Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiểu luận Môn Chính trị học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.94 KB, 21 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Sau năm 1975, đất nước ta bước vào thời kỳ hòa bình, thống nhất, tiến lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội…Mọi mặt của đời sống nhân dân đã có sự chuyển
biến tích cực. Năm 1986, đất nước bước vào công cuộc đổi mới, mở của hội nhập
kinh tế thế giới, từ vị trí là một nước chậm phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng
đất nước ta từng bước tiến lên và nằm trong các nước người dân có mức thu nhập
trung bình trên thế giới “Công cuộc Đổi mới kinh tế và chính trị bắt đầu từ năm
1986 đã đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới với thu
nhập bình quân đầu người khoảng 100 đô la Mỹ, trở thành quốc gia thu nhập trung
bình thấp chỉ trong vòng 25 năm với thu nhập đầu người trên 2.000 USD năm
2014” (Đánh giá của World Bank). Công lao đó là sự góp sức chung của nhân dân,
dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Tuy nhiên bên cạnh đó, đi đôi với những
thành tựu đáng ghi nhận thì còn đó nhiều băn khoăn trăn trở mà chúng ta đã và
đang vấp phải, tệ nạn tham ô, tham nhũng đã trở thành “Tứ đại họa” có nguy cơ
ảnh hưởng đến đất nước ta “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ chệch
hướng xã hội chủ nghĩa ; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội; âm mưu và hành
động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch” (Hội nghị Đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ khoá VII từ ngày 20-25/1/1994).
Nạn tham ô, tham nhũng giờ không chỉ còn là vấn đề xuất hiện ở một vài
nơi, trong một số bộ ngành, một số phần tử tha hóa biến chất trong bộ máy Nhà
nước, địa phương…; mà dường như chỉ cần động đến là chúng ta thấy đâu đâu
cũng xuất hiện, từ những người ở địa phương vùng núi đến miền đông bằng…từ
cắt xén thời gian làm việc cho đến cắt xén tiền của Nhà nước, từ những người làm
công ăn lương cho đến người có chức quyền. Tham ô tham nhũng đã trở thành


“căn bệnh mãn tính” cần phải có phương thuốc đặc trị đúng mới có thể đưa nước ta
phát triển vững chắc trong tương lai.


“Lợi ích nhóm” và tệ nạn tham ô tham nhũng có trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, vì vậy, nó có cả trong công tác xây dựng Đảng nói chung, trong công
tác tổ chức, cán bộ nói riêng với những biểu hiện đa dạng và phức tạp. Vì vậy cần
sớm có chủ trương, giải pháp phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời những
biểu hiện này. Từ những lý do trên tôi xin chọn đề tài “Nhận diện biểu hiện “Lợi
ích nhóm” trong công tác tổ chức, cán bộ hiện nay và giải pháp khắc phục”
làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích:
+ Phân tích, nhận diện những biểu hiện của “lợi ích nhóm” trong tổ chức
công tác cán bộ của Đảng hiện nay.
+ Một số đề xuất kiến nghị, khắc phục trong công tác chống các tệ nạn tham
nhũng và “lợi ích nhóm” .
- Nhiệm vụ:
+ Phân tích, trình bày, lấy dẫn chứng về những nội dung biểu hiện của “lợi
ích nhóm” hiện nay trong công tác tổ chức, cán bộ. Từ đó, nêu ra những đề xuất và
biện pháp khắc phục của vịêc nghiên cứu vấn đề trên.
3. Kết cấu của tiểu luận bao gồm:

Phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và phần nội dung với 2 mục:
Chương 1: Những nét khái quát về “lợi ích nhóm” cũng như những biểu
hiện của “lợi ích nhóm” trong tổ chức cán bộ hiện nay .
Chương 2: Một số kiến nghị, đề xuất giải pháp khắc phục “lợi ích nhóm”


B. NỘI DUNG
Chương 1: Những nét khái quát về “lợi ích nhóm” cũng như những
biểu hiện của “lợi ích nhóm” trong tổ chức cán bộ .
1. Quan niệm “ lợi ích kinh tế” và “lợi ích nhóm”

1.1. Quan niệm về lợi ích kinh tế.
Trên thế giới khi đề cập về vấn đề lợi ích thì chúng ta hiểu đó có thể là lợi
ích về sức khỏe, lợi ích về danh vọng…Ở đây tôi chỉ xin đề cập đến phạm vi hẹp
hơn đó là lợi ích kinh tế. Theo quan điểm của A. Smit – Nhà kinh tế học người anh
đã đưa ra quan niệm lợi ích kinh tế: Con người ai cũng vì lợi ích cá nhân, đó là tư
lợi, ham giàu có nên mọi hoạt động của họ đều vì mục đích vị kỷ và ông tin rằng
chính lòng vị kỷ của cá nhân sẽ đưa tới sự trù phú của xã hội. ông nói:“Quốc gia sẽ
trở nên phồn thịnh nếu mọi cá nhân không ngừng nỗ lực để cải thiện sinh hoạt của
riêng mình…người bán thịt, người nấu rượu, người làm bánh mang đồ ăn đến cho
chúng ta chính là vì lợi ích riêng của họ, chúng ta kêu gọi không phải bằng lòng
nhân từ của họ, mà kêu gọi sự ích kỷ của họ, chúng ta không bao giờ nói với họ về
những nhu cầu của chúng ta, mà chỉ nói với họ về mối tư lợi của họ”.
1.2. Quan niệm về “lợi ích nhóm”
“Lợi ích nhóm” là một cụm từ, một thuật ngữ đang được nhắc đến nhiều
trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4
khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, đang làm cho
nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu, nhà quản lý và các tầng lớp nhân dân quan
tâm nhìn nhận, mổ xẻ dưới nhiều cách nhìn với các cấp độ, góc độ khác nhau. Lợi
ích thường liên kết con người với nhau, và vì vậy phân chia ra các nhóm, giai tầng
khác nhau. Chính vì thế mà có lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, hay lợi ích giai cấp...
Từ “lợi ích nhóm” có thể hình thành nên nhóm lợi ích, nhóm xã hội. Mặt trái của
nền kinh tế thị trường làm xuất hiện ngày càng nhiều nhóm lợi ích khác nhau, các


nhóm này vừa có thể có lợi ích chung, vừa có lợi ích riêng, có lợi ích tích cực, có
lợi ích tiêu cực.
Như vậy, có thể hiểu lợi ích nhóm như sau: Lợi ích nhóm là lợi ích của một
nhóm người liên kết với nhau, hỗ trợ nhau, giúp đỡ lẫn nhau để cùng nhau có lợi
ích và bảo vệ lợi ích đó. Xét về mục đích và bản chất, lợi ích nhóm có thể chia
thành lợi ích nhóm tích cực và lợi ích nhóm tiêu cực. Lợi ích nhóm tích cực là lợi

ích chính đáng, hợp pháp của một nhóm người. Việc hình thành nó là nhu cầu
khách quan, chính đáng, tự nhiên trong xã hội tồn tại nhiều giai cấp, nhiều tầng
lớp, nhiều nhóm người với những đặc điểm, hoàn cảnh khác nhau. Còn lợi ích
nhóm tiêu cực là “lợi ích” mà nhóm thu được nhằm vào các “tình huống” hay “phi
vụ” nhạy cảm, không lành mạnh, mờ ám, thiếu minh bạch. Bài viết giới hạn ở việc
phân tích những biểu hiện của lợi ích nhóm tiêu cực (gọi tắt là lợi ích nhóm) trong
công tác tổ chức, cán bộ.
Lợi ích chính đáng (của một người, một nhóm) là lợi ích phù hợp với lợi ích
chung của quốc gia, dân tộc, góp phần và bổ trợ cho lợi ích chung; không mâu
thuẫn, không gây thiệt hại cho lợi ích chung. Lợi ích chính đáng luôn là mục tiêu
và động lực đối với hoạt động của con người, cần được tôn trọng, bảo vệ và
khuyến khích. Quên điều này, không quan tâm đến lợi ích chính đáng của con
người, ngăn cản các lợi ích chính đáng ấy, thì sự lãnh đạo và quản lý xã hội không
thể thành công, mà trước sau gì nhất định cũng sẽ thất bại.
Ngược lại, “lợi ích nhóm” (theo nghĩa tiêu cực) thì mâu thuẫn với lợi ích
chung của quốc gia, dân tộc; gây hại cho lợi ích chung, cho cộng đồng, làm suy
yếu và gây tổn thất nghiêm trọng đối với lợi ích chung. “Lợi ích nhóm” là nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến việc hình thành các “nhóm lợi ích”. Đặc điểm của các
“nhóm lợi ích” là có sự kết hợp cùng mục tiêu lợi ích, cùng hành động, cùng phân
chia lợi ích, giữa những người có nhiều tiền với những người có quyền lực trong
nhà nước và trong đảng cầm quyền. Có tiền chuyển hóa thành có quyền lực. Có


quyền lực chuyển hóa thành có tiền. Người có tiền sẽ có quyền lực và người có
quyền lực sẽ có tiền. Họ cùng nhau hành động để có quyền lực và có tiền ngày
càng nhiều hơn. Đồng tiền cộng với quyền lực tạo thành sức mạnh khống chế, lũng
đoạn tổ chức và xã hội. Nhận thức sự quan trọng của thông tin, “nhóm lợi ích” còn
móc nối, “kết nạp”, kết hợp với một số nhóm truyền thông không lành mạnh để tác
động chi phối dư luận theo hướng có lợi cho “nhóm lợi ích” và xuyên tạc vu cáo
những người, những doanh nghiệp không cùng nhóm để tranh quyền lực và lợi ích.

“Lợi ích nhóm” sẽ kéo theo và song hành với tham vọng quyền lực và tham vọng
tiền bạc.
2. Những biểu hiện của “lợi ích nhóm” trong tổ chức cán bộ hiện nay.
2.1. “Lợi ích nhóm” và những biểu hiện của “lợi ích nhóm trong xã hội
nước ta hiện nay.
Ở nước ta, trong lãnh đạo, người đầu tiên công khai hóa và nêu lên sự cần
thiết phải đấu tranh với “lợi ích nhóm” là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (phát
biểu tại Hội nghị Trung ương 3 khóa XI). Sau Tổng Bí thư, một vài đồng chí lãnh
đạo khác của Đảng và Nhà nước cũng có nói đến, mặc dù chỉ mới thoáng qua và
nói chung, chưa có chỉ đạo gì quyết liệt trong việc ngăn ngừa, phòng chống “lợi
ích nhóm”. Trong giới khoa học của Việt Nam đã có một số nghiên cứu, chưa
nhiều và mới ở dạng lý thuyết chung, chưa gắn với thực tế tình hình nước ta. Các
nhà nghiên cứu trên thế giới đã có nhiều tài liệu nghiên cứu vấn đề này, gắn với
quá trình phát triển của một số quốc gia. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa
XI của Đảng Cộng sản Việt Nam “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay” đã xác định nhiệm vụ quan trọng phải đấu tranh chống “lợi ích nhóm”.
Hiện nay, “lợi ích nhóm” và hoạt động của “nhóm lợi ích” ở nước ta đã và
đang diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực quan trọng. Đó là trong quản lý doanh nghiệp
nhà nước, quản lý dự án đầu tư, nhất là đầu tư công; trong quản lý ngân sách, thuế,
quản lý ngân hàng - tín dụng; trong quản lý các nguồn vốn và chương trình đầu tư


về xã hội, trong quản lý tài sản, đất đai, bất động sản, tài nguyên khoáng sản, xuất
nhập khẩu; trong công tác cán bộ, quản lý biên chế; trong quản lý việc cấp các loại
giấy phép; kể cả trong các vụ án, trong tham mưu về chủ trương, chính sách và
trong điều hành. Đi sâu vào nghiên cứu các vụ tiêu cực, tham nhũng có tổ chức,
các vụ, việc mà dư luận có nhiều ý kiến thì sẽ có nhiều thông tin cụ thể về tình
hình “lợi ích nhóm” ở Việt Nam. Tức là tình hình xấu đã lan rộng, khá phổ biến và
khá ngang nhiên, nghiêm trọng đến mức báo động.
“Lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” có tác hại gì? Trước nhất, nó làm cho đất

nước bị tổn thất các nguồn lực và giảm hiệu quả đầu tư, bị kìm hãm không thể phát
triển nhanh, thậm chí không thể phát triển bình thường, mất sức sống, nền kinh tế
sẽ bị khiếm khuyết, dị tật, kinh tế “ngầm”, thị trường “ảo”, chụp giật, hoang dã,
khống chế và “thanh toán” lẫn nhau để giành độc quyền, làm hỏng môi trường phát
triển lành mạnh và bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp. Hầu hết các nước bị
“bẫy thu nhập trung bình” kéo dài nhiều thập niên, thậm chí kéo dài hàng thế kỷ,
loay hoay mãi, lùng bùng mãi, không làm sao thoát ra được để trở thành một quốc
gia phát triển là do “lợi ích nhóm” - nguyên nhân trực tiếp và hàng đầu. Với sự chi
phối của các “nhóm lợi ích”, nguồn lực quốc gia bị phân bổ và sử dụng không vì
lợi ích chung của quốc gia, mà nhằm hướng phục vụ cho “lợi ích nhóm”; việc bố
trí đầu tư, sắp xếp dự án và kể cả ban hành chính sách, điều hành xử lý công việc
cũng vậy.
Nước ta sau mấy chục năm công nghiệp hóa, đến nay năng suất lao động xã
hội vẫn thấp (vào loại thấp nhất khu vực Đông Á), hiệu quả đầu tư kém, nợ nần
nhiều mà chưa rõ trả bằng cách nào, khi mà hiệu quả đầu tư (sử dụng nguồn vay
ấy) còn kém; thu nhập thấp, sản phẩm công nghiệp xuất khẩu hầu như không có,
các chương trình nội địa hóa không thành công, chủ yếu là làm thuê và cho thuê
mặt bằng, nền kinh tế Việt Nam đang rơi vào “bẫy thu nhập trung bình thấp”. Nhìn


lại nguyên nhân các nước bị “bẫy thu nhập trung bình” và nhìn lại tình hình nền
kinh tế của ta thì thật đáng lo ngại.
Hậu quả thứ hai do “nhóm lợi ích” gây ra là nhất định sẽ chệch hướng khỏi
mục tiêu xã hội chủ nghĩa chân chính (và cũng xa lạ với chủ nghĩa tư bản hiện đại),
đất nước đi theo một con đường khác, sang “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, đó là con
đường không có tiền đồ và rất nguy hiểm, không có tự do và dân chủ (vì bị “nhóm
lợi ích” độc quyền về kinh tế và chính trị thâu tóm, lũng đoạn), để lại hậu quả lâu
dài mà dân tộc phải gánh chịu. Chúng ta mong muốn xây dựng một xã hội trên nền
tảng của các giá trị nhân cách thì “nhóm lợi ích” lại thúc đẩy đồng tiền cộng với
quyền lực chiếm địa vị thống trị. Thực chất “nhóm lợi ích” là đồng tiền (tư bản) chi

phối quyền lực, trực tiếp tham gia giành và chiếm giữ quyền lực, làm cho quyền
lực không còn là của nhân dân, cũng có nghĩa là chệch khỏi mục tiêu xã hội chủ
nghĩa (chân chính). “Lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” có từ rất sớm, ít nhất là từ
buổi đầu của thời kỳ phong kiến; nhưng sang thời kỳ tư bản chủ nghĩa thì nó phát
triển và diễn biến phức tạp hơn, kể cả trình độ, quy mô và tính chất. Trong Chủ
nghĩa tư bản “hoang dã”, “mông muội”, các “nhóm lợi ích” hoạt động phổ biến,
công khai, tích lũy và tập trung tư bản bằng mọi thủ đoạn, kể cả bạo lực, giết
người.
Hậu quả thứ ba do “nhóm lợi ích” gây ra là sự suy đồi về văn hóa, đạo đức
xã hội do hệ giá trị bị đảo lộn (đồng tiền và quyền lực chiếm vị trí trung tâm và cao
nhất, trong khi nhân cách bị đẩy sang bên cạnh và xuống hàng thứ yếu) và do tha
hóa quyền lực (tác nhân mạnh nhất). Việc phân hóa giàu - nghèo sẽ ngày càng lớn,
tạo ra bất bình đẳng và mâu thuẫn xã hội. Hỏng văn hóa và gây ra mâu thuẫn xã
hội thì hậu quả khôn lường, thâm sâu và lan tỏa rộng trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, ảnh hưởng đến nền tảng xã hội và sức mạnh nội sinh của dân tộc.


Hậu quả thứ tư do “nhóm lợi ích” gây ra là làm lẫn lộn thật - giả, đúng - sai,
khác nhau giữa lời nói và việc làm, đường lối đúng không vào được cuộc sống...;
làm mất lòng tin của nhân dân đối với đảng cầm quyền và đối với nhà nước, tức là
làm hỏng nền tảng chính trị, dẫn đến mất ổn định chính trị, mất sức mạnh của một
quốc gia, và từ đó các thế lực xâm lăng từ bên ngoài có thể lợi dụng thời cơ để xâm
lấn, chèn ép, dẫn đến nguy cơ mất độc lập, thậm chí là mất nước.
Hậu quả thứ năm do “nhóm lợi ích” gây ra là chính sách sử dụng cán bộ méo
mó, phát triển nạn “chạy chức”, “chạy quyền”, sắp xếp cán bộ trên cơ sở “quan hệ,
tiền tệ, hậu duệ”, chứ không phải sử dụng người có tài đức, làm hư hỏng đội ngũ
cán bộ; là sự phát triển, sự gia tăng các hoạt động bè phái, mất đoàn kết nội bộ, phá
vỡ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của đảng cầm quyền, từ đó dẫn đến đảng
cầm quyền mất vai trò lãnh đạo, tan rã hoặc bị “nhóm lợi ích” thâu tóm làm thay
đổi hoàn toàn bản chất, không còn là đảng phục vụ nhân dân, và nhà nước cũng hư

hỏng, biến chất, không còn là nhà nước của nhân dân, mà thành bộ máy cai trị,
tham nhũng và bóc lột nhân dân, từ đó, nòng cốt chính trị đổ vỡ, bất ổn định chính
trị từ bên trong.
Tình hình “nhóm lợi ích” ở Việt Nam đã đến mức độ nào? đang và sẽ đi về
đâu? Như chúng ta đã biết, trước đây trong lịch sử nhiều lần các triều đại phong
kiến Việt Nam bị sụp đổ, kể cả có lúc đất nước bị chia cắt là do “nhóm lợi ích” gây
nên. Ngày nay, tuy chưa có các công trình nghiên cứu cấp quốc gia một cách thật
đầy đủ và khoa học về “lợi ích nhóm ở Việt Nam”, nhưng qua thông tin, qua dư
luận xã hội, qua nghiên cứu của một số chuyên gia và cảm nhận của nhiều người,
thì tình hình “lợi ích nhóm” đã khá nghiêm trọng, tương đối phổ biến, ở cấp nào
cũng có, cấp cao hơn thì mức độ càng nặng hơn, ở lĩnh vực nào cũng có, kể cả ở
những nơi mà xưa nay trong tiềm thức xã hội thường cho rằng đó là nơi luôn trang
nghiêm, trong sạch. “Lợi ích nhóm” cũng chính là một kiểu tham nhũng nghiêm
trọng nhất, tham nhũng có tổ chức. Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố


gắng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, nhưng thực tế xã hội vẫn
diễn ra một tình hình rất đáng lo ngại là ở nước ta đang có nguy cơ chuyển biến
dần dần sang “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, do hoạt động của “nhóm lợi ích” gây
nên. Cũng có ý kiến cho rằng nước ta đã rơi vào “chủ nghĩa tư bản thân hữu” rồi,
đã vào sâu lắm rồi (?). Ở các nước, việc quản lý nhà nước và việc điều hành kinh tế
tách biệt rành mạch, và ở họ doanh nghiệp nhà nước cũng ít hơn ta. Còn ở ta, với
đặc điểm cơ quan nhà nước vừa quản lý về mặt nhà nước, vừa trực tiếp điều hành
kinh tế, doanh nghiệp nhà nước nhiều, lại yếu kém trong quản lý, không ít trường
hợp đằng sau cái vỏ doanh nghiệp nhà nước là tư nhân núp bóng, vì vậy, đề phòng
“lợi ích nhóm” ở Việt Nam còn phức tạp hơn các nước khác, nếu không đấu tranh
ngăn chặn có hiệu quả. Đây là nguy cơ lớn nhất đang hiện hữu dần, đe dọa sự phát
triển lành mạnh của đất nước và sự tồn vong của chế độ theo định hướng xã hội
chủ nghĩa (lành mạnh). Nguy cơ này bao trùm, đáng lo hơn bất kỳ sự đe dọa nào,
tác động chi phối chính, làm trầm trọng các nguy cơ khác, tạo điều kiện cho các

nguy cơ khác phát triển và gây tác hại. Đây là điểm lớn nhất, cốt lõi nhất của cuộc
đấu tranh về quan điểm lập trường; là trọng tâm trong chống “tự diễn biến”. Nếu
Đảng và Nhà nước ta không ngăn chặn được hoạt động của “nhóm lợi ích”, để nó
tiếp tục phát triển, dẫn đến lũng đoạn ngày càng lớn hơn thì sự phát triển của đất
nước bị nguy khốn và chế độ chính trị cũng biến chất, cũng thay đổi theo hướng
xấu, chắc chắn không còn là con đường xã hội chủ nghĩa chân chính nữa, mà sẽ là
nơi phát triển “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, mong muốn của hàng triệu đảng viên
cộng sản và nhân dân đã chiến đấu, hy sinh xương máu sẽ trở nên xa vời và vô
vọng, mong muốn thiết tha của Bác Hồ cũng không thực hiện được, Đảng chân
chính sẽ không còn và Nhà nước sẽ biến chất, dân tộc sẽ bị bóc lột, bị tước đoạt
quyền lực và tài sản của cải, chế độ xã hội sẽ là một chế độ không có dân chủ và tự
do, không có bình đẳng. Lúc này, hơn lúc nào hết, các cấp ủy và toàn Đảng phải
nhận thức rõ nguy cơ và quyết tâm bảo vệ quyền lợi dân tộc, thành quả cách mạng


và bảo vệ chính Đảng ta, không để Đảng bị “nhóm lợi ích” và “chủ nghĩa tư bản
thân hữu” thao túng, làm hư hỏng, biến chất, dẫn đến đổ vỡ.
Trong công tác tổ chức, cán bộ, biểu hiện của lợi ích nhóm cũng rất đa dạng,
phức tạp, có trong tất cả các công đoạn, các khâu, các bước trong quy trình hoạt
động của công tác tổ chức, cán bộ.
2.2. Những biểu hiện của “lợi ích nhóm” trong tổ chức cán bộ hiện nay
2.2.1. Lợi ích nhóm trong việc ban hành chủ trương, chính sách về công
tác tổ chức, cán bộ.
Biểu hiện lợi ích nhóm trong việc ban hành chủ trương, chính sách về công
tác cán bộ là một bộ phận cán bộ tham mưu, khi tham mưu cho cấp có thẩm quyền
ban hành chính sách có liên quan đến công tác cán bộ thì không vì chính sách, lợi
ích chung mà tham mưu, ban hành những chính sách có lợi cho họ (ví dụ: nới lỏng
hơn các tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm, đề bạt, nâng lương, chuyển ngạch, nâng
ngạch,...). Biểu hiện khác của tình trạng này là những cán bộ tham mưu về công
tác tổ chức, cán bộ đã nghiên cứu, tham mưu xây dựng, ban hành chính sách cán

bộ “dưới tiêu chuẩn, điều kiện cơ bản” (như điều kiện tiếp nhận, điều chuyển, bố
trí công tác, luân chuyển, bổ nhiệm, đề bạt hoặc được đi học, đi công tác nước
ngoài) để người thân của họ, hoặc cán bộ lãnh đạo có đủ điều kiện đáp ứng tiêu
chuẩn, điều kiện đó; ban hành chính sách, quyết định, nhiều khi mang tính “nội
bộ”, có tính chất đặc quyền, đặc lợi cho một số ít cán bộ, trái với quy định hoặc
theo quy định của Nhà nước nhưng không minh bạch để trục lợi.
2.2.2. Lợi ích nhóm trong việc cụ thể hóa chủ trương, chính sách của cấp
trên về công tác tổ chức, cán bộ thành các quy định, quy chế, quy trình cụ thể
của cấp dưới để trục lợi.
Có tình trạng quy định của cấp trên về chính sách, chế độ chung của Đảng,
Nhà nước đối với cán bộ không được cấp dưới cụ thể hóa bảo đảm đúng nguyên
tắc, quy trình, thủ tục. Họ “vận dụng” ban hành chính sách, chế độ đối với cán bộ


vì lợi ích nhóm của số ít cán bộ lãnh đạo, cán bộ làm công tác tham mưu về công
tác tổ chức, cán bộ, dẫn đến việc thực hiện trái quy định của cấp trên vì nhiều lý do
hoặc luôn có sự thay đổi để cho “vừa” với những tiêu chuẩn, điều kiện cá biệt của
một số ít cán bộ lãnh đạo, quản lý để trục lợi cho bản thân hoặc cho người thân của
mình theo kiểu “trên có chính sách, dưới có đối sách” làm thiệt hại cho lợi ích
chung của cán bộ, công chức, viên chức, gây bất bình trong cán bộ, đảng viên và
nhân dân. Có nơi, đáng lẽ phải vận dụng quy định của cấp trên để ban hành chính
sách về công tác cán bộ của cấp mình phù hợp nguyên tắc, chủ trương, quy định,
nhưng lại vận dụng ban hành trái quy định nhằm “lách luật” để có lợi cho bản thân
hoặc người thân của mình trong việc tuyển dụng, đề bạt, thực hiện các chính sách
cán bộ khác, như mở tuổi để được đề bạt, bổ nhiệm, bầu cử, kéo dài thời gian công
tác,...
2.2.3. Lợi ích nhóm trong việc chỉ đạo thực hiện chủ trương, chính sách
về công tác tổ chức, cán bộ.
Biểu hiện của lợi ích nhóm này dễ thấy nhất và đang phổ biến hiện nay là
cán bộ lãnh đạo trong một số doanh nghiệp nhà nước đã chỉ đạo xây dựng chính

sách lương, chính sách thu nhập có lợi cho họ, dẫn đến chính sách lương “khủng” “thu nhập quá cao” trong một số cán bộ lãnh đạo, quản lý của một số doanh
nghiệp, lĩnh vực ngành, nghề; hoặc ban hành, thực hiện những chủ trương, chính
sách cho cán bộ lãnh đạo, quản lý hằng năm đi nghiên cứu, tham quan, học tập ở
nước ngoài quá nhiều lần, gây tốn kém, lãng phí, thất thoát kinh phí của cơ quan,
đơn vị, tổ chức. Một biểu hiện nữa của lợi ích nhóm trong tổ chức thực hiện công
tác cán bộ là cán bộ cấp trên, cán bộ lãnh đạo, quản lý tuy biết cán bộ cấp dưới
thuộc “cánh hẩu” của mình, trình độ năng lực hạn chế, nhưng vẫn bổ nhiệm, đề
bạt, bao che để tạo thành một “ê-kíp” cán bộ làm việc vì lợi ích nhóm để trục lợi.
Trong khi đó, cán bộ có đủ năng lực, trình độ, điều kiện thì không được quan tâm


quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đúng khả năng, sở trường của họ,
khiến họ “bất bình”, thậm chí đi tìm cơ hội làm việc ở những nơi khác.
2.2.4. Lợi ích nhóm trong việc tổ chức thực hiện công tác tổ chức, cán bộ.
Biểu hiện này thể hiện ở một số cán bộ tham mưu về công tác tổ chức, cán
bộ thuộc phe, cánh của người lãnh đạo đã tham mưu trong việc bố trí người thân
của họ dù trình độ năng lực yếu, phẩm chất đạo đức kém, kinh nghiệm công tác
không có vào những chức vụ, vị trí công tác có nhiều “lợi thế, màu mỡ, quyền thế”
để trục lợi theo kiểu “quyền đi liền với lợi lộc, quyền đi liền với tiền”. Trong khi
những cán bộ có năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức tốt và có kinh nghiệm công
tác, có uy tín thì không được xem xét bố trí đảm nhiệm các công việc đó. Tình
trạng này đã hình thành “cơ quan”, “chi bộ” mang tính chất gia đình như ở Vụ
PMU18 trước đây và một số vụ việc tiêu cực khác. Có cán bộ lãnh đạo khi sắp hết
nhiệm kỳ, hết thời hạn làm lãnh đạo quản lý đã ban hành những quyết định bổ
nhiệm, đề bạt, nâng lương, thay đổi vị trí công tác tốt hơn cho cán bộ thuộc diện
“thân tín”, cho người thân trong gia đình mình không đúng chế độ, tiêu chuẩn, điều
kiện.
Tình trạng trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Về nguyên nhân
khách quan cho thấy, một số quy định của Đảng, Nhà nước ban hành nhưng chưa
đồng bộ, chưa đầy đủ, nên bị một số cán bộ lãnh đạo, quản lý hoặc cán bộ làm

công tác tham mưu về tổ chức, cán bộ lợi dụng để tham mưu, “lách luật” ban hành
những quy định có lợi cho lợi ích của cán bộ lãnh đạo hoặc người thân của họ hoặc
cho chính cán bộ làm công tác tham mưu về công tác cán bộ. Về nguyên nhân chủ
quan cho thấy, một số cán bộ tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ hoặc cán bộ
lãnh đạo dù nhận thức đúng, đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng về công tác
cán bộ nhưng vì lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm đã cố tình không thực hiện đúng, đã
chỉ đạo hoặc chủ động tham mưu ban hành những chủ trương, chính sách về công
tác cán bộ ở cấp mình nhằm vụ lợi cho bản thân, người thân hoặc “cánh hẩu” của


mình; mà không vì lợi ích chung của cơ quan, tổ chức, của toàn Đảng về công tác
cán bộ. Một số cán bộ lãnh đạo không chấp hành nghiêm quy chế làm việc, nguyên
tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ, dẫn đến vi phạm về công tác này vì lợi
ích cục bộ, hoặc lợi dụng cơ chế tập thể để hợp pháp hóa lợi ích cục bộ của một số
ít người, “cánh hẩu” của mình hoặc người thân của mình trong công tác bổ nhiệm,
đề bạt, bầu cử cán bộ.

Chương 2: Một số kiến nghị, đề xuất giải pháp khắc phục “lợi ích
nhóm”


1. Một số kiến nghị, đề xuất giải pháp khắc phục “lợi ích nhóm”
Chống “lợi ích nhóm” là công việc hết sức khó khăn, phức tạp, vì không rõ
“chiến tuyến”, thường ở trong trạng thái lẫn lộn trắng đen, trong nó có ta và trong
ta có nó, vừa là ta lại vừa là nó. Ngoài việc cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc tình
hình và nguy cơ, cần thảo luận rộng rãi trong Đảng và trên công luận. Đảng và cả
hệ thống chính trị phải kiên quyết đấu tranh chống “lợi ích nhóm”, coi đây là
nhiệm vụ trọng tâm, hết sức hệ trọng và cấp bách; tập thể lãnh đạo từ cấp cao nhất
cần có quyết tâm chính trị và thật sự gương mẫu trong việc đấu tranh chống “lợi
ích nhóm”, sử dụng tất cả các biện pháp có thể; khẩn trương nghiên cứu ban hành

bổ sung, điều chỉnh các cơ chế kiểm soát quyền lực (bằng quyền lực nhà nước,
quyền lực của nhân dân và công luận); cơ chế thực thi dân chủ rộng rãi, minh bạch
thông tin và quy định rõ trách nhiệm giải trình, điều trần; tạo hành lang pháp lý
chặt chẽ cho báo chí vào cuộc, cho nhân dân thực hiện quyền tham chính; đổi mới
căn bản công tác cán bộ, thực hiện tranh cử trước nhân dân đối với các chức danh
bầu cử và thi tuyển công khai đối với các chức vụ quản lý, đồng thời thực hiện cơ
chế giám sát hoạt động, kết quả công việc, thi hành việc bãi miễn và thay đổi vị trí
công tác của cán bộ khi xét thấy không có lợi cho cuộc đấu tranh chống “lợi ích
nhóm”.
Biểu hiện “lợi ích nhóm” trong công tác tổ chức, cán bộ thời gian qua với
những dạng khác nhau ở các cấp độ, mức độ khác nhau trong các cấp ủy, tổ chức
đảng, tổ chức nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội, tuy chưa nhiều, chưa phổ biến
nhưng rất nguy hại, cần sớm có chủ trương, giải pháp phòng ngừa, đấu tranh, ngăn
chặn kịp thời. Theo chúng tôi, cần tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp
chính sau đây:
1.1. Nâng cao vai trò của cấp ủy, tổ chức Đảng trong công tác chống tham
nhũng, chống “lợi ích nhóm”


Nâng cao nhận thức cho các cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu về
tác hại của nhóm lợi ích tiêu cực và lợi ích nhóm tiêu cực trong công tác tổ chức,
cán bộ để từ đó nâng cao vai trò, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo việc nghiên
cứu, ban hành các chủ trương, đường lối, chính sách, nghị quyết, quy định, quyết
định cũng như tổ chức thực hiện đúng công tác tổ chức, cán bộ; khắc phục triệt để
lợi ích nhóm trong công tác tổ chức, cán bộ thời gian qua. Nâng cao nhận thức,
phẩm chất đạo đức, trách nhiệm cho cán bộ tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ,
người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã
hội, tổ chức kinh tế của Nhà nước về tác hại của lợi ích nhóm, để từ đó thực hiện
đúng, tốt chức năng tham mưu trong xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện các
chủ trương, chính sách, nghị quyết, chế độ của Đảng, Nhà nước về công tác tổ

chức, cán bộ. Kịp thời thay thế hoặc bố trí công việc khác cho phù hợp đối với
những cán bộ tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ có biểu hiện động cơ lợi ích
nhóm, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, quan liêu, thiếu trách nhiệm
hoặc tiêu cực trong tham mưu, thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, uy tín
giảm sút.
1.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cán bộ, Đảng viên, nâng
cao chất lượng hoạt động bộ máy công quyền “trong sạch, vững mạnh”
Để tích cực tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng
viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trước hết là người đứng đầu phải
nêu cao tinh thần “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, tiếp tục đẩy mạnh việc
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 03-CT/TW,
của Bộ Chính trị, ngày 14-5-2011 và Quy định số 101-QĐ/TW của Ban Bí thư,
ngày 7-6-2012, về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ
lãnh đạo chủ chốt các cấp; đồng thời thực hiện nghiêm Quy định về những điều
đảng viên không được làm; nêu cao ý thức thực hiện đúng quy định về đạo đức
công vụ, quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức. Động viên người thân trong gia


đình chấp hành nghiêm túc quy định của Đảng và Nhà nước về công tác tổ chức,
cán bộ, không lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình can thiệp, tác động để làm
trái hoặc được hưởng những chế độ, chính sách về công tác cán bộ không đúng tiêu
chuẩn, điều kiện.
1.3. Thực hiện đúng các chủ trương, nghị quyết, chính sách của Đảng và
Nhà nước.
Nâng cao chất lượng ban hành và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị
quyết, chính sách, chế độ của Đảng, Nhà nước về công tác tổ chức, cán bộ một
cách đầy đủ, đồng bộ, chuẩn xác, công khai, minh bạch. Đồng thời phải kiểm soát,
giám sát chặt chẽ quá trình thực thi mới hạn chế được việc lợi dụng, “lách luật” để
cấp dưới ban hành chủ trương, chính sách, chế độ về công tác tổ chức, cán bộ
thuộc cấp mình hoặc vận dụng thực hiện quy định của cấp trên ban hành mang tính

chất lợi ích nhóm để trục lợi. Chấn chỉnh lại công tác tổ chức, cán bộ vì nhân tố
con người là quan trọng nhất và quyết định tất cả. Chỉ đạo xây dựng một bộ tiêu
chí cụ thể, sát thực hơn để đánh giá cán bộ một cách công khai, công bằng, hiệu
quả nhất, đáp ứng được 3 tiêu chuẩn: thứ nhất, có tầm nhìn, năng lực, nhất là năng
lực thực tiễn; thứ hai, có khả năng tổ chức triển khai; thứ ba, gương mẫu, hết lòng
phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, không cá nhân chủ nghĩa, không lợi ích cục
bộ, lợi ích nhóm. Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ theo hướng đề cao quy chuẩn
hóa, chuyên nghiệp hóa, chuyên môn hóa và đề cao trách nhiệm cá nhân, người
đứng đầu; khắc phục tình trạng bầu cử, bổ nhiệm, đề bạt tuy đúng quy trình, hình
thức, nhưng không bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, chất lượng cán bộ theo quy
hoạch và thực tế năng lực, trình độ của họ; coi trọng phát hiện, đào tạo, sử dụng và
tôn vinh người tài, “đủ tâm” và “đủ tầm” gánh vác trọng trách được giao; kiên
quyết chống những biểu hiện lợi ích nhóm, tham nhũng, tiêu cực trong công tác tổ
chức, cán bộ. Sớm nghiên cứu áp dụng Luật Hồi tỵ đối với cán bộ lãnh đạo, quản
lý không phải là người địa phương. Nâng cao mức lương cho cán bộ, công chức,


bảo đảm để họ có thể sống được bằng lương và thể hiện danh dự của người cán bộ,
công chức sẵn sàng cống hiến cho Đảng, Nhà nước và hết lòng phục vụ nhân dân.
Kịp thời sơ kết, tổng kết, đánh giá việc thực hiện các chủ trương, chính sách, chế
độ, nghị quyết, quy định về công tác tổ chức, cán bộ đã ban hành để rút kinh
nghiệm, điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi những quy định không còn phù hợp, khó thực
hiện, dễ bị lợi dụng tạo lợi ích nhóm để trục lợi; ban hành mới những quy định còn
thiếu và tổ chức thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc, có kết quả.
1.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát cán bộ, cá nhân, tổ
chức bộ máy Nhà nước.
Các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra cấp trên phải chú trọng, tăng
cường, đổi mới phương thức, biện pháp, nội dung kiểm tra, giám sát, kiểm soát tổ
chức đảng cấp dưới, cán bộ, đảng viên dưới quyền trong việc thực hiện các chủ
trương, chính sách, nghị quyết, chế độ, quy định về công tác tổ chức, cán bộ, trong

thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao về công tác tổ chức, cán bộ. Đặc biệt là
phải hết sức coi trọng kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực (quyền
lực chính trị, quyền lực nhà nước) của tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, cán bộ,
đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, cơ
quan, đơn vị, kể cả cán bộ tham mưu cấp chiến lược từ cấp tỉnh trở lên về công tác
tổ chức, cán bộ; bảo đảm quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước đều phải được
kiểm tra, giám sát, kiểm soát nghiêm ngặt, chặt chẽ bằng chế độ, quy định, quy chế
cụ thể, không được lạm dụng thực hiện lợi ích nhóm để trục lợi. Các cấp ủy, tổ
chức đảng, tổ chức nhà nước phải tiếp tục rà soát để bổ sung, sửa đổi quy chế làm
việc, chế độ công tác cho phù hợp, trong đó xác định rõ và phân công cụ thể, rành
mạch trách nhiệm, quyền hạn của tập thể, cá nhân, nhất là trách nhiệm của người
đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, mối quan hệ giữa các thành viên
trong chỉ đạo, điều hành nói chung, trong công tác tổ chức, cán bộ nói riêng để
thực sự phát huy dân chủ, chấp hành nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tập


thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, khắc phục tình trạng độc đoán, chuyên quyền, gia
trưởng hoặc quyền lực tập trung vào một số ít người, hoặc lợi dụng cơ chế tập thể
để hợp pháp hóa chủ trương, quyết định biểu hiện lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ của
một số ít người, thậm chí của một người. Ban hành và tổ chức thực hiện quy định
về kiểm tra, giám sát đối với cán bộ, đảng viên có chức vụ, quyền hạn chủ trì ở các
cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước trước khi kết thúc nhiệm kỳ để chống “lợi
ích nhóm”. Thường xuyên kiểm tra, giám sát, kiểm soát, phát hiện, xử lý, loại bỏ
kịp thời những cán bộ tham nhũng, suy thoái đạo đức, lối sống, vô trách nhiệm,
mất uy tín và trở thành lực cản phát triển. Những trường hợp có dấu hiệu vi phạm,
bị tố cáo có vi phạm về lợi ích nhóm trong công tác tổ chức, cán bộ phải được chỉ
đạo, tổ chức kiểm tra, xem xét, kết luận, xử lý kịp thời, nghiêm minh. Tăng cường
công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong tổ chức đảng, tổ chức
nhà nước, tổ chức kinh tế của Nhà nước,... trong cán bộ, đảng viên, công chức gắn
với đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn lợi ích nhóm trong công tác tổ chức, cán bộ

để trục lợi. Trong đó chú trọng thực hiện quy định tất cả công chức khi vào làm
việc tại cơ quan đảng, chính quyền đều phải kê khai trung thực, đầy đủ, chính xác
tài sản của bản thân và của gia đình mình và sau đó phải thực hiện kê khai thường
xuyên hằng năm; cuối nhiệm kỳ công tác hoặc trước khi được điều động, điều
chuyển, luân chuyển công tác mới, bảo đảm công khai, minh bạch các nguồn thu
nhập của bản thân và gia đình. Có biện pháp kiểm tra, giám sát, kiểm soát và xử lý
kịp thời các hoạt động phi pháp, ngăn chặn các biểu hiện bất minh, lợi ích nhóm,
bảo đảm không có cơ hội để lợi dụng tạo ra nhóm lợi ích tiêu cực và lợi ích nhóm
tiêu cực trong công tác tổ chức, cán bộ để tham nhũng, trục lợi. Sử dụng những
công cụ, biện pháp giám sát của cộng đồng, của nhân dân và xã hội để phát hiện
những dấu hiệu bất thường, bất minh nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn lợi
ích nhóm trong công tác tổ chức, cán bộ.


Công tác tổ chức, cán bộ là công việc gốc của Đảng, bảo vệ sự trong sạch,
vững mạnh của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị, của tổ chức đảng và cán bộ,
đảng viên. Nếu trong lĩnh vực này có suy thoái, biến chất, tham nhũng, tiêu cực ở
mức độ “lợi ích nhóm” thì rất nguy hại cho Đảng, Nhà nước, làm suy giảm niềm
tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng. Đó là một trong những nguyên
nhân dẫn đến yếu kém, khuyết điểm, hạn chế trong công tác tổ chức, cán bộ thời
gian qua, dẫn đến tình trạng còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, quan liêu, tham nhũng, tiêu cực; tình
trạng chạy chức, chạy quyền, chạy thành tích, chạy tội, bao che cho khuyết điểm
sai phạm của cấp dưới. Vì vậy, việc nghiên cứu làm rõ sự hình thành lợi ích nhóm,
khái niệm lợi ích nhóm, biểu hiện của “lợi ích nhóm” trong công tác tổ chức, cán
bộ, chỉ rõ nguyên nhân dẫn đến lợi ích nhóm, đề xuất một số giải pháp đấu tranh,
ngăn chặn, giúp cho các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra thấy được sự nguy
hại, ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với công tác xây dựng Đảng nói chung, công
tác tổ chức, cán bộ nói riêng để có cơ sở, căn cứ đề ra các chủ trương, giải pháp
phòng ngừa, đấu tranh thực sự có hiệu lực, hiệu quả, góp phần xây dựng Đảng ta

ngày càng trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo thực hiện thắng lợi sự nghiệp
cách mạng của Đảng.

C. KẾT LUẬN


“Lợi ích nhóm” và tham ô, tham nhũng là những vấn đề rất nóng trong bối
cảnh hiện nay ở nước ta. Trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân tộc đã và đang quyết
tâm thực hiện các mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
thì chống tham ô tham nhũng, “lợi ích nhóm” cũng là nhiệm vụ rất trọng tâm của
Đảng. Hàng loạt vụ phanh phui các vị quan chức có địa vị từ Trung ương đến các
địa phương, chứng tỏ sự mạnh tay có tính răn đe của Đảng và Nhà nước. Nó cho
thấy một điều nhân dân ta rất quan tâm đến tệ nạn tham ô tham nhũng cũng như
vấn đề “lợi ích nhóm” của xã hội hiện nay. Sự phát hiện của nhân dân đã góp phần
bảo vệ sự trong sạch của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên bên cạnh đó, hàng loạt
những vụ tham ô, tham những bị nhân dân phát giác, báo chí phanh phui chứng tỏ
tệ nạn này đã trở thành vấn đề nguy cấp đối với nước ta, nó đã len lỏi đến tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, nó không trừ một ai. Tham ô tham nhũng và “ lợi ích
nhóm” dần đã trở thành “căn bệnh trầm kha” của xã hội ai cũng có thể bị mắc nếu
không có sự đề kháng.
Trước những vấn nạn trên, Đảng và Nhà nước ta có rất nhiều biện pháp
nhằm đẩy lui tệ nạn tham ô tham nhũng, “lợi ích nhóm” như về các chính sách ban
hành bộ luật chống tham nhũng, các chế tài xử lý bằng pháp luật có tính chất răn
đe… hiện nay. Tuy nhiên, điều cốt lõi nhất để nâng cao chất lượng, sức chiến đấu
của Đảng thì mỗi cá nhân, tổ chức cơ sở hãy tự nhận thức sự nguy hiểm của vấn đề
“lợi ích nhóm” . Ngoài ra, bản thân mỗi người cán bộ, đảng viên hãy thật sự xứng
đáng với vai trò của mình: Cán bộ là công bộc, đầy tớ của nhân dân như lời Bác
Hồ đã dạy.

TÀI LIỆU THAM KHẢO



1. Ban Nội Chính Trung ương, Đề tài đấu tranh chống tham nhũng ở nước
ta, Hà Nội, 1998; Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ tư pháp, Tài liệu chống
tham nhũng, Hà Nội, 1994.
2. Đỗ Ngọc Quang, Bàn về khái niệm tham nhũng, Tạp chí Khoa học Đại
học Quốc gia Hà Nội, số 4 - 1997, tr 64 – 67.
3. Nguyễn Mạnh Kháng, Bàn thêm về vấn đề đấu tranh phòng chống tham
nhũng, Tạp chí NN&PL số 11-1997, tr16 – 22.
4. Viện thông tin Khoa học Xã hội, Tham nhũng tệ nạn của mọi tệ nạn, Hà
Nội, 1997.
5.Đào Trí Úc, Tham nhũng nhận diện từ khía cạnh pháp lý và cơ sở pháp lý
mới của đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số
9 -1996.
6. Báo cáo của Chánh án Toà án nhân dân Tối cao về công tác toà án, tại
Kỳ họp thứ 2, Quốc hội Khoá 11, Tháng 10-2002.
7. International Review of Criminal Policy, No 41, A/ Conf, 169/14; 1995,
13 April.
8. Ngân hàng thế giới, Kiềm chế tham nhũng hướng tới một mô hình xây
dựng trong sạch quốc gia, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.



×