Lời cảm ơn
Trong thời gian vừa qua, để hoàn thành được luận văn tốt nghiệp, ngoài
sự nỗ lực của bản thân tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ các tập
thể, các cá nhân trong và ngoài trường.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy giáo, cô giáo
khoa KT & PTNT – Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội đã tạo mọi điều
kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo Th.S Mai Lan
Phương, đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt gian thực tập tốt nghiệp
Tôi xin chân thành cảm ơn các cán bộ UBND và nhân dân xã Hưng
Thông, Hưng Nguyên, Nghệ An đã cung cấp những số liệu cần thiết và giúp
đỡ tôi tận tình trong thời gian thực tập tại địa phương
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên và giúp đỡ tôi
hoàn thành quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 23 tháng 5 năm 2010
Bùi Thị Hồng
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung
thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Đồng thời tôi xin cam đoan rằng trong quá trình thực hiện đề tài này tại địa phương
tôi luôn chấp hành đúng mọi quy định của địa phương nơi thực hiện đề tài.
Sinh viên
Bùi Thị Hồng
TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Hưng Thông là một xã đang từng bước thoát nghèo của huyện Hưng
Nguyên. Trong những năm qua xã đã thu được khá nhiều thành công trong
sự nghiệp phát triển kinh tế cũng như đời sống của người dân. Nằm trên
con đường 12.9 – quốc lộ của huyện Hưng Nguyên nên xã có các điều
kiện để phát triển kinh tế, dịch vụ. Các điều kiện về kinh tế, xã hội phát
triển, nó kéo theo sự thay đổi về nhận thức của người dân trong xã –
những định kiến phong kiến đã dần được xóa bỏ, vị thế của người phụ nữ
trong xã hội cũng như trong gia đình đã được nâng lên. Trong các công
việc của gia đình, họ đã nhận được nhiều sự chia sẻ từ những người chồng
của mình. Từ đó, họ có nhiều hơn các cơ hội để học tập, giao lưu, nghỉ
ngơi.
Vậy, trong gia đình những người phụ nữ nơi đây thường phải đảm nhận
và ra quyết định những công việc gì? những người chồng và chính họ nghĩ
gì về vai trò của người phụ nữ? những yếu tố nào đã ảnh hưởng đến sự
thay đổi những vai trò của người phụ nữ trong gia đình hiện nay?
Xuất phát từ lý do trên, tôi lựa chọn tiến hành thực hiện đề tài:
“Tìm hiểu vai trò của người phụ nữ trong gia đình: Trường hợp nghiên
cứu điểm tại xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An”.
Mục tiêu của đề tài là: Tìm hiểu vai trò và các yếu tố ảnh hưởng đến
vai trò của người phụ nữ trong một số công việc của gia đình tại xã Hưng
Thông, Hưng Nguyên, Nghệ An. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm
nâng cao vai trò của người phụ nữ theo hướng tích cực hơn.
Các phương pháp thực hiện trong đề tài: Phương pháp chọn mẫu
nghiên cứu; phương pháp thu thập thông tin, số liệu; Phương pháp xử lý
thông tin, số liệu; Phương pháp phân tích, số liệu
Qua tìm hiểu thực tế tại địa phương, chúng tôi nhận thấy, vai trò của
người phụ nữ trong việc thực hiện cũng như ra quyết định các công việc
của gia đình là khác nhau, và vai trò này cũng khác nhau đối với 3 nhóm
hộ gia đình mà đề tài đã chọn: Hộ xây dựng gia đình trước năm 1986, hộ
xây dựng gia đình từ năm 1986 đến năm 2000 và hộ xây dựng gia đình từ
năm 2000 đến nay.
Đối với hộ xây dựng gia đình trước năm 1986, người phụ nữ chưa có
tiếng nói trong gia đình. Họ vẫn còn bị ảnh hưởng nhiều của tư tưởng
phong kiến, trọng nam khinh nữ. Người phụ nữ trong giai đoạn này thường
phải đảm nhận nhiều công việc nặng nhọc, họ chưa nhận được sự chia sẻ
công việc từ người chồng của mình. Thời gian nghỉ ngơi, giải trí của họ bị
hạn chế. Đặc biệt, họ chưa có tiếng nói trong việc ra quyết định các công
việc của gia đình.
Tuy nhiên, đã bắt đầu có sự thay đổi đối với những người phụ nữ xây
dựng gia đình từ năm 1986 đến năm 2000 và từ năm 2000 đến nay. Vào
những thời gian này, đất nước phát triển, lối suy nghĩ của người dân nói
chung và người dân nông thôn nói riêng đã có nhiều thay đổi theo hướng
tích cực. Mặt khác, đời sống người dân không ngừng được nâng cao, các
phương tiện tiện nghi phục vụ sinh hoạt hàng ngày đã bắt đầu xuất hiện
trong mỗi gia đình. Điều này đã góp phần làm thay đổi sự phân công công
việc giữa các thành viên trong gia đình. Tỷ lệ bàn bạc, chia sẻ công việc
giữa 2 vợ chồng đã tăng lên so với những người phụ nữ xây dựng gia đình
trước năm 2000.
Bên cạnh đó, vẫn còn một số gia đình có tư tưởng trọng nam khinh nữ,
người phụ nữ chưa thật sự có tiếng nói trong gia đình, họ thường phải phụ
thuộc vào các quyết định của người chồng.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng dẫn đến sự khác nhau về vai trò của người
phụ nữ trong các hộ gia đình: Yếu tố quan niệm; chính sách; hoạt động
tuyên truyền; đời sống vật chất; trình độ văn hóa.
Vì vậy, trong thời gian tới, để góp phần nâng cao vai trò của người phụ
nữ theo hướng tích cực hơn nữa, Nhà Nước và địa phương cần có những
giải pháp cụ thể, góp phần nâng cao nhận thức và vai trò của người phụ nữ
trong gia đình.
PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Việt Nam đang trên đà phát triển, nó kéo theo nhiều sự thay đổi để phù
hợp với sự phát triển này, và cấu trúc gia đình cũng không là một ngoại lệ. Từ
cấu trúc gia đình truyền thống, tồn tại nhiều thế hệ cùng chung sống, ở đó
luôn tồn tại những định kiến khắt khe, ràng buộc người phụ nữ với gia đình.
Xã hội Việt Nam vào thời kì này, luôn dành cho người phụ nữ những chuẩn
mực “ tam tòng tứ đức” và buộc họ phải tuân theo. Mặt khác, các công việc
gia đình đã đè nặng lên đôi vai của người phụ nữ, họ có ít thời gian để chăm
sóc bản thân, cũng như cơ hội học tập, giao lưu của họ bị bó hẹp. Trình độ
văn hoá, nhận thức hạn chế là nguyên nhân khiến cho người phụ nữ sống cam
chịu và phụ thuộc hoàn toàn vào nguời chồng, người con trai của mình.
Hiện nay, cấu trúc gia đình chủ yếu ở Việt Nam là gia đình hạt nhân.
Cấu trúc gia đình thay đổi, kéo theo vai trò và trách nhiệm giữa các thành
viên thay đổi. Vị thế của người vợ và người chồng đã bình đẳng hơn,
những người phụ nữ không chỉ dừng lại ở các công việc gia đình, mà họ
còn tham gia vào các hoạt động mua bán lớn trên thị trường, cũng như đảm
nhận công tác ở những vị trí lớn, góp một phần chính trong việc tạo ra các
nguồn của cải nuôi sống gia đình. Ngoài ra, sự bình đẳng, sự chia sẻ công
việc giữa các thành viên trong gia đình, đã giảm bớt gánh nặng cho người
phụ nữ, tạo điều kiện cho họ được tham gia các hoạt động vui chơi, giải
trí… ngày càng nhiều hơn.
Tuy nhiên, do tính chất là một nước có nhiều hủ tục, lối suy nghĩ phong
kiến, cổ hủ, nên nhìn chung sự bất bình đẳng vẫn còn xảy ra nhiều trong các
gia đình Việt Nam. Người phụ nữ vẫn phải giữ vị trí độc tôn trong các công
việc nội trợ, chăm sóc những người thân của gia đình. Hay trong các hoạt
động sản xuất kinh doanh, mặc dù đã có sự chia sẻ và bàn bạc giữa chồng và
vợ, nhưng tình trạng bất bình đẳng, những định kiến buộc người phụ nữ phải
như thế này, như thế kia vẫn còn tồn tại.
Cùng chung một thực trạng trên, vấn đề này càng được thể hiện rõ
nét ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa của đất nước. Bởi điều kiện
về dân trí, nhận thức còn nhiều lạc hậu, đặc biệt là của người phụ nữ.
Ngoài ra, tại những vùng này vẫn còn những hủ tục, những lối suy nghĩ
phong kiến hay chính từ những nhận thức còn sai lệch của xã hội về vai trò
của người phụ nữ trong gia đình.
Hưng Thông là một xã đang từng bước thoát nghèo của huyện Hưng
Nguyên. Trong những năm qua xã đã thu được khá nhiều thành công trong sự
nghiệp phát triển kinh tế cũng như đời sống của người dân. Nằm trên con
đường 12.9 – quốc lộ của huyện Hưng Nguyên nên xã có các điều kiện để
phát triển kinh tế, dịch vụ. Các điều kiện về kinh tế, xã hội phát triển, nó kéo
theo sự thay đổi về nhận thức của người dân trong xã – những định kiến
phong kiến đã dần được xóa bỏ, vị thế của người phụ nữ trong xã hội cũng
như trong gia đình đã được nâng lên. Trong các công việc của gia đình, họ đã
nhận được nhiều sự chia sẻ từ những người chồng của mình. Từ đó, họ có
nhiều hơn các cơ hội để học tập, giao lưu, nghỉ ngơi.
Vậy, trong gia đình những người phụ nữ nơi đây thường phải đảm nhận
và ra quyết định những công việc gì? những người chồng và chính họ nghĩ gì
về vai trò của người phụ nữ? những yếu tố nào đã ảnh hưởng đến sự thay đổi
những vai trò của người phụ nữ trong gia đình hiện nay?
Xuất phát từ lý do trên, tôi lựa chọn tiến hành thực hiện đề tài:
“Tìm hiểu vai trò của người phụ nữ trong gia đình: Trường hợp
nghiên cứu điểm tại xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An”.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
* Mục tiêu chung :
Nghiên cứu sự thay đổi vai trò của phụ nữ trong gia đình hiện nay, qua
đó đánh giá xem sự thay đổi này theo chiều hướng tốt hay xấu, và đưa ra một
số giải pháp nhằm góp phần tạo ra sự thay đổi được tốt hơn
* Mục tiêu cụ thể
• Hệ thống hóa cơ sở lý luận về vai trò của người phụ nữ trong gia đình
• Tìm hiểu vai trò và các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của người phụ
nữ trong các công việc của gia đình hiện nay tại xã Hưng Thông, Hưng
Nguyên, Nghệ An
• Đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao vai trò của người phụ nữ
trong gia đình tại xã theo chiều hướng tích cực hơn.
1.3 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung nghiên cứu sự thay đổi vai trò của người phụ nữ trong
gia đình, chủ thể là người phụ nữ, những người đàn ông trong hộ gia đình
được chia theo 3 mốc thời gian : những người phụ nữ lập gia đình trước năm
86, từ năm 86 – năm 200, và từ năm 2000 đến nay. Ngoài ra, thông tin còn
được thu thập qua hội trưởng hội liên hiệp phụ nữ xã, chủ tịch UBND ở xã
Hưng Thông, Hưng Nguyên, Nghệ An.
1.4 PHẠM VI NGHIÊN CỨU
* Phạm vi không gian :
Đề tài tập trung tìm hiểu vai trò của người phụ nữ trong gia đình tại xã
Hưng Thông, Hưng Nguyên, Nghệ An
* Phạm vi thời gian :
• Đề tài được tiến hành thực hiện từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2010
• Số liệu được thu thập chia làm 3 mốc
- Hộ gia đình được xây dựng trước năm 1986
- Hộ gia đình được xây dựng trong khoảng thời gian từ những năm
1986 đến năm 2000.
- Hộ gia đình được xây dựng từ những năm 2000 đến nay
* Phạm vi nội dung :
Do khuôn khổ thời gian nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu sự thay đổi
vai trò của phụ nữ trong các lĩnh vực : Sự thay đổi vai trò của phụ nữ đối với
hoạt động sản xuất tạo ra thu nhập; các hoạt động nội trợ, chăm sóc con cái và
định hướng nghề nghiệp cho con.
PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN :
2.1.1 Những vấn đề cơ bản về gia đình, các công việc trong gia đình
chủ yếu
- Khái niệm gia đình , phân loại gia đình:
Gia đình là một tổ chức xã hội được hình thành từ khá sớm trong lịch
sử của loài người. Ngay từ buổi đầu của lịch sử, khi con người tách khỏi giới
loài động vật và tự tổ chức cuộc sống với tư cách là một cộng đồng độc lập,
thì cũng là lúc con người tự tổ chức cuộc sống theo các mô hình cộng đồng
nhỏ - hình thức sơ khai của gia đình. Lúc đầu gia đình chỉ bao gồm các thành
viên có quan hệ trực huyết với nhau, chủ yếu là những người mẹ cùng các
con, cháu (giai đình mẫu hệ). Sau đó thì được mở rộng bao gồm thêm các
thành viên khác có thể có cùng huyết thống song cũng có thể không cùng
huyết thống. Về quy mô gia đình, lúc đầu số lượng các thành viên gia đình
tương đối đông có khi lên tới hàng trăm người. Về sau, do yêu cầu thích ứng
với cuộc sống ngày càng phát triển của xã hội loài người nên số lượng các
thành viên gia đình giảm dần. Gia đình hiện đại ngày nay, số thành viên có
khi chỉ có từ 1 - 3. Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về gia đình, đồng
thời các quan điểm cơ bản về gia đình dường như cũng chưa có sự thống nhất,
thậm chí có sự trái ngược nhau
Theo từ điển tiếng việt: “Gia đình là tập hợp những người cùng sống
chung thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ
hôn nhân và dòng máu, thường gồm có vợ chồng, cha mẹ và con cái”1. Quan
niệm này chỉ mới dừng lại ở một quan niệm phổ quát nhất về các loại gia đình
trong lịch sử, đồng thời cũng chưa bao gồm các hình thức gia đình mới đang
phát sinh trong các xã hội hiện đại ngày nay.
Theo quan điểm của nho giáo: gia đình chính là một cái nước nhỏ. Vì
thế, nếu “một nhà nhân hậu thì cả nước nhân hậu. Một nhả lễ nhượng thì cả
nước ăn ở đều có lễ nhượng. Một người tham lam thì cả nước bị rối loạn”
(Đại học, Chương IX). Do đó, một xã hội muốn thanh bình thì trước hết cần
phải có những gia đình hòa thuận. Gia đình hòa thuận là gia đình mà mọi
thành viên luôn quan tâm đến nhau, chăm lo cho nhau. Trong gia đình đó, vợ
chồng sống hòa thuận thương yêu nhau, cùng nhau chăm lo nuôi dưỡng dạy
dỗ con cái nên người. Cha mẹ phải luôn giữ gìn lời ăn tiếng nói cũng như tác
phong làm việc của mình để làm tấm gương cho con cái noi theo. Ngược lại,
con cái phải luôn hiếu kính với ông bà, cha mẹ, biết phụng dưỡng chăm sóc
ông bà, cha mẹ, biết làm cho ông bà, cha mẹ được rạng rỡ và không làm việc
gì khiến cho ông bà, cha mẹ phải tủi hổ với hàng xóm láng giềng. Một gia
đình hoà thuận còn là một gia đình mà anh em biết bảo ban nhau cùng tiến bộ,
biết thương yêu đùm bọc lẫn nhau, biết em ngã thì chị nâng.
Để làm được điều đó, Nho giáo đòi hỏi mỗi người trong gia đình phải
biết giữ gìn và tuân theo lễ, bởi cho rằng, chỉ có lễ con người mới trở thành con
người xã hội. Nhờ có lễ, con người mới có thể biết được như thế nào là có hiếu
với cha mẹ, là kính với người trên, là từ đễ với anh em thân thích, là bạn hiền
của bằng hữu, là nhân với người chung quanh, là tín thực với thân thuộc. Nho
giáo khẳng định, nếu xây dựng được một gia đình hoà thuận, con cái biết hiếu
đễ cha mẹ biết từ nhượng thì đó cũng là làm chính trị rồi. Bởi nước cũng chỉ là
một cái nhà to. Các căn nhà nhỏ - gia đình mà hòa thuận thì căn nhà to cũng sẽ
hòa thuận. Vì thế, làm chính trị không cứ là phải ra làm quan. Những tư tưởng
trên của Nho giáo, ở một mặt nào đó có thể nói rằng, phù hợp với Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta.
Chúng ta cũng coi "Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng cả đời
người, là môi trường quan trọng trong giáo dục nếp sống và hình thành nhân
cách". Vì thế, Đảng ta đòi hỏi "Các chính sách của nhà nước phải chú ý tới xây
dựng gia đình no ấm, hoà thuận, tiến bộ. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình
đối với mọi lớp người"2. Với tính cách tế bào xã hội, vườn ươm các nhân tài
của đất nước, nơi nuôi dưỡng những công dân mới cho tương lai, gia đình có
vai trò quan trọng trong việc xây dựng thành công nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự tốt xấu của mỗi gia đình đều có ảnh hưởng tới
sự ổn định của xã hội, tới sự chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá sang nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN mà chúng ta đang tiến hành. Tất nhiên,
gia đình mới mà chúng ta xây dựng là một gia đình hòa thuận dựa trên cơ sở
dân chủ: vợ chồng, cha con anh em tôn trọng lẫn nhau, cùng nhau bàn bạc và
quyết định những vấn đề lớn của gia đình. Gia đình mới mà chúng ta xây dựng
cũng đòi hỏi vợ chồng phải có lòng chung thuỷ, làm cha, mẹ phải có đức nhân
từ, làm con phải có đức hiếu kính, làm anh em phải có sự thương yêu nhường
nhịn. Hạt nhân của mỗi gia đình ấy chính là vợ và chồng. Vì vậy, những hành
vi ứng xử và giao tiếp của mỗi thành viên trong gia đình được Nho giáo quy
định chặt chẽ, phụ thuộc vào danh phận mỗi người gia đình là cái nước nhỏ
(nhất gia nhân, nhất quốc hưng vong). Nho giáo khẳng định, nếu xây dựng
được một gia đình hoà thuận, con cái biết hiếu đễ cha mẹ biết từ nhượng thì đó
cũng là làm chính trị rồi. Bởi nước cũng chỉ là một cái nhà to. Các căn nhà nhỏ
- gia đình mà hòa thuận thì căn nhà to cũng sẽ hòa thuận. Vì thế, làm chính trị
không cứ là phải ra làm quan.
Theo tác giả Levy Strauss: gia đình là một nhóm xã hội học được quy
định bởi 3 đặc điểm thường thấy:
+ Hôn nhân
+ Quan hệ hôn nhân
+ Các ràng buộc và trách nhiệm giữa các thành viên trong gia dinh.
Liên Hợp Quốc định nghĩa: gia đình là một nhóm người có quan hệ họ
hàng cùng sống chung và có ngân sách chung3.
Ở phương Tây, những năm gần đây xuất hiện nhiều dạng gia đình biến
thái khiến cho định nghĩa về gia đình đều trở nên bất cập. Chẳng hạn: Các tác
giả Jame W. Vander Zanden - cho biết: “Một cuộc thăm dò mới đây cho thấy
45% người Mỹ ngày nay cho rằng một đôi không cần kết hôn mà cùng chung
sống với nhau thì được coi là một gia đình đích thực, 33% coi các đôi cùng
giới tính có nuôi nấng con cái là gia đình, còn 20% thì coi các cặp đồng giới
tính chung sống với nhau là một gia đình”. Đây có thể coi là một sự mở rộng
thái quá trong quan niệm về gia đình
Nói tóm lại hiện nay, có rất nhiều khái niệm về gia đình. Song mỗi khái
niệm đều xuất phát từ những phương diện khác nhau, do đó khó có thể lựa chọn
được định nghĩa thống nhất.
Thông qua những khái niệm này, tôi lựa chọn một định nghĩa chung nhất,
phù hợp với nội dung của vấn đề đang được nghiên cứu – gia đình là : một tế bào
của xã hội và phụ thuộc phần nhiều vào đặc điểm của xã hội cũng như nền thống
trị của đất nước đó. Trong đó những người có quan hệ họ hàng cùng sống chung
dưới một mái nhà và có nguồn ngân quỹ chung. Có ràng buộc và trách nhiệm
cũng như phân công các công việc giữa các thành viên trong gia đình.
( 1. Từ điển Tiếng Việt. Trung tâm Ngôn ngữ học, Nxb. Đà Nẵng, Hà Nội - Đà Nẵng 2004,
tr.381.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb ST, Hà
Nội, 1987, tr.15.
3. Dẫn theo cuốn: Gia đình Việt Nam, các trách nhiệm, các nguồn lực trong sự đổi mới
của dất nước. Nxb KHXH, Hà Nội, 1994, tr.90-91. )
Ở Việt Nam từng tồn tại các gia đình truyền thống và gia đình hạt nhân.
Gia đình truyền thống: là gia đình mà nhiều thế hệ có quan hệ huyết tộc
cùng chung sống trong một mái nhà, có chung nguồn ngân quỹ. Trong gia
đình truyền thống có các ưu điểm như có sự gắn bó cao về tình cảm theo
huyết thống, bảo lưu được các truyền thống văn hóa, tập tục, nghi lễ, phát huy
tốt các gia phong, gia lễ, gia đạo. Các thành viên trong gia đình có điều kiện
giúp đỡ nhau về vật chất và tinh thần, chăm sóc người già và giáo dưỡng thế
hệ trẻ. Đó là những giá trị rất căn bản của văn hóa gia đình mà chúng ta cần
kế thừa và phát huy. Tuy nhiên, nhược điểm của loại gia đình này là ở chỗ
trong khi giữ gìn các truyền thống tốt đẹp thì cũng bảo trì luôn cả những tập
tục, tập quán lạc hậu, lỗi thời. Bên cạnh đó, sự khác biệt về tuổi tác, lối sống,
thói quen cũng đưa đến một hệ quả khó tránh khỏi là mâu thuẫn giữa các thế
hệ: giữa ông bà - các cháu, giữa mẹ chồng - nàng dâu... Bên cạnh việc duy trì
được tinh thần cộng đồng, gia đình truyền thống phần nào cũng hạn chế sự
phát triển tự do của mỗi cá nhân. Trong điều kiện của xã hội hiện đại "1 ngày
bằng 20 năm" loại gia đình này có vẻ thiếu cơ động và chậm thích ứng. Điều
này giải thích tại sao số lượng gia đình truyền thống kiểu đại gia đình giảm
đáng kể và không còn là khuôn mẫu của gia đình ngày nay. Khi xã hội thay
đổi, giai cấp lãnh đạo đất nước thay đổi thì cấu trúc gia đình cũng thay đổi
theo để phù hợp hơn với điều kiện thực tế trên. So với gia đình truyền thống
thì gia đình hạt nhân tạo điều kiện để các thành viên trong gia đình được
chăm sóc nhau tốt hơn, cũng như tạo điều kiện để các thành viên trong gia
đình được sống, học tập và cống hiến cho xã hội được nhiều hơn.
2.1.2 Những lý luận cơ bản về giới, giới tính
- Khái niệm Giới :Giới là sự khác biệt giữa nam và nữ về góc độ xã hội,
các đặc điểm khác nhau do xã hội quyết định, các mối quan hệ giữa nam và
nữ do xã hội xác lập nên. ( giới trong PTNT, Đỗ Kim Chung, Nguyễn Thị
Minh Hiền,2009)
- Khái niệm giới tính : Giới tính là sự khác biệt về đặc tính sinh học
giữa phụ nữ và nam giới. Sự khác biệt này chủ yếu liên quan đến quá
trình tái sản xuất nòi giống. Vai trò sinh học này là đồng nhất, phổ biến và
không thay đổi.
- Vai trò giới, trách nhiệm giới : Vai trò giới là việc nhận thức và xác
định các hành vi trong một xã hội, trong một cộng đồng hay một nhóm đặc
biệt nào đó về các nhiệm vụ, trách nhiệm của nam giới và phụ nữ. Vai trò giới
chịu ảnh hưởng của tuổi tác, giai cấp, tôn giáo, đẳng cấp, dân tộc và cũng chịu
ảnh hưởng bởi môi trường sống, môi trường kinh tế, chính trị và xã hội. Sự
thay đổi vai trò của giới thường xuất hiện như một sự phản hồi lại một sự thay
đổi về kinh tế, thể chế chính trị, các điều kiện tự nhiên và cộng thêm vào cả
bản thân những nổ lực của nam và nữ, làm cho vai trò này được thay đổi . [1]
Ví dụ : Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ bị bó buộc bởi xã hội,
họ không được tham gia vào các công việc lớn trong gia đình, họ thường bị xã
hội khinh rẻ hơn, không được ra ngoài tiếp xúc với xã hội. Tuy nhiên, khi đất
nước phát triển, chế độ nhà nước phong kiến đang bị xóa bỏ, thì người phụ nữ
đã vượt ra khỏi cái vòng kìm kẹp của xã hội, họ không chỉ biết mỗi chuyện
chăm lo cho gia đình mà nhiều người phụ nữ đã nổ lực học tập, và tham gia
ngày càng tăng cả về số lượng lẫn chất lượng vào các hoạt động xã hội cũng
như chính trị của đất nước.
Nữ giới và nam giới khác nhau trong ba mặt :
Thứ nhất : Hoạt động sản xuất hàng hóa có giá trị trao đổi và sản xuất
vừa có ý nghĩa tiêu dùng tại gia đình, vừa có tính sử dụng và hoạt động này
tạo ra thu nhập cho gia đình
Thứ hai: Vai trò sản xuất thể hiện vai trò của nam và nữ trong việc tái
sinh, duy trì nòi giống, tái sản xuất sức lao động, bao gồm trách nhiệm mang
thai, sinh đẻ hoặc nuôi con, chăm sóc các thành viên khác trong nhà, công
việc như dọn dẹp nhà cửa và nội trợ. Vai trò đó không chỉ bao gồm sự tái sản
xuất sinh học mà còn có cả chăm lo và duy trì lực lượng lao động hiện tại và
lực lượng sau này. Các công việc trái sản xuất có khuynh hướng, dường như
là công việc được dành riêng cho phụ nữ.
Thứ ba : Vai trò quản lý cộng đồng gồm các hoạt động do nữ giới
và nam giới thực hiện ở cấp cộng đồng nhằm bảo vệ và duy trì các nguồn
lực khan hiếm của cộng đồng, quản lý sự thay đổi và làm cho cộng đồng
phát triển [2].
- Một số vấn đề cơ bản về bình đẳng giới : Bình đẳng giới được hiểu là
nam giới và nữ giới có cùng vị thế bình đẳng trong xã hội, cùng hưởng những
điều kiện bình đẳng để phát huy khả năng của mình, cùng có cơ hội như nhau
để tham gia, đóng góp và hưởng lợi từ công cuộc phát triển. Bình đẳng giới
mang lại lợi ích cho cả nam và nữ.
Bình đẳng giới thể hiện ở chổ trao quyền và tạo đà phát triển cho cả
nam và nữ. Trao quyền không có nghĩa là rút quyền của người này trao cho
người kia mà phát huy quyền của mỗi người, phát huy quyền tập thể, phát huy
sức mạnh tinh thần và sự tự tin của mỗi cá nhân [3]
2.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của người phụ nữ
2.1.3.1 Tư tưởng phong kiến, trọng nam khinh nữ từ xa xưa để lại
Từ trước tới nay đã có nhiều nghiên cứu về giới, và đều khẳng định
rằng, việc bất bình đẳng giới đang ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của
người phụ nữ. Bất bình đẳng đối với người phụ nữ đã hạn chế các quyền lợi
của họ, hạn chế về quyền được học tập, được cống hiến, được giải trí... đó lại
là nguyên nhân của việc trình độ cũng như nhận thức của người phụ nữ còn
thấp kém so với nam giới. Việt Nam với 1000 năm độ hộ của phương Bắc –
chịu ách thống trị của chế độ phong kiến “trọng nam khinh nữ” và bị ảnh
hưởng bởi tư tưởng nho giáo: Người phụ nữ luôn phải “ tam tòng, tứ đức”,
luôn có một khuôn mẫu khắt khe mà xã hội dành cho họ. Không những thế,
với lối sống gia trưởng của người đàn ông, khiến người phụ nữ phải làm hết
các công việc, nhưng lại phụ thuộc hoàn toàn vào người chồng của mình, họ
không có tiếng nói trong gia đình. Ngược lại, nam giới lại có quyền được học
hành, được quyết định các công việc của xã hội, được “ năm thê bảy thiếp”...
Hiện nay, chịu tác động của cơ chế thị trường, với nhiều thay đổi đáng kể
trong tư tưởng, nhận thức của xã hội về vai trò và địa vị của người phụ nữ
trong gia đình. Họ đã được tạo nhiều điều kiện để phát triển và công bằng với
nam giới hơn. Tuy nhiên, tình trạng bất bình đẳng vẫn còn xảy ra rất nhiều,
người phụ nữ vẫn còn bị đè nặng bởi công việc, bởi bổn phận làm vợ, làm mẹ,
khiến họ chưa thật sự có nhiều cơ hội để học tập nâng cao trình độ của mình,
hạn chế tính năng động sáng tạo, khó khăn trong giao tiếp xã hội, đặc biệt là ở
các vùng nông thôn.
2.1.3.2 Học vấn và trình độ chuyên môn của người phụ nữ
Trong hầu hết các nghiên cứu về phụ nữ, chúng ta đều thấy rằng, trình
độ văn hóa và nhận thức của người phụ nữ thấp hơn nam giới rất nhiều. Điều
này đã ảnh hưởng đến việc tuyên truyền, vận động sinh đẻ có kế hoạch ở các
vùng nông thôn. Ngoài ra, nó còn ảnh hưởng đến khả năng tiếp nhận của
người phụ nữ về các tiến bộ khoa học kĩ thuật hay phương pháp ứng dụng
khoa học vào sản xuất. Cứ như vậy, nghèo lại hoàn nghèo, cũng vì nghèo nên
người phụ nữ không được học hành, rồi lại nghèo....Đây là vòng luẩn quẩn
hạn chế vai trò cũng như việc thể hiện năng lực của người phụ nữ. Bên cạnh
đó, trình độ văn hóa thấp, khiến người phụ nữ thường cam chịu, phụ thuộc
vào người chồng của mình. Đây là nguyên nhân của việc chênh lệch trong sự
phân công lao động công việc nhà của một số gia đình
2.1.3.3 Cách nhìn nhận của người phụ nữ về vai trò của chính mình
Trước đây, tư tưởng phong kiến, nho giáo từ ngàn xưa đã áp đặt cho
người phụ nữ một khuôn mẫu, họ phải thế này, phải thế kia: phải hi sinh vì
chồng vì con; phải công dung ngôn hạnh; phải đặt vị trí của chồng, của con
cao hơn mình... những tư tưởng này nó đã in sâu trong lòng mỗi người phụ nữ
Việt Nam. Và vô hình chung họ đã chấp nhận những định kiến, những trói
buộc mà xã hội dành cho mình, để rồi công việc gia đình đã trở thành rào cản,
ngăn họ không được học tập và giao lưu với xã hội. Ngày nay, người phụ nữ
đã từng bước khẳng định được vai trò, vị thế của mình trên tất cả các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, xã hội. Song công việc nội trợ, công việc chăm sóc con cái
vẫn là gánh nặng đối với họ. đặc biệt ở các vùng nông thôn, tỷ lệ người hụ nữ
sống cam chịu, sống phụ thuộc vào chồng mình vẫn còn rất cao... nên khả
năng tiếp cận với các tiến bộ khoa học và khả năng tham gia những hoạt động
xã hội của họ vẫn còn nhiều hạn chế.
Mọi nỗ lực của Đảng, Nhà nước, xã hội nhằm nâng cao vị thế của
người phụ nữ sẻ không hiệu quả khi mà chính bản thân người phụ nữ
không nhận thức được vai trò của họ, họ không tự mình thoát được những
tư tưởng phong kiến củ, mà vươn lên khẳng định địa vị của bản thân trong
gia đình – xã hội.
2.1.3.4 Khả năng tiếp cận thông tin của phụ nữ
Xã hội đang thay đổi một cách nhanh chóng, do vậy, để theo kịp
được xã hội thì không có con đường nào khác ngoài việc phải học tập
nâng cao kiến thức của mình cũng như phải nắm bắt, tiếp cận được với
những thông tin, những tiến bộ mới trong đời sống – xã hội. Tuy nhiên,
những điều này lại khá xa lạ đối với người dân nông thôn, đặc biệt là
những người phụ nữ. Họ ít được tiếp xúc với xã hội, ít được tiếp cận với
các nguồn thông tin như: sách, báo, internet...vv. Điều này dẫn đến một
kết quả tất yếu là sự thiếu hụt thông tin ở người phụ nữ, làm cho khả năng
tiếp cận những tiến bộ khoa học kĩ thuật nói chung và những đổi mới
trong ngành nông nghiệp nói riêng bị hạn chế, làm ảnh hưởng đến năng
suất, chất lượng sản phẩm. Từ đó địa vị và vai trò của người phụ nữ trong
việc sản xuất nông nghiệp lại được đánh giá không cao.
2.2 CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.2.1 Tình hình về phụ nữ ở một số nước trên thế giới:
Trong bất kì xã hội nào thì chúng ta đều phải thừa nhận rằng: Phụ nữ
luôn là một phần vô cùng quan trọng của thế giới. Họ góp phần tái tạo ra các
nguồn lực lao động cho xã hội, cùng người chồng của mình sản xuất hàng
hóa, của cải phục vụ gia đình cũng như cho loài người nói chung. Ở một số
nước trên thế giới, người phụ nữ đã vượt qua được những định kiến, hủ tục
của xã hội để có thể khẳng định được vị trí của mình. Họ đã và đang chiếm
giữ những vị trí lãnh đạo đất nước vô cùng quan trọng. Đó là ngoại trưởng
Mỹ Hillary Rodham Clinton, là Thủ tướng Đức Angela Merkel – được tạp chí
Forbes chọn là người phụ nữ quyền lực nhất thế giới vào năm 2008 …vv. Tuy
nhiên, vẫn còn đó rất nhiều người phụ nữ bị kìm hãm bởi những chế độ, hủ
tục mà đất nước họ đang sống. Đặc biệt là ở các nước hồi giáo, người phụ nữ
phải che mặt lúc ra khỏi nhà, cũng như họ không được tạo điều kiện để học
tập và tham gia vào các công tác xã hội. Và hiện nay có 3/5 số người nghèo
nhất thế giới và 2/3 số người mù chữ toàn cầu là phụ nữ. Phụ nữ làm 2/3 tổng
số công việc (nếu gồm cả những lao động không được trả tiền) nhưng họ chỉ
nhận được 10% tổng số lương được trả trên toàn cầu. Phụ nữ cũng chỉ sở hữu
1% tài sản ở mọi quốc gia [1] – nguồn:VietNamNet.vn.Cập nhật: 17/02/2009
- 09:43
Có thể tóm tắt về tình hình phụ nữ trên thế giới hiện nay như sau:
1.Dânsố
- Nhìn chung, phụ nữ hiện nay có số con ít hơn, nhưng với số lượng
phụ nữ ở tuổi sinh sản nhiều hơn nên dân số thế giới vẫn tiếp tục tăng lên.
- Số người già trên 60 tuổi dự kiến tăng từ 600 triệu lên một tỉ trong
vòng 20 năm tới, trong đó có nhiều phụ nữ già hơn nam giới.
- Mặc dù số lượng phụ nữ vượt trội so với nam giới ở hầu hết các khu
vực, nhưng tại một số vùng ở Châu á nam giới nhiều hơn phụ nữ.
- Phụ nữ chiếm tỉ lệ lớn trong tổng số dân di cư quốc tế-ước tính
khoảng 56 triệu trong tổng số 118 triệu người.
2. Phụ nữ và nam giới trong gia đình
- Phụ nữ nói chung kết hôn muộn hơn, nhưng hơn một phần tư phụ nữ
kết hôn ở lứa tuổi 15 đến 19 ở 22 nước - toàn là các nước đang phát triển.
- Tỉ lệ sinh ở phụ nữ không có chồng tăng rất nhanh tại các nước phát triển.
- Có thêm nhiều người sống cô đơn ở các nước phát triển, và đa số là
phụ nữ.
- ở nhiều nước phát triển, hơn một nửa phụ nữ có con dưới 3 tuổi có
việc làm.
3.Sức khoẻ
- Tuổi thọ tiếp tục tăng đối với phụ nữ và nam giới ở hầu hết các vùng
đang phát triển, nhưng lại giảm mạnh ở miền nam châu Phi do hậu quả của
AIDS.
- Tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh nói chung cao hơn ở bé trai so với bé gái
trừ tại các nước châu á, nơi có sự phân biệt giới lớn hơn rất nhiều so với ưu
thế sinh học của bé gái
- Những phụ nữ trẻ tuổi chủ động về tình dục thường có nguy cơ phải
chịu những hậu quả của những bệnh lây nhiễm qua đường tình dục (kể cả
HIV), tình trạng có thai sớm và phá thai không an toàn.
- Phụ nữ hiện nay chiếm hơn một nửa trong số các ca nhiễm
HIV/AIDS, và ở những nước có tỉ lệ phổ biến của HIV cao, phụ nữ trẻ có
nguy cơ bị nhiễm HIV cao hơn so với nam giới.
4.Giáo dục và truyền thông
- Khoảng cách về giới trong giáo dục tiểu và trung học đang được rút
ngắn nhưng phụ nữ vẫn tụt hậu so với nam giới ở một số nước châu Phi và
Nam á.
- Hai phần ba trong tổng số 876 triệu người mù chữ trên thế giới là phụ
nữ, và số lượng người mù chữ không hy vọng sẽ được giảm đáng kể trong
vòng 20 năm tới.
- Số lượng phụ nữ được học cao hơn đã tăng đáng kể ở hầu hết các
nước trên thế giới; thậm chí ở một số nước số lượng này còn bằng hoặc cao
hơn nam giới.
- Số phụ nữ bị thiếu kiến thức cơ bản và kỹ năng vi tính cần thiết cho
việc tham gia vào những ngành nghề liên quan tới truyền thông nhiều hơn
nam giới.
- ở nhiều nước, số phụ nữ sử dụng Internet ngày càng tăng.
5.Việc làm
- Phụ nữ ngày nay chiếm một bộ phận ngày càng tăng của nhân lực
toàn cầu, ít nhất là một phần ba ở tất cả các khu vực trừ Bắc Phi và Tây á.
- Lao động tự tạo việc làm, công việc không ổn định và liên quan đến
công việc nội trợ đã mở thêm cơ hội cho phụ nữ tham gia vào lực lượng lao
động nhưng lại thiếu an toàn, thiếu lợi nhuận và thu nhập thấp.
- Khu vực phi chính thức thu nhận nhiều lao động nữ hơn lao
động nam.
- So với trước đây, nhiều phụ nữ trong độ tuổi sinh sản tham gia vào
lực lượng lao động hơn, mặc dù họ vẫn phải kết hợp trách nhiệm giữa gia
đình với công việc rất khó khăn
- Phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ trẻ, bị thất nghiệp nhiều hơn và lâu hơn so
với nam giới.
- Phụ nữ tiếp tục bị thiệt thòi hơn trên thị trường lao động và tập trung
ở một số ít ngành nghề giữ những vị trí thấp, ít có tiếng nói, và thường có thu
nhập thấp hơn nam giới
- Những số liệu thống kê hiện có được còn chưa tạo được một cơ sở
vững chắc cho việc đánh giá những đổi thay cả về lượng lẫn về chất trong vấn
đề việc làm của phụ nữ.
6. Nhân quyền và quyền quyết định về chính trị.
- Chỉ còn 26 quốc gia chưa phê chuẩn Công ước CEDAW, và điều này
đã đặt công ước ở vị trí thứ hai trong số các công ước về nhân quyền được
phê chuẩn rộng rãi nhất
- Sự lạm dụng tình dục và hành hạ về thể xác đã ảnh hưởng tới 26 triệu
phụ nữ và trẻ em gái trên toàn thế giới - một con số vẫn được coi là quá nhỏ
so với thực tế.
- ở một số nước châu Phi, hơn một nửa phụ nữ và trẻ em gái bị
cắt một phần cơ quan sinh dục và sự phổ biến của hủ tục này vẫn
không hề thuyên giảm.
- Phụ nữ và trẻ em gái chiếm một nửa tổng số người tị nạn, và với tư
cách là người tị nạn họ rất dễ trở thành nạn nhân của bạo lực tình dục trong
khi di tản, trong các trại tị nạn, và ngay cả trong quá trình tái định cư.
- Bất chấp những lời kêu gọi thực hiện bình đẳng giới, phụ nữ vẫn
chưa có đầy đủ đại diện trong chính quyền, đảng phái chính trị và cả ở
Liên Hiệp Quốc.
2.2.2 Vài nét về phụ nữ, vai trò của người phụ nữ và sự thay đổi vai trò của
người phụ nữ trong xã hội Việt Nam
Ở khu vực Á Đông, hiếm có dân tộc nào phụ nữ lại đóng vai trò
quan trọng trong xã hội như ở Việt Nam. Trong suốt chiều dài lịch sử
dân tộc, phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Ngay từ những
buổi đầu lập nước, khi đất nước bị xâm lược, bà Trưng bà Triệu đã dấy
binh khởi nghĩa đánh đuổi quân thù. Thế kỷ 20, qua hai cuộc kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ, lịch sử lại ghi nhận hàng vạn tấm gương
phụ nữ, các chị, các mẹ không ngại gian khổ, không tiếc máu xương,
sẵn sàng chiến đấu, lao động, hy sinh, cống hiến không chỉ cuộc đời
mình mà cả con em cho độc lập tự do của Tổ quốc. Phụ nữ không chỉ
chiến đấu anh hùng mà đã lao động cần cù, gian khó để vượt lên cảnh
đói nghèo và lạc hậu, góp phần xây dựng đất nước ngày càng to đẹp và
đàng hoàng hơn. Đảng, Bác Hồ phong tặng phụ nữ Việt Nam tám chữ
vàng “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” trong thời kỳ kháng
chiến và “Trung hậu, đảm đang, tài năng, anh hùng” trong thời kỳ đổi
mới đất nước không chỉ là sự khích lệ, động viên mà còn là sự thừa
nhận và đánh giá vai trò to lớn của phụ nữ Việt Nam.
Với truyền thống đó, phụ nữ Việt Nam “giỏi việc nước, đảm việc nhà”
tiếp tục vượt qua mọi thành kiến và thử thách, vươn lên đóng góp tích cực vào
các hoạt động xã hội, duy trì ảnh hưởng rộng rãi vai trò của mình trên nhiều
lĩnh vực như: tham gia quản lý nhà nước; tham gia xóa đói giảm nghèo; xây
dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc; tham gia phòng chống tệ
nạn xã hội; thúc đẩy hoạt động đối ngoại nhân dân… Có thể nói, vai trò của
phụ nữ Việt Nam được thể hiện ngày càng sâu sắc và có những đóngkj góp
quan trọng trong thành tựu của cách mạng Việt Nam.
Trong xu thế hội nhập và phát triển: Khi đất nước bước vào kỷ nguyên
hội nhập với thế giới, trong công cuộc xây dựng đất nước trên con đường
công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay, phụ nữ Việt Nam tiếp tục đóng vai
trò quan trọng, là động lực thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội. Vai trò
này đang được khẳng định một cách rõ nét hơn bao giờ hết
Trước hết chúng ta phải thừa nhận vị trí hết sức quan trọng của người
phụ nữ trong gia đình. Họ có ảnh hưởng to lớn tới hạnh phúc và sự ổn định
của gia đình. Là người vợ hiền, họ luôn hiểu chồng, suốt cả cuộc đời của họ
luôn vì chồng, vì con, vì những người thân yêu trong gia đình. Trong thời đại
mới, bên cạnh vai trò quan trọng trong gia đình, người phụ nữ còn tích cực
tham gia vào các hoạt động xã hội. Ngày càng có nhiều người trở thành chính
trị gia, nhà khoa học nổi tiếng, nhà quản lý năng động … Trong nhiều lĩnh
vực, sự có mặc của người phụ nữ là không thể thiếu như ngành dệt, may mặc,
du lịch, công nghệ dịch vụ …
Theo Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, sau 10 năm thực hiện Cương
lĩnh hành động của Hội nghị thế giới lần thứ 4 về phụ nữ tại Bắc Kinh, vai
trò, vị trí của phụ nữ Việt Nam đã được cải thiện rõ rệt. Trong bối cảnh xã hội
ngày nay có nhiều cơ hội tốt đẹp, không ít PN Việt Nam đã phấn đấu vươn
lên, vượt khó, trau dồi, rèn luyện cho mình những hành trang mới sánh bước
cùng cộng đồng khu vực và thế giới. PN chúng ta đang ngày càng chủ động,
tự tin hơn trong lãnh đạo, quản lý, nghiên cứu KH, năng động, mạnh dạn
trong kinh tế thị trường. Nhận thức về bình đẳng giới được nâng lên, PN được
tôn trọng và bình đẳng hơn (Việt Nam được LHQ đánh giá là điểm sáng trong
việc thực hiện mục tiêu Bình đẳng giới tốt nhất khu vực Đông - Nam - Á).
Trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp, địa vị của PN trong gia đình và xã
hội được nâng lên. Quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng được thực hiện
ngày càng đầy đủ hơn; đời sống vật chất, tinh thần và sức khoẻ của đại bộ
phận PN được cải thiện. Các tầng lớp PN đã phát huy truyền thống tốt đẹp
của mình, có những đóng góp quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển KTXH của đất nước.
Hiện nay, phụ nữ Việt Nam góp một phần rất lớn vào quá trình phát
triển của đất nước, thể hiện ở số nữ chiếm tỉ lệ cao trong lực lượng lao động.
Với hơn 50% dân số và gần 50% lực lượng lao động xã hội, ngày càng có
nhiều phụ nữ tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội và giữ
những chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước. Chỉ cần điểm qua một vài
con số: Hiện có tới 33,1% đại biểu nữ trong Quốc hội (khóa XII) - cao nhất ở
châu Á và là một trong những nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao nhất thế
giới; số phụ nữ tham gia Hội đồng nhân dân các cấp trên 20%.
Hơn 90% phụ nữ biết đọc, biết viết. Tỷ lệ nữ tốt nghiệp đại học là
36,24%; thạc sĩ 33,95%; tiến sĩ 25,69%. Ngay trong giới báo chí, tỷ lệ các nhà
báo nữ cũng ước tính tới gần 30%. Phụ nữ chiếm ưu thế trong một số ngành
như giáo dục, y tế, và dịch vụ. Trong công tác chuyên môn, phụ nữ chiếm số
đông trong các bộ môn văn học, ngôn ngữ, y dược, khoa học xã hội, khoa học
tự nhiên và kinh tế. Nếu tính tổng số giờ làm việc của nữ giới (kể cả ở nhà và
bên ngoài) cao hơn rất nhiều so với nam giới.
Có tới 71% phụ nữ từ 13 tuổi trở lên là những người có thu nhập. Số hộ
nghèo do phụ nữ làm chủ đã giảm từ 37% năm 1998 xuống còn 8% năm
2004.... Đây là những con số sinh động, là bằng chứng chứng minh hiệu quả
của những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện cho phụ nữ
Việt Nam phát triển.
Quyền của phụ nữ về kinh tế đã được nâng lên thông qua việc pháp luật
quy định phụ nữ cùng đứng tên với nam giới trong giấy chứng nhận quyền sở
hữu đất đai, nhà ở, và tài sản. Việt Nam cũng là một trong số ít các quốc gia
đã hoàn thành báo cáo về tình hình thực hiện Công ước về xóa bỏ mọi hình
thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW). Đặc biệt, hệ thống các ban Vì sự
tiến bộ của phụ nữ đã được thành lập ở 45 bộ, ngành và toàn bộ 64 tỉnh, thành
phố. Vì vậy, Có thể nói rằng PN Việt Nam ngày càng được trưởng thành về
mọi mặt.
2.2.3 Một số chính sách, chủ trương của Đảng, Nhà nước có ảnh hưởng
đến sự phát triển của người phụ nữ Việt Nam hiện nay.
Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến sự
tiến bộ của phụ nữ và Bình đẳng giới, coi đó là một trong những nhiệm vụ
quan trọng của sự nghiệp phát triển đất nước. Và trong buổi tiếp các trưởng
đoàn dự cuộc họp Mạng lưới lãnh đạo nữ lần thứ 11 (WLN) của diễn đàn hợp
tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) diễn ra vào tháng 9 – 2006 tại
Hà Nội, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết khẳng định, Ðảng, Nhà nước và
nhân dân Việt Nam nhận thức rõ về vai trò của phụ nữ trong phát triển và hội
nhập quốc tế. Chủ tịch nêu rõ: "Ở Việt Nam, vai trò của phụ nữ rất quan
trọng. Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, phụ nữ tham gia rất tích cực
trong nhiều hoạt động. Trong thời kỳ hòa bình và xây dựng đất nước, phụ nữ