Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Môn tư tưởng hồ chí minh Lòng nhân ái cao cả nét đặc thù trong nhân cách hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.85 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
M.Gorki - nhà văn lỗi lạc của nước Nga đã từng thốt lên:"...Con
người! Tiếng ấy thật tuyệt diệu! Tiếng ấy vang lên kiêu hãnh và hùng tráng biết
bao" . Từ xưa đến nay, các bậc vĩ nhân, các nhà triết học, các nhà khai sáng ra các
tôn giáo lớn trên thế giới đều vì con người, hướng về con người bằng tất cả tấm
lòng thương yêu, trân trọng.
Nếu tư tưởng Hồ Chí Minh đề cập đến những vấn đề cơ bản, sâu sắc của
cách mạng Việt Nam thì chính chủ nghĩa nhân văn của Người không chỉ thấm
đậm trong mọi đường lối, chính sách mà hơn thế nữa nó rất gần gũi với mọi
người. Nó là của mọi người và trong mỗi người. Bởi đó là vấn đề tình người, là
tình cảm thường ngày trong quan hệ giữa người với người...mà bất cứ ai cũng có
thể cảm nhận, cảm thông và gần gũi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người có nhân cách vô cùng cao đẹp, mà nổi
bật nhất trong nhân cách của Người chính là Lòng nhân ái cao cả. Vì vậy, tôi
quyết định chọn đề tài: " Lòng nhân ái cao cả - nét đặc thù trong nhân cách Hồ
Chí Minh" là đề tài tiểu luận của tôi trong học phần Nhân cách Hồ Chí Minh.

1


NỘI DUNG
I. CỘI NGUỒN HÌNH THÀNH LÒNG NHÂN ÁI CAO CẢ Ở HỒ CHÍ
MINH
1. Truyền thống của dân tộc, quê hương, gia đình
Lòng nhân ái là một truyền thống nổi bật, cốt lõi của dân tộc Việt Nam
trong lao động sản xuất và đấu tranh giữ nước. Dân tộc Việt Nam đã trải qua một
chặng đường dài hàng nghìn năm lịch sử trong môi trường thiên nhiên khắc
nghiệt của vùng nhiệt đới ẩm gió mùa với mưa nguồn nước lũ, thiên tai thường
xuyên đe dọa cuộc sống của nhân dân ta - một cư dân nông nghiệp lúa nước.
Chính trong điều kiện như vậy nên từ rất sớm nhân dân ta đã ý thức được cần phải
yêu thương, đùm bọc, đồng cam cộng khổ...


Nước ta lại ở vào một vị trí có ý nghĩa chiến lược của vùng Đông Nam Á
với tài nguyên thiên nhiên phong phú nên luôn là mục tiêu xâm lược của các nước
lớn. Và như vậy, công cuộc lao động và đấu tranh gian khổ để dựng nước và giữ
nước trở thành hoạt động thường xuyên, nội tại, tác động mạnh mẽ tới mmọi hoạt
động, làm nảy sinh và hun đúc nên những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam. Chính những biến động thăng trầm trong lịch sử đã gắn bó vận mệnh của
mỗi cá nhân vào vận mệnh của cả dân tộc. Càng yêu nước thì càng yêu thương
mọi người, càng căm thù giặc ngoại xâm, càng có thêm ý chí kiên cường sẵn sàng
hi sinh vì đất nước, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước. Cha của Người
- cụ Nguyễn Sinh Sắc là một nhà nho cấp tiến, yêu nước thương dân. Cụ là tấm
gương cho các con về ý chí kiên cường vượt khó, về sự hiếu học và đặc biệt là
tấm gương về lòng yêu nước, về tư tưởng thương dân, vì dân. Thân mẫu của
Người là bà Hoàng Thị Loan - một người mẹ đôn hậu, có tấm lòng nhân đạo cao
cả, hết lòng chăm sóc, lo lắng cho chồng con. Bà đã có ảnh hưởng rất lớn đến tư
tưởng, tình cảm, nhân cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

2


Nghệ An - quê hương của Người là một vùng quê giàu truyền thống yêu
nước, chống giặc ngoại xâm. Nơi địa danh nổi tiếng với những tên tuổi anh hùng
danh nhân văn hóa trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Vùng đất Kim Liên Nam Đàn là địa danh đã thấm máu của các nghĩa liệt kháng Pháp, nơi mà anh và
chị ruột của Người đã tham gia các hoạt động yêu nước và đã bị bắt bớ, bị tù đày.
Có thể nói Nghệ An là địa danh đã tác động góp phần tạo nên nhân cách, tư tưởng
của nhiều anh hùng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất
nước. Đây là một trong những yếu tố quan trọng tác động mạnh vào quá trình
hình thành nhân cách người thanh niên Nguyễn Tất Thành.

2. Tinh hoa văn hóa nhân loại

2.1 Hồ Chí Minh tiếp thu tinh hoa văn hóa Nho giáo
Nho giáo là sản phẩm của thời Xuân thu chiến quốc, do Khổng Tử sáng lập
nên. Cùng với chữ Hán, nó du nhập vào nước ta từ thời Bắc thuộc. Những tư
tưởng của học thuyết này có mặt tích cực và cả những hạn chế. Những mặt tích
cực của Nho giáo là: Triết lý nhân sinh, tu thân dưỡng tính, chủ trương từ thiên tử
tới thứ dân ai ai cũng phải lấy tu thân làm gốc, đề cao “trung, hiếu”. Triết lý hành
động, tư tưởng nhập thế, hành đạo giúp đời, “nhân nghĩa”. Lý tưởng về một xã
hội bình trị, một thế giới đại đồng (“ tứ hải giai huynh đệ”). Tư tưởng lấy dân làm
gốc, “ dân vi bang bản”, “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”… Đề cao văn
hoá, lễ giáo, tạo ra tinh thần hiếu học ( về điểm này Nho giáo hơn hẳn các học
thuyết cổ đại thường chủ trương làm cho dân ngu để dễ trị)…
Hồ Chí Minh đã được học chữ Hán và tiếp thu tư tưởng Nho giáo ngay từ
nhỏ. Những kiến thức Hán học đó đã ăn sâu vào trí nhớ, để lại những dấu ấn sâu
sắc trong tư tưởng, tình cảm của Người. Người đã tiếp thu có chọn lọc nhưng yếu
tố tích cực trong Nho giáo và chỉ rõ: “ Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong
học huyết của ông có nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì
chúng ta nên học tập”.
Đồng thời trong khi tiếp thu, sử dụng những yếu tố tích cực của Nho giáo,
Hồ Chí Minh cũng đã phê phán, loại bỏ những yếu tố thủ cựu, tiêu cực của học
thuyết này. Bác nói: “Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo đức cũ
3


như người đầu ngược xuống đất, hai chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người
hai chân đứng vững được dười đất, đấu ngửng lên trời”.

2.2. Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng nhân ái của Phật giáo
Phật giáo từ Ấn Độ qua nhiều con đường khác nhau đã được truyền vào
Việt Nam từ rất sớm và có ảnh hưởng sâu sắc. Ngay cả khi Nho giáo đã trở thành
quốc giáo, Phật giáo vẫn còn ảnh hưởng rất mạnh trong nhân dân, để lại nhiều dấu

ấn trong văn hoá Việt Nam, từ tư tưởng, tình cảm, tín ngưỡng đến phong tục tập
quán, lối sống…Phật giáo cũng là một tôn giáo nên nó có cả những mặt tích cực
và hạn chế riêng.
Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc và tiếp nhận mặt tinh hoa của đạo Phật
về lòng nhân ái. Người nói:" Đức Phật là đại từ bi cứu khổ, cứu nạn, muốn cứu
chúng sinh ra khỏi khổ nạn, người phải hy sinh đấu tranh diệt lũ ác ma". Phần tích
cực nhân văn của Phật giáo là mong muốn xây dựng một cuộc sống "thẩm mỹ ,chí
thiện, bình đẳng, yên vui, no ấm" cho dân chúng, xây dựng một xã hội hạnh phúc
và an lạc. Người nhắc nhở:"...Nay đồng bào ta đại đoàn kết, hy sinh của cải
xương máu, kháng chiến đến tận cùng để đánh tan thực dân phản động, để cứu
quốc dân ra khỏi khổ nạn, để giữ quyền thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Thế là
chúng ta làm theo lòng đại từ, đại bi của đức Phật".

2.3. Hồ Chí Minh kế thừa lòng nhân ái, đức hy sinh của Thiên Chúa
Giáo
Nói đến việc kết hợp văn hóa Đông - Tây trong con người Hồ Chí Minh
không thể không nói đến sự kế thừa những giá trị cao cả và vĩnh hằng của Thiên
Chúa Giáo.
Hồ Chí Minh đến với Thiên Chúa Giáo là đến với một di sản văn hóa loài
người. Ngay từ những năm bốn mươi, Người đã tìm thấy ở chúa Giêsu "lòng
nhân ái cao cả". Và "...cũng như Khổng Tử, Tôn Dật Tiên, Giêsu cũng mưu cầu
hạnh phúc cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội". Với tư tưởng cách mạng
và khoa học - một sự tỉnh táo trong nhận thức, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra cái
thiện, cái đẹp, cái cốt lõi nhân văn tối cao ở chúa Giêsu "hy sinh để cứu loài
4


người khỏi ách nô lệ và đưa loài người về hạnh phúc, bình đẳng, bác ái, tự do".
Người đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
nhân dân lao động khỏi ách áp bức bóc lột. Những tư tưởng của Người thấm đậm

giá trị cao cả mang tính nhân loại mà Thiên Chúa Giáo đã khởi xướng và răn dạy.

2.4. Hồ Chí Minh lĩnh hội văn hóa phương Tây, đặc biệt là chủ nghĩa
nhân đạo cộng sản
Trên con đường tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã chủ động tìm hiểu
văn hóa phương Tây với một ý thức cầu thị sâu sắc. Trong quá trình hoạt động
cách mạng, qua sách vở và tiếp xúc với nhân dân các nước, Người đã tìm thấy
chủ nghĩa nhân văn được thóat thai từ thời đại phục hưng; lý tưởng tự do, bình
đẳng bác ái từ trong tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ (1776), tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền của cách mạng Pháp (1789).
Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã khám phá ra chủ nghĩa Mác - Lênin, xác định
con đường đúng đắn để giải phóng các dân tộc thuộc địa mà Người hằng mong
đợi. Đọc "Sơ thảo Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa", Người
rất xúc động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao " vui mừng đến phát khóc lên"
vì đã tìm thấy chủ nghĩa nhân đạo cộng sản trong công cuộc giải phóng triệt để
các dân tộc bị áp bức, bị nô dịch, giải phóng con người, xây dựng một thế giới tự
do, bình đẳng, bác ái.
Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng Hồ Chí
Minh mà còn là nguồn gốc quan trọng nhất trong việc hình thành tư tưởng nhân
văn, đạo đức Hồ Chí Minh. Bởi vì, như Người nói:" Từng bước một, trong công
cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin vừa làm công tác thực tế dần
dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô
lệ". Người đã nhận thấy giá trị cao cả của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản (khác hẳn
về bản chất so với chủ nghĩa nhân văn tư sản). Nếu chủ nghĩa nhân văn tư sản đề
ướng đến việc giải phóng con người khỏi mọi ràng buộc của chế độ phong kiến
thì lại không hề đả động gì đến việc giải phóng cá nhân con người. Trái lại, chủ
nghĩa nhân văn cộng sản chủ trươg giải phóng tất cả người lao động bị áp bức,
5



bóc lột trên toàn thế giới, thủ tiêu mọi gông xiềng nô lệ, đem lại hạnh phúc cho
nhân loại

3. Lòng nhân ái cao cả xuất phát từ chính chủ quan bản thân Hồ Chí
Minh
Một nhân tố hết sức quan trọng hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh - đó là
phẩm chất, năng lực, trí tuệ, tư tưởng và nghị lực phi thường của bản thân Người.
Có thể nói Hồ Chí Minh là con người có phẩm chất đặc biệt, một tài năng
đặc biệt. Điều này thể hiện ở khả năng tiếp nhận, hấp thu nhanh nhạy những tri
thức, kho tàng kinh nghiệm lịch sử, tinh hoa chủ nghĩa nhân văn của các thời kỳ
cổ kim của nhân loại; ở năng lực xử lý, chuyển hóa được những tinh hoa đó
thành phẩm chất, tư tưởng, trí tuệ của Người mà không giáo điều, sao chép, dập
khuôn. Ở Người hội tụ được tất cả tinh hoa văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại;
toát lên khả năng vận dụng sáng tạo những tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp
với những điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Bởi vậy, Nhân cách Hồ Chí Minh là đỉnh cao của nhân cách dân tộc Việt
Nam ở mọi thời đại mà một trong những biểu hiện của nó là lòng nhân ái cao cả ở
Người.

II. LÒNG NHÂN ÁI CAO CẢ - NÉT ĐẶC THÙ TRONG NHÂN
CÁCH HỒ CHÍ MINH
1. Hồ Chí Minh có cách nhìn con người trong sự tin tưởng, bao dung
Chữ "người" trong tư tưởng, quan niệm của Hồ Chí Minh được biểu hiện
như một phức hợp, vừa là một con người cá thể, vừa là một cộng đồng xã hội từ
gia đình, giai cấp, dân tộc đến nhân loại nói chung.
Từ khi con người sống thành xã hội, thiện và ác luôn đấu tranh gay gắt với
nhau. Dân tộc nào cũng gần như có chung một nhận xét: Ác là xấu, thiện là tốt.
Cái tốt nhất định thắng cái xấu. Cái thiện nhất định thắng cái ác. Tục ngữ Đức có
câu:" Cái ác tàn bạo nhất là cái ác thầm lặng nhất, như sự độc ác vô cùng của con

chó dại". Người Pháp lại cảnh giác:" Ngọn lửa độc ác tưởng đã nguội rồi nhưng
lại thường đang ngủ trong đống tro"...Ở nước ta, nhân dân thường nhắc đến hai
câu đầu của Tam tự kinh:" Nhân chi sơ - Tính bản thiện", Hồ Chí Minh đã giải
6


thích câu đó như sau:
" Nhân nghĩa là nhân dân. Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân.
Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân.
Thiện là nghĩa tốt đẹp, vẻ vang. Trong xã hội có thiện và cũng có ác.
Theo nghĩa rộng thì cả thế giới và trong một nước có thiện và ác. Theo
nghĩa hẹp thì trong bản thân và tư tưởng của mỗi người cũng có thiện và có ác".
Theo Người, mỗi cá nhân mỗi cộng đồng đều có mặt tốt, mặt xấu, mặt
được và mặt chưa được...Người không quan niệm bản chất con người một cách
thụ động bất biến và nhất là không chỉ hướng theo cái thiện một cách đơn thuần,
móc mà phải biết chống cả cái ác trong mỗi con người và trong toàn xã hội.
Người nói:" Trong đầu óc mỗi con người đều có sự đấu tranh giữa cái thiện và cái
ác" hoặc nói theo cách mới là sự đấu tranh giữa tư tưởng cộng sản và tư tưởng
cấ nhân". Trong câu nói này đã phản ánh một quan niệm mới về thiện và ác.
Người khẳng định:" Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết
làm cho phần tốt ở mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất
dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với người có thói hư tật xấu, trừ
hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng
cách làm cho phần thiện trong người nảy nở để đẩy lùi phần ác chứ không phải
đập cho tơi bời". Do vậy phải thường xuyên quan tâm, tạo điều kiện để con người
phát huy cái tốt, sửa chữa cái xấu. Nó đòi hỏi thái độ tôn trọng con người, phải
biết cách nâng con người lên chứ không phải hạ thấp, càng không phải vùi dập
con người.
Người nói:" Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài, nhưng vắn dài đều
hợp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác

nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan
hồng đại độ". Vì vậy nên đối với kẻ phạm tội khi bị bắt, phải lấy chính nghĩa để
cảm hóa thuyết phục. Chỉ trừ những kẻ đi vào con đường hại dân hại nước, không
chịu đoạn tuyệt với quá khứ tội lỗi của mình thì mới bị trừng phạt và ngay cả khi
phải trừng trị họ cũng phải nhằm thuyết phục, cảm hóa, làm cho phần thiện trong
con người họ nảy nở, đẩy lùi phần ác. Người còn chỉ rõ:" Bất cứ trước đây họ là
7


thế nào, nếu ngày nay hộ muốn thật thà phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân thì
chúng ta cần cộng tác với họ", "quá khứ, hiện tại và tương lai của mỗi ngưỡi
không phải luôn giống nhau"
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề con người trên quan điểm thực tiễn
đồng thời Người cũng thấy rõ tính hiện thực của khả năng làm cho con người trở
nên tốt đẹp "con người dù có xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có tình" - Cái
tình tức là tình người, nhân tính phải được phát triển. Niềm tin vào một khả năng
hướng thiện và hòa lương đối với con người chỉ có được trên cơ sở thấu hiểu tính
nhân bản của con người để tin cậy và ra sức giúp đỡ để con người trở nên tốt đẹp
hơn với tất cả tấm lòng nhân đạo, bao dung, đúng như một nhà quan sát đã nói:
" Cụ Hồ là một người xây dựng lương tri, xây dựng nó khi thiếu, tái tạo nó
khi mất; cụ thức tỉnh kẻ mê, ân cần đỡ dậy người trượt ngã, biến vạn sức người
dân bình thường thành anh hùng vô danh và hữu danh trong lao động, trên chiến
trường, trong ngục tối, trước máy chém. Để hiểu tại sao sức mạnh kỹ thuật của
Mỹ có giới hạn trước con cháu cụ Hồ".

2. Lòng nhân ái ở Hồ Chí Minh là lòng yêu thương những người cùng
khổ, những người bị áp bức
Trong lịch sử đã có biết bao tấm lòng yêu nước thương dân, và đối với Hồ
Chí Minh cũng vậy, yêu nước thương dân đã trở thành lẽ sống, trở thành triết lý
cuộc sống:" Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề...là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và

làm người là phải yêu nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức ". Ở
Hồ Chí Minh, lòng yêu nước thương dân mang một nội dung mới sâu sắc và toàn
diện. Tình thương đó trước hết dành cho nhân dân lao động, cho những người
nghèo khổ bị đọa đày. Đó không phải là lòng thương hại kiểu bề trên nhìn xuống,
cũng không phải là lòng trắc ẩn của người "đứng ngoài" trông vào mà là sự đồng
cảm của người cùng cảnh ngộ - những người dân mất nước, nô lệ lầm than.
Người đau nỗi đau của một người từng trải và chứng kiến nhiều mất mát
đau thương, bất công, ngang trái...Đó là nỗi đau của người phải bế em đi xin sữa,
mẹ chết không được khoc, bố bị oan khuất đày đi xa...Đó là cảnh nghèo đói của
dân quê Nghệ Tĩnh, cảnh khổ sở của những dân phu đi làm đường Cửa rào Trấn
8


ninh. Đó là cảnh những phu xe gầy ốm, những người bán hàng rong lam lũ bên
cạnh cảnh sống xa hoa, phè phỡn của bọn thống trị thực dân và vua quan cai
trị...Người hiểu sâu sắc sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân đối với đồng
bào, dân tộc bị nô lệ. Khát vọng giải phóng ngày càng cháy bỏng trong Người.
Từ tình yêu thương đồng bào mình, Người mở rộng lòng yêu thương đó
đến tất cả nhân loại cùng khổ. Người thông cảm sâu sắc và chia sẻ với những
người nghèo khổ bị bóc lột vì họ "là những người phải làm công việc nặng nhọc ,
mọi thứ lao dịch. Chính họ làm ra cho lũ người ăn bám, lũ người lười biếng, lũ
người đi khai hóa và những bọn khác hưởng mà chính họ thì lại phải sống cùng
khổ trong khi những tên đao phủ của họ sống rất thừa thãi, hễ mất mùa thì họ chết
đói".
Nhà thơ Cuba - Phelich Padighet đã nhận xét:" Trong tác phẩm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, người nông dân ở Việt Nam, ở Angiêri, ở Tuynidi, ở Cônggô,
người bị áp bức ở quần đảoAngtidat, ở miền Nam già cỗi của nước Mỹ đều có
một người nhiệt thành bênh vực mình".
`


Chính những khó khăn, thử thách trong quá trình đi tìm đường cứu nước đã

giúp Người nhận thức rằng không phải ở Việt Nam con người mới bị đọa đày, đau
khổ mà ở khắp các nước, đâu đâu cũng có những con người nghèo khổ, nhưng
người bị bóc lột. Ngay cả khi đến chiêm ngưỡng tượng Nữ thần Tự do ở nước Mỹ cuối
năm 1912, Người đã nhận thấy rằng: ánh sáng trên đầu thần Tự do tỏa rộng khắp trời
xanh, còn dưới chân tượng thần Tự do thì người da đen đang bị chà đạp, số phận người
phụ nữ bị chà đạp. Rồi tại thủ đo Pari - thủ đô văn hóa của Châu Âu - nơi sinh ra những
tư tưởng vĩ đại: tự do - bình đẳng - bác ái, Người đã tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc
địa và báo "người cùng khổ". Người đã chứng kiến nỗi đau khổ của những người lao
động ở khắp các nước thuộc địa Á, Phi, Người xúc động và khóc khi thấy cảnh
tượng người da đen ở Đaca bị đẩy xuống biển chết, những người phụ nữ bị hãm
hiếp, trẻ em bị phơi đói và những người dân thuộc địa bị bắt lính đi chết thay
cho "mẫu quốc". Người phẫn nộ cảnh phân biệt chủng tộc và đời sống khổ
cực của khu lao động nghèo tại các thủ đô hoa lệ...
Tình yêu thương con người của Hồ Chí Minh đã vượt ra ngoài giới
9


hạn "người trong một nước phải thương nhau cùng" trở thành một tình yêu
rộng lớn hơn "bốn phương vô sản đều là anh em". Tình yêu thương dân tộc
đã quyện chặt với tình yêu thương nhân loại bị áp bức bóc lột
3. Lòng nhân ái ở Hồ Chí Minh thể hiện ở việc quan tâm nâng đỡ những
người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội
Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người rất nhạy cảm, rất dễ rung động trước
hoàn cảnh của người khác, đặc biệt là trước những người có hoàn cảnh éo le,
đáng thương.
Trong suốt cuộc đời của mình, Người đã chia sẻ mẩu bánh mỳ ít ỏi kiếm
được trong ngày với một em bé da đen, đã khóc tràn nước mắt khi một thanh niên
nước ngoài vì mình mà mang họa. Người lo sao cho em bé mồ côi có được nơi

nương tựa, các cụ già không bị hắt hủi lúc xế chiều. Người đã dành bát cơm trắng
cho người già Cao Bằng còn mình bưng bát cơm ngô. Thấy một tù binh rét,
Người đã cởi áo ấm mình đang mặc khoác cho anh ta, coi "anh mặc cũng như tôi
mặc"...Người lo đến từng viên thuốc, hạt gạo, chiếc guốc đi, "cái con chữ" cho
đồng bào ít người...
Đối với phụ nữ, Hồ Chí Minh cho rằng họ là lớp người phải chịu nhiều
thiệt thòi trong xã hội do chịu ảnh hưởng tàn dư tiêu cực của chế độ phong kiến "
Không một chỗ nào người phụ nữ thoát khỏi những hành động bạo ngược. Ngoài
phố, trong nhà, giữa chợ hay ở thôn quê, đâu đâu họ cũng vấp phải những hành
động tàn nhẫn của bọn quan cai trị, sĩ quan, cảnh binh, nhân viên nhà đoan, nhà
ga". Nói sao cho hết được sự cảm thông của Người trước "nỗi thống khổ của
người phụ nữ bản xứ" vì "thói dâm bạo thực dân" - những hành động tàn ác
không thể tưởng tượng được. Theo Hồ Chí Minh, sự nghiệp giải phóng phụ nữ
phải được thực hiện cả hai mặt chính trị và xã hội. Vị trí của phụ nữ phải được
bình đẳng với tất cả những người khác, phụ nữ được quyền tham gia các công
việc xã hội. Người bày tỏ quan điểm "phải tiêu diệt tư tưởng phong kiến và tư
tưởng tư sản trong đàn ông, đồng thời phụ nữ phải tự mình đứng lên, tự giải
phóng".
Đối với thiếu niên nhi đồng, mỗi người chúng ta không ai là không cảm
10


đông trước những tình cảm nồng nàn của Hồ Chí Minh dành cho thế hệ trẻ. Nhà
thơ Tú Mỡ kể lại: Trong một đại hội thi đua (1952), sau buổi chiếu bóng, mọi
người lục đục đứng dậy ra về, Bác vội đứng lên đưa tay yêu cầu trật tự và nói to:
"Hãy khoan đã, để cho các cháu bé ra trước, kẻo lộn xộn các cháu sẽ lạc đấy".
Nhà thơ thốt lên:" Chao ôi! Óc sáng suốt của Bác thật lạ lùng, hiếm có! Bác
chăm lo hàng vạn việc lớn mà không quên sót một việc nhỏ người thường lại
không nghĩ tới! Ai chú ý chăm sóc các cháu nhi đồng bằng Bác Hồ Chí
Minh"...Mỗi dịp trung thu, là một Chủ tịch nước bận trăm công nghìn việc, Bác

không quên viết thư cho các cháu. Có dịp thuận lợi, Bác vui lòng đến dự những
đêm văn nghệ do các cháu tổ chức. Bác kêu gọi các ngành, các cấp và toàn dân
chăm lo bảo vệ bà mẹ và trẻ em, chăm sóc và giáo dục thiếu niên nhi đồng. Bác
nhấn mạnh dù đất nước ta còn nghèo, nhà nước và nhân dân cũng phải cố gắng
tạo những phương tiện tốt nhất trong điều kiện cho phép để các cháu được học
tập, vui chơi. Bác Hồ với thiếu nhi, mãi mãi còn đây hình ảnh một cụ già râu tóc
bạc phơ, như một ông tiên trong cổ tích, ngồi giữa đàn cháu nhỏ, cùng các cháu
vỗ tay theo nhịp "Ai yêu nhi đồng bằng Bác Hồ Chí Minh, ai yêu Bác Hồ Chí
Minh bằng thiếu niên nhi đồng..."
Không những vậy, Bác còn dành tình thương, niềm xót xa vô hạn đối với
các cụ, các cô, các cháu đã phải chịu đựng nhiều gian khổ hy sinh vì miền Nam
thân yêu. Miền Nam đối với Bác là nỗi đau nhức nhối:" Ở miền Nam Việt
Nam...mỗi người,mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi
đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi". Bác
cho rằng mình chưa làm tròn nghĩa vụ đối với miền Nam, vì thế Bác "ăn không
ngon, ngủ không yên", Bác không đành lòng nhận huân chương khi nước nhà
chưa thống nhất. Miền Nam đối với Bác luôn là niềm tự hào sâu sắc, Bác nói:"
Đồng bào miền Nam thật là những người con anh hùng của dân tộc anh hùng
Việt Nam. Miền Nam thật xứng đáng với danh hiệu "thành của Tổ quốc".
Cho đến khi từ biệt chúng ta, trong trái tim Bác vẫn nguyên vẹn hình ảnh
một miền Nam kiên cường, bất khuất, đi trước về sau, một nửa nước Bác ngày
đêm thương nhớ, chưa một lần được vào thăm kể từ ngày rời bến cảng Nhà Rồng
11


ra đi tìm đường cứu nước.

4. Lòng nhân ái ở Hồ Chí Minh không chung chung trừu tượng kiểu tôn
giáo mà luôn được giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản
* Về đối tượng

Hồ Chí Minh yêu thương con người đang sống thực ở trên trần gian này
chứ không phải con người chung chung, trừu tượng, phi lịch sử. Điểm nổi bật ở
Người là tấm lòng thương yêu những người cùng khổ. Người cùng khổ ở đây bao
gồm người dân Việt Nam và nhân dân các nước thuộc địa bị mất nước sống cuộc
đời nô lệ "không có tự do, công lý", "bị áp bức bóc lột", bị "đẩy vào vòng ngu dốt
tăm tối", bi bắt làm lao dịch khổ sai và đi làm lính đánh thuê cho mẫu quốc",
"sống nghèo đói cực khổ"...Đó là những người dân lao động ở các nước tư bản,
những người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất nhưng sống đói nghèo, thiếu
thốn "những người làm lụng, sản xuất và đói meo".
Lời ra mắt của báo Người cùng khổ (1921) đã xác định:" Đi từ giải phóng
những người nô lệ mất nước, những người lao động cùng khổ, đến giải phóng con
người ở đây bao hàm cả "đồng bào trong nước", và "đồng bào trên thế giới theo
nghĩa "bốn bể là nhà, bốn phương vô sản đều là anh em". Người vạch rõ:" Trừ
bọn việt gian bán nước, trừ bọn phat xit thực dân là những ác quỷ mà ta phải
cương quyết đánh đổ, đối với tất cả những người khác ta phải biết yêu quý, kính
trọng, giúp đỡ...phỉa thực hành chữ bác ái".
* Về cơ sở khoa học
Hồ Chí Minh đã chỉ ra được nguồn gốc mọi sự đau khổ của những con
người nô lệ mất nước, của những người lao động làm thuê. Đó là chủ nghĩa thực
dân đế quốc tàn bạo, đó là ách áp bức bóc lột mà công nhân, nông dân phải chịu
đựng. Người đã chỉ ra cho nhân dân thuộc địa và nhân dân lao động thế giới thấy
chúng chính là kẻ thù và muốn giải phóng khỏi mọi khổ đau của sự áp bức đó
phỉa tự giành độc lập dân tộc "Sự tàn bạo của chủ nghĩa thực dân đã chuẩn bị đất
rồi. Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc
giải phóng nữa thôi". Đồng thời, Người cũng chỉ ra rằng:" Lịch sử việc người Âu
xâm chiếm châu Phi cũng như bất cứ lịch sử xâm chiếm thuộc địa nào thì từ đầu
12


đến cuối đều được viết bằng máu người bản xứ. Sau những cuộc tàn sát thẳng tay

thì chính những chế độ lao dịch khuân vác, lao động khổ sai, rượu cồn, bệnh
giang mai tiếp tục hoành hành công cuộc tàn phá của sự nghiệp khai thác. Kết quả
tất nhiên của chế độ ghê tởm: đó là sự tiêu diệt giống da đen".
Và " Tất cả những liệt sĩ của giai cấp công nhân, người ở Lổandơ cũng như
ở Pari, nhữg người Lơharơvơ cũng như những người ở Mactinich đều là những
nạn nhân của một kẻ sát nhân - chủ nghĩa đế quốc".
* Về thực tiễn
Càng yêu thương nhân dân bị áp bức, Hồ Chí Minh càng căm ghét và tố
cáo mạnh mẽ, toàn diện và có hệ thống tội ác của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa
tư sản đối với các dân tộc thuộc địa và giai cấp vô sản ở chính quốc.
Trong "Bản án chế độ thực dân Pháp" và những bài báo, phóng sự, bút ký,
truyện ngắn...Người đã nêu bật bản chất vô nhân đạo của chủ nghĩa tư bản thực
dân và thực chất của cái gọi là" tự do, bình đẳng, bác ái" ở các nước tư bản. Từ
việc mô tả cuộc sống điêu đứng của dân nghèo, Người vạch rõ âm mưu thủ đoạn
dã man của đế quốc thực dân đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động ở các
nước chính quốc và thuộc địa, ví chúng như "con đỉa hai vòi, một vòi hút máu
nhân dân chính quốc, một vòi hút máu nhân dân thuộc địa". Đồng thời, Người
mạnh mẽ tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở Việt Nam với sưu cao thuế nặng, luật
lệ hà khắc, chính sách ngu dân "nhà tù nhiều hơn trường học"...Bọn thực dân biến
thuộc địa thành địa ngục trần gian, tha hồ "chém giết người vô tội", tính mạng của
nhân dân "không đáng một đồng trinh".
Quả thực, phải có lòng nhân ái cao cả, sự cảm thông hòa mình vào nỗi khổ
của những người nô lệ mất nước và phải có lòng căm thù sâu sắc đối với chế độ
thực dân phản động thì mới có những trang viết đầy tính chiến đấu như thế.

5. Lòng nhân ái ở Hồ Chí Minh biến thành hành động suốt đời đấu tranh
cho tự do và hạnh phúc của con người
Trong buổi lễ kỷ niệm lần thứ tám mươi ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí
Minh (5/1976), thủ tướng Phạm Văn Đồng nói:" Hồ Chủ tịch là điển hình mẫu
mực của mối quan hệ giữa lãnh tụ và quần chúng... Hồ Chủ tịch là vị chỉ huy cao

13


nhất và gần nhất đemlại tin tưởng cho chiến sĩ và đồng bào. Đối với mỗi nhà Việt
Nam, Bác là một người trong gia đình, thân thiết như cha với con. Đối với mỗi
người Việt Nam, Bác là lương tâm tuyệt vời trong sáng, luôn luôn thấu hiểu từ
bên trong mọi ý nghĩ và nguyện vọng của mình"
Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh từ nhận thức tư tưởng đến hành
động đều sáng ngời mục tiêu lý tưởng chiến đấu không mệt mỏi cho tự do, hạnh
phúc của nhân loại. Đối với Người, đấu tranh để giải phóng con người là phải làm
cho con người được sống trong độc lập, tự do, hạn phúc để phát triển được hết
khả năng của mỗi người. Hạnh phúc của con người gắn liền với độc lập của Tổ
quốc, tự do của dân tộc và cơm no áo ấm của mỗi con người. Vì thương dân bị nô
lệ dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân Pháp, Người đã đi tìm đường cứu
nước cứu dân. Từ đó cho đến cuối đời, Người đã quên mình đấu tranh cho sự
nghiệp độc lập, tự do và hạnh phúc cho dân tộc, cho nhân loại tiến bộ. Bất cứ ở
đâu, trong hoàn cảnh nào, Người cũng rất quan tâm tới con người, từ đấu tranh
chống áp bức, xóa bỏ tàn dư của chế độ phong kiến đến những việc có liên quan
đến đời sống thiết thực hàng ngày như cái ăn, cái mặc, sự học hành...Người yêu
cầu:" Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm lo đến đời sống
nhân dân. Nếu dân đói, dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi..." và "Dân không đủ
muối, Đảng phải lo. Dân không có gạo ăn đủ no, dân không có vải mặc đủ ấm,
Đảng phải lo. Tôi lo chuyện này lắm: các cháu mắt choẹt da bủng. Tất cả mọi việc
Đảng phải lo...Ngay cả đến tương, cà, mắm, muối của dân, Đảng đều phải lo".
Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết:" Hồ Chí Minh là tượng trưng cho những
giá trị cao đẹp trong quan hệ giữa con người với con người: kính già, yêu trẻ, tôn
trọng phụ nữ, Người quan tâm không sót một ai, hy sinh cho tất cả nhưng lại
không màng chút danh lợi cho bản thân. Suốt đời Người sống khiêm tốn, giản dị,
thanh bạch, tao nhã". Bác luôn quan tâm tới mọi người mà không phân biệt địa vị
sang hèn, cao thấp. Bác lấy tình yêu thương con người, sự cống hiến cho con

người là niềm vui, là thăng hoa tâm hồn, là mục đích cao nhất để làm người, đúng
như Người đã nói:"Thiện nghĩa là tốt đẹp, vẻ vang. Trong xã hội không có gì tốt
đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân".
14


Với lòng yêu thương quý trọng con người, Hồ Chí Minh coi hòa bình trong
độc lập tự do là một nguyện vọng sâu sa còn chiến tranh chỉ là bắt buộc. Con
người là sức mạnh đầu tiên và cũng là mục tiêu cuối cùng của cách mạng. Bởi
vậy phải hết sức bảo vệ con người như bảo vệ sự nghiệp cách mạng. "Chúng ta
cần phải giữ gìn từng giọt máu của đồng bào để xây đắp tương lai của Tổ quốc".
Đó là lời nhắc nhở thường xuyên của Bác đối với quân và dân ta trong cuốc đấu
tranh giành độc lập dân tộc. Đối với Bác,cách mạng bạo lực là phương thức đấu
tranh để giành chính quyền, để nhân dân có thể sống trong hòa bình nhưng chiến
tranh là một việc bất đắc dĩ. Vì vậy, Bác luôn tranh thủ phương thức ít đổ máu
nhất để giành và giữ chính quyền, tránh khiêu khích đối phương "giảm đại sự
xuống trung sự, rồi tiểu sự để vô sự".
Bác đã hết sức thận trọng đối với vấn đề khởi nghĩa. Tháng 9/1944, Bác chỉ
thị hoãn cuộc khởi nghĩa giành chính quyền địa phương do liên ủy Cao - Bắc Lạng quyết định để tránh những khó khăn tổn thất do thời cơ chưa đến. Người
chuẩn bị cho nhiều khả năng phát triển của cách mạng và tranh thủ khả năng hòa
bình để đỡ tốn xương máu của nhân dân ta và cho cả nhân dân chính quốc. Đây
chính là biểu hiện của lòng nhân ái bao la của Người. Cuộc cách mạng tháng Tám
1945 được đánh giá trong lịch sử thế giới là cuộc cách mạng ít đổ máu nhất
nhưng có sức mạnh và uy lực to lớn. Trong kháng chiến chống Pháp Người nói:"
Tôi yêu mến thanh niên Pháp cũng như yêu mến thanh niên Việt Nam. Đối với
tôi, sinh mệnh của một người Pháp hay sinh mệnh của một người Việt Nam đều
đáng quý như nhau". Bởi vì, theo Người:" Trước lòng bác ái thì máu Pháp hay
máu Việt cũng đều là máu, người Pháp hay người Việt cũng đều là người". Trong
kháng chiến chống Mỹ, mặc dù đế quốc Mỹ đã gây ra cho nhân dân ta bao mất
mát đau thương nhưng Hồ Chí Minh vẫn thể hiện một tấm lòng nhân đạo " Tôi vô

cùng căm phẫn trước những tổn thất và tàn phá do quân Mỹ gây ra cho nhân dân
và đất nước tôi, tôi cũng rất xúc động thấy ngày càng có nhiều thanh niên Mỹ chết
vô ích ở Việt Nam" và " những dòng máu đó chúng ta đều quý như nhau".
Xuất phát từ tình yêu con người, yêu đồng loại không kể chủng tộc màu da,
Người đã làm hết sức mình để ngăn cản chiến tranh, để xóa đi mối thù hằn dân
15


tộc, để xây dựng một thế giới hòa bình. Chính vì vậy mà những kẻ gây chiến
tranh xâm lược Việt Nam, những kẻ đối địch bên kia chiến tuyến cũng phải kính
phục. Ông Ôlivơ Thônđơ - phóng viên tuần báo Người quan sát mới (Pháp) nhận
xét:" Đối với một số người, Cụ là một kẻ thù quen biết lâu năm nhưng đáng kính
phục, là địch thủ được kính trọng nhất trong cuộc chiến tranh thuộc địa Pháp".

III. LÒNG NHÂN ÁI CAO CẢ HỒ CHÍ MINH - GIÁ TRỊ TRƯỜNG
TỒN CỦA DÂN TỘC VÀ NHÂN LOẠI
1. Gía trị dân tộc
Mỗi người dân Việt Nam thường gọi Chủ tịch Hồ Chí Minh là Cha Hồ, Bác
Hồ, thậm chí có cả một dân tộc lấy họ Hồ đặt cho dòng họ của dân tộc mình. Điều
đó không chỉ nói lên sự gần gũi, thân thiết giữa Người với dân tộc mà còn biểu thị
một tấm lòng kính trọng, một tấm gương sáng chói để mọi người có thể soi vào
đó tìm thấy hình ảnh cha ông, tìm thấy cội nguồn sức sống, tìm thấy truyền thống
văn hóa và đặc biệt là tìm thấy tình người vĩnh cửu sưởi ấm cho tâm hồn dân tộc ,
cho lý tưởng vươn tới tương lai.
Điều đó chứng tỏ Hồ Chí Minh tỏa sáng đến mỗi người Việt Nam không
chỉ do công lao vĩ đại của Người mà trước hết do sự thân thương của tình người
cao thượng, sự gần gũi của huyết thống cha ông, sự linh cảm, trìu mến của một
tâm hồn bất tử vẫn sống mãi với non sông, đất nước và con người Việt Nam như
ngọn lửa thiêng soi sáng cho mọi con đường đi tới chân trời tự do, công bằng, bác
ái, văn minh

Ngoài tư cách người lãnh đạo, tư cách lãnh tụ, người có công với nước,
Người còn có sự gắn bó với dân chính là ở tình cảm nhân văn, sự thân thương,
tình nghĩa đồng bào. Cái tạo nên tính trường tồn, giá trị vĩnh cửu của tư tưởng Hồ
Chí Minh chính là Nhân cách Hồ Chí Minh. Nó biểu hiện không chỉ ở tinh thần
trách nhiệm với dân với nước mà còn ở sự đồng cảm sâu sắc với mỗi thân phận
con người , mỗi hoàn cảnh con người phải gánh chịu...Người chia sẻ với từng nỗi
đau của người dân trước sự mất mát do chiến tranh. Với đồng bào miền Nam,
Người nói:" Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ là
một ngày tôi ăn không ngon ngủ không yên.." Miền Bắc được giải phóng nhưng
16


nhân dân còn nhiều khó khăn thiếu thốn, Người nói:" Hễ còn một người Việt Nam
bị bóc lột, bị nghèo nàn thì Đảng vẫn còn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm
tròn nhiệm vụ".
Người đã nói như vậy và sống đúng như vậy. Tâm gương nhân ăn, nhân ái
của Người đã chinh phục mọi trái tim, lôi cuốn toàn thể dân tộc Việt Nam không
kể giàu nghèo, tôn giáo, dân tộc... theo gương chiến đấu vì lẽ phải, vì sự công
bằng và công lý, vì mọi người và cho mọi người

2. Giá trị nhân loại
Khi tư tưởng Hồ Chí Minh biến thành tình cảm, tình người, tình nghĩa thủy
chung trong máu thịt mỗi con người Việt Nam thì nó không chỉ là thiêng liêng mà
còn là sức mạnh tiềm ẩn trong mỗi con người, sức mạnh của nền văn hóa, của cả
dân tộc Việt Nam. Cho nên không phải ngẫu nhiên mà ngay cả một vị tướng Pháp
- tướng Valuy, là kẻ thù của nhân dân ta, vẫn còn nhận xét về Người thật chí lý và
sâu sắc khi viết trên một tạp chí ở Pari như sau:
" Người là Bác Hồ của mọi người. Còn chúng ta khi gọi Người là Bác Hồ
thì mọi việc đều trở nên hết sức đơn giản. Người tỏ ra có quyền lãnh đạo đối với
mọi người, quyền lực đó là lòng nhân đạo, chí công vô tư, là tuổi tác, trí thông

minh, trình độ học vấn, nói chung là bằng tất cả vốn văn hóa cách mạng đã tiếp
thu được ở Pháp, ở Nga và có thể ở nhiều nơi khác. Đó là một nhân vật trung tâm
điều hành công việc..., hoàn toàn xả thân vì nhiệm vụ, không một chút lợi ích
riêng tư. Trong ánh mắt những người đối thoại, những người xung quanh, Hồ Chí
Minh là một người vô cùng đạo đức".
Hay một người Mỹ - nhà báo, nhà văn David Halberstam, trong cuốn sách
"Ho" của mình đã viết:
" Hồ Chí Minh làmột trong những nhân vật kỳ lạ của thời đại này - hơi
giống Găngdi, hơi giống Lênin, hoàn toàn Việt Nam. Có lẽ hơn bất kỳ một người
nào khác của thế kỷ này, đối với dân tộc của ông và đối với cả thế giới ông là hiện
thân của một cuộc cách mạng"
Dưới con mắt của nhân loại thế giới, Hồ Chí Minh không chỉ là hiện thân
của sự nghiệp cách mạng Việt Nam mà còn là một biểu tượng cho hòa bình, cho
17


nhân phẩm của nhân lọai, tượng trưng cho tinh thần chiến đấu vì tự do, hạnh phúc
của con người, vì lẽ phải và sự công bằng của mọi xã hội, vì chính nghĩa của nhân
loại tiến bộ.
Vì thế chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, nhân cách Hồ Chí Minh sẽ sống
mãi với chúng ta, với mọi người cần lao, với thế giới đang đấu tranh, với việc bảo
vệ chân lý và nhân phẩm. Nhân cách của Người soi sáng cho nhân loại bằng
những thông điệp có giá trị dẫn đường trong đấu tranh với các loại kẻ thù, với sự
nghèo nàn lạc hậu, trong thế giới còn nhiều bất công, đang phân hóa ngày càng
nhiều, ngày càng sâu sắc như hiện nay. Một thế giới đang gia tăng những tội
phạm, những tệ nạn khủng bố triền miên, những sự phân hóa sắc tộc và tôn giáo
như hiện nay, rất cần những thông điệp sáng suốt của các bậc vĩ nhân, danh nhân,
những trí tuệ tiêu biểu của thời đại.

18



KẾT LUẬN
Ngày nay nhân loại đang dần dần nhường bước cho sự xuất hiện tàn nhẫn
của ham muốn cá nhân, ích kỷ để thống trị chưa từng thấy. Chính sự xuyên tạc
của giá trị nhân đạo đã làm nảy sinh những thiên lệch khác nhau, xa rời con
đường biến đổi cách mạng về xã hội và văn hóa của con người ở xung quanh ta.
Điều cần đến là cuộc nổi dậy về đạo đức, một sự phục hưng mới, chống lại quá
trình bất ổn định và phi nhân tính nặng. Ở giữa cơn khủng hoảng này, nhân loại
đã sản sinh ra những danh nhân lỗi lạc làm nên thời đại như Lênin, Hồ Chí Minh
và Gandi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi vào cõi vĩnh hằng nhưng tư tưởng của Người
nói chung và Nhân cách của Người nói riêng đang là sự phản ánh yêu cầu, nhiệm
vụ lớn lao của thời đại, soi sáng con đường phát triển tương lai của dân tộc và của
nhân loại tiến bộ
" Tên tuổi của Người mãi mãi sẽ là một biểu tượng"

19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh tiểu sử , NXB Lý luận chính trị
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh - di sản văn hóa dân tộc, NXB Quân đội nhân dân
3. Bác Hồ thời học trò thông minh, NXB Thuận Hóa
4. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với việc giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên
hiện nay, NXB Chính trị quốc gia
5. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh - NXB Chính trị quốc gia
Và một số tài liệu khác....

20



MỤC LỤC

21



×