Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Tìm hiểu tình hình cung ứng đầu vào phục vụ hoạt động sản xuất trồng trọt của các hộ nông dân trên địa bàn huyện yên mô tỉnh ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (602.31 KB, 122 trang )

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Nói đến sản xuất là nói đến việc sử dụng các nguồn lực hay các yếu tố đầu
vào theo một quy trình kỹ thuật nhất định nhằm tạo ra những sản phẩm đầu ra
đáp ứng được kỳ vọng của xã hội. Đã từ lâu đầu vào trong sản xuất nông nghiệp
đóng vai trò quan trọng, quyết định đến năng suất và chất lượng sản phẩm. Ngày
nay, mục tiêu mà nông nghiệp của nước ta cần hướng đến là một nền nông
nghiệp chất lượng cao với các loại nông sản thỏa mãn yêu cầu hội nhập, phục vụ
nội tiêu, xuất khẩu, có sức cạnh tranh tốt. Muốn vậy nông nghiệp cần phải
chuyển hướng phát triển theo chiều sâu, trên cơ sở phát triển khoa học nông
nghiệp, những tiến bộ kỹ thuật mới, để lựa chọn và tạo ra các loại đầu vào mới,
chất lượng tốt nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất trồng trọt của bà con nông dân.
Sản xuất trồng trọt cần nhiều các yếu tố như vốn, lao động, kỹ thuật, vật
tư (giống, phân bón, thuốc BVTV,…). Nhưng để các đầu vào mới được đưa vào
thực tiễn sản xuất đòi hỏi phải có quá trình cung ứng. Cung ứng chính là cầu nối
giữa sản xuất, nghiên cứu với việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào thực
tiễn. Hiện nay có rất nhiều loại đầu vào mới có chất lượng tốt xuất hiện đã góp
phần làm năng suất và chất lượng cây trồng tốt hơn và nhờ có cung ứng mà các
đầu vào mới này được đưa tới tay bà con nông dân. Hệ thống cung ứng đã tạo ra
sự thuận tiện cho các nông dân tiếp cận với các đầu vào mới thông qua các cửa
hàng bán lẻ, các phòng nông nghiệp, các trạm khuyến nông, hợp tác xã nông
nghiệp, các tổ chức xã hội…Để họ có thể tự chọn mua loại đầu vào nào, số
lượng bao nhiêu và được tư vấn kỹ thuật sản xuất.Tuy việc cung ứng đầu vào
trong sản xuất nông nghiệp phong phú với nhiều hình thức nhưng có nhiễu loạn
thông tin thị trường, một phần do sự hiểu biết của người dân còn thấp đặc biệt
người dân sống ở vùng cao, vùng sâu dân tộc thiểu số việc tiếp cận các thông tin
rất hạn chế, sản xuất còn mang nặng tính truyền thống. Mặt khác, các doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh và cung ứng dịch vụ, vật tư nông nghiệp gặp nhiều
khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm, thường phân phối qua nhiều khâu trung
gian khi đến tay người dân thì giá quá cao và nhiều khi không đáp ứng đủ nhu


1


cầu của nông dân. Bên cạnh đó các tổ chức, đoàn thể quần chúng ở cơ sở là
những trung gian hoạt động rất hiệu quả nhưng chưa được sử dụng một cách tích
cực và chưa phát huy được hết vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình. Do vậy
vấn đề đặt ra là làm thế nào để đảm bảo được nguồn cung ứng đầu vào vững
chắc cho sản xuất nông nghiệp, dung hoà hợp lý giữa giá bán các sản phẩm sản
xuất trong nước với giá nhập khẩu, đảm bảo lợi ích cộng đồng trong dây chuyền
cung ứng giữa người sản xuất, người nhập khẩu và người dân?
Yên Mô là một huyện thuần nông, nằm ở phía đông nam của tỉnh Ninh
Bình. Trong quá trình phát triển kinh tế, huyện còn gặp nhiều khó khăn nhất là
trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp mà chủ yếu là hoạt động sản xuất trồng trọt.
Trình độ dân trí chưa cao, các thông tin thị trường còn xa lạ với nông dân, dịch
vụ và các ngành kinh doanh phục vụ nông nghiệp ít phát triển, nguồn vốn đầu tư
còn ít. Bên cạnh đó đây cũng là nơi có nguồn tài nguyên khá phong phú và nhiều
đất đai, thời tiết phù hợp dể phát triển các cây trồng như: lúa nước, ngô, đậu
tương…biết khai thác tốt sẽ đạt hiệu quả kinh tế cao. Vì vậy, để đưa kinh tế vùng
đi lên thì giải pháp hữu hiệu và cần thiết là tiến hành quy hoạch những vùng sản
xuất tập chung và chuyên môn hoá đi sâu và phát triển những cây trồng có lợi
thế so sánh. Muốn vậy thì cần phải quan tâm đến việc cung ứng các yếu tố đầu
vào phục vụ sản xuất trồng trọt. Do vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Tìm hiểu tình hình cung ứng đầu vào phục vụ hoạt động sản xuất
trồng trọt của các hộ nông dân trên địa bàn huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình.”
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Tìm hiểu tình hình cung ứng đầu vào phục vụ hoạt động sản xuất trồng
trọt của các hộ nông dân trên địa bàn huyện Yên Mô, từ đó đề xuất một số định
hướng và giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả cung ứng đầu
vào phục vụ sản xuất trồng trọt cho các hộ trên địa bàn.


2


1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hoá các vấn đề lý luận và thực tiễn về đầu vào và
cung ứng đầu vào trong hoạt động sản xuất trồng trọt.
- Đánh giá tình hình cung ứng đầu vào phục vụ hoạt động sản xuất trồng
trọt cuả các hộ nông dân trên địa bàn huyện Yên Mô
- Đề xuất một số định hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
cung ứng đầu vào phục vụ sản xuất trồng trọt cho nông dân trên địa bàn.
1.3 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Các hộ nông dân hoạt động sản xuất trồng trọt và các nguồn cung ứng đầu
vào phục vụ sản xuất trồng trọt trên địa bàn (Phòng nông nghiệp; ngân hàng
NN&PTNT; ngân hàng chính sách xã hội; hệ thống các cửa hàng vật tư nông
nghiệp; các tổ chức đoàn thể xã hội; các doanh nghiệp, nhà máy phục vụ hỗ trợ
cung ứng cho sản xuất NN).
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi nội dung: Các nguồn cung ứng đầu vào chủ yếu phục vụ hoạt
động sản xuất trồng trọt cuả các hộ nông dân trên địa bàn huyện Yên Mô và
đánh giá của nông dân về các nguồn cung ứng đó.
+ Phạm vi không gian: Đề tài được nghiên cứu tại huyện Yên Mô tỉnh Ninh
Bình
+ Phạm vi thời gian: Thời gian nghiên cứu đề tài vòng 3 năm từ năm
2007- 2009. Thời gian thực hiện đề tài từ ngày 24/1/2010 đến ngày 10/5/2010

3



PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Lí luận về sản xuất trồng trọt
Ở bất cứ nước nào dù là nước giàu hay nước nghèo, sản xuất trồng trọt
đều có vị trí quan trọng: Trồng trọt là ngành quan trọng nhất trong nông nghiệp
nhằm khai thác và sử dụng đất đai để tạo ra các sản phẩm thực vật. Trồng trọt là
nền tảng của sản xuất nông nghiệp, cung cấp lương thực, thực phẩm cho dân cư,
nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến, là cơ sở để phát triển chăn nuôi
và còn là nguồn xuất khẩu có giá trị theo giá trị sử dụng.
Cây trồng được phân thành các nhóm: cây lương thực (lúa, ngô, sắn),cây
công nghiệp (cây lấy đường, cây lấy dầu, cây lấy nhựa, cây lấy chất kích thích,
cây lấy sợi, cây lấy tinh dầu, cây làm thuốc); cây thực phẩm (rau, đậu, cây ăn
quả).
Trong quá trình phát triển kinh tế, sản xuất trồng trọt cần phải được phát
triển để đáp ứng với nhu cầu ngày càng tăng về lương thực, thực phẩm của xã
hội. Hoạt động sản xuất trồng trọt phụ thuộc nhiều vào điều kiện khách

quan, trước hết trồng trọt khác cơ bản với các ngành khác ở chỗ tư liệu
sản xuất chủ yếu là đất đai. Gắn liền với vai trò chủ đạo của đất đai là
ảnh hưởng của thời tiết, độ màu mỡ, cấu tạo thổ nhưỡng của đất đai mỗi
nơi mỗi khác nên việc lựa chọn cơ cấu cây trồng và kĩ thuật canh tác là
khác nhau. Sản xuất trồng trọt có phát triển ổn định hay không còn phụ
thuộc trình độ thâm canh của người dân, quy mô sản xuất, … và đặc biệt
là mức độ đầu tư (giống, phân bón, thuốc BVTV, lao động, công nghệ…)
vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm trồng trọt.

4


2.1.2 Lí luận về cung ứng đầu vào

2.1.2.1 Lí luận về đầu vào
a. Khái niệm về đầu vào
Đầu vào là các chi phí về lao động, vật tư, tiền vốn trong hoạt động sản
xuất kinh doanh. (Từ điển Tiếng Việt, 2005, NXB Đà Nẵng).
Đầu vào là những yếu tố sản xuất, hoặc dịch vụ nào đó được dùng để
sản xuất đầu ra. Đầu vào nông nghiệp bao gồm: lao động, đất, tiền vốn, tư liệu
sản xuất.(Đỗ văn Viện, 2006, giáo trình quản trị doanh nghiệp nông nghiệp.
NXB nông nghiệp)
Theo quan điểm của các nhà kinh tế, đầu vào là các nhân tố sản xuất (tư
bản, lao động,…) được đưa vào quá trình sản xuất và kết hợp với nhau để tạo
ra sản lượng. Nó là các khoản tài nguyên tiêu tốn tính theo giá thị trường và
được biểu hiện bằng chi phí sản xuất: tiền mua nguyên vật liệu vật tư, chi phí
thuê lao động, địa điểm,…Trong sản xuất kinh doanh các chủ doanh nghiệp
phải lựa chọn đầu vào tối ưu và sử dụng có hiệu quả các đầu vào đó để tối
thiểu hoá chi phí sản xuất và tối đa hóa lợi nhuận.
Theo quan điểm cổ điển, đầu vào chỉ bao gồm nguyên liệu, vốn và lao
động còn theo quan điểm mới ngoài các yếu tố trên đầu vào còn có đóng góp
của tri thức. Trong nền kinh tế tri thức, đầu vào này sẽ chiếm một tỷ trọng rất
lớn so với các đầu vào còn lại. Chẳng hạn, trong sản xuất trồng trọt, ứng dụng
CNSH như: chuyển gen mang tính trạng tốt vào giống cây trồng, nhằm tạo ra
những giống có năng suất cao, thích nghi với điều kiện thời tiết khắc nghiệt, có
khả năng chống chịu dịch bệnh hoặc tạo ra các chế phẩm sinh học bảo vệ cây
trồng. Hiện nay, nhiều nông dân đã ứng dụng CNSH vào trồng trọt và đạt hiệu
quả kinh tế khá cao. Đơn cử như việc dùng các chế phẩm phòng trừ sâu bệnh,
kích thích cây ra hoa sớm, đồng loạt đậu trái, cho năng suất cao gấp 1,5 - 4 lần
so với cách chăm sóc truyền thống

5



b. Các yếu tố đầu vào trong sản xuất trồng trọt
Trong sản xuất trồng trọt các yếu tố đầu vào chủ yếu bao gồm: đất đai,
lao động, vốn, kỹ thuật và công nghệ, tài nguyên thiên nhiên( rừng, biển,
động thực vật và nguồn nước) và môi trường, và các tư liệu sản xuất khác.
Quy mô và chất lượng của các đầu vào quy định quy mô và hiệu quả của
ngành trồng trọt. Việc khai thác và sử dụng tốt các đầu vào sẽ tạo nên trạng
thái cân bằng của ngành trồng trọt, tạo điều kiện nâng cao thu nhập và tích
lũy cho nông nghiệp. Tùy theo đặc điểm về hoạt động sản xuất trồng trọt mà
các đầu vào trên được sử dụng ở phạm vi và quy mô khác nhau. Tuy nhiên,
các đầu vào này luôn khan hiếm cả về lượng và chất và việc sử dụng chúng
lại mang tính cạnh tranh giữa các phương thức sử dụng khác nhau. Vì thế,
việc sử dụng các loại đầu vào trong sản xuất trồng trọt sẽ bao gồm việc phân
tích đặc điểm của từng loại đầu vào đó, phương hướng sử dụng các đầu vào
và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng. Trong phạm vi đề tài thì chủ yếu
nghiên cứu đến các yếu tố đầu vào như: lao động, vốn, vật tư (giống, phân
bón, thuốc bảo vệ thực vật), khoa học công nghê.
- Vốn: là yếu tố nội lực quan trọng nhất của các doanh nghiệp cũng
như trong các nông hộ, nó ảnh hưởng sâu sắc, trực tiếp và có ý nghĩa quyết
định đến hoạt động sản xuất của nông hộ. Đây là điều kiện để các hộ tái đầu
tư mở rộng sản xuất, nâng cao năng suất, sản lượng.
- Vật tư nông nghiệp (giống, phân bón, thuốc BVTV,…) và các yếu
tố khác cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động sản xuất trồng trọt,
tác động trực tiếp tới năng suất, phẩm chất của cây trồng. Nếu sử dụng các
yếu tố này một cách cân đối, hợp lý thì vừa nâng cao năng suất, hiệu quả đầu
tư vừa góp phần bảo vệ, cải tạo đất.
+ Giống cây trồng là một nhóm cây trồng có các đặc điểm kinh tế, sinh
học giống nhau và tính trạng hình thái giống nhau ở các vùng sinh thái và điều
kiện kỹ thuật phù hợp.

6



+ Phân bón: Trong sản xuất trồng trọt phân bón là 1 yếu tố quan trọng cần
thiết và không thể thiếu “nhất nước nhì phân tam cần tứ giống”. Phân bón là

những bổ sung cho đất được dùng để thúc đẩy cây cối phát triển; các loại chất
dinh dưỡng có trong phân bón là nitơ, phốt pho, kali và các chất dinh dưỡng
khác được thêm vào với những số lượng nhỏ. Bón phân là một trong những biện
pháp kỹ thuật được thực hiện phổ biến, thường mang lại hiệu quả lớn, nhưng
cũng chiếm phần khá cao trong chi phí sản xuất nông nghiệp.
+Thuốc BVTV: Là những chất độc có nguồn gốc từ tự nhiên hay hóa chất
tổng hợp được dùng để bảo vệ cây trồng và nông sản, chống lại sự phá hoại của
những sinh vật gây hại đến tài nguyên thực vật. Những sinh vật gây hại chính
gồm sâu hại, bệnh hại, cỏ dại, chuột và các tác nhân khác. Mặt khác, thuốc
BVTV còn được dùng để kích thích cây trồng tăng trưởng và phát triển là một
yếu tố quan trọng góp phần làm tăng sản lượng cây trồng và giảm các thiệt hại
trước thu hoạch.
- Khoa học công nghệ
+ Khoa học là hệ thống tri thức về tự nhiên, xã hội mà con người thu nhận
được thông qua hoạt động nghiên cứu. Khoa học cũng đồng thời là hoạt động
của con người sáng tạo ra tri thức mới .
+ Công nghệ là tri thức có hệ thống dùng để sản xuất ra một loại hàng hoá
hay tiến hành một loại dịch vụ nào đó. Công nghệ là kết quả sử dụng tri thức
khoa học, nghiên cứu công phu mới tạo ra được.
* Vai trò của công nghệ trong sản xuất trồng trọt
Công nghệ có vai trò hết sức quan trọng trong sản xuất nói chung và sản
xuất trồng trọt nói riêng. Vai trò của công nghệ thể hiện qua các mặt sau:
- Công nghệ giúp cho quá trình sản xuất diễn ra có hiệu quả: nhờ có công
nghệ mà các yếu tố sản xuất như lao động, đất đai, sinh vật, máy móc và thời tiết
khí hậu kết hợp với nhau để tạo ra sản phẩm.

- Công nghệ là hướng để làm tăng sản phẩm trong điều kiện nguồn lực
ngày càng khan hiếm. Trong khi các tài nguyên khác như đất đai, lao động… trở
nên ngày một khan hiếm thì công nghệ giúp con người sản xuất ra nhiều sản

7


phẩm hơn so với khối lượng nguồn lực đầu vào không đổi, thậm chí còn ít hơn.
- Công nghệ làm cho các đầu vào trong sản xuất trồng trọt ngày càng đa
dạng hơn. Thực tiễn có thể chứng minh càng ngày người nông dân càng có nhiều
lựa chọn hơn trong việc sử dụng các yếu tố đầu vào trong sản xuất kinh doanh,
điều này có phần đóng góp rất lớn của công nghệ trong nông nghiệp.
- Công nghệ làm cho người sản xuất có thu nhập cao hơn và thời gian
rảnh rỗi dài hơn do đó góp phần tăng chất lượng cuộc sống người nông dân.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường việc cung ứng đầu vào, đặc biệt là công
tác chuyển giao công nghệ mới, kỹ thuật tiến bộ vào trong sản xuất trồng trọt đóng vài
trò to lớn trong phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn, tác động làm dịch chuyển
đường cung sang bên phải làm tăng mức tiêu dùng xã hội với chi phí thấp hơn.
D: đường cầu thị trường

P
D

P
0
P
1
0

So: Đường cung trước khi áp dụng


S
0

KTTB
S1: Đường cung sau khi áp dụng KTTB

S
1
Qo

Q

Q1
Đồ thị 1. Biểu thị phối hợp lợi ích xã hội khi áp dụng KHCN
Qua đồ thị ta thấy lợi ích xã hội tăng khi áp dụng tiến bộ kỹ thuật
• Đặc điểm của công nghệ trong sản xuất trồng trọt
+ Công nghệ trồng trọt gắn liền với quá trình sinh học, việc xây dựng và
áp dụng công nghệ trong nông nghiệp phải tuyệt đối tuân thủ quy luật của sinh
vật.
+Công nghệ trong trồng trọt là sự kết hợp chặt chẽ các kỹ thuật hiện đại
và cổ truyền.
+ Công nghệ trong trồng trọt đang được xây dựng theo hướng của một
nền nông nghiệp bền vững.
- Lao động: Theo Ricacdo thì “lao động là cha, đất đai là mẹ đẻ ra của
cải vật chất”. Lao động là hoạt động có mục đích của con người thông qua

8



công cụ lao động tác động lên đối tượng lao động để biến đổi chúng thành
của cải vật chất cho nhu cầu của mình.
Mỗi ngành sản xuất khác nhau thì mang những đặc điểm khác nhau, vì
vậy mà lao động trong ngành trồng trọt cũng mang đặc điểm riêng nhưng nhìn
chung thì lao động trong ngành trồng trọt cũng mang những đặc điểm chung của
lao động nông nghiệp.
+ Lao động ít chuyên sâu: Điều này thể hiện là một lao động có thể làm
nhiều việc khác nhau và nhiều lao động có thể thực hiện một công việc. Đặc
điểm này xuất phát từ thực tế hoạt động sản xuất nông nghiệp không đòi hỏi về
trình độ tay nghề cao như trong sản xuất công nghiệp. Ngoài ra, tập quán canh
tác, tính chất công việc cũng ảnh hưởng đến tính chuyên sâu trong sản xuất nông
nghiệp.
+Việc sử dụng lao động mang tính thời vụ: Đặc điểm này xuất phát từ đặc
điểm của sản xuất nông nghiệp có những thời kỳ không cần hoặc cần rất ít sự tác
động của con người, nhưng lại cũng có những giai đoạn cần rất nhiều lao động.
Điều này làm cho nhu cầu về lao động trong nông nghiệp rất khác nhau trong
từng giai đoạn của sản xuất, làm cho giá tiền công trong lao động nông nghiệp
biến động nhiều.
+ Lao động nông nghiệp diễn ra trong phạm vi rộng lớn, đa dạng về địa
bàn và điều kiện sản xuất do hoạt động sản xuất nông nghiệp diễn ra trên phạm
vi rộng lớn với đặc điểm phức tạp của từng vùng.
+ Phần lớn lao động nông nghiệp ít được đào tạo: Do sản xuất nông
nghiệp thường ít hấp dẫn trên phương diện đầu tư, chịu rủi ro cao nên việc thu
hút lao động được đào tạo vào nông nghiệp là vấn đề rất khó khăn. Điều này
cũng gây ra những trở ngại và khó khăn rất lớn đến việc tiếp thu và đổi mới công
nghệ trong sản xuất và việc thực thi các chính sách của nhà nước.
* Các loại lao động trong sản xuất trồng trọt
Theo nguồn lao động thì lao động được phân làm 3 loại sau:
+ Lao động nông hộ hay lao động hộ gia đình là toàn bộ những người có


9


khả năng lao động trong nông nghiệp của nông hộ đó, nguồn lao động này bao
gồm những người trong tuổi lao động và những người ngoài độ tuổi lao động có
khả năng lao động. Lao động của nông hộ biến động theo quy luật nhân khẩu của
gia đình.
+ Lao động đổi công: Từ đặc điểm của lao động nông nghiệp có thể thấy
rằng, trong những thời vụ căng thẳng thì các nông hộ thường thiếu lao động và
khi hết vụ thì nông hộ lại dư thừa lao động. Để khắc phục tình trạng này thì nông
hộ thường tiến hành đổi công cho nhau.
+ Lao động thuê ngoài: Đối với các nông trại có quy mô sản xuất khá lớn,
quan hệ thị trường được mở rộng, tính chuyên môn hoá bắt đầu được quan tâm,
lao động gia đình không đủ để giải quyết các công việc trong sản xuất thì lao
động thuê ngoài thường chiếm một vị trí trọng yếu. Mặc dù vậy, nhưng lao động
thuê ngoài của nông hộ thường thấp hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp.
c. Vai trò của các yếu tố đầu vào trong sản xuất trồng trọt
Đầu vào là yếu tố rất quan trọng và không thể thiếu trong bất cứ hoạt
động sản xuất kinh doanh nào, muốn tiến hành sản xuất thì phải có các yếu
tố đầu vào. Nhất là trong sản xuất trồng trọt đầu vào là yếu tố quan trọng và
rất cần thiết nó bao gồm đất đai, lao động, vốn, công nghệ và các tư liệu sản
xuất khác. Sản xuất trồng trọt mang tính thời vụ cao do vậy việc sử dụng các
yếu tố đầu vào đầy đủ, kịp thời sẽ quyết định thắng lợi của cả quá trình sản
xuất. Sử dụng đầu vào đúng lúc, hợp lý còn có thể giảm chi phí sản xuất,
tăng năng suất, tăng lợi nhuận và thu nhập cho người lao động.
Các yếu tố đầu vào quyết định trực tiếp tới lượng sản phẩm đầu ra.
Trong sản xuất trồng trọt, sản lượng đầu ra (Q) là năng suất cây trồng đạt
được trên một đơn vị diện tích, các yếu tố đầu vào (X 1,X2,…X n) là lượng
giống, phân bón, thuốc BVTB, công lao động đầu tư trên đơn vị diện tích đó
trong một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Các đầu vào tuân theo quy luật hiệu

suất cận biên giảm dần. Mối quan hệ giữa các yếu tố đàu vào được biểu hiện
thông qua hàm sản xuất: Q= f(X1,X2,…,Xn)

10


2.1.2.2 Lí luận về cung ứng
a. Khái niệm cung ứng
Cung là số lượng hàng hóa dịch vụ mà người sản xuất (với tư cách là
người bán) có khả năng và sẵn sàng bán ở các mức giá khác nhau (mức giá có
thể chấp nhận được) trong phạm vi không gian và thời gian nhất định khi các
yếu tố khác không thay đổi.
Cung ứng thực chất là hoạt động dịch vụ cung cấp sản phẩm hàng hoá
cho thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu về sản xuất và tiêu dùng.
Cung ứng là quá trình hoạt động kinh doanh bắt đầu từ khâu tạo nguồn
hàng cho đến khâu giao hàng hoá dịch vụ đó đến tận tay người tiêu dùng.
Trong nền kinh tế mở như hiện nay thì việc cung ứng sản phẩm cho người tiêu
dùng đang được các nhà sản xuất, kinh doanh đặc biệt quan tâm. Cung ứng hợp
lý làm tăng sức mua của người dân, tạo động lực cho sản xuất phát triển, làm
tăng sản lượng hàng hoá, tăng thu nhâp cho người lao động.
Cung ứng sản phẩm là cầu nối trung gian giữa người bán và người mua.
Đối với người bán, nếu cung ứng tốt tức chuyển được nhiều sản phẩm hàng hoá
tới người tiêu dùng và đạt được hiệu quả cung ứng cao, lợi nhuận thu được lớn,
có được độ tin cậy trên thị trường. Còn đối với người mua, nếu hoạt động này có
hiệu quả thì người mua sẽ mua được hàng hoá mà họ cần, họ không mất nhiều
thời gian để tìm kiếm những sản phẩm mà họ cần. Họat động cung ứng ngày
càng nhiều thì người tiêu dùng không phải đi xa để mua những sản phẩm mà họ
cần. Để hoạt động cung ứng đầu vào trong sản xuất trồng trọt được thực hiện tốt
cần phải qua các kênh bán hàng trung gian đó là các nhà phân phối, cấp đại lý,
cấp ban buôn, cấp bán lẻ, phòng nông nghiệp huyện, hợp tác xã nông nghiệp, các

tổ chức xã hội ở địa phương…. các và cuối cùng là đến tay người nông dân. Để
quá trình cung ứng tốt thì phải để sản phẩm của mình đến tay người tiều dùng
nhanh nhất và tiết kiệm chi phí bán hàng nhất.

11


b. Vai trò của cung ứng đầu vào trong sản xuất trồng trọt
- Trong sản xuất trồng trọt việc cung ứng đầy đủ, kịp thời các yếu tố đầu
vào là rất quan trọng và cần thiết, tạo điều kiện để người dân có thể đạt được
phương hướng sản xuất kinh doanh, thực hiện chuyên môn hóa sản xuất tốt, đầu
tư thâm canh tăng năng suất, chất lượng sản phẩm.
- Đáp ứng các yêu cầu về đầu vào cho sản xuất trồng trọt của các hộ nông dân,
cung cấp cho người dân những giống mới, kỹ thuật mới có năng suất, chất lượng cao,
tạo điều kiện để người dân thâm canh tăng năng suất, tăng cường hợp tác liên doanh,
liên kết trong nông nghiệp, nông thôn.
- Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết, khí hậu, mùa
vụ và đặc tính sinh thái của cây trồng, vật nuôi do vậy việc cung ứng đầu vào một
cách đầy đủ, kịp thời sẽ quyết định thắng lợi của cả quá trình sản xuất, giảm bớt chi
phí sản xuất, tăng lợi nhuận, tăng thu nhập cho người lao động.
c. Đặc điểm của cung ứng đầu vào trong sản xuất trồng trọt
Những đặc điểm của cung ứng đầu vào trong sản xuất trồng trọt gắn liền
với những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp và thị trường nông sản.
- Mang tính thời vụ cao: Hoạt động cung ứng đầu vào diễn ra mạnh mẽ
vào những thời điểm nhất định. Chẳng hạn hoạt động tập huấn kỹ thuật, tham
quan, hội thảo đầu bờ… diễn ra nhiều vào thời gian nông nhàn, hoạt động cung
ứng giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật sôi nổi vào đầu và giữa vụ sản xuất.
- Các đầu vào có quan hệ mật thiết với nhau trong sản xuất, sự tiêu hao
đầu vào phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và tính chất vùng, vì vậy việc cung
ứng chịu nhiều ảnh hưởng của điều kiện khí hậu. Nhất là đối với đầu vào giống,

phân bón, thuốc bảo vệ thực vật dễ bị hư hỏng, giảm chất lượng trong quá trình
bảo quản, vận chuyển.
- Cung ứng đầu vào còn phụ thuộc vào phương hướng sản xuất của hộ
- Thu hồi vốn chậm do chu kỳ sản xuất trồng trọt dài.
- Cung ứng mang tính phân tán, ít tập trung và có rủi ro cao.

12


Cung ứng đầu vào trong nông nghiệp

Cung ứng đầu vào trong công nghiệp

-Rủi ro cao

- Ít chịu rủi ro

- Tính chất phân tán

-Tính chất tập trung hơn

- Mang tính thời vụ

- Không mang tính thời vụ

-Thu hồi vốn chậm

-Thu hồi vốn nhanh

2.1.2.3 Các nguồn cung ứng đầu vào trong NN và chức năng của từng nguồn

a. Các cơ quan về nông nghiệp: sở NN & PTNT, phòng NN & PTNT
Các cơ quan về nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản
xuất nông nghiệp của các hộ nông dân. Thực hiện tập trung công tác chuyển dịch
cơ cấu cây trồng vật nuôi đưa các giống mới có tiềm năng, năng suất, hiệu quả
kinh tế cao vào trong sản xuất như các giống lúa lai, ngô lai chịu hạn, lạc chịu
hạn… và một số loại cây trồng có giá trị kinh tế cao khác góp phần chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng tạo ra vùng sản xuất hàng hóa tập trung
chuyên canh, thâm canh có năng suất, chất lượng cao. Tăng cường công tác
chuyển giao khoa học kỹ thuật xây dựng triển khai thực hiện các mô hình trình
diễn, phối hợp với trạm khuyến nông huyện, UBND các cấp, các tổ chức đoàn
thể làm tốt công tác tập huấn kỹ thuật cho các hộ nông dân áp dụng tiến bộ khoa
học-kỹ thuật và công nghệ mới; chuyển đổi diện tích lúa có năng suất thấp sang
các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị cao. Phối hợp chặt chẽ với Đảng uỷ, chính
quyền các cấp, các ngành chức năng tổ chức triển khai có hiệu quả các dự án đầu
tư trong lĩnh vực nông nghiệp. Tổ chức xây dựng mô hình đưa giống mới có
năng suất cao, phẩm chất tốt vào sản xuất đồng thời thực hiện tốt các chính sách
hỗ trợ nông dân trong sản xuất nông lâm nghiệp.
Phối hợp với các ngành chức năng, UBND các xã, thị trấn trạm bảo vệ
thực vật, ban chỉ đạo sản xuất các cấp làm tốt công tác dự tính, dự báo đảm bảo
an toàn dịch bệnh cho cây trồng.
Phối hợp với các công ty sản xuất vật tư nông nghiệp (phân bón, thuốc
BVTV, giống…) tạo ra 1 kênh cung ứng vật tư uy tín, nhanh, gọn và hiệu quả
đến tay người nông dân.

13


b. Ngân hàng và các tổ chức tín dụng
Trong điều kiện hiện nay, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, cơ
sở vật chất kỹ thuật lạc hậu. Muốn cải thiện tình hình đó phải tăng cường các

nguồn vốn tín dụng để đầu tư phát triển nông thôn. Trên địa bàn nông thôn hiện
nay có nhiều tổ chức tín dụng hoạt động, chủ lực như Ngân hàng NN & PTNT,
Ngân hàng CSXH, các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, các tổ chức chính trị - xã
hội, đoàn thể làm dịch vụ tài chính, các tổ tiết kiệm vay vốn..., tạo thành một
kênh huy động vốn và cho vay tại chỗ để chuyển tải vốn đến hộ nông dân. Hoạt
động tín dụng nhằm cung ứng vốn vay cho các yêu cầu phát triển sản xuất kinh
doanh nông nghiệp, chế biến, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ở khu vực nông thôn.
Sự tham gia của của các Ngân hàng, các tổ chức tín dụng nhằm cung ứng vốn
kịp thời, lành mạnh tránh những tiêu cực của hoạt động tín dụng phi chính thống
nạn cho vay nặng lãi bị đẩy lùi tiến tới xoá sổ. Những ý nghĩa về xã hội như xóa
đói giảm nghèo, hỗ trợ bà con nông dân chuyển đổi cơ cấu kinh tế, vật nuôi, cây
trồng, ... Hiện nay, các hộ nông dân vay vốn đã được giải quyết nhanh chóng,
những thủ tục phiền hà đã giảm bớt, không còn tình trạng phải chờ đợi như
những năm trước đây. Đặc biệt là mức cho hộ vay đã nâng lên đến 10 triệu đồng
mà không phải thế chấp tài sản (đối với những vùng đặc biệt khó khăn, mức cho
vay tối đa lên đến 100 triệu đồng), tạo cơ hội giúp hộ nông dân chủ động thực
hiện phương án kinh doanh của mình.
Ở các vùng nông thôn thì nông dân chủ yếu tiếp cận với Ngân hàng NN
và PTNT và ngân hàng CSXH. Nó đã và đang đóng vai trò chủ đạo và chủ lực
trong đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn. Đáp ứng đầy đủ vốn cho nhu cầu
phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần đáng kể cho sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Tổ chức thực hiện tốt chức năng hoạt
động kinh doanh có hiệu quả gắn liền với chức năng phục vụ mục tiêu chương
trình, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của các địa phương.
Bên cạnh đó, các hình thức tín dụng phi chính thống (vay bạn bè, họ hàng,
vay lãi suất ngoài,…) cũng có vai trò quan trọng trong việc tăng cường nguồn

14



vốn đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp. Đặc bịêt là ở khu vực nông thôn, tín
dụng phi chính thống là hình thức tín dụng truyền thống và được sử tương đối
phổ biến. Nông dân có thể tìm đến các nguồn cho vay lãi ngoài khi cần thiết, vay
họ hàng, bạn bè hay những người thân thiết hay họ cũng có thể tham gia chơi
hụi, phường để tập trung nguồn vốn giúp nhau phát triển sản xuất. Ngày 27/11,
Thủ tướng ban hành Nghị định 144 về hụi, họ. Lần đầu tiên, vấn đề chơi hụi, họ
của người dân chính thức được pháp luật thừa nhận và bảo vệ về quyền và lợi
ích hợp pháp của người chơi hụi, họ thì các hoạt động này sẽ ngày càng phổ biến
hơn. Như vậy các tổ chức tín dụng là một yếu tố kinh tế quan trọng tại địa
phương, góp phần nâng cao đời sống thu nhập của người dân đem lại ổn định trật
tự chính trị, xã hội trên địa bàn, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế.
c. Các tổ chức đoàn thể xã hội
Là các tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức việt nam cùng ngành
nghề, cùng sở thích, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động
thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên,
đáp ứng nhu cầu của từng nhóm hay cộng đồng trong việc tương trợ giúp đỡ
nhau về đời sống, góp phần vào việc phát triển kinh tế xã hội. Các tổ chức này
gắn kết các thành viên và hoạt động theo pháp luật và những quy định của tổ
chức đoàn thể. Thông qua vai trò thành viên của một tổ chức, các cá nhân trở
nên tích cực, tự giác hơn, họ sẵn sàng tham gia các hoạt động mang lại lợi ích
thiết thân và cho các thành viên khác. Ở khu vực nông thôn nước ta, các tổ chức
Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh có vai trò tích cực trong các hoạt
động khuyến nông, xoá đói giảm nghèo cho các thành viên trong hội, tín dụng,
vận động các thành viên tham gia tích cực các hoạt động sản xuất. Góp phần đẩy
mạnh các phong trào, hoạt động của địa phương, hỗ trợ, bà con nông dân vươn
lên làm giàu. Trong đó hoạt động cung ứng, hỗ trợ đầu vào cho nông dân phục
vụ sản xuất đang rất được chú ý và có ý nghĩa quan trọng.
- Hội nông dân: Có vai trò rất quan trọng trong việc hỗ trợ, giúp đỡ nông
dân cải hiện đời sống, phát triển sản xuất kinh doanh. Thông qua các chương
trình liên tịch với một số ban ngành, hàng năm Hội phối hợp với ngành nông


15


nghiệp và các doanh nghiệp tổ chức lớp tập huấn chuyển giao tiến bộ KHKT cho
nông dân, xây dựng mô hình trình diễn giống cây, con mới và công nghệ tiên
tiến vào sản xuất; tổ chức hội nghị, hội thảo đầu bờ, tham quan mô hình cho hộ
nông dân tham gia. Qua tập huấn, tham quan trao đổi với mô hình điển hình đã
có tác dụng củng cố niềm tin, khuyến khích các hộ mạnh dạn đầu tư vào sản
xuất, nâng cao thu nhập XĐGN và vươn lên làm giàu, làm chuyển biến căn bản
nhận thức trong phát triển kinh tế (xóa bỏ tập tục canh tác cũ, chuyển đổi tư duy
sản xuất hàng hóa, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, thâm canh đạt năng suất cao.
Để tạo điều kiện hỗ trợ vốn lãi suất thấp, vật tư cho hộ nông dân nghèo và cận
nghèo có điều kiện để phát triển sản xuất, các cấp Hội chủ động liên doanh liên
kết “4 nhà’ xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình dự án tranh thủ
nguồn vốn hỗ trợ trong nước và ngoài nước. phối hợp với ngân hàng
NN&PTNT, Ngân hàng chính sách xã hội thành lập các tổ vay vốn, vận động
xây dựng quỹ hỗ trợ nông dân, trực tiếp hỗ trợ cho nông dân nghèo vay vốn
phát triển sản xuất có hiệu quả. Ngoài ra, Hội nông dân các cấp còn có những
đóng góp rất lớn trong việc thực hiện nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo. Hàng
năm hội tổ chức những phong trào tạo khí thế thi đua lao động sản xuất ở các
làng bản thôn, xóm như “Phong trào nông dân thi đua SXKD giỏi, đoàn kết giúp
nhau XĐGN và làm giàu’. Thường xuyên đổi mới nội dung hoạt động, phương
thức hoạt động, hướng về cơ sở, bám sát thực tế giúp hội viên phát triển kinh
tế. Giúp đỡ các hôị viên thông qua các hình thức như giúp ngày công lao
động, giúp vay vốn, chia sẻ kinh nghiệm, giới thiệu hội viên tham gia các lớp
tập huấn, tiếp thu tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Hội nông dân các cấp còn chủ
động liên hệ và phối hợp với các công ty sản xuất phân bón, giống, phân bón
tổ chức cung ứng đầu vào cho nông dân theo phương thức trả chậm, giúp
nông dân có điều kiện đầu tư cho sản xuất, nâng cao năng suất, sản lượng cây

trồng. Nước ta đã gia nhập và cam kết thực hiện các quy định của tổ chức
thương mại thế giới WTO, và Hội nông dân có trách nhiệm tuyên truyền nâng
cao hiểu biết cho nông dân về những cam kết trong nông nghiệp và các thoả
thuận, quy định của WTO. Hội phải tăng cường đẩy mạnh hoạt động, phong

16


trào của hội, đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, hỗ trợ nông dân về vốn, chuyển
giao khoa học kỹ thuật. Đẩy mạnh đào tạo nghề cho nông dân nhất là những
nơi bị thu hồi đất, phát triển ngành nghề, làng nghề truyền thống ở địa phương
để tạo việc làm, tăng thu nhập cho nông dân.
- Hội phụ nữ là tổ chức chính trị - xã hội, tập hợp rộng rãi các tầng lớp
phụ nữ Việt Nam, hoạt động vì sự bình đẳng, phát triển của phụ nữ, chăm lo

bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ, đóng vai trò rất
quan trọng trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Với
chức năng đại diện chăm lo cho quyền lợi phụ nữ, các cấp hội phụ nữ đã tập
trung chỉ đạo, triển khai nhiều phong trào, chương trình thiết thực hỗ trợ phụ nữ
và gia đình phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, các hoạt động hỗ trợ phụ nữ
vay vốn phát triển kinh tế gia đình. Phát động và tổ chức tốt các phong trào :
“phụ nữ giúp nhau làm kinh tế xóa đói giảm nghèo”, “phụ nữ sản xuất giỏi”,
“chương trình hỗ trợ phụ nữ tạo việc làm, tăng thu nhập… Nguồn vốn hỗ trợ phụ
nữ phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo được các cấp hội tập trung khai thác từ
ngân hàng, các tổ chức phi chính phủ, từ quỹ tiết kiệm của chị em. Hội chủ động
tín chấp với Ngân hàng NN&PTNT, thực hiện uỷ thác của Ngân hàng CSXH
cho phụ nữ vay vốn với cách thức vay trả linh hoạt, phù hợp. Không chỉ góp vốn
các cấp hội còn tranh thủ nguồn lực để tổ chức tập huấn, hội thảo tham quan mô
hình, chuyển giao khoa học kỹ thuật đã giúp chị em mạnh dạn chuyển đổi
phương thức sản xuất trồng trọt, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống.

Ngoài ra các tổ chức đoàn thể khác như Đoàn thanh niên, hội cựu chiến
binh… cũng có vai trò đáng kể trong việc hỗ trợ giúp đỡ nông dân phát triển
sản xuất.
d. Các doanh nghiệp, nhà máy
Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, phân phối cung ứng máy móc, vật tư
đầu vào phục vụ sản xuất trồng trọt, hỗ trợ nguồn vốn, kỹ thuật và các sản
phẩm khác cho nông dân. Họ thường xuyên đổi mới công nghệ, cải thiện
nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu sản xuất của nông dân.

17


Thường xuyên tạo ra các giống vật nuôi cây trồng mới có năng suất, chất
lượng cao phù hợp với yêu cầu thị trường. Tuy nhiên hiện nay việc cung ứng
của các doanh nghiệp còn một số hạn chế, chưa có sự liên kết phối hợp giữa
các công ty mạnh ai nấy làm, cung ứng còn manh mún, tản mạn, còn qua
nhiều tầng nấc trung gian, triết khấu hoa hồng lớn làm tăng chi phí trung
gian đẩy giá bán lên cao. Kể cả một số doanh nghiệp Nhà nước được hỗ trợ
đầu vào, có lợi thế cạnh tranh nhưng cũng chưa tổ chức được hệ thống kênh
phân phối cung ứng hoàn thiện, đảm bảo giá bán đến nông dân và mang lại
hiệu quả.
e.Các cửa hàng cung ứng vật tư
Ngày nay khi kinh tế mở cửa, dịch vụ phát triển thì hệ thống các đại lý
bán buôn, bán lẻ, các cửa hàng vật tư nông nghiệp ngày càng phát triển ở các
địa phương. Đây là nguồn cung ứng đầu vào trực tiếp cho nông dân. Nó có
thể đáp ứng nhanh gọn, đầy đủ, kịp thời nhu cầu đầu vào phục vụ sản xuất
do:
+ Mức độ cạnh tranh trong việc tiêu thụ vật tư nông nghiệp ngày càng
cao, đồng thời nguồn vốn sản xuất của nông dân có hạn nên có nhiều cửa hàng
bán vật tư nông nghiệp sẵn sàng cho khách hàng của mình thanh toán theo hình

thức gối đầu, chậm trả,
+ Sự thuận tiện khi mua hàng hóa: Hầu hết các hộ nông dân không có
phương tiện vận chuyển, do đó họ sẽ chọn mua ở những nơi thuận tiện, gần nhà.
Việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn phải được coi là có tầm
quan trọng đặc biệt.
2.1.2.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình cung ứng đầu vào
a. Giá cả
Theo C.Mac, giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Trong hoạt
động mua bán giá cả chính là phương tiện giải quyết mâu thuẫn về lợi ích giữa
người bán và người mua hay nói một cách khác giá cả của hàng hoá là mức giá
ma cả người mua và người bán đều chấp nhận được.

18


Giá cả là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình cung ứng của sản
phẩm, khi nhà kinh doanh ra quyết định về một mức giá nào đó nó sẽ tác động
đến sức mua của người nông dân và niềm tin của họ vào mặt hàng đó. Nếu giá
quá cao so với khả năng thanh toán của người nông dân thì họ sẽ không mua,
hoặc mua ít đi dẫn tới giảm lợi nhuận, giảm khả năng đáp ứng đầu vào cho nông
dân của công ty. Khi mức giá thấp có thể bà con nông dân có lợi nhưng có thể
ảnh hưởng lợi nhuận của doanh nghiệp và người dân có thể nghi ngờ về chất
lượng sản phẩm cung ứng.
Theo tiến sĩ Đặng Kim Sơn thì thị trường vẫn là thách thức đối với người
dân Việt Nam. Giá dầu mỏ lên 50 năm tới có xu hướng tăng và cạn kiệt kéo theo
sự tăng giá phân bón, thuốc trừ sâu khiến đầu vào sản xuất nông nghiệp ngày
càng tăng. Khi giá cả gia tăng, giá cánh kéo luôn nghiêng về phía bất lợi cho
người sản xuất nông nghiệp và người dân. Sản xuất nông nghiệp của chúng ta có
khả năng tăng sản lượng do tăng vụ và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, mở mang thị
trường tiêu thụ nhưng giá trị tăng thêm của một số sản phẩm không mang lại

nhiều lợi nhuận bởi chi phí sản xuất tăng đồng hành và tăng nhanh hơn sản
lượng.
b. Chất lượng và thương hiệu của đầu vào trong sản xuất trồng trọt
Trong nền kinh tế thị trường, chất lượng sản phẩm là một trong những vũ khí
cạnh tranh sắc bén, là một yếu tố góp phần vào việc khẳng định vị trí của người sản
xuất trên thị trường. Chất lượng đầu vào cao hay thấp đều tác động mạnh mẽ đến
hoạt động cung ứng và tiêu thụ. Đầu vào trong sản xuất trồng trọt chỉ được
người nông dân chấp nhận khi chất lượng đảm bảo. Các yếu tố đầu vào trong sản
xuất trồng trọt thường phát huy hiệu quả nhanh chóng do vậy bà con nông dân
có thể dễ dàng thấy được tác dụng, vai trò và sử dụng các đầu vào có chất
lượng cao. Và các sản phẩm đã khẳng định được thương hiệu, uy tín về chất
lượng sẽ là lựa chọn của các hộ nông dân. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng sản
phẩm có vai trò rất quan trọng, nó không những nâng cao giá trị và thời gian sử
dụng, tiết kiệm hao phí lao dộng xã hội mà đối với doanh nghiệp tạo điều kiện

19


cho việc tiêu thụ sản phẩm thuận lợi, tăng uy tín của doanh nghiệp trên thị
trường, từ đó thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
c. Tập quán và trình độ của người sản xuất
Các yếu tố này có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình cung ứng đầu vào
phục vụ sản xuất. Nông dân thường là những người có học vấn thấp hay bảo
thủ, ít chịu tiếp thu những kỹ thuật mới. Họ thường cho mình là đúng, thường
làm theo những cái cũ, những cái truyền thống, những phương pháp đã in sâu
vào cách thức sản xuất của họ. Do vậy những cơ quan, tổ chức ở địa phương
cần chú ý đến những đặc điểm này để có những phương pháp, cách thức cung
ứng cho phù hợp.
d. Hệ thống chính sách vĩ mô của Nhà nước
Chính sách Nông nghiệp là tập hợp các chủ trương và hành động của

Chính Phủ nhằm thay đổi môi trường cho Nông nghiệp Phát triển.
Trồng trọt cũng như các ngành khác, muốn mở rộng quy mô và hiệu
quả sản xuất nhất thiết phải có hệ thống chính sách kinh tế thích hợp tạo
nhằm tạo dựng mối quan hệ hữu cơ giữa các nhân tố với nhau để tạo ra hiệu
quả kinh doanh cao nhất. Kết quả sản xuất phụ thuộc nhiều vào chính sách
kinh tế, các chính sách thích hợp sẽ khuyến khích sản xuất phát triển. Các
chính sách tác động trực tiếp hay gián tiếp tới việc cung ứng đầu vào phục
vụ sản xuất trồng trọt như: chính sách đất đai, chính sách tín dụng, chính
sách thuế đầu vào, chính sách trợ giá đầu vào…Nhất là khi nước ta đã gia
nhập tổ chức WTO phải thực hiện các cam kết thương mại thì nhân tố này
càng trở nên quan trọng hơn.
e. Vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật
Trong hoạt động cung ứng đầu vào phục vụ sản xuất trồng trọt thì vốn
và cơ sở vật chất kỹ thuật cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Nó quyết định
đến mức độ và khả năng cung ứng của các doanh nghiệp cũng như các cơ
quan, tổ chức tham gia cung ứng. Ngoài ra các yếu tố về cơ sở vật chất
như: cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc…giúp lưu thông, tiêu thụ hàng hoá

20


đầu vào, đầu ra, nhanh chóng thuận tiện. Vốn là một điều kiện không thể
thiếu cho phát triển sản xuất nông nghiệp. Đánh giá tác động của dịch vụ này là
đánh giá khả năng tiếp cận vốn của người dân, việc sử dụng vốn đầu tư cho quá
trình sản xuất như đầu tư mua giống cây, phân bón,…Qua đó ta biết được việc
sử dụng vốn của người dân có hiệu quả không? Đầu tư sản xuất có tăng năng
suất không? Để từ đó có thể cung ứng vốn một cách có hiệu quả hơn.
f. Thời vụ
Đặc điểm của sản xuất trồng trọt là mang tính thời vụ do vậy cung ứng
đầu vào phục vụ sản xuất trồng trọt cần chú ý đến đặc tính sinh học, mùa vụ,

các thông số kỹ thuật khác của từng loại đối tượng sản xuất. Ở các thời vụ
khác nhau thì mức độ tiêu thụ các loại đầu vào có sự khác nhau do vậy việc
cung ứng phải có sự khác biệt giữa các đối tượng và thời điểm sản xuất.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Kinh nghiệm cung ứng đầu vào trong sản xuất trồng trọt ở một số nước
trên thế giới
a. Indonexia
Trong nền kinh tế In-đô-nê-xi-a, nông nghiệp là ngành quan trọng
nhất vì hơn một nửa dân số phục vụ trong nông nghiệp. Suốt một thời gian
dài, sản xuất trồng trọt của Indonesia luôn gặp phải những khó khăn như trình độ
quản lý nguồn nước thấp, hệ thống tưới tiêu yếu kém và sự lệ thuộc nghiêm
trọng vào nguồn phân hóa học nhập khẩu... do đó việc sản xuất lúa nước phát
triển rất chậm, sản lượng thấp, thậm chí còn không đủ để thỏa mãn nhu cầu ngày
một gia tăng ở trong nước. Để vực dậy nền kinh tế In-đô-nê-xi-a, các tổ chức
quốc tế đã giúp nước này bằng các nguồn vay. Ngân hàng thế giới cho vay 6
tỉ USD, Ngân hàng Phát triển châu á (ADB) cho vay 3 tỉ USD với lãi suất ưu
đãi. Tổ chức Nông- Lương của Liên hợp quốc (FAO) đã giúp In-đô-nê-xi-a
khoảng 150 dự án. Chính phủ Indonesia quyết định hàng loạt biện pháp hỗ trợ
như các khoản cho vay đặc biệt, tăng cường bù giá cho phân bón cũng như các
loại cây và con giống, mở rộng diện tích trồng trọt… Chính phủ In-đô-nê-xi-a

21


đã đẩy mạnh phát triển thị trường các yếu tố đầu vào sản xuất trồng trọt để
giúp người sản xuất có thể tiếp cận với giống cây trồng có năng suất cao,
phân bón và các đầu vào chủ yếu khác như: trợ cấp phân bón khoảng 75%
giá phân bón được trợ cấp trực tiếp từ ngân sách nhà nước thông qua một tổ
chức kinh doanh độc quyền của Nhà nước gọi là RUSRI (thành lập từ 1979)
PUSRI nhận phân bón từ các nhà máy sản xuất trong nước cũng như thông qua

nhập khẩu, sau chuyển về tỉnh, huyện, rồi bán cho các nhà buôn. Tháng 10/1988,
Chính phủ đã quyết định là việc lưu thông phân bón cho nông dân thông qua
HTX (KUD). Giá cả phân bón thống nhất trong cả nước, giá phân bón ở
Inđônêxia bán thấp hơn giá quốc tế, trước 50% nay là 20%. Với một số chính
sách cấp thiết và hữu hiệu, cùng với sự phát triển theo hướng đồng bộ hệ
thống nghiên cứu, khuyến nông, tín dụng nông thôn, nông thôn Inđônêxia
đang hướng tới tạo lập những tiền đề để đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển
một ngành nông nghiệp toàn diện, tiên tiến, hiện đại. Những năm 80 đến
nay, kinh tế In-đô-nê-xi-a, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp đã phục hồi và có
bước phát triển, sản lượng nông nghiệp tăng với tốc độ 4%/năm. Đáng chú ý
là, từ năm 1984 Inđônêxia đã tự bảo đảm được nhu cầu về lúa gạo bằng sản xuất
trong nước, không còn phải nhập khẩu gạo như trước đó.
b. Thái Lan
Trong nông nghiệp, việc ổn định đầu vào, đầu ra của sản xuất là nội
dung chủ yếu các chính sách của Thái Lan. Chính phủ hết sức quan tâm và
có nhiều biện pháp hữu hiệu về giá lương thực, giá vật tư, về ứng dụng kỹ
thuật tiến bộ,về chính sách đầu tư trong nông nghiệp. Ổn định giá vật tư
nông nghiệp mà chủ yếu là phân bón cũng là một biện pháp quan trọng thúc
đẩy sản xuất. Khoảng 2,1 triệu tấn phân bón được sử dụng ở Thái Lan trong
năm 1989, trong đó gần 27% được lưu thông qua khu vực công cộng và 73%
còn lại chuyển qua kênh phân phối của khu vực tư nhân. Các kênh khu vực
công cộng gồm có: Tổ chức lưu thông dành cho nông dân(MOF), Ngân hàng
nông nghiệp và các HTX nông nghiệp (BAAC), văn phòng các quỹ viện trợ

22


trồng lại cây cao su (ORRAF). BAAC là tổ chức phân phối nhiều nhất trong
khu vực công cộng, chiếm 80% trong tổng số của khu vực này. Trước năm
1981, khoản tín dụng của BAAC không bao gồm các loại phân hoá học. Sau

đó, BAAC đưa ra hệ thống tín dụng bằng hiện vật để cung cấp phân bón và
các vật tư nông nghiệp khác cho khách hàng của mình. Ngoài ra, MOF được
thành lập từ 1975 như một công cụ để ổn định giá phân bón của thị trường
trong nước. Tổ chức này cung cấp phân bón cho nông dân và các hiệp hội
HTX với giá trợ cấp, người nông dân phải chịu chi phí vận chuyển trong
nước và chi phí bảo quản. Khách hàng của MOF mua cùng một mức giá. Và
Chính phủ nước này cũng hết sức quan tâm đầu tư cho hệ thống nghiên cứu,
triển khai, mời chuyên gia đến trao đổi kinh nghiệm, nhập nội các giống tốt
và các quy trình công nghệ tiên tiến: cử cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài,
dành một khoản tiền lớn để thực hiện việc chuyển giao công nghệ đến hội
nông dân, đến đồng ruộng…
2.2.2 Kinh nghiệm cung ứng đầu vào phục vụ sản xuất trồng trọt ở Việt Nam.
Trong thời kỳ đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đã đạt những thành tựu nổi
bật, duy trì tốc độ tăng trưởng đều và ổn định, thể hiện được lợi thế so sánh của
Việt Nam so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nông nghiệp đã thực
sự trở thành chỗ dựa nền tảng cho công nghiệp và dịch vụ, góp phần quan trọng
vào việc bảo đảm ổn định xã hội ở nước ta. Trong những năm gần đây, nông
nghiệp Việt Nam có những bước phát triển mạnh mẽ, sản lượng nông nghiệp
tăng trên 4%/năm, nhiều mặt hàng nông sản, thực phẩm xuất khẩu khẳng
định vị thế trên thị trường thế giới. Tăng trưởng nông nghiệp không chỉ đảm
bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn gia tăng kim ngạch xuất khẩu, góp
phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên trong xu thế
hội nhập để đảm bảo phát triển một nền nông nghiệp hiệu quả, bền vững
ngành nông nghiệp còn nhiều vấn đề cần giải quyết đặc biệt là vấn đề đầu tư
cho phát triển nông nghiệp.

23


Kinh tế thị trường phát triển, nông nghiệp nông thôn và người dân

khó khăn trong tiếp cận đầu vào đặc biệt là nguồn tài chính, tín dụng. Theo
Quyết định số 497/QĐ-TTg ngày 24/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ
lãi suất vốn vay mua máy móc, thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và
vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn. Tuy nhiên, thủ tục và điều kiện vay
vốn rườm rà, mất nhiều thời gian, nhiều khi vay được vốn xong thì lỡ mất mùa
vụ, vì vậy mà người dân ít được tiếp cận với nguồn vốn này, hiệu quả của chính
sách chưa cao. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ thì trong 5 năm (20032007) Việt Nam đầu tư cho phát triển nông nghiệp chỉ đạt 113 nghìn tỷ đồng
chiếm 8,7% vốn đầu tư Nhà nước và mới chỉ đáp ứng 17% nhu cầu của khu
vực nông nghiệp. Các ngành dịch vụ phục vụ nông nghiệp chưa phát triển, tỷ lệ
thất thoát sau thu hoạch còn cao. Sản xuất trồng trọt thiếu máy móc thiết bị, phân
bón, thuốc BVTV,... Dịch vụ hỗ trợ như tín dụng, vận tải, viễn thông tăng trưởng
chậm. Tổng Công ty máy động lực và máy nông nghiệp chỉ đáp ứng nhu cầu
25% thị trường trong nước. Sản xuất phân đạm trong nước chỉ đáp ứng 30% 40% nhu cầu, còn lại phải nhập khẩu. Hiện nay chi phí đầu vào cho sản xuất
trồng trọt rất cao, một trong những chi phí lớn nhất đối với sản xuất trồng
trọt nói chung đó là phân bón. Sản xuất trồng trọt nước ta hàng năm sử dụng
khoảng trên 8 triệu tấn phân bón hoá học các loại trị giá hàng trăm nghìn tỷ
đồng. Chi phí cho việc vận chuyển, bốc xếp, lưu kho phân bón chiếm 1015%.Tuy nhiên thời gian qua việc cung ứng phân bón còn có nhiều bất cập,
cung ứng chưa có một mô hình kinh tế rõ rệt, mạnh ai nấy làm, cung ứng
còn manh mún, tản mạn qua nhiều tầng nấc trung gian làm tăng chi phí đẩy
giá bán lên cao. Kể cả các doanh nghiệp Nhà nước được hỗ trợ đầu vào, có
lợi thế cạnh tranh nhưng cũng chưa tổ chức được hệ thống cung ứng phân
bón hoàn thiện, đảm bảo giá bán đến nông dân và mang lại hiệu quả.
Tuy nhiên công tác chọn, tạo, đưa giống mới vào sản xuất lại có nhiều
bước tiến mới. Trong những năm gần đây ngành trồng trọt đã không ngừng
đầu tư nghiên cứu tìm ra nhiều chủng loại cây, con giống mới phục vụ cho

24


người dân. Các giống lúa, bắp có năng suất cao, phẩm chất tốt chống chịu

được sâu bệnh, chịu hạn tốt, chịu thâm canh đáp ứng kịp thời với những thay
đổi bất thường của thời tiết, được tạo ra từ việc áp dụng các biện pháp lai
tạo, nuôi cấy túi phấn, đột biến (giống lạc chịu hạn VL18, giống ngô chịu
hạn…). Bên cạnh công tác tạo ra những công nghệ mới thì ngành còn rất chú
trọng vào việc tập huấn, hội thảo đầu bờ… hướng dẫn cho bà con nông dân
sử dụng kĩ thuật tiến bộ đó một cách hiệu quả. Đồng thời người dân cũng
được tiếp cận với nhiều nguồn cung ứng đầu vào. Các tổ chức như hội nông
dân, hội phụ nữ, đoàn thanh niên, hợp tác xã các cấp đóng vai trò quan trọng
trong việc hỗ trợ đầu vào giúp nhân dân cải thiện đời sống, phát triển sản
xuất. Hệ thống ngân hàng NN&PTNT, ngân hàng CSXH cũng đã phát huy
được vai trò trong đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn, đáp ứng vốn cho
nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh. Việt Nam đã gia nhập và cam kết
thực hiện những quy định của tổ chức WTO, có nhiều thách thức mới đặt ra
cho người dân Việt Nam. Theo các chuyên gia, điều quan trọng là sau khi
Việt Nam gia nhập WTO cần đẩy mạnh đầu tư cho khoa học công nghệ. Tuy
nhiên vấn đề này cũng không hề dễ dàng bởi nông dân rất khó tiếp cận và
làm chủ khoa học công nghệ.

25


×