Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Các phương pháp tâm lý mà điều tra viên có thể sử dụng trong quá trình lấy lời khai của người bị hại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.9 KB, 12 trang )

MỤC LỤC

1


LỜI NÓI ĐẦU
Hoạt động điều tra là một giai đoạn quan trọng của Tố tụng hình sự,
nhằm mục đích xác định tội phạm, tìm ra sự thật khách quan của hành vi
phạm tội.., tạo cơ sở cho việc giải quyết vụ án. Để đạt được mục đích,
điều tra viên phải sử dụng các phương pháp tâm lý một cách phù hợp.
Sau đây chúng em xin trình bày các phương pháp tâm lý mà điều tra
viên có thể sử dụng trong quá trình lấy lời khai của người bị hại:
a. Để hiểu được thái độ của người bị hại đối với việc khai báo.
b. Để giúp người bị hại tái hiện lại những tình tiết khi họ quên hoặc
nhầm lần.

NỘI DUNG
1.
a.

Để hiểu được thái độ của người bị hại đối với việc khai báo.
Phương pháp quan sát
Lấy lời khai của người bị hại là hoạt động điều tra do điều tra viên
tiến hành bằng cách sử dụng các biện pháp tác động đến tư duy, tình
cảm, ý chí của người bị theo quy định của pháp luật, thông qua giao tiếp
2


ngôn ngữ và các phương tiện biểu cảm khác như nét mặt, cử chỉ, ánh
mắt… nhằm thu thập chứng cứ từ lời khai của họ.
Điều tra viên trong quá trình giao tiếp với người bị hại phải quan sát


nét mặt, cử chỉ, hành vi lời nói của bị can để nhanh chóng phát hiện
trạng thái tâm lí của họ. Tuỳ theo trạng thái tâm lí của người bị hại là
bình thường hay bất thường mà điều tra viên phải ra quyết định có nên
xúc tiến việc lấy lời khai như dự định hay hoãn lại. Ví dụ: Nếu quan sát
thấy đồng tử mắt người bị hại giãn ra, mắt mở to nhìn thẳng điều tra
viên, nét mặt bình thản, ngồi với tư thế không gò bó… chứng tỏ người bị
hại đang ở trong trạng thái tâm lí tích cực thì điều tra viên nên sẵn sàng
lấy lời khai của họ. Ngược lại, trong trường hợp người bị hại lúng túng,
hay nhíu mày, không dám nhìn vào người đối diện để khai, lời khai ngập
ngừng, run rẩy…, điều tra viên phải tìm mọi cách để giúp người bị hại
trấn tĩnh hoặc hoãn lại để đợi lần sau lấy lời khai. Nhiều trường hợp
người bị hại cố tình khai gian dối vì sợ bị trả thù hoặc để được hưởng
những lợi ích cá nhân khác, điều tra viên phải phát hiện các dấu hiệu này
nhờ vào phương pháp quan sát để đảm bảo tính khách quan trong quá
trình điều tra.
b.

Phương pháp đàm thoại, phỏng vấn

3


Là phương pháp nhận thức đặc điểm tâm lý của con người thông qua
giao tiếp ngôn ngữ với họ. Bằng cách đặt ra những câu hỏi và dựa vào
trả lời của đối tượng để trao đổi, hỏi thêm nhằm thu thập thông tin về
vấn đề cần nghiên cứu.
Đàm thoại, phỏng vấn phải được diễn ra trong không khí thân mật
chân thành, tin cậy, thoải mái, không gò bó,giữ kẽ và giả tạo. Thông qua
đàm thoại, phỏng vấn có thể hiểu được tâm trạng, cảm xúc, trình độ học
vấn, hứng thú, nhu cầu, thế giới quan, tính cách, khí chất và năng lực

của người bị hại. Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong hoạt
động tư pháp và thường xuyên kết hợp với phương pháp quan sát.
c.

Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp thực nghiệm là phương pháp mà trong đó nhà nghiên
cứu chủ động tạo ra các hiện tượng cần nghiên cứu, sau khi đã tạo ra
điều kiện cần thiết loại trừ yếu tố ngẫu nhiên. Ví dụ: điều tra viên có thể
tiến hành thực nghiệm tìm hiểu thái độ của người bị hại thông qua giao
tiếp được tiến hành tại gia đình hoặc nơi làm việc của họ.

d.

Phương pháp nghiên cứu hồ sơ tài liệu độc lập

4


Các đặc trưng tâm lý của đối tượng (một con người cụ thể, một nhóm
người, tập thể người….) thường được ghi lại dấu ấn trong các tài liệu
độc lập khác nhau. Khái quát các tài liệu độc lập này có thể giúp ta đưa
ra những kết luận nhất định về đối tượng nghiên cứu. Vì tài liệu thu
được là chính thống nên các sự kiện, con số nhận được mang tính chân
thực và tạo điều kiện cho người nghiên cứu tiếp tục phân tích các sự
kiện, hiện tượng một cách khách quan, có hiệu quả. Trong quá trình
nghiên cứu, điều tra viên cần có tác phong làm việc cụ thể tỉ mỉ, khách
quan và thận trọng, không được bỏ qua bất cứ tài liệu nào. Nghiên cứu
theo phương pháp này cho phép kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ
trong lời khai của người bị hại. Và từ đó có thể biết được thái độ của
người bị hại khi khai xem có đúng với những gì trong tài liệu hay không.

e.

Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động
Trong giao tiếp, điều tra viên và người bị hại đều ở trong trạng thái
mong chờ thông tin. Điều tra viên mong thông tin từ người khai để rồi
có những nhận định đúng đắn về vụ án. Còn người bị hại mong tin tức từ
điều tra viên để định hướng khai báo, giải quyết tốt các nhiệm vụ tự duy
đặt ra, khôi phục nhanh chóng mô hình của sự kiện đã xảy ra. Điều tra
viên cần phải nắm được các đặc điểm về cá nhân người bị hại như quan
điểm, xu hướng, trình độ, tính cách, khí chất…. từ đó mới có thể tiến
5


hành xét hỏi và đánh giá đúng chất lượng lời khai của họ. Để có thể làm
được điều đó điều tra viên có thể sử dụng phương pháp phân tích sản
phẩm hoạt động.
Phân tích sản phẩm hoạt động là phương pháp dựa vào kết quả, sản
phẩm của hoạt động do con người làm ra để nghiên cứu các đặc điểm
tâm lý của con người đó, bởi vì tâm lý- ý thức con người được biểu hiện
trong hành vi và hoạt động cụ thể của họ. Căn cứ vào kết quả đó có thể
biết được nhưng hứng thú, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp và trạng thái
tâm lý của đối tượng.
2.

Để giúp người bị hại tái hiện lại những tình tiết cần thiết khi họ

a.

quên hoặc nhầm lẫn.
Phương pháp truyền đạt thông tin

Trong một số trường hợp, sau khi thực hiện hành vi phạm tội, người
bị hại do quá sợ hãi hay bị kích động hoặc trong quá trình điều tra do
khả năng diễn đạt kém trong trạng thái tinh thần không bình tĩnh đã quên
hoặc nhầm lẫn tình tiết của vụ án. Để kích thích trí nhớ của người bị hại,
giúp họ tái hiện được tình tiết mà họ quên hoặc nhầm lẫn, điều tra viên
có thể sử dụng phương pháp truyền đạt thông tin.

6


Phương pháp truyền đạt thông tin là phương pháp mà chủ thể tác
động đưa ra những thông tin có liên quan đến các vấn đề mà người bị tác
động đang quan tâm, nhằm tác động đến tư duy tình cảm, ý chí…của họ.
Từ đó làm xuất hiện những cảm xúc hay làm thay đổi thái độ và hành vi
của người bị tác động. Phương pháp truyền đạt thông tin được sử dụng
rộng rãi trong tất cả các giai đoạn tố tụng.
Đối với phương pháp truyền đạt thông tin, đây là phương pháp sử
dụng những thông tin có ý nghĩa với đối tượng làm phương tiện tác động
đến tâm lý của họ để đạt được những mục đích nhất định. Các thông tin
này, sau khi được tiếp nhận, sẽ đi sâu vào các quá trình trí tuệ, làm thay
đổi nhận thức, làm xuất hiện những xúc cảm và dẫn đến những thay đổi
trong thái độ và hành vi của người tiếp nhận thông tin. Như vậy, đối với
trường hợp điều tra viên muốn kích thích trí nhớ của người bị hại, giúp
họ tái hiện những tình tiết họ quên hoặc nhầm lẫn thì việc tiếp nhận
thông tin sẽ làm tích cực hóa hoạt động trí tuệ của của bị can, làm xuất
hiện trong đầu óc họ những liên tưởng, tạo khả năng nhớ lại tình tiết bị
quên.
Ví dụ: Trong một vụ cướp tài sản người bị hại là chị A. Tuy nhiên,
do trời tối và do yếu tố bất ngờ nên chị A không thể nhớ được mặt của
thủ phạm. Điều tra viên sẽ đưa ra những câu hỏi nhằm mục đích giúp A

7


nhớ lại được những đặc điểm nổi bật của thủ phạm: Khi thủ ra tay có đặc
điểm gì nhận dạng mà người bị hại nhớ không? Người đó thuận tay phải
hay tay trái? Trên tay có vết sẹo hay không? …
Từ những thông tin được truyền đạt từ những câu hỏi của điều tra
viên mà người bị hại từ chỗ mơ hồ về thủ phạm thì có thể phác họa được
hình ảnh cơ bản của thủ phạm.
b.

Phương pháp đặt vấn đề và thay đổi vấn đề tư duy
Phương pháp đặt vấn đề và thay đổi vấn đề tư duy là đặt ra một loạt
câu hỏi chi tiết để khám phá sự thiếu rõ ràng về một khối lượng lớn
thông tin của đối tượng đã đưa ra lời khai không đúng sự thật về sự kiện.
Phương pháp đặt vấn đề và thay đổi vấn đề tư duy thường được sử
dụng trong các trường hợp:
+Khi người cung cấp lời khai quên một số tình tiết của vụ án
+ Khi cần làm thay đổi thái độ, quan điểm và lập trường của đồi
tượng
+Khi người bị tác động khai báo không đúng sự thật

8


Như vậy, trong trường hợp để người bị hại tái hiện lại những tình tiết
cần thiết nhưng họ quên hoặc nhầm lẫn thì phương pháp đặt và thay đổi
vấn đề là một phương pháp có hiệu quả và thường được điều tra viên sử
dụng. Trong trường hợp này, việc đặt ra hàng loạt câu hỏi liên quan làm
sống lại những mối liên hệ thần kinh tạm thời và phục hồi lại những kí

ức trong tình tiết mà họ đã quên.
Người bị hại là người trong cuộc, hơn ai hết hiểu rõ diễn biến vụ án.
Bởi vậy, việc lấy lời khai của người bị hại rất quan trọng góp phần làm
sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án đã xảy ra. Song, không phải lúc
nào họ cũng đủ tỉnh táo để kể lại diễn biến vụ án cho cơ quan điều tra.
Họ thường có tâm lý sợ hãi, căng thẳng vì chịu tác động bởi hành vi
phạm tội của bị can nên khó có thể diễn tả lại sự kiện khách quan đã xảy
ra. Hơn nữa, hành vi phạm tội của bị can luôn mang tính bất ngờ đối với
người bị hại nên sự nhìn nhận sự việc bị hại ít nhiều không rõ ràng,
mạch lạc… Từ đó, yêu cầu khiến họ nhớ lại một cách đúng đắn sự việc
được đặt ra. Phương pháp đặt và thay đổi vấn đề tư duy có thể giúp họ
làm được điều đó.
Điều tra viên, người trực tiếp điều tra vụ án là chủ thể thực hiện
phương pháp đặt và thay đổi vấn đề tư duy. Theo đó, điều tra viên sẽ đặt
ra một loạt câu hỏi có hệ thống liên quan đến vụ án xảy ra. Ví dụ: trong
9


một vụ án cướp giật dây chuyền, người bị hại nói rằng đang chạy xe trên
đường thì bị một thanh niên, tóc để dài (chị ta nghi ngờ là con gái), cao,
đội mũ lưỡi chai, đi xe Dream biển số 54-S4 3679 giật lấy chiếc dây trên
cổ làm chị ngã xe…Trường hợp này, điều tra viên có thể đưa ra một loạt
những câu hỏi như: Hôm ấy chị đi đâu? Hẹn với ai? Lúc mấy giờ? Xảy
ra ở đâu? Hắn mặc áo màu, quần màu gì? Người gầy hay béo? Chị nhìn
thấy hắn qua gương chiếu hậu không? Lúc hắn giật chị thấy mặt hắn
không, như thế nào? Hắn cướp từ phía bên trái, phải, sau? Chị ngã bên
nào? Ngã rồi mới nhìn thấy biển số hay lúc chưa ngã đã nhìn thấy biển
số? Xe hắn đi màu gì, nhìn có cũ, mới không? Trước khi đến địa điểm
xảy ra vụ án, đã từng gặp hắn chưa? …
Để trả lời các câu hỏi đó, người bị hại buộc phải sử dụng những tình

tiết của vụ án đã xảy ra. Từ đó, họ dần liên kết các sự kiện lại, hồi tưởng
lại, đính chính lại lời khai của mình. Ở ví dụ trên, thực tế, kẻ phạm tội là
một người quen của chị đã lừa chị đến địa điểm của hắn. Lợi dụng quãng
đường vắng đã đội tóc giả, cướp giật dây chuyền. Chiếc xe đó không
phải mang biển số 54-S4 3679 mà là 54-S4 3976 (vì chị ta ngã nên nhìn
nhầm…)
Để đạt được hiệu quả cao thì các câu hỏi phải mang tính hệ thống,
logic, có liên quan đến vụ án. Những câu hỏi đó tập trung vào sự nhìn
10


nhận của người bị hại khi vụ án xảy ra mà họ không thể nhớ nổi hoặc
nhầm lẫn chi tiết nào đó. Những câu hỏi đó phải nhằm loại bỏ sự vô lý
trong lời khai của người bị hại, hướng tới nguyên do của sự sai sót,
nhầm lẫn trong nhìn nhận sự việc và hướng tới khả năng xâu chuỗi các
sự kiện để người bị hại thống nhất diễn biến sự việc…
KẾT LUẬN
Các phương pháp tác động tâm lý được sử dụng rộng rãi trong hoạt
động tố tụng, giúp cho hoạt động tố tụng được tiến hành thuận lợi và
khách quan hơn. Tuy nhiên, chúng ta không thể vận dụng một cách tràn
lan mà cần biết vận dụng từng phương pháp vào từng giai đoạn một cách
khoa học để đạt được mục đích cao nhất, phù hợp với yêu cầu của hoạt
động tư pháp.
Trên đây là một số ý kiến của nhóm em. Bài làm còn nhiều thiếu sót,
rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô. Em xin chân
thành cảm ơn!

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
11



1.

2.

3.
4.

Giáo trình Tâm lý học Tư pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội,
Nxb, CAND, 2009.
/> />“Tâm lý học tư pháp: hướng dẫn trả lời lý thuyết, giải bài tập tình
huống và trắc nghiệm” , Chu Liên Anh – Dương Thị Loan, 2010.

12



×