vụ khách hàng.
Đối với hoạt động gia công xuất khẩu, việc tiếp cận thị trường xuất khẩu
thế giới, đặc biệt là thị trường Mỹ đang gặp phải những trở ngại đáng kể. Mặc
dù đang hết sức tích cực đàm phán cố gắng gia nhập WTO trước 2005, song
theo các nhà phân tích, Việt Nam còn rất nhiều việc phải làm. Thêm nữa, xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam vào Mỹ đã chính thức bị khống chế hạn ngạch
với Hiệp định Dệt may Việt Nam – Hoa Kỳ được ký ngày 25-04-2003. Trong
khi hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU và thị trường Mỹ chủ yếu là
dưới hình thức gia công xuất khẩu nên trước tình hình đó hoạt động gia công
xuất khẩu cũng không tránh khỏi những khó khăn chung của ngành dệt may.
Do đó, vấn đề cần giải quyết trước mắt đối với các doanh nghiệp đang tham gia
vào hoạt động gia công xuất khẩu hiện nay là việc chuyển đổi hình thức gia
công xuất khẩu sang làm hàng may mặc xuất khẩu trực tiếp (mua đứt bán
đoạn), để đem về cho doanh nghiệp và đất nước hiệu quả kinh tế cao hơn.
1.2.6.2. Những thuận lợi và khó khăn đối với hoạt động gia công xuất khẩu
a.

hiện nay
Thuận lợi
Chúng ta đang có nhiều lợi thế để đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm dệt

may như: an ninh kinh tế và chính trị của Việt Nam được các tổ chức xếp loại
có uy tín trên thế giới xếp loại nhất trong khu vực Châu Á; hàng dệt may Việt

Nam và nhất là hàng may mặc gia công qua nhiều năm xuất khẩu sang Nhật và
EU đã chứng tỏ uy tín to lớn của các doanh nghiệp Việt Nam đối với các hãng
có tên tuổi trên thế giới cả về chất lượng sản phẩm và thời hạn giao hàng được
đảm bảo.
Đội ngũ lao động ngành Dệt may Việt Nam nói chung dồi dào, có trình độ
tay nghề cao, khéo léo và chăm chỉ. Giá lao động Việt Nam rẻ nhất khu vực
Châu Á, từ 0,16-0,35 USD/giờ, trong khi của Indonesia là 0,32 USD/giờ, Trung


Quốc 0,70 USD/giờ và của Ấn Độ là 0,58 USD/giờ. Hơn nữa, việc giáo dục,
dạy nghề trong thời gian qua đã tạo ra một đội ngũ lao động dự bị có trình độ,
có sức khoẻ tốt đủ sức tiếp thu công nghệ hiện đại để tạo ra những sản phẩm có
đẳng cấp quốc tế đáp ứng mọi nhu cầu cao trên thị trường dệt may thế giới với
giá cạnh tranh.
Những cơ hội to lớn về thị trường quốc tế đang rộng mở. Các thị trường
nước ngoài hiện tại như EU, Nhật Bản đang nới lỏng các quy định, tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp gia công xuất khẩu trong nước phát triển. Tổng
công ty Dệt may Việt Nam đã đạt được thoả thuận hợp tác với tập đoàn Mitsui
của Nhật Bản để mở văn phòng đại diện tại Nhật Bản. Ngoài ra, liên minh
Châu Âu cũng vừa đồng ý tăng hạn ngạch ở một số sản phẩm dệt may của Việt
Nam trong đó có sản phẩm áo jacket, quần âu,… là những sản phẩm chính
truyền thống của các doanh nghiệp gia công xuất khẩu. Không những vậy, cơ
hội mở rộng thị trường cũng rất rộng mở. Một số doanh nghiệp gia công cũng
đã cố gắng mở thêm thị trường xuất khẩu mới như thị trường Châu Phi và bước
đầu cũng đã thu được những kết quả khả quan.
Hiện nay, nhà nước ta đang có chính sách khuyến khích xuất khẩu, nên
miễn thuế đối với những mặt hàng xuất khẩu và miễn thuế nhật khẩu cho
nguyên phụ liệu gia công.
Sự phát triển của hệ thống bưu chính viễn thông giúp các doanh nghiệp có
thể đàm thoại trực tiếp với khách hàng qua telex, fax, internet,… Hơn nữa việc

thu thập thông tin về thị trường nước ngoài cũng trở nên dễ dàng hơn với các
phương tiện truyền thông hiện đại. Sự phát triển của dịch vụ ngân hàng, vận tải
cũng giúp tạo sự thuận lợi về mặt thanh toán, vận chuyển hàng hóa cho doanh
nghiệp.
b.

Khó khăn
Hiện nay các doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở mức độ sản xuất các sản

phẩm rất thông dụng và chủ yếu theo phương thức gia công. Vì vậy, các mặt
hàng dệt may của Việt Nam phải cạnh tranh trực diện với các sản phẩm phổ


×