Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

QUÁ TRÌNH đổi mới tư DUY lý LUẬN của ĐẢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.75 KB, 80 trang )

QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG
VỀ XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, THỰC HIỆN
CHIẾN LƯỢC BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG THỜI KỲ MỚI
Chương 1
TÍNH TẤT YẾU PHẢI ĐỔI MỚI TƯ DUY VỀ
XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, BẢO VỆ TỔ QUỐC
1.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ
1.1.1. Tình hình đất nước
Sau 25 năm đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng XHCN (19862011), đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và quan trọng, thể hiện
trên các mặt:
Đảng và Nhà nước đã có những đổi mới về tư duy về quốc phòng, an
ninh bảo vệ Tổ quốc; thường xuyên nghiên cứu, đánh giá tình hình quốc tế,
khu vực và trong nước; xác định rõ đối tượng tác chiến chiến lược, âm mưu,
thủ đoạn và hành động phá hoại của các thế lực thù địch đối với nước ta; Về
cơ bản đã phân tích, dự báo đúng các tình huống, có chủ trương, biện pháp
xử lý kịp thời, có hiệu quả.
Nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế
trận an ninh nhân dân tiếp tục được củng cố. Tiềm lực quốc phòng, an ninh
nhân dân trong khu vực tỉnh, thành phố được tăng cường. Đã chú ý phát
triển tiềm lực khoa học - công nghệ, coi trọng đầu tư công nghệ tiên tiến,
hiện đại, tạo năng lực mới cho phát triển công nghiệp quốc phòng. Tuy
nguồn tài chính hạn chế, song đã nỗ lực lớn trong việc mua sắm trang bị vũ
khí, khí tài cho các lực lượng vũ trang.
Việc kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh
với kinh tế ngày càng chặt chẽ hơn. Triển khai tích cực hoạt động đối ngoại


quân sự, mở rộng quan hệ với quân đội các nước trong khu vực và một số
nước trên thế giới (đối thoại quốc phòng ADMM…), tích cực tham gia các
hoạt động ngoại giao đa phương, góp phần tạo môi trường hòa bình và ổn
định, phát triển trong khu vực và trên thế giới.


Đã điều chỉnh về chiến lược, bố trí lại thế trận, giảm được một lực
lượng lớn quân thường trực; xây dựng, bổ sung các quyết tâm, kế hoạch bảo
vệ Tổ quốc; bố trí lực lượng và tăng cường tổ chức phòng thủ trên các khu
vực trọng điểm theo yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài...
Chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu của quân đội nhân dân và công
an nhân dân không ngừng được nâng cao. Đã duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng
chiến đấu, quản lý chặt chẽ vùng trời, vùng biển, biên giới; triển khai đồng
bộ chủ trương, biện pháp đấu tranh phòng chống chiến lược diễn biến hòa
bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch…
Đã triển khai kịp thời, đồng bộ, có kết quả chủ trương xây dựng phòng
tuyến biên giới; khu kinh tế - quốc phòng; đường tuần tra biên giới.
Công tác giáo dục quốc phòng được triển khai sâu rộng ở các cấp, các
ngành. Việc bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho các đối tượng, nhất là cán
bộ chủ chốt các Bộ, Ngành, địa phương được thực hiện tích cực, có chương
trình, giáo trình phù hợp, thống nhất, đạt kết quả thiết thực.
Tuy nhiên, công tác nghiên cứu dự báo chiến lược về quốc phòng, an
ninh chưa theo kịp diễn biến của tình hình. Sự phối hợp giữa quốc phòng, an
ninh và đối ngoại trong giải quyết một số vấn đề cụ thể thiếu chặt chẽ.
Nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế
trận an ninh nhân dân tuy được xây dựng, củng cố nhưng chưa toàn diện và
vững chắc. Việc kết hợp giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại chưa có một
cơ chế thống nhất, đồng bộ nên kết quả, hiệu quả còn nhiều hạn chế.


Việc xây dựng khu vực phòng thủ trên một số hướng chiến lược và địa
bàn trọng điểm chưa thực sự cơ bản và đồng bộ.
Hiệu quả ứng dụng vào thực tiễn một số công trình, đề tài khoa học,
trình độ công nghệ, năng lực sửa chữa, sản xuất vũ khí trang bị kỹ thuật còn
thấp, chưa có khả năng nghiên cứu, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật công
nghệ cao.

Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong lực lượng vũ trang nhân dân
có lúc chưa kịp thời, thiếu chiều sâu, thiếu sắc bén, thiếu tính chiến đấu nên
kết quả còn thấp.
Sức mạnh tổng hợp, khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội có mặt
chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của nhiệm vụ mới. Sức cơ động của bộ đội
chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu tác chiến chống chiến tranh bằng vũ khí
công nghệ cao.
Việc tổ chức, huấn luyện lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ có
mặt còn yếu, kết quả chưa cao, khả năng tự độc lập tác chiến của khu vực
phòng thủ còn hạn chế.
1.1.2. Tình hình thế giới, khu vực có liên quan
Tình hình thế giới
Khái quát tình hình thế giới về chiến tranh, xung đột quân sự, chống
khủng bố và chiến lược của các nước lớn như Mỹ, Nga, Trung Quốc,… về
chính trị, kinh tế, quân sự.
Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Xu thế
toàn cầu hóa ngày càng gia tăng. Khoảng cách giàu nghèo giữa các nước
giàu và nước nghèo ngày càng mở rộng. Kinh tế thế giới chưa thoát khỏi
cuộc khủng hoảng, suy thoái kéo dài, tình trạng nợ công chưa được giải
quyết… xuất hiện nhiều mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
Tình hình khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á


Bên cạnh xu thể hợp tác chiếm vai trò chủ đạo, sự tranh chấp chủ quyền
biển đảo giữa các nước đã gây nên tình hình căng thẳng, đe dọa sự toàn vẹn
lãnh thổ và chủ quyền của nhiều nước; tiềm ẩn những nguy cơ, nhân tố gây
mất ổn định.
1.2. KHÁI NIỆM VỀ QUỐC PHÒNG, CHIẾN LƯỢC QUỐC
PHÒNG, QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN VÀ CHIẾN LƯỢC BẢO VỆ TỔ
QUỐC

1.2.1. Khái niệm quốc phòng
Quốc phòng là công cuộc giữ nước của một quốc gia, gồm tổng thể
hoạt động đối nội và đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa
học… của nhà nước và nhân dân để phòng thủ đất nước, tạo nên sức mạnh
toàn diện, cân đối, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, nhằm giữ vững
hòa bình, đẩy lùi ngăn chặn các hoạt động gây chiến của kẻ thù và sẵn sàng
đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức, quy mô. Quốc phòng
trở thành hoạt động của nhà nước, trong đó lực lượng vũ trang làm nòng cốt.
Quốc phòng phải kết hợp chặt chẽ với an ninh để bảo vệ đất nước, bảo vệ
chế độ. Quốc phòng, an ninh phải kết hợp chặt chẽ với kinh tế để bảo vệ và
xây dựng đất nước. Tổ chức quốc phòng của mỗi nước phụ thuộc trực tiếp
vào chế độ chính trị - xã hội, truyền thống dân tộc và hoàn cảnh cụ thể của
mỗi nước. Nhiều nước quan niệm quốc phòng là một bộ phận của an ninh
quốc gia.1
1.2.2. Khái niệm chiến lược quốc phòng
Chiến lược quốc phòng là chiến lược phòng thủ quốc gia trong từng
thời kỳ bằng sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, các
cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị, trong đó sức mạnh quân sự là đặc
1

Bộ Quốc phòng, Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam: Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam,
Nxb quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.848.


trưng, các lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, nhằm ngăn chặn, đầy
lùi, đập tan mọi âm mưu, hành động chống đối, phá hoại của các thế lực thù
địch, kể cả khi chúng gây ra chiến tranh xâm lược dưới mọi quy mô, hình
thức nào, đảm bảo cho đất nước có hòa bình, ổn định, trật tự, an toàn xã hội,
môi trường thuận lợi để xây dựng và phát triển mọi mặt.
Chiến lược quốc phòng của nước ta là sự cụ thể hóa các đường lối

chính trị, quân sự, quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân của Đảng ta trong việc xây dựng, tổ chức, động
viên, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước cho sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc XHCN. Đó là chiến lược phòng thủ quốc gia theo tư tưởng cách mạng
tiến công, chủ động và kiên quyết đối phó với mọi thế lực thù địch, trong cả
thời bình và thời chiến.
Đặc trưng của chiến lược quốc phòng ở nước ta là tính toàn dân, toàn
diện, hiện đại, nhằm mục đích tự vệ chính đáng, gắn chặt giữa xây dựng đất
nước với bảo vệ tổ quốc XHCN (5 đặc trưng).
Chiến lược quốc phòng có tính tổng hợp rất cao, được hoạch định dựa
trên cơ sở lý luận và thực tiễn là đường lối của Đảng về xây dựng đất nước
và bảo vệ tổ quốc XHCN; căn cứ vào tình hình thế giới và khu vực có liên
quan; căn cứ vào thực trạng quốc phòng - an ninh nước ta và căn cứvào dự
báo nguy cơ và tình huống chiến lược.
1.2.3. Khái niệm quốc phòng toàn dân
Quốc phòng toàn dân là nền quốc phòng mang tính chất “vì dân, do
dân, của dân”, phát triển theo phương hướng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự
lực, tự chủ, tự cường và ngày càng hiện đại, kết hợp chặt chẽ kinh tế với
quốc phòng và an ninh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành
của nhà nước, do nhân dân làm chủ, nhằm giữ vững hòa bình, ổn định của
đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi hành động, xâm lược và bạo loạn lật đổ của


các thế lực đế quốc và phản động bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã
hội chủ nghĩa. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là quan điểm cơ bản chỉ
đạo việc xây dựng nền quốc phòng của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thuộc trách nhiệm của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, trong
đó lực lượng vũ tranh nhân dân là nòng cốt.2
1.2.4. Khái niệm chiến lược bảo vệ Tổ quốc
Tổ quốc theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin: Tổ quốc baogiờ

cũng gắn với giai cấp. Vì vậy, phải đứng trên quan điểm giai cấp để bànvề
Tổ quốc và bảo vệ Tổ quốc.
Tổ quốc là một phạm trù lịch sử - Đó là mảnh đất thân thuộc và tài
nguyên của nó, là môi trường xã hội, chính trị, văn hóa mà trong đó nhândân
đang sống, lao động cùng với ngôn ngữ của họ
Tổ quốc là một hiện tượng lịch sử, tồn tại trên một lãnh thổ với dân cư
và các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định Các yếu tố này được hình
thành trong quá trình lịch sử gắn với sự hình thành các dân tộc, quốc gia
trong Tổ quốc đó. Đây là mặt bản chất tự nhiên, bản chất nhân dân củaTổ
quốc
Tổ quốc bao giờ cũng gắn với một chế độ xã hội, với cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, giai cấp nào
thống trị về kinh tế thì cũng là giai cấp thống trị về chính trị, và chính giai
cấp đó chi phối mọi mặt của Tổ quốc. Đây là mặt bản chất giai cấp của Tổ
quốc
Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là giữ gìn những thành quả mà giai
cấp công nhân và nhân dân lao động đã đạt được trong cuộc đấu tranhvới
giai cấp tư sản; đồng thời chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn hành động phá
2

Bộ Quốc phòng, Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam: Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam,
Nxb quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.848.


hoại của các thế lực thù địch nhằm xây dựng xã hội mới dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản.
Chiến lựơc bảo vệ Tổ quốc là mưu lược (kế sách) của Đảng và Nhà
nước xác định mục tiêu, quy tụ lực lượng và lựa chọn giải pháp có tính khả
thi, nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi đường lối nhiệm vụ
quốc phòng- an ninh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc; giữ vững hòa bình ổn

định đất nước; ngăn chặn, đẩy lùi chiến tranh, làm thất bại mọi âm mưu diễn
biến hòa bình, bạo loạn lật đổ, ly khai, can thiệp, xâm lược của giặc ngoài,
thù trong, phục vu cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.3. TƯ DUY VỀ NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC BẢO VỆ TỔ QUỐC
PHẢI ĐỔI MỚI THEO TƯ DUY VỀ NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC XÂY
DỰNG CHỦ NGĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Đại hội lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam (3-1982) đã đề ra hai
nhiệm vụ chiến lược trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam: “Một là
xây dựng thành công CNXH. Hai là sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam XHCN”.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ V phân tích rõ mối quan hệ mật thiết
giữa hai nhiệm vụ chiến lược: “Phải xây dựng chủ nghĩa xã hội đạt những
kết quả thiết thực làm cho đất nước ta mạnh lên về mọi mặt và trong mọi
hoàn cảnh thì mới có đủ sức bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Ngược lại có tăng
cường phòng thủ đất nước… bảo đảm cho đất nước luôn luôn được bảo vệ
vững chắc thì mới có điều kiện để xây dựng thành công CNXH”. Về mối
quan hệ đó, Nghị quyết Đại hội xác định: “Trong khi không một phút lơi
lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta và nhân dân
ta phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi vì
CNXH không những là mục đích của toàn bộ sự nghiệp của chúng ta mà còn


vì CNXH, sự vững mạnh của chế độ XHCN là bảo đảm cho độc lập và tự do
của Tổ quốc”3
Từ đây, “hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn mới” đã trở thành nhiệm vụ chính trị của cách mạng Việt Nam. được
các đại hội Đảng tiếp sau kế tục và phát triển, dù có bổ sung đường lối và
đổi mới tư duy cũng không thay đổi nhiệm vụ chính trị nói trên và quan
điểm xác định mối quan hệ mật thiết giữa hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam.

Tư duy về quốc phòng thực chất là tư duy về “nhiệm vụ chiến lược thứ
hai” của cách mạng Việt Nam, là tư duy về nhiệm vụ “bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” mà Đại hội V của Đảng đã xác định là
nhiệm vụ “không một phút lơi lỏng”. Nhưng điều quan trọng mà tư duy
quốc phòng phải nắm vững để bảo vệ cho vững chắc là “Đảng ta và nhân
dân ta phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội”.Đặt
lên hàng đầu có nghĩa là nhiệm vụ “bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
XHCN” phải phụ thuộc vào nhiệm vụ xây dựng thành công CNXH”, không
ngừng phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ đó. Khi tư duy về xây dựng chủ nghĩa
xã hội còn nằm trong cơ chế bao cấp, trong khuôn khổ hệ thống XHCN
vững mạnh thì tư duy về nhiệm vụ “bảo vệ Tổ quốc” cũng phải chấp hành
mọi quan điểm, chính sách do cơ chế đó xác định. Nhưng khi cơ chế trên
đây đã chuyển sang một dạng thức mới trong một tình thế không còn như
trước thì tư duy về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc tất phải theo đó tự điều chỉnh
cho phù hợp.
Từ Đại hội Đảng lần thứ V đến nay, nhiệm vụ chiến lược thứ nhất của
cách mạng Việt Nam đã trải qua rất nhiều thay đổi, đất nước đã thực sự
“mạnh lên về mọi mặt cả về thực lực và vị thế”. Tư duy về xây dựng chủ
3

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ II, tập I, Nxb Sự Thật. H. 1982. Tr. 47.


nghĩa xã hội đã có nhiều sự đổi mới quan trọng thì tư duy về bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa đương nhiên cũng phải có sự đổi mới tương ứng:
Khi cả thực lực và vị thế của Việt Nam đã phát triển khác trước, địa vị
của cách mạng Việt Nam đã được nâng lên một tầm cao mới trước con mắt
nhân dân toàn thế giới, tư duy chỉ đạo cách mạng Việt Nam đã có bước đổi
mới toàn diện thì tư duy về quốc phòng tất phải tự điều chỉnh cho phù hợp.
Thường xuyên cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu xưa nay vốn là ý thức

thường trực của tư duy quốc phòng. Như lời Chủ tịch nước Nguyễn Minh
Triết căn dặn khi đến thăm và làm việc với Tổng cục Chính trị Quân đội
nhân dân Việt Nam ngày 27-8-2007: “Kẻ thù không bao giờ để cho chúng ta
có không khí yên bình… có những thế lực luôn muốn phá hoại công cuộc
xây dựng hoà bình của đất nước ta... Vì vậy cần luôn luôn nêu cao cảnh giác,
hiểu rõ ngay trong hoà bình, kẻ thù vẫn không ngừng phá hoại. Không để
xảy ra những tình huống bất ngờ, luôn rèn luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao
trình độ sắn sàng chiến đấu, cùng các lực lượng khác đập tan mọi âm mưu
thủ đoạn của các thế lực thù địch...” Nhưng ngày nay, hơn lúc nào hết, đất
nước cần một môi trường hoà bình ổn định để thu hút đầu tư, mở rộng sản
xuất… nhanh chóng thoát khỏi tình trạng kém phát triển vào năm 2010.
Điều đó đòi hỏi tư duy quốc phòng phải quán triệt cách xem xét mới về đối
tác và đối tượng của Nghị quyết Trung ương tám, khoá IX về “Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, kết hợp ý thức cảnh giác sẵn sàng
chiến đấu với bảo vệ sản xuất, bảo vệ mọi đối tác làm ăn lương thiện, đúng
luật pháp trên đất nước ta, không vì “cảnh giác” mà gây trở ngại cho các
hoạt động đó.
1.4. TƯ DUY VỀ QUỐC PHÒNG PHẢI PHÁT TRIỂN THEO SỰ
PHÁT TRIỂN PHƯƠNG THỨC TIẾN CÔNG CỦA ĐỐI TƯỢNG CHIẾN
LƯỢC


Tư duy về quốc phòng (còn gọi là tư duy về bảo vệ Tổ quốc XHCN)
phải đổi mới theo sự đổi mới của tư duy xây dựng CNXH trên đất nước ta.
Đó là mặt chủ quan của mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam. Mặt khách quan của mối quan hệ là những mối đe doạ
đối với hoà bình ổn định của đất nước, của chế độ thường phát sinh ngoài
ý muốn của ta, những mối đe doạ diễn ra mỗi thời lại khác, xét về cả đối
tượng và âm mưu thủ đoạn, mà tư duy về quốc phòng phải thường xuyên
bám sát và chủ động chuyển hướng cả về chiến lược và chiến thuật.

Năm 1986, khi Đảng ra nghị quyết về đổi mới toàn diện, hệ thống
XHCN đang xúc tiến các hoạt động cải tổ, “Hội đồng tương trợ kinh tế” do
các nước XHCN thành lập còn phát huy tác dụng. Sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam vẫn lấy hệ thống XHCN làm chỗ dựa. Việt Nam
lúc đó còn phải đương đầu với những hoạt động chống phá quyết liệt từ cả
bên trong và bên ngoài. Mỹ tiếp tục cuộc bao vây, cấm vận, chưa bình
thường hoá quan hệ với Việt Nam. Thế trận quốc phòng nằm trong tình
trạng vừa phải chỉ huy và bảo đảm cho các mặt trận phía trước, vừa phải bảo
vệ hậu phương, chống lại “kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt” của các thế
lực thù địch, sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược quy mô lớn.
Trong tình hình đó, dù Đại hội Đảng đã có nghị quyết đổi mới toàn
diện, tư duy về quốc phòng vẫn phải xuất phát từ thực tiễn áp lực đang đe
doạ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ mà xác định nhiệm vụ. Bước
vào những năm 90, những biến cố trong phe XHCN và ở Liên Xô đã đẩy ta
vào thế không còn chỗ dựa, trong khi đất nước chưa ra khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội. Tư duy về quốc phòng tất phải căn cứ vào bối cảnh đất nước
lúc đó mà tiếp tục ứng xử trước những nguy cơ đang đe doạ sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.


Chương 2
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ
XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, THỰC HIỆN
NHIỆM VỤ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1 QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ
XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, THỰC HIỆN NHIỆM
VỤ BẢO VỆ TỔ QUỐC
2.1.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986)
Đại hội chủ trương về xây dựng nền quốc phòng toàn dân được xác
định một cách cụ thể trong mối quan hệ chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng đất

nước: chúng ta phải thấu suốt quan điểm “Toàn dân xây dựng đất nước và
bảo vệ Tổ quốc”, “Toàn quân bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước”. Phát
huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, của hệ thống chuyên chính vô sản
trong việc đẩy mạnh xây dựng hậu phương toàn diện được coi là nhiệm vụ
có tính chiến lược trong thời kỳ mới.
2.1.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991)
Trong khi quan tâm đến việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên
bình diện rộng, trên toàn bộ lãnh thổ, để chủ động bảo vệ vững chắc nền độc
lập, chủ quyền quốc gia trong mọi tình huống, Đảng ta còn nhấn mạnh tới
việc xây dựng các khu phòng thủ ở các địa phương; sự cần thiết phải xây
dựng các công trình quốc phòng trọng điểm, không ngừng nâng cao chất
lượng tổng hợp và sức chiến đấu của lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, với cơ cấu tổ
chức và quân số hợp lý.
2.1.3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996)


Đại hội đã đề ra những quan điểm chỉ đạo nhiệm vụ xây dựng nền quốc
phòng toàn dân và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN:
+ Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
+ Kết hợp quốc phòng và an ninh với kinh tế.
+ Gắn nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh, hai nhiệm vụ đó có
liên quan chặt chẽ với nhau trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc; phối hợp chặt
chẽ hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại.
+ Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng
yếu thường xuyên của cả hệ thống chính trị.
+ Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ Tổ quốc; thể chế hoá các chủ
trương, chính sách của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an
ninh nhân dân. Tăng cường quản lý nhà nước về quốc phòng và an ninh.

+ Thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội và công an, đối với củng cố quốc phòng và an ninh.
2.1.4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4-2001)
Đại hội đề ra chủ trương lớn về thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh trong thời kỳ mới: “Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc
gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân,
và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc”; nhấn mạnh tới
nhiệm vụ kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh
với kinh tế trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Phối hợp hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại.
Hội nghị Trung ương lần thứ tám, khoá IX đề ra 6 quan điểm chỉ đạo:
Một là, giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối và trực tiếp về mọi mặt của
Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.


Hai là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, lấy
việc giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là
lợi ích cao nhất của Tổ quốc.
Ba là, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, xây dựng sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc, lấy lực lượng
vũ trang làm nòng cốt.
Năm là, ra sức phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa nhằm khai
thác mọi thuận lợi ở bên ngoài, quán triệt đường lối độc lập tự chủ, kiên trì
chính sách đối ngoại mở rộng, đa dạng hoá, đa phương hoá.
Sáu là, chủ động phòng ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu những nhân tố
bên trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi.
2.1.5. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4-2006)
- Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, làm rõ quan điểm nhận thức về xây
dựng nền quốc phòng toàn dân; sức mạnh tổng hợp của quốc phòng toàn dân

và chiến tranh nhân dân trong điều kiện mới.
- Xây dựng nền quốc phòng toàn dân phải lấy nhiệm vụ phát triển kinh
tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng củng cố quốc phòng
là trọng yếu, thường xuyên.
- Thống nhất đánh giá đối tượng, đối tác trong xây dựng nền quốc
phòng toàn dân.
- Chủ động dự báo đúng các tình huống chiến lược, trên cơ sở nắm
vững âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, những biến động của tình
hình thế giới và trong nước tác động đến nhiệm vụ quốc phòng.
Từ những yêu cầu mới đó, Nghị quyết Đại hội đã đề ra những giải pháp
chủ yếu để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bao gồm:


- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý, điều hành
của Nhà nước trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp xây dựng tiềm lực quốc phòng.
- Đẩy nhanh xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân.
- Đẩy mạnh xây dựng lực lượng quốc phòng, tập trung xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân theo yêu cầu mới.
- Phối hợp các lực lượng, cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cao, chủ động
ngăn ngừa và đối phó hiệu quả mọi tình huống.
2.1.6. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
Đại hội xác định: Tăng cường quốc phòng an ninh là nhiệm vụ trọng
yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó quân đội
nhân dân, công an nhân dân là nòng cốt.
2.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHIẾN LƯỢC BẢO VỆ TỔ
QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.2.1. Những căn cứ để hoạch định chiến lược bảo vệ Tổ quốc
2.2.1.1. Học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ
Tổ quốc

C Mác, Ăng ghen sống trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh
tranh, các nước tư bản lớn nhất lúc này phát triển tương đối đồng đều, mâu
thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trong các nước đó có độ chin
muồi ở trình độ không chênh lệch nhau, khi mà giai cấp chưa trở thành giai
cấp cầm quyền, chưa có quốc gia, chưa có quyền lực nhà nước. Vì thế, C
Mác và Ph Ăng ghen cho rằng, cách mạng vô sản không những sẽ có tính
dân tộc mà còn sẽ đồng thời xảy ra ở tất cả các nước văn minh nhất, như
Anh, Pháp, Mỹ, Đức… và cách mạng vô sản là một cuộc cách mạng có
tínhchất toàn thế giới. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, các
nhà lý luận Mác xít viết: "Công nhân không có Tổ quốc. Người ta không thể


cướp của họ cái mà họ không có... Vì thế giai cấp vô sản mỗi nước trước hết
phải giành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành một giai cấp dân tộc”.
Qua kinh nghiệm Công xã Pari năm 1871, C.Mác, Ph.Ăng ghen cho
rằng, sau khi giành được chính quyền. giai cấp vô sản phải nhanh chóng
củng cố nền chuyên chính vô sản, củng cố khối liên minh công nông, giải
giáp quân đội cũ, vũ trang toàn dân, thành lập các đội dân cảnh, xây dựng xã
hội mới, kiên quyết tiến công đập tan mọi hành động phản kháng của giai
cấp tư sản Đó là những tư tưởng ban đầu về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa của C.Mác, Ph.Ăng ghen.
V.I Lê nin phát hiện quy luật phát triển không đều về kinh tế, chính trị
của chủ nghĩa tư bản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và đi đến kết luận hết
sức quan trọng: Trong điều kiện lịch sử mới, giai cấp vô sản có thể giành
được chính quyền ở mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa tư bản, tức là cách
mạng vô sản có thể thành công ở một nước, thậm chí ở một nước có trình độ
phát triển chưa cao. Thực tiễn ở nước Nga, cách mạng vô sản Nga thành
công vào tháng 10năm 1917.
Học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một cống hiến mới của
V.I Lê nin vào kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ

quốc xã hội chủ nghĩa đang đặt ra trực tiếp ở nước Nga Xô viết ngay sau khi
cách mạng vô sản Nga thành công năm 1917.
Xuất phát từ quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, V I Lê nin là người có công đóng góp to lớn trong
việc bảo vệ và phát triển học thuyết về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, Người khẳng định: "Kể từ ngày 25 tháng
10 năm 1917, chúng ta là những người chủ trương bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta
tán thành "bảo vệ Tổ quốc", nhưng cuộc chiến tranh giữ nước mà chúng ta


đang đi tới là một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
chủ nghĩa xã hội với tư cách là Tổ quốc".
Ngay sau khi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi, nhà nước của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động được thiết lập thì Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa cũng bắt đầu hình thành. Giai cấp công nhân bắt tay vào công
cuộc cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Cùng với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa cũng được đặt ra một cách trực tiếp, nó trở thành nhiệm vụ
chiến lược của các nước xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ chiến lược này gắn
bó hữu cơ với nhau trong suốt quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ bản chất, âm mưu của kẻ thù và thực tiễn cách mạng thế
giới, sự thắng lợi cửa cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp tư sản trong
nước tuy đã bị đánh đổ về mặt chính trị, nhưng chúng vẫn chưa từ bỏ tham
vọng muốn quay trở lại địa vị thống trị đã mất. Do vậy, chúng tìm mọi cách
liên kết với các phần tử phản động và chủ nghĩa tư bản bên ngoài hòng lật
đổ chính quyền cách mạng còn non trẻ của giai cấp công nhân. Thực tiễn
lịch sử đã chứng minh rằng, từ khi Tổ quốc xã hội chủ nghĩa xuất hiện, nhân
dân các nước xã hội chủ nghĩa phải đương đầu chống trả những âm mưu và
hành động lật đổ, xâm lược của kẻ thù bên trong và bên ngoài. Sau thắng lợi
của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, mười bốn nước đế quốc tập

trung bao vây hòng tiêu diệt nước Nga Xô viết. Từ khi chủ nghĩa xã hội phát
triển thành hệ thống thế giới, sự chống phá của kẻ thù càng quyết liệt hơn.
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đong Âu là một tổn thất của
phong trào cách mạng thế giới, song nó cũng để lại cho các nước xã hội chủ
nghĩa những bài học đắt giá rằng: xây dựng chủ nghĩa xã hội phải luôn gắn
liền với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Có như vậy, Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa mới tồn tại và phát triển. Thực tiễn trên đây một lần nữa đã chứng


minh cho luận điểm của V I. Lên ỉn rằng: giành chính quyền đã khó, nhưng
giữ được chính quyền còn khó khăn hơn.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự
vận dụng sáng tạo Học thuyết Mác- Lê nin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa vào tình hình thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
Trong điều kiện lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, vận dụng sáng
tạo học thuyết Mác – Lê nin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, kế thừa
tinh hoa truyền thống dân tộc, nắm vững quy luật tồn tại và phát triển của
dân tộc Việt Nam “dựng nước phải đi đôi với giữ nước", Chủ tịch Hồ Chí
Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đã đưa ra hệ thống
quan điểm, tư tưởng, làm cơ sở cho đường lối của Đảng trong lĩnh vực bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiêu biểu cho ý chí, quyết tâm giải phóng dân
tộc, quyết tâm bảo vệ đất nước, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
của nhân dân ta. Điều đó được thể hiện đậm nét trong nhiều bài nói, bài viết,
trong các hoạt động thực tiễn của Người. Những điều Chủ tịch Hồ Chí Minh
từng nhấn mạnh đã trở thành chân lý, thôi thúc ý chí, quyết tâm của cả dân
tộc: "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ
lấy nước". Ý chí giữ nước của Người rất sâu sắc và kiên quyết. Trong Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946, Người nói: “Chúng ta thà
hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm

nô lệ... Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên. .."; Dù hy sinh đến đâu, dù
phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc
lập; Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì chúng ta còn phải tiếp tục
chiến đấu quét sạch nó đi...
Vận dụng sáng tạo học thuyết về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Chủ
tịch Hồ Chí Minh chủ trương kiên quyết bảo vệ chính quyền nhân dân và


chủ quyền dân tộc, thực hiện nguyên tắc “dĩ nhu xử cương, dĩ bất biến ứng
vạn biến", hết sức tranh thủ thời gian hòa hoãn xây dựng lực lượng mọi mặt
cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Người cùng với Trung ương Đảng đưa ra
hàng loạt các biện pháp xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, tổ
chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội, thông qua hiến pháp; kiên quyết chống
giặc ngoại xâm, giặc đói, giặc dốt, ra chỉ thị Kháng chiến kiến quốc đồng
thời quyết định chủ trương Hòa để tiến;quyết định ký Hiệp định Sơ bộ 6-31946; Tạm ước 14-9-1946 để có thời gian chuẩn bị kháng chiến, bảo vệ
chính quyền.
Cùng với việc khẩn trương xây dựng các tiềm lực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, xây dựng tinh thần kháng chiến của toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí
Minh hết sức coi trọng xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng
bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, đồng thời tích cực thực
hiện các biện pháp ngoại giao, lợi dụng mâu thuẫn nội bộ kẻ thù, phân hóa
chúng, cũng như hết thức tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế
giới đối với cách mạng nước ta lúc đó.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xuyên suốt trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là trách nhiệm, nghĩa
vụ của mỗi công dân Việt Nam. Trong Bản Tuyên ngôn Độc lập, Người
khẳng định: "Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy". Khi thực
dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, Người kêu gọi: Hễ là người Việt
Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ ra một chân lý rằng : "Không có gì quý hơn độc lập tự do". “Hễ còn
một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu quét
sạch nó đi". Trước khi đi xa, trong bản Di chúc, Người căn dặn: "Cuộc


kháng chiến chống Mĩ cứu nước có thể còn kéo dài, đồng bào ta có thể phải
hy sinh nhiều của nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh thắng
giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn". Người kêu gọi nhân dân cả nước quyết
tâm chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền
Bắc, tiến tới thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc là tư tưởng xuyên
suốt trong cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tóm lại, Học thuyết Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa là bộ phận hợp thành lý luận cách mạng xã hội chủ
nghĩa, bao gồm một hệ thống các quan điểm, tư tưởng hết sức cơ bản về tính
tất yếu, nhiệm vụ và nội dung bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cùng với các
biện pháp có tính chiến lược trong xây dựng, củng cố quốc phòng, chuẩn bị
đất nước về mọi mặt và đường lối đối ngoại đúng đắn để có thể đánh thắng
thù trong, giặc ngoài, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
2.2.1.2. Đường lối, quan điểm của Đảng; những thành tựu và những
thách thức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay
Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ mục tiêu tổng quát của giai đoạn 2011
-2015 là: tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng;
đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc;
phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối
ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ;
tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp

theo hướng hiện đại.
Đồng thời, Đại hội XI nêu lên nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm
(2011 - 2015), trong đó nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là: tăng cường tiềm


lực quốc phòng - an ninh; giữ vững ổn định chinh trị - xã hội, độc lập chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, trật tự, an toàn xã hội; ngăn chặn, làm
thất bại mọi âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; mở rộng,
nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc
tế.
Những thành tựu và những thách thức thực hiện nhiệm về bảo vệ Tổ
quốc trong giai đoạn hiện nay.
Những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới (1986 - 2011) đã
tạo ra cho đất nước lực và thế, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với
trước. Năm năm tới là giai đoạn kinh tế nước ta tiếp tục phục hồi, lấy lại đà
tăng trưởng sau thời kỳ suy giảm; sẽ thực hiện nhiều hơn các hiệp định
thương mại tự do song phương và đa phương; khắc phục những hạn chế, yếu
kém trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị. Tuy nhiên, nước ta đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau,
tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường thách thức
nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và
trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức,
lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân
vào Đảng và Nhà nước Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn
biến hoà bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ', "nhân
quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những
biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, "tự diễn biến", "tự chuyển
hoá" có những diễn biến phức tạp. Công tác bảo vệ an ninh trong một số lĩnh
vực còn có những thiếu sót; xử lý tình hình phức tạp nảy sinh ở cơ sở có lúc,

có nơi còn bị động, tội phạm hình sự, tệ nạn xã hội, an ninh chính trị, trật tự,
an toàn xã hội ở một số địa bàn còn diễn biến phức tạp Việc gắn kết giữa


phát triển kinh tế với củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh,
đặc biệt là tại các vùng chiến lược, biển, đảo còn chưa chặt chẽ.
Công tác nghiên cứu dự báo chiến lược về đối ngoại có mặt còn hạn
chế. Sự phối hợp giữa đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại
giao nhân dân, giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hoá đối ngoại chưa
thật đồng bộ.
Như vậy, có thể khẳng định: trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, những
thành tựu đã đạt được là rất cơ bản và to lớn, nhưng những yếu kém, khuyết
điểm đã và sẽ còn tác động, ảnh hưởng đến sức mạnh tổng hợp của quốc gia,
thế ổn định của đất nước và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đó thực sự là những
thách thức, khó khăn trong thực thi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới.
2.2.1.3 Kinh nghiệm, truyền thống giữ nước của dân tộc.
Việt Nam là một nước nhỏ, có vị trí chiến lược ở khu vực Đông Nam
châu Á, luôn là đối tượng bị các thế lực bành trướng ngoại bang xâm chiếm.
Cũng chính vì thực tiễn đó mà ông cha ta đã đúc kết được nhiều bàihọc kinh
nghiệm trong kế sách giữ nước, bảo vệ Tổ quốc. Muốn giữ nước, bảo vệ Tổ
quốc phải luôn đề phòng việc không ngờ , phải to giữ nước từ lúc nước chưa
nguy, lo trị nước từ khi chưa loạn. Trong kế sách giữ nước, phải quan tâm
bảo vệ một cách toàn diện, nhất là việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, khơi
dậy lòng yêu nước, ý chí độc lập tự chủ, tự lực tự cường của dân tộc. Giữ
nước phải dựa vào dân, nước lấy dân làm gốc. Phải khoan thư sức dân làm
kế sâu rễ bền gốc, chăm lo đời sống nhân dân, xây dựng dân giàu nước
mạnh. Thực hiên “trong ấm ngoài êm". Trong nước đoàn kết, ổn định bên
ngoài hữu nghị hòa hiếu, mềm dẻo, khéo léo, giữ gìn hòa bình để xây dựng
đất nước giàu manh là thượng sách để giữ nước.



2.2.2. Tình hình thế giới, khu vực, trong nước có liên quan trực tiếp
đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và dự báo tình hình những năm tới
2.2.2.1. Tình hình thế giới, khu vực, trong nước
Trên thế giới: Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng
sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường.
Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ,
tranh chấp lãnh thổ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ
diễn ra gay gắt; các yếu tố đe doạ an ninh phi truyền thống, tội phạm công
nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học,
môi trường… còn tiếp tục gia tăng.
Toàn cầu hoá và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ,
thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Kinh tế thế
giới mặc dù có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn còn nhiều khó
khăn, bất ổn; chủ nghĩa bảo hộ phát triển dưới nhiều hình thức; cơ cấu lại thể
chế, các ngành, lĩnh vực kinh tế diễn ra mạnh mẽ ở các nước; tương quan
sức mạnh kinh tế giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn có nhiều thay đổi.
Cạnh tranh về kinh tế - thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên. năng
lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn. nguồn nhân lực chất lượng cao...
giữa các nước ngày càng gay gắt Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài
chính, an ninh năng lượng an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, nước biển
dâng cao, thiên tai dịch bệnh sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Cuộc đấu tranh
của nhân dân các nước trên thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân sinh,
dân chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục phát triển. Cuộc đấu tranh dân tộc và giai
cấp vẫn diễn biến phức tạp.
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông – Nam
Á vẫn sẽ là khu vực phát triển năng đông nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố
gây mất ổn định tranh chấp lãnh thổ biển đảo ngày càng gay gắt. Xuất hiện



các bình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới ASEAN tiếp tục đẩy
mạnh liên kết khu vực, xây dựng cộng đồng, có vai trò ngày càng quan trong
trong khu vực song còn nhiều khó khăn, thách thức.
- Về các tình huống phức tạp có thể xảy ra trong tương lai
Với xu thế của tình hình quốc tế và khu vực' với những thuận lợi cơ bản
nêu trên chúng ta có cơ sở để nhận định rằng trong những năm tới khả năng
gìn giữ hòa bình, ổn định phát triển, là nhân tố cơ bản để chúng ta xây dựng
vả bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Ta cần tranh thủ điều kiện thuận lợi và thời
cơ. nắm bắt cơ hội, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thách thức đê xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, cần nghiên cứu và dự báo chính xác về các tình huống phức
tạp cụ thể để có các phương án chủ động phòng ngừa, tránh để rơi vào tình
thế đối đầu, hoặc bị cô lập; kiên quyết không để xảy ra những diễn biến
phức tạp. Trong bất cứ tình huống nào cũng không thể để lâm vào tình trạng
bị động và bảo đảm đủ sức đối phó thắng lợi trong mọi tình huống.
Sự tác động của cuộc cách mạng khoa hoc - công nghệ đến lĩnh vực
quân sự
Ngày nay cuộc cách mạng khoa học công nghệ diễn ra sâu sắc, tác động
đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực quốc phòng
- an ninh. Trong khoa học quân sự vũ khí công nghệ cao đã trở thành phổ
biến trong trang bị quân sự của các nước lớn, từ đó đã xuất hiện các loại
hình chiến tranh xử dụng vũ khí công nghệ cao như cuộc chiến tranh của Mỹ
và liên quân diễn ra ở Nam Tư năm 1999, Ở Irắc năm 2003… Từ đó các
nước lớn đều xây dựng chiến lược an ninh quốc gia, chiến lược quân sự với
tư tưởng “đánh đòn phủ đầu”; “chủ động tiến công trước” đã làm kéo theo
đối với các nước có nền kinh tế khoa học công nghệ, đặc biệt vũ khi trang bị
ít hiện đại hơn phải điều chỉnh chiến lược cho phù hợp với tình hình mới.



2.2.3. Nội dung chủ yếu của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong giai
đoạn hiện nay
2.2.3.1. Mục tiêu
Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện
nay là: bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ;
giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an
toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống
phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh
phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi
tình huống. Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc
phòng - an ninh.
Mục tiêu cụ thể
Về chính trị:
Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và hiệu lực
quản lý của Nhà nước đối với toàn xã hội, bảo vệ mục tiêu và con đường
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa
chọn.
Bảo vệ mọi thành quả cách mạng Việt Nam đã giành được; giữ vững ổn
định chính trị đất nước, đảm bảo cho sự thành công của công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bảo vệ và phát huy khối đại đoàn kết dân tộc, làm thất bại mọi âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch hòng chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, đoàn kết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; vô hiệu hóa
mọi âm mưu, thủ đoạn tập hợp lực lượng, hình thức tổ chức chính trị đối.
Về kinh tế - xã hội


Bảo đảm cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chú nghĩa phát

triển nhanh, bền vững, hiệu quả; không ngừng nâng cao đời sống nhân dân,
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xà hôi gắn với tăng
cường củng cố quốc phòng - an ninh.
Đẩy lùi nguy cơ tụt hậu và tái khủng hoảng; hạn chế tác động tiêu cực
của kinh tế thị trường; đấu tranh hiệu quả với các tội phạm kinh tế, tệ quan
liêu, tham nhũng, gian lận thương mại; thực hiện triệt để tiết kiệm, chống
lãng phí.
Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi
trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Nước ta có điều kiện phát
triển nhanh và yêu cầu phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết sức cấp thiết.
Về tư tưởng -văn hóa
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của xã hội ta là chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc,
trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức
quốc phòng - an ninh, làm cho mọi người hiểu rõ những thách thức lớn tác
động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới.
Bảo vệ và phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam;
kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc chủ nghĩa xã
hội, phủ nhận lịch sử, tuyên truyền những giá trị tự do dân chủ, nhân quyền
tư sản đa nguyên chính trị đa đảng đối lập của các thế lực chống phá chủ
nghĩa xã hội.
Về đối ngoại
Bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và lợi ích quốc gia, dân tộc trong quá
trình mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế.


×