Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Vẻ đẹp người hà nội qua văn xuôi viết về hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 125 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THỊ DUYÊN

VẺ ĐẸP NGƢỜI HÀ NỘI QUA VĂN XUÔI
VIẾT VỀ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THỊ DUYÊN

VẺ ĐẸP NGƢỜI HÀ NỘI QUA VĂN XUÔI
VIẾT VỀ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Nam

HÀ NỘI, 2015



MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ 4
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... 5
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 6
NỘI DUNG .............................................................................................................. 13
CHƢƠNG I: VỊ TRÍ CỦA HÀ NỘI TRONG LÕNG ĐẤT NƢỚCVÀ VỊ
TRÍ CỦA BẢN SẮC NGƢỜI HÀ NỘI TRONG TỔNG THỂ VẺ ĐẸP
CỦA THỦ ĐÔ ........................................................................................................ 13
1.1. Hà Nội – nơi kế thừa và tụ hội văn hóa các thời đại ...................................... 13
1.2. Hà Nội – nơi giao lƣu và tụ hội văn hóa cả nƣớc ........................................... 20
1.3. Vẻ đẹp của ngƣời Hà Nội - tinh túy của văn hóa Hà Nội ............................. 31
CHƢƠNG II:VẺ ĐẸP ĐA DẠNG TRONG CHIẾN ĐẤU VÀ ĐỜI
THƢỜNG CỦA NGƢỜI HÀ NỘI ....................................................................... 36
2.1. Vẻ đẹp của ngƣời Hà Nội trong chiến đấu bảo vệ tổ quốc............................. 36
2.1.1.

Ngƣời Hà Nội trong các cuộc chiến đấu vệ quốc trên khắp đất nƣớc ..... 36

2.1.2.

Ngƣời Hà Nội chiến đấu bảo vệ Thủ đô .................................................. 46

2.2. Vẻ đẹp của ngƣời Hà Nội trong cuộc sống hằng ngày ..................................... 53
2.2.1.

Ngƣời Hà Nội trong sinh hoạt vật chất .................................................... 53

2.2.2.

Ngƣời Hà Nội trong đời sống văn hóa tinh thần ...................................... 75


2.3. Những âu lo về nguy cơ phai nhạt bản sắc ngƣời Hà Nội qua các thời đại
– tính thời sự của vấn đề. ......................................................................................... 86

Trang 2


CHƢƠNG III: MỘT SỐ ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TRONG VĂN
CHƢƠNG CA NGỢI VẺ ĐẸP NGƢỜI HÀ NỘI ............................................... 93
3.1. Cái tôi chủ thể thanh lịch và giàu tình yêu với Thủ đô của nhà văn - chất
trữ tình đậm đà ......................................................................................................... 93
3.2. Chất anh hùng ca trong văn chƣơng viết về ngƣời Hà Nội ............................ 96
3.3. Nghệ thuật khắc họa chân dung và tính cách ngƣời Hà Nội .......................... 98
3.4. Không gian và thời gian nghệ thuật độc đáo ................................................ 102
3.5. Ngôn từ và giọng điệu .................................................................................. 106
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 121
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 123

Trang 3


LỜI CẢM ƠN
Luận văn đƣợc hoàn thành nhờ sự chỉ bảo giúp đỡ tận tình của thầy giáo
TS. Nguyễn Văn Nam, em xin gửi tới thầy lời cảm ơn chân thành, sâu sắc.
Xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo đã tạo điều kiện giúp đỡ em
trong quá trình làm luận văn này.
Hà Nội, Ngày 10 tháng 11 năm 2015
Học Viên

Nguyễn Thị Duyên


Trang 4


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, Ngày 10 tháng 11 năm 2015
Học Viên

Nguyễn Thị Duyên

Trang 5


MỞ ĐẦU
I.

Lý do chọn đề tài
Ở nƣớc nào cũng vậy, Thủ đô là một đề tài rất quen thuộc trong văn

học. Những nhà văn lớn của một nƣớc ít nhiều vẫn viết về “Trái tim lớn” của
nƣớc đó. Hà Nội- Thủ đô từ xƣa đến nay vẫn là đề tài đƣợc giới văn nghệ sĩ
giành nhiều tâm huyết và giấy mực nhất. Nhƣ nhà văn Nguyễn Tuân đã từng
nói: “Hà Nội đáng để chúng ta viết, còn nhiều điều để viết”. Mà khi đi càng
sâu, càng nhiều về Hà Nội ta lại khám phá đƣợc nhiều vẻ đẹp của con ngƣời
nơi đây. Vẻ đẹp của ngƣời Hà Nội đƣợc các nhà văn thể hiện rõ nét qua các
tác phẩm nhƣ: “Sống mãi với Thủ đô ” của Nguyễn Huy Tƣởng; Tùy bút “Hà
Nội ta đánh Mỹ giỏi” của Nguyễn Tuân; “ Miếng ngon Hà Nội” và “ Thƣơng

nhớ mƣời hai” của Vũ Bằng; “ Hà Nội 36 phố phƣờng ” của Thạch Lam …
Lâu nay, nói về ngƣời Hà Nội, ngƣời ta thƣờng nhớ đến hai câu thơ :
“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng ngƣời Tràng An”.
Hình ảnh ngƣời Hà Nội luôn gắn với vẻ đẹp văn hóa truyền thống của mảnh
đất Thủ đô nghìn năm văn hiến với những đặc thù riêng.
Sống trên mảnh đất là nơi hội tụ, tích hợp các luồng văn hóa, ngƣời Hà
Nội có điều kiện thẩm thấu, chắt lọc và tỏa sáng vẻ đẹp phẩm cách, tâm hồn.
Cái thanh, cái đẹp của ngƣời Hà Nội thể hiện ở giọng nói phát âm chuẩn mực,
nhẹ nhàng; cách phục sức giản dị nho nhã; lối giao tiếp khiêm nhƣờng, mến
khách; cách ăn uống thanh cảnh, điềm đảm “Ngọn giá cắn đôi” nhƣng không
kém phần tinh túy, sành điệu làm ra bao món ăn nổi tiếng, trở thành đặc sản
chốn kinh kỳ nhƣ phở, bún thang, chả cá, cốm vòng… Hà Nội còn mang vẻ
đẹp truyền thống của văn hóa, văn học đậm nét Thăng Long nơi hội tụ mặc
khách bốn phƣơng, với những địa danh nổi tiếng đã đi vào thơ văn nhiều thế
hệ.
Trang 6


“Ăn Bắc, mặc kinh” - câu ngạn ngữ chỉ nét đẹp trong trang phục của
ngƣời kinh đô Thăng Long với dấu ấn Hà thành cổ kính và thanh lịch. Và
ngƣời Hà Nội rất tự hào với sự vinh danh ấy, đặc biệt là những cô gái ở 36
phố phƣờng thuở xƣa.
Trải qua tiến trình lịch sử, cách ăn mặc của ngƣời Hà Nội cũng có sự
thay đổi theo mỗi thời đại, nhƣng vẫn giữ đƣợc nét văn hóa của vùng Thăng
Long- Hà Nội nghìn năm văn hiến.
Ngƣời Hà Nội có văn hóa mặc rất đặc trƣng. Họ mặc đẹp, cái đẹp của
sự nền nã, kín đáo chứ không phô trƣơng, lòe loẹt. Nét văn hóa đặc trƣng này
luôn đƣợc họ gìn giữ ngay cả trong thời chiến tranh thiếu thốn, những năm
bao cấp khó khăn hay trƣớc cơn lốc của thời kỳ mở cửa. Mỗi thời kỳ lại có
những trang phục riêng nhƣng tất cả đều tuân theo “mẫu số chung”: đó là sự

thanh lịch.
Trải qua quá trình lịch sử dựng nƣớc, giữ nƣớc với bao thăng trầm và
biến động nhƣng những phẩm chất tốt đẹp và giá trị tinh thần bền vững vẫn in
đậm trong lối sống của ngƣời Thăng Long- Hà Nội đó là:
Ngƣời Hà Nội giàu lòng tự trọng bắt nguồn từ ý thức dân tộc, trân
trọng và tự hào về truyền thống vẻ vang của tổ tiên, ông cha trong lịch sử
dựng nƣớc và giữ nƣớc, cũng nhƣ trong quá trình cách mạng và kháng chiến.
Ngƣời Hà Nội luôn luôn trân trọng và tự hào về những chiến thắng lẫy lừng
chống ngoại xâm trên đất “rồng bay”.
Ngƣời Hà Nội giàu lòng nhân ái, khoan dung, yêu chuộng hòa bình.
Lòng nhân ái của ngƣời Hà Nội vốn đã có nguồn gốc sâu xa từ chính cuộc
sống, sinh hoạt và đấu tranh lâu dài của dân tộc. Đây là bản chất, đồng thời là
hệ quả tất yếu của một đất nƣớc đã buộc phải dành đến hơn một nửa thời gian
lịch sử của mình để đối phó với chiến tranh.

Trang 7


Ngƣời Hà Nội giàu nghị lực, trung thực, thắng thắn và giàu lòng
nghĩa khí. Ngƣời dân ở các vùng của đất nƣớc đƣa nghề thủ công về Hà Nội,
tạo thành 36 phố phƣờng sầm uất. Nghị lực của ngƣời Hà Nội còn đƣợc thể
hiện ở con đê ngăn lũ sông Hồng đắp suốt chiều dài lịch sử ngàn năm xây
dựng đô thành.
Ngƣời Hà Nội giàu óc thực tế, sáng tạo và nhạy cảm với cái mới. Do
hoàn cảnh đô thị hội tụ ngƣời bốn phƣơng nên khách quan đòi hỏi ngƣời Hà
Nội có đầu óc thực tế, thể hiện ở các mặt: xem xét tính toán trong làm ăn để có
cái lợi nhiều. “Khéo tay hay làm, đất lề kẻ chợ” là câu ngạn ngữ quen thuộc ca
ngợi tài hoa, sáng tạo của những ngƣời thợ thủ công kinh thành, Ngƣời Hà
Nội xƣa và nay có khả năng thích nghi rất nhanh, rất nhạy cảm, khá năng động
và không ngại tiếp nhận những cái mới và tìm tòi, cải tiến, sáng tạo thành cái

của mình. Điều này thể hiện trong các công trình kiến trúc, văn hóa, trong việc
du nhập các luồng tƣ tƣởng tôn giáo, không chỉ tiếp xúc giao lƣu với các nền
văn hóa phƣơng Bắc mà cả với nền văn hóa phƣơng Tây…
Ngƣời Hà Nội trọng học thức, chuộng cái đẹp. Chính vì Hà Nội là nơi
hội tụ và đỉnh cao của nền văn hóa dân tộc, nên vùng đất và con ngƣời Thăng
Long cũng là nơi có tinh thần ham học và quý trọng tri thức. Do sống trong
môi trƣờng của đô thành, lại có học vấn khá nên nên ngƣời Hà Nội cảm nhận
đƣợc vẻ đẹp từ thiên nhiên, cảnh quan môi trƣờng, kiến trúc nghệ thuật, thích
thƣởng ngoạn những nơi thiên nhiên đẹp, những bức tranh đẹp.
Nói đến vẻ đẹp của ngƣời Hà Nội là nói đến nếp sống thanh lịch hay:
Lịch sử, tinh tế trong cách ứng xử, giao tiếp, xử lý các mối quan hệ một cách
mềm mại, uyển chuyển mà hiệu quả cao. Sự thanh lịch của ngƣời Hà Nội
đƣợc thể hiện qua từng lời nói. Cái thanh, cái đẹp của tiếng nói Hà Nội ở chỗ
chuẩn xác, mẫu mực cho cả nƣớc. Họ biết nếu mình tôn trọng ngƣời khác
mềm mỏng mà không thớ lớ, tài hoa mà không khoe khoang, biết rộng mà
Trang 8


không làm cao, biết “ Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Con gái Hà Nội giữ
“Công, dung, ngôn, hạnh” giữ đủ nét e lệ, dịu dàng, ý tứ, từ dáng đứng, bƣớc
đi, nụ cƣời, ánh mắt, thân mật nhƣng không sàm sỡ, tế nhị mà không gò bó.
Phụ nữ phải biết khâu vá, thêu thùa, nấu ăn. Trong ăn uống của ngƣời Hà Nội
thể hiện nét thanh lịch ở trình độ thẩm mỹ cao, sự tinh tế trong công việc chế
biến thức ăn. Chính chất sành điệu trong ăn uống ấy mà ngƣời Hà Nội đã sáng
tạo nhiều món ăn nổi tiếng trở thành đặc sản Hà thành nhƣ: Phở, bún thang,
bún ốc, chả cá, bánh cuốn Thanh trì, chè kho, cốm vòng, bánh tôm Hồ
Tây…Ngƣời Hà Nội đã nâng ăn uống thành một nghệ thuật ẩm thực. Món ăn
mặn, ngọt, chua, cay đều vừa độ, gia vị đầy đủ, nƣớc chấm, nƣớc canh khéo
chế. Bữa ăn ngon từ cách xếp mâm, bày đĩa, lên cỗ. Ngƣời Hà Nội ăn lấy ngon
để nhớ mãi chứ không ăn lấy no căng bụng. Vào mâm họ biết trọng già, quý

trẻ, nhƣờng món ngon tiếp cho khác, cách ăn cũng từ tốn, thong thả, rƣợu
uống từng ngụm, không dốc cả cốc to, không làm ầm ĩ.
Trong làm lụng, ngƣời Hà Nội cần cù, chịu khó, làm nghề gì thì học
đến nơi, đến chốn, có ý thức chịu trách nhiệm về sản phẩm làm ra. “Khéo tay,
hay nghề” là câu ca tụng đất trăm nghề chốn kinh kỳ. Ở đây không có chỗ cho
thợ kém mà phải là thợ cả, thợ đầu đàn mới đủ sức cạnh tranh và phục vụ lớp
ngƣời sành tiêu dung, biết của tốt, lại giàu có.
Ngƣời Hà Nội coi trọng gia đình, gia phong bởi đó là một cái nôi tạo
dựng các thế hệ tƣơng lai cho đất nƣớc. Cha mẹ, ông bà luôn là tấm gƣơng
mẫu mực cho con cái noi theo. Các cụ già có thú chơi tao nhã nhƣ: Uống trà,
chơi cờ, nuôi cá, dƣỡng tâm, nuôi chim dƣỡng tính, nuôi lan cân bằng sinh
thái, tạo môi trƣờng xanh, sạch, đẹp cho nhà, cho phố, cho thủ đô…
Hà Nội cũng là nơi sinh ra rất nhiều nhà văn, nhà thơ tài năng. Nhƣ
trong lời bài viết cho cuốn: “Sống mãi với Thủ đô” (tiểu thuyết của Nguyễn
Huy Tƣởng) in ra 1961, nhà văn Nguyễn Tuân từng đƣa ra một nhận xét
Trang 9


chung: “Hình nhƣ hầu hết danh nhân, anh hùng cổ kim nƣớc ta đều là những
con ngƣời Hà Nội”. Cũng là một điều đúng khi mọi ngƣời bảo rằng thủ đô là
nơi kết tinh mọi phong vị nhân tài của một dân tộc đời này qua đời khác.
Hà Nội là nơi ngƣời ta có thể học hỏi dễ dàng; những ngƣời ở Huế,
Sài Gòn ra chơi đều khâm phục Hà Nội về những cửa hàng sách. Ngƣời ta
khen Hà Nội là nơi mà nhiều thiếu niên ham muốn Quốc Văn, dễ học, dễ khảo
cứu, dễ tìm tòi…
Vì vậy, ngƣời Hà Nội chúng ta không phải ngƣời đô thị lạnh lùng, cô
độc, “Đèn nhà ai nhà ấy rạng” mà ngƣợc lại, luôn quan tâm, chu đáo với nhau
cả khi “Tối lửa tắt đèn” lẫn trong cuộc sống thƣờng ngày. Trọng tình là giá trị
truyền thống trong nền văn hóa mang đậm tính cộng đồng của ngƣời Hà Nội.
Và thái độ ân cần, niềm nở trong giao tiếp chính là một nét đẹp của văn hóa

ngƣời Hà Nội.
Điểm lại một cách có hệ thống các công trình bài viết nghiên cứu về
Hà Nội nói chung, về vẻ đẹp ngƣời Hà Nội trong các tác phẩm văn xuôi nói
riêng, chúng tôi thấy hầu nhƣ các tác giả mới dừng lại ở việc khẳng định
những giá trị văn hóa truyền thống, tình yêu với thủ đô Hà Nội chứ chƣa ai đi
sâu vào nghiên cứu một vấn đề rất độc đáo trong các tác phẩm văn xuôi viết
về ngƣời Hà Nội, đó là: Vẻ đẹp của ngƣời Hà Nội trong các áng văn.
Chính vì “Khoảng trống” đó chƣa đƣợc chú ý lấp đầy là lí do, điều
kiện để chúng tôi thực hiện đề tài: Vẻ đẹp của ngƣời Hà Nội qua văn xuôi viết
về Hà Nội. Hy vọng đề tài này sẽ góp một tiếng nói khẳng định những giá trị
truyền thống lịch sử của đất nghìn năm văn hiến, bên cạnh đó là những con
ngƣời tài hoa đã góp phần làm cho đất nƣớc ngày một phồn vinh, thịnh vƣợng,
đƣa đất nƣớc đi lên sánh vai với các cƣờng quốc năm châu. Và trong giới hạn
bài viết này chúng tôi xin đi vào phân tích một số tác phẩm tiêu biểu nhƣ:“ Hà
Nội 36 phố phƣờng ” của Thạch Lam; “Thú ăn chơi ngƣời Hà Nội” của Băng
Trang 10


Sơn; “ Miếng ngon Hà Nội” và “ Thƣơng nhớ mƣời hai” của Vũ Bằng;, “Sống
mãi với Thủ đô ” của Nguyễn Huy Tƣởng; Tùy bút “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi”
của Nguyễn Tuân…
III.

Mục đích, ý nghĩa của đề tài
Mục đích của đề tài là tìm hiểu vẻ đẹp của ngƣời Hà Nội trong các

tác phẩm văn xuôi viết về Hà Nội. Từ đó có thể đánh giá một cách chân thực
hơn về con ngƣời Hà Nội qua các thời đại. Dù sống ở thời nào, hoàn cảnh nào
ngƣời Hà Nội vẫn toát lên nét thanh lịch và khí phách kiên cƣờng, sự anh
dũng vốn có của mình. Qua đó ta thấy đƣợc tình yêu thủ đô cũng nhƣ con

ngƣời nơi đây của các nhà văn.
IV.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

1.

Đối tƣợng nghiên cứu
Vẻ đẹp ngƣời Hà Nội của các tác phẩm văn xuôi viết về Hà Nội.

2.

Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát các tác phẩm: “ Hà Nội 36 phố phƣờng ”

của Thạch Lam; “Thú ăn chơi ngƣời Hà Nội” của Băng Sơn; “ Miếng ngon Hà
Nội” và “ Thƣơng nhớ mƣời hai” của Vũ Bằng; “Sống mãi với Thủ đô ” của
Nguyễn Huy Tƣởng; Tùy bút “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi” của Nguyễn Tuân…
V.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi đề ra một số nhiệm vụ sau:
Tìm hiểu những nét đẹp của ngƣời Hà Nội trong thời chiến và thời bình
Trong quá trình tìm hiểu vẻ đẹp của ngƣời Hà Nội ta thấy đƣợc tình

yêu, sự gắn bó với thủ đô cũng nhƣ con ngƣời nơi đây của các văn nghệ sĩ.
VI.

Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn chúng tôi sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu


văn học chính nhƣ:
Phƣơng pháp lịch sử - xã hội
Trang 11


Phƣơng pháp tiếp cận hệ thống
Phƣơng pháp so sánh văn học
Phƣơng pháp tiếp cận văn hóa học
Phƣơng pháp tiếp cận thi pháp học
Ngoài ra ngƣời viết cũng thƣờng xuyên sử dụng các thao tác khoa học nhƣ thống
kê, phân loại, so sánh, đối chiếu ....
VII.

Ý nghĩa việc nghiên cứu

Thấy đƣợc vẻ đẹp của ngƣời dân Hà Nội có gì đó rất chung với vẻ đẹp
của ngƣời dân Việt Nam, nhƣng có gì đó cũng rất riêng nên mới tạo nên sự
độc đáo.

Trang 12


NỘI DUNG
CHƢƠNG I: VỊ TRÍ CỦA HÀ NỘI TRONG LÕNG ĐẤT NƢỚCVÀ VỊ TRÍ
CỦA BẢN SẮC NGƢỜI HÀ NỘI TRONG TỔNG THỂ VẺ ĐẸP CỦA
THỦ ĐÔ
1.1: Hà Nội – nơi kế thừa và tụ hội văn hóa các thời đại
Thăng Long – Hà Nội – thủ đô hơn 1000 năm tuổi từ lâu đã trở thành
biểu tƣợng cho các giá trị văn hóa của dân tộc, là niềm tự hào của mỗi ngƣời

dân Việt Nam. Nằm trong vùng tam giác châu thổ sông Hồng có đất đai màu
mỡ, trù phú, nơi đây sớm trở thành trung tâm chính trị và tôn giáo ngay từ
những buổi đầu của lịch sử Việt Nam. Khi quyết định chọn vùng đất này làm
kinh đô, Lý Thái Tổ đã khẳng định nơi đây “thật là chốn hội tụ trọng yếu của
bốn phƣơng đất nƣớc, cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vƣơng muôn đời”.
Marcel Proust cho rằng: “Khi đến một thành phố nào đó ta thƣờng tìm
kiếm một tâm hồn”. Quả đúng nhƣ thế, khi đến với Thăng Long – Hà Nội,
chúng ta sẽ cảm nhận đƣợc tâm hồn của thành phố, không phải qua sự lộng
lẫy, giàu sang mà qua vẻ đẹp rất riêng và bản sắc văn hóa đặc trƣng của nó,
nhƣ lời ca đầy hùng tráng của cố nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi: “Đây là hồn núi
sông ngàn năm”. Với phong cách thiên nhiên ƣu đãi, có sông, có núi, có hồ, có
cây cối phong phú đa dạng, khí hậu bốn mùa thay đổi, Hà Nôi luôn khiến cho
bất cứ ai cũng phải xao lòng bởi cảnh sắc nơi đây. Mùa xuân đầy sức sống với
những sắc hoa tƣơi thắm của Nhật Tân, Quảng Bá. Mùa hạ sôi động với tiếng
ve râm ran trên những cây phƣợng rực trời hoa đỏ. Mùa đông ngập ngừng với
những cơn gió lạnh lẫn với những cơn mƣa lá bay đầy trời. Và không đâu có
mùa thu trên mặt hồ Gƣơm hay mặt hồ Tây kèm theo cái lạnh se lòng của gió
thu mơn trớn, với hƣơng hoa sữa nồng nàn và những “cây cơm nguội vàng,
cây bàng lá đổ” làm nôn nao cả lòng ngƣời.
Trang 13


Bên cạnh vẻ đẹp của thiên nhiên, phố cổ cũng làm nên tâm hồn của Hà
Nội. Đây là một trong những kiến trúc độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc
Việt, có sắc thái đặc trƣng của một khu dân cƣ sản xuất chủ yếu là nghề thủ
công truyền thống. Nơi đây diễn ra đồng thời nhiều hoạt động trong đời sống
hằng ngày của cƣ dân đô thị nhƣ: sinh sống, bán hàng, sản xuất, lễ hội, nghỉ
ngơi…Tất cả nhũng điều đó tạo nên nét riêng của thủ đô hoa lệ. Cùng với khu
phố cổ, những ngõ nhỏ, phố nhỏ chính là niềm yêu của ngƣời ở lại và là nỗi
nhớ của những ngƣời phải xa mảnh đất này.

Tròn 1000 năm trƣớc, Đức Lý Thái Tổ đã đƣa ra một quyết định lịch
sử: dời đế đô từ Hoa Lƣ về Đại La, lập nên “thƣợng đô kinh sƣ mãi mãi muôn
đời” - Thăng Long - Hà Nội. Trong Chiếu dời đô, đức vua khai sáng triều Lý
đã cho thấy rõ một tầm nhìn vƣợt thời đại khi Ngƣời nói rõ việc thiên đô là
“cốt để mưu nghiệp lớn, chọn chỗ ở giữa, làm kế cho con cháu muôn đời”.
Ngƣời đã “xem khắp nƣớc Việt” để chọn ra “nơi thắng địa”, “chỗ tụ hội quan
yếu của bốn phƣơng”, “đƣợc thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông
tây, tiện nghi núi sông sau trƣớc” làm kinh đô mới của nƣớc Đại Việt. Kể từ
đó, Thăng Long - Hà Nội đã trở thành trung tâm đầu não chính trị, hành chính,
kinh tế, văn hóa của cả nƣớc, nơi lắng hồn núi sông, nơi kết tinh, tỏa sáng và
lan rộng những giá trị tốt đẹp nhất của nền văn minh - văn hiến Đại Việt - Việt
Nam.
Với ý nghĩa là thủ đô của nƣớc Việt Nam, trong lịch sử cũng nhƣ hiện
tại, Thăng Long - Hà Nội là nơi tiêu biểu cho cả nƣớc, là nơi hội tụ, kết tinh
những giá trị và truyền thống tốt đẹp nhất của dân tộc. Vì vậy nói đến những
giá trị cốt lõi trong nền tảng văn minh, văn hiến của Thăng Long - Hà Nội thì
trên một mức độ nào đó cũng có nghĩa là nói đến những giá trị cốt lõi của toàn
dân tộc Việt Nam. Mặt khác, với tính cách là một không gian văn hóa - lịch sử

Trang 14


cụ thể, Thăng Long - Hà Nội cũng có những giá trị, những sắc thái và truyền
thống văn hóa riêng.
Hệ giá trị và các truyền thống văn hóa của Thăng Long - Hà Nội đã
đƣợc đề cập đến trong khá nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học
Việt Nam và nƣớc ngoài. Có thể nhấn mạnh một số giá trị cốt lõi nhất, tiêu
biểu cho truyền thống văn minh - văn hiến của Thủ đô và của toàn dân tộc
Việt Nam.
Thứ nhất, “yêu nƣớc” chính là giá trị cốt lõi, là yếu tố nền tảng của nền

văn minh - văn hiến Việt Nam nói chung và của Thăng Long - Hà Nội nói
riêng
Với tính cách là đế đô - thủ đô, Thăng Long - Hà Nội từ 1000 năm nay
luôn luôn là biểu tƣợng ngời sáng của chủ nghĩa yêu nƣớc Việt Nam, của tinh
thần đấu tranh anh dũng chống giặc ngoại xâm và cũng là biểu trƣng cho tính
thống nhất và khối đại đoàn kết dân tộc. Đây là nơi đã ghi dấu những chiến
công oai hùng, hiển hách nhất trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và
chống giặc ngoại xâm. Những chiến công lẫy lừng gắn với các địa danh lịch
sử nhƣ Chƣơng Dƣơng, Hàm Tử, Tây Kết, Đông Bộ đầu, Đông Quan, Đống
Đa và gần đây nhất là trận “Điện Biên Phủ trên không” là những mốc son chói
lọi trong lịch sử oai hùng của dân tộc.
Tinh thần yêu nƣớc và tính chất biểu trƣng cho đại nghĩa dân tộc trong
tảng nền văn hiến - văn minh của Thăng Long - Hà Nội không chỉ ngời sáng
lên trong những trang sử vàng đấu tranh chống ngoại xâm, loại trừ nội phản
mà còn chủ yếu đƣợc thể hiện trong vai trò của chốn đế đô - nơi hội tụ ý chí,
tình cảm và niềm tin của toàn cộng đồng dân tộc. Với tính cách là trung tâm
đầu não chính trị - hành chính, kinh tế - văn hóa, sự tồn tại, thịnh suy, hƣng
vong của Thăng Long - Hà Nội tƣợng trƣng cho sự phồn thịnh, hƣng vong của
xã tắc muôn đời. Vì vậy, mọi động thái diễn biến trong đời sống của đô thị
Trang 15


này mật thiết liên quan đến vận mệnh toàn dân tộc. Đó chính là nét riêng có
của Thăng Long - Hà Nội với tính cách là con tim, là khối óc của cả nƣớc.
Giá trị cốt lõi thứ hai trong cơ tầng văn minh, văn hiến Thăng Long Hà Nội cần đƣợc nhấn mạnh và phát huy chính là truyền thống trọng hiền, coi
trọng tài năng và trí tuệ.
Với vị thế trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nƣớc, Thăng
Long - Hà Nội là nơi tụ hội của nhân tài bốn phƣơng. Một mặt, thực tế này có
phần bắt nguồn từ truyền thống trọng hiền, thƣợng hiền của các triều đại quân
chủ Việt Nam. Mặt khác, truyền thống này cũng xuất phát từ nhu cầu phát

triển tự thân của Thăng Long - Hà Nội. Những dòng chữ khắc trên tấm bia
tiến sĩ năm 1442, rằng “Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì
thế nƣớc mạnh mà hƣng thịnh, nguyên khí suy thì thế nƣớc yếu mà thấp hèn”.
Không chỉ là nơi tuyên ngôn cho chính sách trọng hiền của một triều đại quân
chủ mà chính là sự đúc kết một kinh nghiệm lịch sử lớn và là sự khẳng định
một giá trị cốt lõi, hằng xuyên của truyền thống văn hiến Thăng Long - Hà
Nội.
Nhìn xuyên suốt chiều dài lịch sử 1000 năm, có thể thấy hầu nhƣ những
nhân tài kiệt xuất nhất của đất nƣớc đều đã từng hội tụ về mảnh đất Nghìn
năm văn vật này. Đó không chỉ là những nhân tài xuất chúng trong các lĩnh
vực chính trị, quân sự mà còn là những nhà khoa học, nhà văn hóa tài danh lỗi
lạc. Bên cạnh đó là đội ngũ hết sức đông đảo thợ thủ công, những nghệ nhân
với đầu óc sáng tạo phi thƣờng và với những bàn tay vô cùng khéo léo, tinh
xảo. Tất cả đã cùng làm nên một Thăng Long - Hà Nội trí tuệ, sâu lắng và hào
hoa.
Đây chính là cơ sở quan trọng chắp cánh cho Hà Nội và cả nƣớc trong
kỷ nguyên mới của thời đại cách mạng khoa học công nghệ, toàn cầu hóa và
kinh tế tri thức. Ngày nay, Hà Nội đã trở thành thành phố đại học, thành trung
Trang 16


tâm khoa học công nghệ quan trọng bậc nhất cả nƣớc. Truyền thống thƣợng
hiền, trọng dụng nhân tài phải thực sự biến thành những chủ trƣơng, những
giải pháp thực tiễn để làm cho Hà Nội tiếp tục xứng đáng là nơi tụ hội của
nhân tài bốn phƣơng và là biểu tƣợng của trí tuệ Việt Nam.
Giá trị cốt lõi thứ ba trong cơ tầng văn minh - văn hiến của Thăng Long
- Hà Nội là nhân văn, nhân ái, khoan hậu, dung hòa.
Đây cũng là truyền thống, là đạo lý lớn của toàn dân tộc đƣợc kết tinh
trong lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc lâu dài, nhƣng không rõ ở đâu giá trị,
truyền thống và đạo lý đó lại tỏa sáng và hiện thị rõ ràng nhƣ tại không gian

văn hóa Thăng Long - Hà Nội. Tinh thần nhân ái, nhân văn, khoan hậu, dung
hòa thấm đẫm trong từng kế sách trị quốc, an dân của các bậc minh quân, hiền
nhân qua nhiều triều đại, cô đọng trong lời căn dặn thiết tha của Trần Hƣng
Đạo “khoan thƣ sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”, lấy đó làm “thƣợng sách để
giữ nƣớc”; đó cũng là cội rễ của đạo trị nƣớc, nhƣ Ức Trai đã chỉ ra: “việc
nhân nghĩa cốt ở yêu dân”, bậc minh quân “phải để lòng nơi nhân nghĩa, coi
nhân nghĩa là chỗ đứng của mình”, phải “yêu nuôi muôn dân, để chốn xóm
thôn không còn tiếng oán giận buồn than”.
Đến thời đại Hồ Chí Minh, truyền thống nhân văn, nhân ái, khoan hòa
càng đƣợc phát huy và cụ thể hóa trong từng chính sách, từng việc làm của
Đảng và Nhà nƣớc, của chính quyền nhân dân theo nguyên tắc đã đƣợc Chủ
tịch Hồ Chí Minh quán triệt: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì
có hại cho dân phải hết sức tránh”.
Giá trị cốt lõi thứ tƣ và cũng là một nét văn hóa đặc trƣng của ngƣời
Thăng Long - Hà Nội là hào hoa, thanh lịch trong lối sống, trong ứng xử hằng
ngày.
Trải qua lịch sử hàng ngàn năm, nhân dân ta ở mọi miền, mọi vùng của
Tổ quốc đã chung đúc nên những thuần phong mỹ tục, những nét đẹp văn hóa
Trang 17


trong lối sống, trong phép đối nhân xử thế và trong sinh hoạt cộng đồng. Là
nơi tụ hội quan yếu của bốn phƣơng, Thăng Long - Hà Nội đã luôn mở rộng
lòng mình đón nhận những tinh hoa văn hóa đƣợc những dòng ngƣời từ mọi
vùng quê, mọi ngả đƣờng đất nƣớc mang chuyển về bằng những phƣơng tiện
và phƣơng thức khác nhau, trong những thời điểm và hoàn cảnh khác nhau.
Từ rất sớm, Thăng Long - Hà Nội cũng đã trở thành một đầu mối giao lƣu
quốc tế quan trọng nhất của cả nƣớc, qua đó những tinh hoa văn hóa Đông Tây đã đƣợc tiếp thu, thẩm thấu có chọn lọc, đồng thời những giá trị và thế
ứng xử dân tộc có điều kiện tiếp xúc, giao lƣu, cọ xát và sàng lọc. Cuối cùng,
những gì còn đọng lại, đƣợc lựa chọn để trở thành nét, thành diện mạo, lối

sống và phép ứng xử ở “đất kinh kỳ” phải là những cái hay, cái đẹp, cái tinh
túy tiêu biểu nhất nhƣng lại hết sức giản dị, dung hòa. Đó chính là nét hào
hoa, thanh lịch riêng có của đất và ngƣời Thăng Long - Hà Nội.
Trong những thời điểm và những hoàn cảnh nhất định, do tác động của
những nhân tố cụ thể nào đó mà những dáng nét hào hoa, dung dị của Thăng
Long - Hà Nội bị va đập, biến dạng, lu mờ, thậm chí chỉ còn lại nhƣ những
hoài niệm “lối xƣa xe ngựa hồn thu thảo - nền cũ lâu đài bóng tịch dƣơng”.
Lại có lúc dƣờng nhƣ vẻ hào hoa, thanh lịch vốn có của Hà Nội bị đe dọa
nghiêm trọng bởi những sự gấp gáp, xô bồ, lai căng của thời kỳ kinh tế thị
trƣờng và mở cửa hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, điều gì đã và đang xảy ra với
Hà Nội cũng là những gì đã và đang xảy ra với cả nƣớc và với thủ đô của
nhiều nƣớc trên thế giới. Càng tự hào bao nhiêu về truyền thống văn minh văn hiến của dân tộc, tự hào về truyền thống và những nét đẹp hào hoa, thanh
lịch của Thủ đô, chúng ta càng phải có trách nhiệm đầy đủ hơn với những giá
trị truyền thống ấy trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế hiện nay. Đƣờng lối văn hóa của Đảng nhằm xây dựng một nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chính là kim chỉ nam đối với
Trang 18


Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hà Nội nói riêng và nhân dân cả nƣớc nói
chung trong việc thực hiện những giải pháp thực tiễn để phát huy cao độ
những tinh hoa văn hóa truyền thống, tiếp thu có chọn lọc những thành tựu
văn minh hiện đại của nhân loại, đƣa văn minh - văn hiến Việt Nam lên tầm
cao mới của thời đại.
Thứ năm, tiên phong, hiện đại, đổi mới chính là một trong những giá trị
cốt lõi đƣợc chung đúc, kết tinh trong cơ tầng văn hiến của Thăng Long - Hà
Nội
Đức Lý Thái Tổ chính là ngƣời đã phát hiện ra thế đất “rồng bay” của
thủ đô Hà Nội. Trải qua 1000 năm, Thăng Long - Hà Nội đã và vẫn luôn xứng
đáng với vị thế rồng bay của mình. Từ đầu thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XIX,

Thăng Long là biểu tƣợng rực rỡ, tiêu biểu nhất của kỷ nguyên văn minh Đại
Việt. Trong thời đại Hồ Chí Minh, tính tiên phong của Hả Nội ngày càng đƣợc
phát huy và tỏa sáng. Chính tại nơi đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc
bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử khai sinh ra nƣớc Việt Nam mới, khai sáng
nền dân chủ cộng hòa. Cũng tại nơi đây, quân và dân Thủ đô đã anh dũng
đƣơng đầu với thực dân Pháp với tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Cũng chính Hà Nội là nơi đã đập tan ý chí xâm lăng của Mỹ trong trận Điện
Biên Phủ trên không oai hùng. Tiếp đó, Hà Nội lại là nơi khơi nguồn cho ánh
sáng trí tuệ của công cuộc Đổi mới, mở đƣờng cho công cuộc chấn hƣng dân
tộc và hội nhập quốc tế.
Những giá trị cốt lõi trên đây không tồn tại tách biệt nhau, mà ngƣợc lại
cùng hòa quyện, tạo nên bản sắc và cơ tầng văn minh - văn hiến của đất và
ngƣời Thăng Long - Hà Nội trong suốt 1000 năm qua và tiếp tục là bệ đỡ tinh
thần, là yếu tố dẫn đƣờng và quy tụ sức mạnh tổng hợp của Thủ đô trong thiên
niên kỷ mới.

Trang 19


Đến đây ta có thể khẳng định rằng: Thăng Long- Hà Nội là nơi hội tụ
tinh hoa các thời đại, là nơi định đô bậc nhất của Đế vƣơng muôn đời (Chiếu
dời đô của Đức vua Lý Công Uẩn), là nơi có sự phát triển sớm nhất sự nghiệp
giáo dục của cả nƣớc, nơi có trƣờng Đại học đầu tiên, nơi thƣờng xuyên tổ
chức các cuộc thi tuyển ngƣời tài cao, học rộng. Ngƣời Thăng Long- Hà Nội
có nhu cầu cao về phát triển trí tuệ, phát triển tài năng và trong thực tế con
ngƣời nơi đây đã bao đời nay chứng tỏ các khả năng đó. Và trong suốt chiều
dài lịch sử hình thành và phát triển đô thị Thăng Long- Hà Nội, ngƣời Hà Nội
đã kế thừa và phát huy nếp sống thanh lịch cũng nhƣ truyền thống yêu nƣớc
của cha ông ta. Ngƣời Hà Nội, luôn ý thức đƣợc vai trò quan trọng của mình
là ngƣời đại diện cho dân tộc, điều đó gợi lên lòng tự hào sâu sắc, là nguồn

động viên, khuyến khích họ tu dƣỡng bồi đắp những phẩm cách đẹp đẽ để
xứng đáng là ngƣời dân của thủ đô ngàn năm văn hiến. Đây là những phẩm
chất tốt đẹp tiêu biểu cho ngƣời Hà Nội nói riêng và con ngƣời Việt Nam mọi
thế hệ nói chung.
1.2: Hà Nội – nơi giao lƣu và tụ hội văn hóa cả nƣớc.
Với vai trò là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nƣớc hàng
ngàn năm, Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội đã là trung tâm giao lƣu của các
nền văn hóa, tiếp nhận tinh hoa văn hóa từ mọi nơi và lan tỏa ngƣợc lại ra các
nơi khác. Văn hóa Hà Nội vì thế là tổng hòa các yếu tố giao lƣu, hội nhập,
dung hòa, tiếp biến một cách cởi mở, linh hoạt, để tạo nên bản sắc Thăng
Long – Hà Nội, một vùng đất “hội thủy, hội nhân và hội tụ văn hóa vô cùng
phong phú và đa dạng”.
Thăng Long - Hà Nội là nơi hội tụ nhân tài, hội tụ nghề hay, ngƣời dân
khắp nơi trong nƣớc tìm đến sinh sống. Tới kinh đô, họ mang theo tinh hoa
quê hƣơng góp cho Hà Nội nhƣng đồng thời mang theo tập quán kẻ quê. Hà
Nội nhƣ cái sàng, sàng lọc, gom nhặt từ những cái đẹp nhỏ nhất của bốn
Trang 20


phƣơng để làm giàu thêm vốn văn hoá cho mình, gạt bỏ những gì không thích
hợp rồi định hình, định tính, định vị cái thanh lịch cũng nhƣ toả sáng văn hoá
thủ đô đi các nơi. Nét đặc trƣng của văn hoá Hà Nội là nêu gƣơng nếp sống để
ngƣời “tứ chiếng” về cƣ trú noi theo.
Theo các nhà sử học, Hà Nội còn có tên dân gian là Kẻ Chợ. Danh từ
Kẻ Chợ vốn có nghĩa là nơi họp chợ. Là nơi họp chợ nên nơi đây thƣờng là
chốn hội tụ các ngành nghề thủ công, mỹ nghệ, để đáp ứng nhu cầu của thị
trƣờng. Vì vậy danh từ Kẻ chợ vốn có thể dùng để gọi bất cứ thành thị nào.
Thế nhƣng từ lâu, danh từ chung ấy đã chuyển biến thành danh từ riêng để gọi
Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội. Kẻ chợ ở bên bờ sông Nhị, sông Tô, sông
Kim Ngƣu luôn luôn nhộn nhịp “trên bến dƣới thuyền” với biết bao đặc sản

đƣợc chuyên chở về đây. Bở thế, Thăng Long – Hà Nội cũng là nơi hội tụ của
những món ngon vật lạ, của những gì tinh túy nhất của khắp các vùng miền,
nơi đƣợc dân gian xếp lại “thứ nhất Kinh kì, thứ nhì phố Hiến”. Hà nội có
nhiều thức quà nức danh khắp chốn nhƣ: Phở, bún chả, bún thang, bánh tôm,
xôi lúa…Nhiều đặc sản địa phƣơng đã đi vào tục ngữ, ca dao: “Cốm Vòng,
gạo tám Mễ Trì/Tƣơng bần, húng Láng còn gì ngon hơn”. “Dƣa La, húng
Láng, nem Bảng, tƣơng Bần/ Nƣớc mắm Vạn Băn, cá rô Đầm Sét”, “Bánh
cuốn Thanh Trì, bánh dì (dày) Quán Gánh”. Nhiều tên phố còn gắn với đặc
sản nổi tiếng nhƣ chả cá Lã Vọng, bánh cốm Hàng Than, bánh trung thu Hàng
Đƣờng… Điều đặc biệt trong văn hóa ẩm thực Hà Nội là coi trọng giá trị tinh
thần trong cách thƣởng thức cũng nhƣ nét đẹp giao tiếp trong ăn uống.
Không chỉ trong lĩnh vực văn hóa ẩm thực mà trong các lĩnh vực nhƣ
trang phục, giao tiếp, ứng xử…Ngƣời Hà Nội cũng toát lên cốt cách thanh
lịch. Sự tế nhị, lịch lãm, tự tin của ngƣời Hà Nội đƣợc gói gọn trong câu ca:
“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng ngƣời Tràng An”.
Kẻ Chợ là nơi hội tụ ngƣời tứ xứ, do đó cũng là nơi chung đúc tiếng nói của
Trang 21


bốn phƣơng, rồi qua sàng lọc tự nhiên đã lắng đọng những gì tinh túy nhất,
tiêu biểu nhất, hợp lí nhất. Thăng Long – Hà Nội là nơi hội tụ, tích hợp các
luồng văn hóa để rồi thẩm thấu, chắt lọc và toả sáng. Vì thế, mảnh đất đại linh
nhân kiệt này đã hun đúc nên những khí phách, những tinh hoa của dân tộc.
Có một câu hỏi đặt ra ở đây là: Vì sao Hà Nội lại có sức hấp dẫn và thu
hút mọi nhân tài quy tụ về đây sinh sống? Để lý giải cho câu hỏi này chúng tôi
xin đƣa ra một vài số liệu sau:
Hà Nội ở tọa độ địa lý thuận lợi về nhiều mặt, với kinh độ 105 087 đông
và 21005 bắc. Phía Bắc có dải Tam Đảo cách trung tâm Hà Nội khoảng 50km
nơi hội tụ các dãy núi và thung lũng. Che chở phía Tây và Tây nam là dải Ba
Vì, mở đƣờng đi sâu vào các miền thƣợng đạo xuyên suốt miền Trung đất

nƣớc. Thiên nhiên Hà Nội phong phú, tƣơi đẹp, nơi hội tụ núi - sông - hồ; khí
hậu ấm áp, thuận hòa; đầu mối giao thông thuận lợi. Sau 1000 năm, Hà Nội
ngày nay và Thăng Long xƣa tuy khác nhau nhiều về địa lý, tự nhiên nhƣng
những điểm ƣu việt của điều kiện địa lý và tự nhiên của Thăng Long vùng với
những ƣu thế mới sau khi mở rộng vẫn tạo ra những thế mạnh cho Hà
Nội. Thứ nhất, với diện tích 3.344 km2, cơ cấu đất đai đa dạng - vừa có đất
bằng phẳng, cao ráo, nằm trên đồng bằng mầu mỡ, vừa có vùng bán sơn địa,
vùng rừng núi, hệ sinh thái động thực vật phong phú, thuận lợi cho phát triển
kinh tế. Thứ hai, vị thế trung tâm của Hà Nội, đầu mối giao thƣơng, lại nằm
bên con sông lớn, khiến cho giao thông với các địa phƣơng khác dễ dàng,
thuận tiện. Từ Hà Nội đi các thành phố, thị xã của Bắc Bộ cũng nhƣ của cả
nƣớc rất dễ dàng bằng cả đƣờng ô tô, đƣờng sắt, đƣờng thủy, đƣờng hàng
không. Thêm nữa, với cảnh sắc tƣơi đẹp và con ngƣời thanh lịch, Hà Nội là
nguồn cảm hứng sáng tạo thơ ca, nhạc, họa, tạo nên sức hút du khách bốn
phƣơng…. Đó là những yếu tố thuận lợi gắn bó chặt chẽ Hà Nội với cả nƣớc

Trang 22


và tạo điều kiện để Hà Nội giao lƣu, hội nhập quốc tế, khu vực, tham gia vào
quá trình phát triển năng động của vùng Đông Nam Á - Thái Bình Dƣơng.
Đồng thời với những lợi thế về điều kiện tự nhiên, Hà Nội có nhiều
ngành nghề truyền thống có giá trị kinh tế và văn hóa cao; những giá trị truyền
thống và các thành tựu văn hóa nếu đƣợc phát huy đầy đủ, hiệu quả, sẽ chuyển
hóa trực tiếp thành các tác nhân kinh tế cho quá trình phát triển.
Với tƣ cách là thủ đô, Hà Nội có một số thuận lợi cơ bản trong phát
triển kinh tế - xã hội; Hà Nội đƣợc Đảng, Nhà nƣớc chỉ đạo, tập trung đầu tƣ
về mọi mặt trong quá trình xây dựng và phát triển; có điều kiện thuận lợi trong
việc tiếp cận những thành tựu khoa học công nghệ và tinh hoa văn hóa thế
giới, giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề kinh tế - xã hội phát sinh có

liên quan trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập khu vực và quốc tế.
Là nơi đặt trụ sở các cơ quan lãnh đạo của Trung ƣơng Đảng, Quốc hội,
Chính phủ, các đoàn thể xã hội, Thủ đô cũng là nơi diễn ra các đại hội đại biểu
toàn quốc của Đảng, các kỳ họp Quốc hội, đƣợc trực tiếp tiếp thu các nghị
quyết, đƣờng lối, sách lƣợc đối nội và đối ngoại cho từng giai đoạn xây dựng
và chiến đầu bảo vệ Tổ quốc. Hà Nội cũng là nơi đặt đại sứ quan của nhiều
quốc gia trên thế giới và diễn ra các hoạt động ngoại giao quan trọng. Hàng
trăm tờ báo và tạp chí, hàng nghìn đầu sách mới của gần 40 nhà xuất bản
Trung ƣơng phát hành khắp cả nƣớc, ra cả nƣớc ngoài, làm phong phú đời
sống văn hóa của nhân dân và giới thiệu hình ảnh Việt Nam với bạn bè thế
giới.
Hà Nội là nơi tập trung nguồn nhân lực chất lƣợng cao, phần lớn các
chuyên gia đầu ngành đang công tác, nghiên cứu khoa học và giảng dạy ở Thủ
đô. Ngoài ra còn có nhiều tổ chức doanh nghiệp hoạt động trong các ngành
công nghệ hiện đại, tiên tiến. Nếu thu hút nguồn lực chất xám của nhà khoa
học, các bộ, ngành trung ƣơng, các viện nghiên cứu, các trƣờng đại học trên
Trang 23


địa bàn thì sẽ có đƣợc lợi thế to lớn so với các tỉnh, thành phố khác trong cả
nƣớc.
Hà Nội đã và sẽ giữ vai trò là trung tâm kinh tế lớn nhất ở Bắc Bộ, trung
tâm kinh tế lớn của cả nƣớc có sức hút và khả năng lan tỏa rộng lớn, tác động
trực tiếp tới quá trình phát triển của vùng Bắc Bộ và cả nƣớc. Với dân số hơn
6,5 triệu ngƣời, Hà Nội là một thị trƣờng lớn, đồng thời có khả năng khai thác
thị trƣờng rộng lớn của vùng và của cả nƣớc để sản xuất, tiêu thụ sản phẩm
công, nông nghiệp và dịch vụ.
Hà Nội trƣớc đây đƣợc xây dựng, phát triển trên nền tảng vững chắc của
quá khứ với Cổ Loa - Thăng Long - Hà Nội, và sau khi mở rộng, có thêm
phần đất của 4 xã Lƣơng Sơn - Hòa Bình, huyện Mê Linh - Vĩnh Phúc và toàn

bộ tỉnh Hà Tây - vùng đất của trấn Sơn Tây và đất Sơn Nam cổ xƣa. Đó là
những địa danh tiêu biểu cho lịch sử hàng ngàn năm văn hiến của dân tộc Việt
Nam, nơi các tầng văn hóa, các di tích lịch sử - văn hóa có mật độ dày đặc.
Tinh hoa của trí tuệ và tài năng lao động, sáng tạo của ngƣời Thăng Long - Hà
Nội, qua 1000 năm còn kết tinh và tỏa sáng trong các di sản văn hóa vật thể,
phi vật thể với 1270 làng nghề, 5200 di tích các loại, trong đó gần 1000 di tích
đƣợc xếp hạng quốc gia, quốc gia đặc biệt, nổi bật là Hoàng thành Thăng
Long, Văn miến - Quốc Tử giám, Ca trù, Hội Gióng đƣợc UNESCO công
nhận là di sản văn hóa thế giới. Di sản văn hóa phong phú, giàu có đã tạo nên
bản sắc độc đáo của văn hiến, văn hóa Thăng Long, văn hóa Xứ Đoài vang
danh cả nƣớc. Tầm cao và chiều sâu trong đời sống tinh thần; vẽ đẹp, sức thu
hút, cảm hóa và lan tỏa của Thủ đô chính là tinh hoa văn hóa đƣợc tích bồi
trong 1000 năm lịch sử. Đó là nguồn tài nguyên vô giá, là nguồn lực nội sinh
đặc biệt mà Hà Nội phải gìn giữ, phát triển, phát huy trên con đƣờng đi tới văn
minh, hiện đại.

Trang 24


×