B GIO DC V O TO
TRNG I HC S PHM H NI
-----&-----
Ngô Thị Phợng
NGHIÊN CứU MộT Số TRUYệN THƠ
của dân tộc Thái ở Việt Nam Có CùNG đề tài
với truyện thơ nôm dân tộc Kinh
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62.22.01.21
Luận án tiến sĩ ngữ văn
Ngời hớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Đăng Na
hà nội - 2013
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS.Nguyễn Đăng Na, người
Thầy đáng kính, đã tận tâm hướng dẫn tôi hoàn thành luận án này!
Tôi xin bày tỏ niềm kính phục đối với các Thầy, Cô trong Tổ bộ môn Văn
học Việt Nam, khoa Ngữ văn, phòng Sau đại học – trường Đại học Sư phạm Hà
Nội, các nhà khoa học trong các hội đồng chấm luận án vì đã giúp đỡ tôi trên nhiều
phương diện để tôi có thể hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu của mình!
Tôi xin bày tỏ sự cảm kích sâu sắc đối với PGS. TS Đặng Quang Việt –
nguyên Hiệu trưởng và TS Nguyễn Văn Bao - Hiệu trưởng trường Đại học Tây Bắc
vì sự giúp đỡ lớn lao trong suốt quá trình tôi học tập và nghiên cứu!
Tôi xin cảm ơn tất cả đồng nghiệp, bạn bè và gia đình đã hỗ trợ tôi rất nhiều
trong quá trình tôi thực hiện luận án!
Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 2013
Tác giả luận án
Ngô Thị Phượng
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các dẫn liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và cha
đợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Ngô Thị Phợng
MỤC LỤC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI.......................................................1
LuËn ¸n tiÕn sÜ ng÷ v¨n...................................................................................1
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI.......................................................1
LuËn ¸n tiÕn sÜ ng÷ v¨n...................................................................................1
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Truyện thơ là thể loại khá quan trọng của văn học nước nhà. Thành tựu
truyện thơ kết tinh từ “máu chảy” nơi ‘đầu ngọn bút”, khiến “nước mắt thấm trên tờ
giấy” của toàn dân tộc Việt Nam. Nói tới truyện thơ, chúng ta cần kể đến truyện thơ
Nôm (gọi tắt là truyện Nôm) và truyện thơ dân tộc Thái (gọi tắt là truyện thơ Thái).
1.2. Với địa bàn cư trú rộng, số dân đông thứ ba so với các dân tộc sinh sống
tại miền núi, có chữ viết rất sớm, cộng thêm bề dày văn hóa, tộc người Thái đã đóng
góp cho văn học nước nhà những thành tựu lớn. Như các dân tộc khác, văn học Thái
có quá trình hình thành, vận động vừa độc lập tương đối, vừa là sản phẩm tổng hòa
các yếu tố nội, ngoại sinh. Trong vốn văn hóa, văn nghệ dân tộc Thái, truyện thơ
được coi như một thể loại khá đặc sắc. Truyện thơ Thái không đơn thuần là những
sáng tác truyền miệng mang đậm sắc thái tộc người mà còn được lưu truyền bằng
chữ viết riêng. Với giá trị đó, thể loại này đánh dấu bước chuyển từ văn học dân gian
sang văn học thành văn. Nói tới truyện thơ Thái, hầu như ai cũng chỉ quen thuộc với
thiên tình sử Tiễn dặn người yêu, Khun Lú - Náng Ủa,... hay một số anh hùng ca
Chương Han, Quam tô mương… Tuy nhiên, kho tàng truyện thơ Thái còn có những
tác phẩm hay, ít người biết đến, ít được quan tâm như Ngu háu, Ý Nọi - Náng Xưa, Ú
Thêm, Trạng nguyên, Trạng tư,… Vì vậy, nghiên cứu nó chính là góp phần làm rõ
hơn diện mạo văn học Thái, hướng tới tìm kiếm những thành tựu, những giá trị tiềm
ẩn còn bỏ ngỏ.
1.3. Truyện thơ Nôm là thể loại có vai trò trụ cột trong nền văn học dân tộc
Kinh thời trung đại. Truyện thơ Nôm thuộc loại hình tự sự, chủ yếu diễn đạt bằng
thơ lục bát, dùng văn tự Nôm, phản ánh xã hội thông qua sự trình bày, miêu tả có
tính chất hoàn chỉnh vận mệnh, tính cách nhân vật bằng cốt truyện với hệ thống
biến cố sự kiện.
Điểm chung của thể loại truyện thơ Nôm và truyện thơ dân tộc Thái là cùng có
yếu tố hạt nhân - truyện và hình thức diễn đạt - thơ. Tìm hiểu truyện thơ dân tộc Thái,
có thể thấy, hệ thống cốt truyện gần giống một số cốt truyện thuộc truyện thơ Nôm của
dân tộc Kinh như Thạch Sanh, Cái Tấm - Cái Cám, Từ Thức, Tống Trân - Cúc Hoa,
2
Hoàng Trừu… Vấn đề so sánh điểm tương đồng và khác biệt của một số truyện thơ
Thái với một số truyện thơ Nôm ít người tìm hiểu. Đây là lí do cơ bản để chúng tôi lựa
chọn đề tài: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam có cùng đề
tài với truyện thơ Nôm dân tộc Kinh.
1.4. Truyện thơ đã được đưa vào chương trình Ngữ văn Đại học, Cao đẳng
nghiệp và Phổ thông. Với tư cách là người trực tiếp tham gia giảng dạy tại khu vực
miền núi phía Bắc, việc nghiên cứu đề tài này góp phần cung cấp cho Nghiên cứu
sinh và người học có thêm vốn hiểu biết về văn học địa phương trong mối quan hệ
với văn học viết dân tộc Kinh.
Bản thân người viết có quá trình trưởng thành, sống lâu dài trên mảnh đất Tây
Bắc, cái nôi của thể loại truyện thơ. Những thế kỉ trước, Tây Bắc được ví như thủ phủ
của cư dân Thái, còn hiện nay, số đông đồng bào Thái đang quần cư sinh tụ. Những
yếu tố đó tạo điều kiện thuận lợi để Nghiên cứu sinh đi vào nghiên cứu so sánh một
số truyện thơ đã đề cập.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử văn bản
Truyện Nôm - một hiện tượng đặc biệt trong lịch sử văn học Việt Nam. Thể
loại này phát triển khoảng 4 thế kỉ và đạt thành tựu khá rực rỡ ở giai đoạn thế kỉ
XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX. Truyện Nôm là “một di sản vô cùng phong phú và quý
báu trong kho tàng văn hóa dân tộc”, “một loại văn của quần chúng và được quần
chúng nhiệt liệt hoan nghênh” [40, tr.129-130]. Mặc dù thể loại “tầm cỡ”, nhưng đến
nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa thống nhất ý kiến nên xếp nó vào văn học dân gian
hay văn học viết, nhất là mảng “truyện Nôm bình dân” (Từ dùng của Nguyễn Lộc).
Có nội hàm giống như truyện thơ Nôm, truyện thơ các dân tộc ít người
đang đứng giữa ranh giới phân loại khá phức tạp. Có nhà nghiên cứu cho rằng nó
giống như một “dấu nối giữa văn học truyền miệng và văn học thành văn” và có
nhà nghiên cứu lại cho rằng thể loại này thuộc văn học dân gian. Những suy nghĩ
mang tính lưỡng phân như vậy khiến nhiều người yêu thích mảng truyện thơ phải
dè dặt. Sự thận trọng, lảng tránh (do tính an toàn cố hữu) dẫn tới hiện trạng các
công trình nghiên cứu về truyện thơ dân tộc ít người ngày càng hiếm hoi, khiêm
tốn. Không cần viện dẫn đâu xa, truyện thơ dân tộc Thái viết bằng chữ Thái cổ
3
hiện còn một số lượng khá lớn nhưng chưa được khai thác, dịch thuật, tìm hiểu.
Trong tương lai, giá trị của những loại sách này chưa chắc đã được khai thác và sử
dụng, bởi cần có nguồn kinh phí lớn, cần những khối óc có kiến thức lí luận vững
chắc và do có những mã khóa riêng nên người nghiên cứu phải là người bản địa.
Những yêu cầu đó rất xa vời trong điều kiện thực tế, không thể giải quyết “một
sớm một chiều”. Năm 2002, GS. Đặng Nghiêm Vạn và các cộng sự sau khi chủ
biên bộ sách Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam đã phải chú thích
rằng, muốn có những cuốn sách xuất bản bằng song ngữ “là điều không dễ dàng,
vì cần có vốn đầu tư lớn, một tổ chức điều hành rất khoa học và cơ bản nhất, là có
những người nhiệt tình và hiểu biết” [158, tr.12].
Trước thực tế đó, tiến hành tìm hiểu truyện thơ Thái, chúng tôi đứng trước
rất nhiều khó khăn, nhất là điều kiện tư liệu khan hiếm, các công trình nghiên cứu
về mảng văn học này gần như vắng bóng, không nguồn kinh phí tài trợ của các tổ
chức xã hội. Tuy vậy, với những cố gắng nhất định của cá nhân, để có tư liệu
nghiên cứu, Nghiên cứu sinh cùng một số cộng sự tiến hành dịch ba văn bản truyện
thơ Thái hiện đang còn ở dạng văn bản cổ bao gồm truyện Trạng nguyên, Trạng
Tư, Ngu háu với kì vọng đóng góp một vài nhận thức về phạm vi văn học nói trên.
Chúng tôi biết vấn đề thực sự nan giải và cần có sự tham góp ý kiến của nhiều học
giả chuyên tâm.
Về văn bản, tiến hành viết luận án, chúng tôi dùng những tư liệu sau:
1. Ngu háu (trích Trường ca dân tộc Thái), do Lương Hải Nhì - Ngô Thị
Phượng dịch, biên soạn, năm 2009 và Thạch Sanh (1971), Nxb Văn học, Hà Nội.
2. Trạng nguyên (trích Trường ca dân tộc Thái), do Lương Hải Nhì - Ngô Thị
Phượng – Cầm Thị Pánh dịch, biên soạn, năm 2010 và Tống Trân - Cúc Hoa (1960),
Nxb Phổ thông, Hà Nội.
3. Trạng Tư (trích Trường ca dân tộc Thái), do Lương Hải Nhì - Ngô Thị
Phượng dịch, biên soạn, năm 2009 và Hoàng Trừu (1964), Nxb Văn học, Hà Nội.
4. Ú Thêm, do Hà Văn Ban, Hoàng Anh Nhân (sưu tầm, biên soạn) năm 1990,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội và Truyện Từ Thức (trong cuốn Kho tàng truyện Nôm
khuyết danh Việt Nam (2000), tập 1, Bùi Văn Vượng chủ biên - Hoàng Phong - Lê
Thị Bình - Chu Giang sưu tầm, tuyển chọn, Nxb Văn học, Hà Nội).
4
5. Ý Nọi - Náng Xưa, do Lò Ngọc Duyên dịch, biên soạn năm 1999 và Cái
Tấm - Cái Cám (trong cuốn Kho tàng truyện Nôm khuyết danh Việt Nam (2000), tập
1, Bùi Văn Vượng chủ biên - Hoàng Phong - Lê Thị Bình - Chu Giang sưu tầm,
tuyển chọn, Nxb Văn học, Hà Nội).
Để tìm hiểu về truyện thơ Thái có cùng đề tài với truyện thơ Nôm dân tộc
Kinh, trước hết, chúng tôi lần lượt tìm hiểu lịch sử nghiên cứu với 2 vấn đề chính:
Một là, truyện thơ các dân tộc ít người và truyện thơ dân tộc Thái.
Hai là, mối tương tác giữa truyện thơ Nôm với truyện thơ dân tộc ít người
trong đó có truyện thơ dân tộc Thái.
2.2. Truyện thơ các dân tộc ít người và truyện thơ dân tộc Thái
Chỉ ra tổng quan nghiên cứu về truyện thơ dân tộc Thái, chúng tôi trình bày
những ý kiến về truyện thơ các dân tộc ít người nói chung liên quan đến luận án.
2.2.1. Truyện thơ
Truyện thơ “thực chất là một truyện vừa viết bằng thơ […] và cơ sở của nó là
cốt truyện được trình bày trong sự thống nhất với việc thể hiện tài liệu của truyện thơ
theo phương thức trữ tình” [135, tr.172].
Truyện thơ được gọi “tập đại thành” của các dân tộc thiểu số Việt Nam, “thể
loại đạt đến trình độ cao nhất trong sự phát triển của các thể loại văn học dân gian”
[98, tr.19]. Nó ra đời khi nhu cầu giải phóng con người, phô diễn mọi biểu hiện
phong phú của đời sống nội tâm trong xã hội đầy biến động trở nên bức thiết. Thêm
vào đó, sự giao lưu văn hóa rộng rãi với người Kinh miền xuôi, với các nước láng
giềng, văn học dân tộc ít người đòi hỏi một thể loại dài hơi hơn, có khả năng hơn
trong việc thực hiện những khúc quanh, những biến thái phức tạp của thế giới tâm
hồn con người (khi mà truyện cổ, dân ca không thể đáp ứng yêu cầu đó). Nhưng điều
kiện thực hiện nhu cầu đó lại chưa chín muồi. “Những nhu cầu đó đành chịu dồn nén
lại để hun đúc nên một thể loại mới vừa là truyện lại vừa là thơ - đó là thể loại truyện
thơ” [98, tr.342].
Truyện thơ Nôm và truyện thơ dân tộc ít người đều là thể loại đặc biệt của nền
văn học dân tộc Việt Nam, mang những đặc trưng riêng khiến thơ ca Việt Nam khác
hẳn với thơ ca các nước khu vực. Nhà nghiên cứu N.I.Niculin nhận định: “Những thể
loại khác nhau của truyện thơ, như đã được mọi người thừa nhận, là một tài sản vô
5
cùng quý báu của nền văn học dân tộc Việt Nam. Truyện thơ bắt nguồn từ văn học
dân gian, với tư cách là những thể loại, chúng tạo thành bộ phận đặc biệt tiêu biểu
cho thơ ca Việt Nam. Truyện thơ đã làm cho thơ ca Việt Nam khác biệt hẳn so với
truyền thống ở Viễn đông mà nó gắn bó mật thiết” [Dẫn theo 39, tr.263-264].
Vì thể loại truyện thơ đánh dấu trình độ cao nhất trong sự phát triển của các
thể loại văn học ít người nên thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Tổng
quan về vấn đề này, chúng tôi có thể điểm lược những kết luận quan trọng của các
nhà nghiên cứu tiêu biểu như Đinh Gia Khánh, Võ Quang Nhơn, Đặng Nghiêm Vạn,
Phan Đăng Nhật, Lê Trường Phát, Nguyễn Xuân Kính, Cầm Cường, Nông Quốc
Chấn, Vũ Anh Tuấn…
Trong cuốn Văn học dân gian (đã in lần đầu từ năm 1972 đến 1977), Đinh Gia
Khánh định nghĩa: Truyện thơ - “truyện dài bằng thơ” [51, tr.780]. Định nghĩa này
nhấn mạnh “tính tự sự và ngôn ngữ giàu hình ảnh và có nhịp điệu của thơ”.
Nhà nghiên cứu Võ Quang Nhơn, một chuyên gia uy tín trong lĩnh vực nghiên
cứu văn học các dân tộc thiểu số ở Việt Nam cho biết, “trong nền văn học các dân tộc ít
người nổi lên một hiện tượng khá phổ biến: đó là sự ra đời và lưu truyền khá rộng rãi
trong dân gian hàng loạt những truyện dài bằng thơ” [96, tr.391], đồng thời chỉ rõ,
truyện thơ ở các dân tộc ít người không xuất hiện riêng lẻ mà trở thành “một hiện
tượng”, “sự kiện đặc biệt” nổi bật. Về nhận định này, ông nhấn mạnh vị trí truyện thơ
so với các thể loại khác của văn học dân tộc ít người.
Dưới góc nhìn so sánh, nhà nghiên cứu Phan Đăng Nhật tổng kết “nếu như người
Kinh có truyện thơ Nôm thì các dân tộc thiểu số có một loại hình tương đương: Truyện
thơ. Đó là những tác phẩm tự sự dưới hình thức thơ ca. Ở các dân tộc thiểu số không
cần phải phân biệt với tính bác học và hình thái ghi chép bằng chữ Hán” [95, tr.150].
Trong chuyên luận của mình, nhà thơ Nông Quốc Chấn giới thiệu chung về
truyện thơ Tày Nùng đã xếp truyện thơ thuộc về “nền văn học cổ điển của Tày
Nùng” [9, tr.8]. Sau này, Cầm Cường tìm hiểu chung về văn học dân tộc Thái nhấn
mạnh “truyện thơ […] thực chất là tiểu thuyết bằng thơ” [14, tr.116] và ông cũng
cho rằng truyện thơ thuộc văn học thành văn. Như vậy, rất có thể truyện thơ thuộc
loại hình văn học viết.
6
Không có mục đích đi tìm nội hàm thuật ngữ hay vị trí truyện thơ, năm 1997,
trong công trình Đặc điểm thi pháp truyện thơ, chuyên luận khoa học tập trung vào
cách thức tổ chức trong truyện thơ, nhà nghiên cứu văn học dân gian Lê Trường Phát
khẳng định: “Truyện thơ là một thể loại đặc biệt - đặc biệt ở chỗ nó vừa mang tính
chất của truyện, vừa mang tính chất của thơ ca. Nó là truyện được kể dưới hình thức
thơ ca” [98, tr.55]. Ông nhấn mạnh đặc trưng thi pháp cốt lõi của truyện thơ là
“truyện được kể dưới hình thức thi ca”, tức là nó thuộc loại hình tự sự bằng thơ.
Không dừng ở đó, trong bài viết Về mô hình cốt truyện của truyện thơ các dân
tộc thiểu số, Lê Trường Phát tiếp tục dành sự quan tâm tới kết cấu cốt truyện và có
những phát hiện về kiểu kết thúc của truyện thơ: “Nghiên cứu truyện thơ, mọi người
hầu như nhất trí rằng phần lớn cốt truyện của thể loại này được xây dựng theo mô
hình “kết thúc có hậu” gồm 3 chặng gặp gỡ - tai biến - đoàn tụ. Nói phần lớn bởi lẽ
mô hình cốt truyện này chỉ áp dụng với những tác phẩm có đề tài chủ đạo là tình yêu
đôi lứa. Tuy nhiên đây là đề tài chủ yếu cơ bản của thể loại […]. Xem xét những
truyện thơ có cùng đề tài chủ đạo […] ngoài “kết thúc có hậu” như trên, truyện thơ
còn xây dựng kiểu kết thúc khác, một kiểu cốt truyện được cấu trúc theo mô hình
khác” [99, tr.54]. Kết luận trên đã gợi ý cho người viết khi xem xét sự khác và giống
nhau về kết cấu cốt truyện ở truyện thơ Thái và truyện thơ Nôm. Theo nhận định này
thì cốt truyện của truyện thơ dân tộc ít người không chỉ có kết cấu ba phần như
truyện Nôm Kinh mà nó còn xuất hiện những cấu trúc khác. Những cấu trúc đó cần
được cụ thể hóa trong những tác phẩm mà đề tài quan tâm. Kết cấu ba phần nói trên
của truyện Nôm – thể loại thuộc văn học viết Việt Nam, truyện thơ dân tộc ít người
cũng có chung kiểu kết cấu, vậy, có thể đây cũng là thể loại thuộc văn học viết.
Nếu như Lê Trường Phát tập trung tiến hành tìm hiểu vị trí và thi pháp của
truyện thơ thì Vũ Tiến Quỳnh đi truy tìm nguồn gốc văn hóa xã hội, phong cách thể
loại truyện thơ và khẳng định “Truyện thơ - một dấu nối giữa văn học truyền miệng
và văn học thành văn”. Theo ông, truyện thơ có nguồn gốc từ chính bản tộc. Bên
cạnh đó, truyện thơ còn có nguồn gốc từ truyện Nôm, sự ra đời của các truyện thơ ở
các dân tộc ít người “có tính quy luật phổ biến, theo những nhu cầu khách quan và
theo những điều kiện xã hội lúc đó” [109, tr.48] như sự phân chia giai cấp trong xã
hội, sự xuất hiện tầng lớp nho sỹ, trí thức cấp thấp ở một số vùng dân tộc ít người.
7
Đồng quan điểm với Vũ Tiến Quỳnh, khi giới thiệu tác phẩm Ú Thêm, học giả
Đặng Nghiêm Vạn nhấn mạnh, truyện thơ “là loại hình mang tính chuyển tiếp, không
dừng lại ở phạm trù dân gian, tuy còn đượm nhiều hương sắc, mà đá qua phạm trù
bác học” [5, tr.7].
Ở luận án này, chúng tôi đặc biệt lưu ý đến hai ý kiến trên, bởi hàm lượng
thông tin trong ý kiến đã định hướng, đi đến lí giải nội dung và nghệ thuật truyện thơ
Thái đồng thời là cơ sở khoa học xem xét mối tương tác giữa truyện thơ Nôm dân tộc
Kinh và dân tộc Thái.
Quả thật, trong điều kiện bản địa, truyện thơ dân tộc ít người kế thừa cốt
truyện dân gian bản tộc và kế thừa cốt truyện của truyện thơ Nôm không phải là hiện
tượng cá biệt mà là quy luật phổ biến, thể hiện sự thông minh của trí thức tộc người.
Ngay ở truyện thơ Nôm dân tộc Kinh cũng xảy ra hiện tượng này. Đoạn trường tân
thanh của Nguyễn Du cũng mượn cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm
Tài Nhân song vẫn được coi là một sáng tác thực thụ của văn học Việt Nam.
Như vậy, mỗi nhà nghiên cứu chú ý tới từng phương diện của truyện thơ. Gần
đây, trong công trình Truyện thơ Tày, nguồn gốc quá trình phát triển và thi pháp thể
loại, Vũ Anh Tuấn đã chú ý nhiều tới cấu trúc truyện thơ: “Cấu trúc truyện thơ nói
chung được xem như là sự kết hợp truyện và thơ, thơ ở trong truyện và truyện ở trong
thơ. [...]. Đó là sự kết hợp có tính quy mô hài hòa và tương tác lẫn nhau đến từng yếu
tố. Cốt truyện của truyện thơ nhìn chung mô phỏng theo cách cấu tạo của cốt truyện
cổ tích, như là một sự kế thừa loại hình trên con đường đi tìm một phương thức tự sự
bằng văn vần của văn học dân gian, trước những đòi hỏi của cuộc sống thực tại phải
đáp ứng, và còn vì nhu cầu tự đổi mới để phát triển của nghệ thuật ngữ văn dân gian”
[148, tr.131]. Ý kiến trên của Vũ Anh Tuấn hoàn toàn khẳng định đây là thể loại
thuộc văn học dân gian, có sự kết hợp truyện và thơ. Nội dung quan điểm của ông
không tán thành với ý kiến của Vũ Tiến Quỳnh và Đặng Nghiêm Vạn.
Không dừng lại ở vấn đề vị trí, nguồn gốc, cấu trúc hay thi pháp, một số nhà
nghiên cứu còn chú ý bình giá về nội dung cũng như nghệ thuật của truyện thơ, tiêu
biểu có các ý kiến của Hà Văn Thư, Hoàng Tiến Tựu, Phan Đăng Nhật…
Năm 1962, trong điều kiện nước nhà kháng chiến chống Mỹ, tư liệu thiếu
thốn, các nhà nghiên cứu ở Viện Văn học trong đó có Hà Văn Thư vẫn dành nhiều
8
tâm sức cho văn học dân tộc ít người: “Các truyện thơ dài từ năm bảy trăm cho tới
trên dưới hai nghìn câu cũng có khá nhiều và phần lớn đều ca ngợi những mối tình
chung thủy […]. Yêu nhau phải mong đến cái chết mới được gần nhau, cái kết cục bi
thảm của đôi nhân vật trong truyện đã làm rơi không biết bao nhiêu nước mắt. Và,
những truyện thơ trữ tình này đã tố cáo một xã hội ngột ngạt đầy rẫy những phong
tục tập quán lạc hậu” [134, tr.11]. Nhận định trên có tính chất định hướng cho công
trình nghiên cứu truyện thơ về phương diện đề tài.
Cùng nhiều học giả khác, trong chuyên luận về văn học các dân tộc thiểu số
Việt Nam, nhà nghiên cứu Phan Đăng Nhật cũng ủng hộ ý kiến trên. Ông khẳng định:
“Về mặt nội dung, vấn đề trung tâm của các truyện tình yêu là cuộc sống đau khổ của
những trai gái bị thất bại trong tình yêu do xã hội cũ gây nên. Đại diện cho xã hội
bất công thường là bố mẹ, là những người trực tiếp chịu trách nhiệm gả bán […] Vua
quan phìa tạo đã thực sự là kẻ đối lập, cướp cô gái đẹp và gây nên bi kịch tình yêu bất
hạnh. Sự cưỡng bức, cướp đoạt phá phách của xã hội chứ không phải là sự phản bội
của một trong những người là nguyên nhân gây nên đau khổ”. Ông nhấn mạnh thêm
vai trò của nhân vật nữ với kết cục của những mối tình ấy: “đôi trai gái trong truyện
thơ tình yêu của các dân tộc thiểu số một mực kiên tâm chờ đợi, theo đuổi, bảo vệ và
còn đấu tranh để giành lại hạnh phúc đã bị cướp mất. Trong đó vai trò của người phụ
nữ rất quan trọng…” [95, tr.175].
Truyện thơ không tồn tại riêng lẻ, trong quá trình phát triển của mình, nó tiếp
thu kế thừa các thể loại khác theo kiểu liên kết dọc. Nhà nghiên cứu Hoàng Tiến Tựu
nhận xét: “Về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật, truyện thơ về đề tài tình yêu
các dân tộc ít người đã kế thừa và phát triển truyền thống của thơ ca trữ tình, đặc biệt
là dân ca tình yêu của các dân tộc” [150, tr.296]. Ông kết luận: “Có nhiều nét đặc sắc
và đáng chú ý nhất là những truyện thơ về đề tài tình yêu và hôn nhân, tuy cốt truyện
đơn giản nhưng rất giàu chất trữ tình, giàu chất thơ, đặc biệt là sự phô diễn, thể hiện
thế giới nội tâm nhân vật” [150, tr.296].
Như vậy, ba ý kiến trên đều thống nhất ở một điểm rằng, truyện thơ có ba đề
tài chủ yếu: Tình yêu lứa đôi thủy chung, mâu thuẫn gia đình, tố cáo xã hội ngột
ngạt, lạc hậu. Riêng Hoàng Tiến Tựu có thêm những gợi ý cho phương diện nghệ
9
thuật thể hiện cốt truyện của truyện thơ: thông qua thế giới nội tâm. Đây là những gợi
ý cơ bản về phương diện ngôn ngữ nhân vật.
Từ những nhận định về truyện thơ các dân tộc nói chung, chúng tôi tiến hành
tìm hiểu những đánh giá xung quanh truyện thơ dân tộc Thái.
2.2.2. Truyện thơ dân tộc Thái
Truyện thơ dân tộc Thái là thể loại tồn tại dưới hai hình thức truyền miệng
và viết; diễn đạt bằng văn vần, có cốt truyện, của dân tộc Thái ở Việt Nam… so
với truyện cổ và dân ca, truyện thơ Thái có quy mô hơn hẳn về dung lượng tác
phẩm, về tầm khái quát các vấn đề xã hội được phản ánh, về nghệ thuật xây dựng
hình tượng văn học.
Qua nhiều chuyến đi thực tế tới các thư viện địa phương nơi có đồng bào Thái
cư trú bao gồm Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Thanh Hóa,… nghiên cứu
sinh cho rằng, lực lượng học giả làm công tác nghiên cứu chuyên biệt về văn học
Thái bao gồm hoạt động sưu tầm, biên soạn, đánh giá, hệ thống hóa còn rất mỏng,
thành tựu cũng khá khiêm tốn. Quan tâm sớm nhất, tính theo thời gian lịch sử, năm
1957, truyện thơ dân gian Xống chụ xôn xao do Điêu Chính Ngâu thực hiện được
xuất bản ở Hà Nội. Năm 1960, Mạc Phi, Hà Hem, Lò Văn Cậy khảo đính Xống chụ
xôn xao có tìm thấy một bản dài hơn. Đến năm 1964, nhân dân địa phương đã tìm
thấy nhiều bản sách cổ. Nhưng tất cả các bản sách này “đều không có ghi một chỉ dẫn
nào về chủ sách, người chép sách, sách sao theo bản nào, được tiến hành tại đâu,
ngày tháng nào?” [101, tr.7].
Sách văn học chuyên biệt đầu tiên có tính chất nghiên cứu về truyện thơ dân
tộc Thái mang tên Tìm hiểu văn học dân tộc Thái Việt Nam của Cầm Cường. Công
trình được tiến hành từ năm 1993. Ông đã biên soạn và trích đăng một số truyện thơ
Thái tiêu biểu viết về chủ đề lịch sử xã hội và tình yêu như Chương Han, Xống chụ
xon xao, Khun Lú - Náng Ủa… trên tinh thần tự hào dân tộc và trân trọng di sản
truyền thống của cha ông để lại. Đây là công trình lấy việc sưu tầm, biên soạn, giới
thiệu làm trọng tâm. Trong cuốn sách, ngoài lời giới thiệu ngắn gọn, khái quát thì
không thấy tác giả so sánh truyện thơ Thái với truyện thơ Nôm dân tộc Kinh. Ông
quan niệm “truyện thơ, thơ ca nói chung - sự nở rộ của văn học thành văn của dân tộc
10
Thái” [16, tr.115], không dùng dẫn chứng làm rõ quá trình ảnh hưởng qua lại giữa
các phạm vi văn học nhưng ông cũng khẳng định rằng trong bước đường hình thành,
vận động, văn học Thái có thời kì “định hình và phát triển riêng mình”, có “học tập
rộng rãi các nền văn học xung quanh” nhất là lúc thể truyện thơ hình thành [16,
tr.134]. Việc học tập những gì, ở nền văn học nào, tác giả không nói rõ.
Trong Chương 2, Những thành tựu chính của văn học Thái Việt Nam, ở mục
II, Cầm Cường xếp truyện thơ Thái vào “văn học thành văn” [16, tr.98]. Ông chỉ ra
rằng, “trước Quam Tô Mương (Truyện kể bản mường), người Thái đã có chữ viết.
Chữ viết dân tộc là công cụ ghi chép những sáng tác văn học lớn - đã thúc đẩy dòng
văn học viết phát triển. Kết quả, chữ viết lại là phương tiện bảo tồn vững chắc các sản
phẩm của trí tuệ uyên bác đó…” [16, tr.98].
Muốn tăng tính thuyết phục cho nhận định nói trên, Cầm Cường tiếp tục
khẳng định: “Điểm chung của dòng văn học viết là được soạn thành sách, khác với
thành ngữ, tục ngữ, truyện cổ tích… chủ yếu được truyền miệng. Đành rằng viết
thành sách chưa phải là điều kiện đủ, nhưng đã là điều kiện cần để xét một tác phẩm
nào đó đã thành văn hay chưa” [16, tr.99].
Ba ý kiến của Vũ Tiến Quỳnh, Đặng Nghiêm Vạn (ở phần truyện thơ) và Cầm
Cường gặp nhau ở một điểm, quan trọng là, truyện thơ - sáng tác mang dấu ấn văn học
viết. Ý kiến này trái chiều với nhận thức trước đây: truyện thơ thuộc văn học dân gian.
Tất nhiên, để trả lời xác thực được câu hỏi trên, chúng ta phải cần tới tâm và lực của
nhiều thế hệ tiếp nối, bởi cơ sở khoa học, kĩ thuật công nghệ hiện nay chưa đủ mạnh để
khẳng định chắc chắn vấn đề.
Truyện thơ dân tộc Thái là một thể loại có số lượng sáng tác phong phú. Chính
vì sự phong phú ấy nên nhiều sáng tác của thể loại chưa được người đời biết đến.
Năm 1995, tác giả người Thái là Cầm Trọng cùng Phan Hữu Dật đã tiến hành nghiên
cứu tổng luận về Văn hóa Thái Việt Nam. Trong chương VI, Văn hóa, hệ thống tư
tưởng và trí thức, hai ông đã đề cập tới truyện thơ, cho rằng: “các văn bản Thái cổ tập
trung nhiều nhất vào thể loại truyện thơ, đến nay đã có khá nhiều người thu thập mà
vẫn chưa thể nào sưu tầm hết được những tác phẩm này” [139, tr.399]. Kết luận trên
đủ cho người đọc thấy truyện thơ của dân tộc Thái còn là một ẩn số.
11
Năm 1997, Lê Trường Phát trong bài nghiên cứu Về mô hình cốt truyện của
truyện thơ các dân tộc thiểu số đăng trên Tạp chí Văn học, số 7, trang 52 đã lập bảng
thống kê loại những tác phẩm có kết thúc bi kịch như sau:
Tổng số truyện thơ thể hiện đề tài
Tỷ lệ giữa hai kiểu kết thúc:
tình yêu đến 1997 đã sưu tầm được
+ Thái
4 tác phẩm
bi kịch/có hậu
3/1
+ Tày - Nùng
7 tác phẩm
2/5
+ Mường
4 tác phẩm
4/0
+ H mông
3 tác phẩm
2/1
+ Chăm
Cộng
2 tác phẩm
20 tác phẩm
2/0
13/7
Sau đó, ông khẳng định: ở truyện thơ các dân tộc thiểu số, “kiểu kết thúc bi
kịch mới là phổ biến và tiêu biểu” và mô hình hóa cốt truyện với kết thúc bi kịch:
GẶP GỠ VÀ
BỊ NGĂN TRỞ
MỘT HOẶC
YÊU NHAU
RẼ DUYÊN
CẢ HAI ĐỀU CHẾT
Lê Trường Phát giải thích số liệu “Riêng ở nhóm truyện thơ Tày - Nùng, tình
hình ngược lại: Kiểu kết thúc có hậu chiếm tỷ lệ lấn át”. Sở dĩ có hiện tượng này,
“chính là do vai trò tham gia sáng tạo tác phẩm của các nho sĩ, thầy đồ người Việt
miền xuôi lên; họ mang theo ảnh hưởng truyện Nôm Việt vào truyện thơ Tày - Nùng.
“Kết thúc có hậu” là một cách để dân gian tấn công (tất nhiên trong mơ ước) vào lễ
giáo phong kiến (mà thực chất là tín điều Nho giáo) trong lĩnh vực tình yêu hôn
nhân” [99, tr.55]. Còn ở các dân tộc khác như Thái, phần nào nữa Mường, vai trò
tham gia sáng tác truyện thơ chủ yếu thuộc về dân gian và trí thức của chính các dân
tộc đó (những người này chủ yếu tuân thủ truyền thống văn hóa nghệ thuật của dân
tộc họ), vai trò của nho sĩ miền xuôi lên, của các ông đồ Việt và của Nho giáo rất mờ
nhạt, thậm chí ở những dân tộc này “không có gì” [99, tr.54-55]. Đây là kết luận mà
sau này một số công trình đã đồng tình như các công trình của Kiều Thu Hoạch, Vũ
Anh Tuấn…
Năm 1997, trong điều kiện tác phẩm dịch sang tiếng Việt không nhiều, nhà
nghiên cứu Lê Trường Phát chưa có điều kiện bao quát toàn bộ các sáng tác thuộc thể
12
truyện thơ của dân tộc Thái. Vì vậy, ông đưa ra ý kiến cho rằng, truyện thơ Thái đa
phần chỉ kết thúc bi kịch và kết quả đó phản ánh người sáng tác ra nó là người bản
địa. Vào thời điểm đó, kết luận trên phù hợp với thực tế tư liệu, đồng thời gợi mở cho
nhiều công trình khác có những tìm tòi phát hiện thú vị. Ngày nay, văn bản truyện thơ
được các nhà nghiên cứu Thái học giới thiệu nhiều hơn. Kết quả cho thấy, nhiều tác
phẩm mang kết thúc có hậu, tên truyện rất giống truyện Nôm của người Kinh như
Quám Mai công (Nhị độ mai), Tống Trân - Cúc Hoa, Trạng Tư (Hoàng Trừu), Lục
Vân Tiên, Quám Thư Kiêu (Truyện Thúy Kiều)…
Cũng năm 1997, trong luận án Đặc điểm thi pháp truyện thơ của các dân tộc
thiểu số, ở Chương 2, ông lại khẳng định: “có nhiều tác phẩm văn học Thái vay
mượn cốt truyện của các dân tộc anh em”. Qua những dịch phẩm, chúng tôi cũng
nhận thấy rõ dấu ấn Nho giáo. Có thể các thầy đồ hay trí thức người Kinh không hẳn
hoàn toàn vắng bóng trong văn chương tộc người Thái.
Trên cơ sở tóm tắt những truyện thơ Thái, các công trình nghiên cứu chú ý tới
nội dung và nghệ thuật một số truyện thơ liên quan đến đề tài luận án gồm Trạng
nguyên, Ý Nọi - Náng Xưa, Ú Thêm, Trạng Tư, Ngu háu (Lưu Vĩnh)…
Trong Tìm hiểu truyện thơ Thái, ông Cầm Cường đã liệt kê một số thành tựu
truyện thơ Thái có nguồn gốc bản tộc và kết luận: Truyện thơ Thái, ngoài những tác
phẩm tiêu biểu đã xuất bản “còn nhiều tác phẩm lớn khác như Tõng Đón - Ăm Ca,
Pha Mệt - Pha Cãng, Thi Thỗn, Kén Kẻo, U Thễn, Thôi Thao, Phôm Hom, Hiễn
Hôm, Tạo Luông Mưỡng, Cống Cẵm, Ý Nọng - Náng Xưa… Các truyện thơ là sự
khẳng định vững chắc của văn học thành văn cũng như nền văn học Thái nói chung”
[16, tr.126]. Sau đó, ông tiếp tục giới thiệu một số truyện thơ có nguồn gốc ngoại bản
tộc: “Trong khung cảnh Việt Nam, tác giả Thái đã bắt đầu chú ý đến văn học Việt
Nam và Trung Quốc qua Việt văn. Chúng ta thấy khoảng từ cuối thế kỉ XIX đến đầu
thế kỉ XX, văn học Thái đã có thêm các truyện thơ […] Chãng Nghiên (Tống Trân Cúc Hoa), Phạm Công (Phạm Tải - Ngọc Hoa), Thư Cẫu (Thúy Kiều), Chãng Tư,
Lưu Vĩnh (Hán Cao Tổ), Lư Xiễn (Điêu Thuyền), Xan Lưỡng - Inh Lái (Lương Sơn
Bá - Trúc Anh Đài), Chiêu Quân cống Hồ, Càn Long du Giang Nam, Lĩnh Y (Tây du
kí)… Đó là bước tiến lớn của văn học Thái sau khi định hình và đạt tới đỉnh cao riêng
mình (mà) Chãng Nghiên là thành công lớn về mọi mặt”.
13
Từ gợi ý của Cầm Cường, chúng tôi chia đối tượng nghiên cứu thành 2 loại:
truyện thơ có nguồn gốc bản tộc là Ý Nọi - Náng Xưa, Ú Thêm. Truyện thơ có nguồn
gốc ngoại bản tộc là Trạng nguyên, Trạng Tư, Ngu háu. Đây là cơ sở giúp chúng tôi
tiến hành nghiên cứu, so sánh với truyện thơ Nôm dân tộc Kinh.
2.3. Mối tương tác giữa truyện thơ dân tộc Thái với
truyện thơ Nôm dân tộc Kinh
Trong khoảng vài chục năm lại đây, việc nghiên cứu so sánh truyện Nôm dân
tộc Kinh với truyện thơ các dân tộc ít người được giới nghiên cứu quan tâm, xem xét.
Muốn đánh giá đúng bản chất của truyện thơ Nôm thì “không thể không kết hợp nó
trong mối quan hệ loại hình với truyện thơ của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam” [39,
tr.267]. Ngược lại, thẩm định chuẩn xác giá trị truyện thơ dân tộc ít người thì phải
xem xét nó trong tương quan với truyện thơ Nôm. Giữa truyện thơ dân tộc ít người
với truyện thơ Nôm dân tộc Kinh có những điểm khá giống nhau ở nội hàm tác phẩm.
Trở lại với chuyên luận Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, các nhà nghiên cứu
tiếp tục khẳng định mối quan hệ giữa truyện thơ Nôm và truyện thơ Thái “có những nét
tương đồng về các mặt: tư tưởng chủ đạo, xây dựng nhân vật, kết cấu tác phẩm và các
thủ pháp nghệ thuật thường dùng. Truyện Nôm miền xuôi cũng như truyện thơ miền
núi đều là bước nối giữa văn học dân gian và văn học thành văn, đều mang tính chất
của cả hai hình thức văn học nói trên […]. Hiện nay chúng ta đã có những dấu hiệu cụ
thể để nói rằng có sự ảnh hưởng trực tiếp giữa Quám Mai Công, Tống Trân - Cúc Hoa,
Hoàng Trìu, Lục Vân Tiên, Quám Thư Kiêu của dân tộc Thái với Nhị độ mai, Tống
Trân - Cúc Hoa, Hoàng Trừu, Lục Vân Tiên, Truyện Kiều của dân tộc Kinh.” [95,
tr.86-87]. Tất cả các phương diện được đề cập trên như nhân vật, kết cấu tác phẩm…
đều thuộc vấn đề của cốt truyện.
Nhìn từ phương diện nghệ thuật, nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch đồng tình
với ý kiến trên, nên bổ sung: “Quan hệ ấy biểu thị ở sự tương đồng ở câu mở đầu,
câu kết thúc, ở ngôn ngữ thơ pha tạp không thuần nhất, không đồng đều, khi thì Hán
khi thì Nôm, khi thì bình dân khi thì trang trọng và đáng chú ý là truyện Nôm của
người Việt dần dần đã xâm nhập vào cả thể loại truyện thơ Tày, Nùng, Thái... để tạo
nên những truyện thơ mang dáng dấp của truyện Nôm hay nói đúng hơn là chịu ảnh
hưởng của truyện Nôm cả về cấu trúc tư tưởng và nghệ thuật” [40, tr.240]. Ông nhấn
14
mạnh rằng, mối quan hệ truyện thơ Nôm dân tộc Kinh và truyện thơ dân tộc Thái chỉ
có tính chất một chiều.
Sự tương đồng giữa truyện thơ dân tộc ít người và truyện Nôm không chỉ xảy
ra ở văn học dân tộc Thái mà khá phổ biến ở văn học các dân tộc ít người khác. Câu
ca dân gian của đồng bào Mường chỉ ra mối quan hệ đối sánh giữa truyện thơ Mường
“trên mường” và truyện thơ Nôm dân tộc Kinh “dưới chợ”:
Dưới chợ có Phạm Tải - Ngọc Hoa,
Trên mường có Nàng Nga - Hai Mối
Dân tộc Mường kín đáo bộc lộ niềm tự hào về di sản văn hóa của mình,
truyện thơ Mường hoàn toàn không thua kém truyện thơ của người Kinh. Sự đối
xứng trong câu hát ngầm cho thấy những điểm gần gũi giữa truyện thơ Mường và
truyện thơ Nôm.
Lí giải nguyên nhân dẫn đến hiện tượng tương đồng, khác biệt giữa truyện thơ
với truyện thơ Nôm, có ý kiến cho rằng tác giả truyện thơ dân tộc ít người đã kế thừa
và sáng tạo từ các nền văn học lân cận, ủng hộ quan điểm này là các nhà nghiên cứu
Đinh Gia Khánh, N. I.Nikulin và Lê Trường Phát …
Về vấn đề này, nhà nghiên cứu Lê Trường Phát nêu ra ý kiến có tính chất định
hướng như sau: “hàng loạt truyện thơ của một số dân tộc thiểu số có thể đi cặp đôi
với những truyện Nôm của dân tộc Việt như những cặp bài trùng”. Điểm độc đáo dễ
thấy ở đây là “truyện thơ này không hẳn đã là dịch phẩm của truyện Nôm kia, từ
truyện Nôm này đến truyện thơ kia đã có khoảng cách khá xa về cốt truyện, các tình
tiết […] về tính dân tộc của hình tượng nhân vật, của ngôn ngữ nhân vật” [98, tr.88].
Người Thái đã kế thừa cốt truyện, tái tạo lại, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ, cho
nó sinh mệnh mới, mang hồn cốt dân tộc mình, khiến truyện thơ có dáng dấp mới,
vừa giống lại vừa khác truyện Nôm.
Đi tìm câu trả lời cho hiện tượng “cặp đôi" của truyện thơ và truyện Nôm, trong
phần Truyện thơ, nhà nghiên cứu Đinh Gia Khánh đưa ra hai giả thiết quan trọng:
Một là, “có thể các nho sĩ, trí thức, các tu sĩ dân tộc dựa vào vốn truyện thơ
của dân tộc Việt ở dưới xuôi lên hoặc du nhập các truyện của Ấn Độ, của Lào, của
Trung Quốc vào để xây dựng nên những truyện thơ của dân tộc mình… Những tác
phẩm đó được lưu truyền rộng rãi trong dân gian, tuy là khuyết danh nhưng đã mang
15
dấu ấn của sáng tác cá nhân rõ rệt, ít nhiều mang phong cách bác học tiếp cận với
văn học thành văn” [51, tr.782].
Hai là, vì ông vẫn phân vân nên lại phủ nhận chính ý kiến trước của mình, cho
rằng, truyện thơ chỉ là sự sao chép hay chuyển thể từ tác phẩm truyện Nôm Kinh sang
truyện thơ các dân tộc thiểu số. “Trong truyện thơ các dân tộc thiểu số còn có các
truyện Nôm của người Việt được dịch sang tiếng của các dân tộc Tày, Thái như
Hoàng Trừu (Hoàng Tíu), Nhị độ mai (Quám Mai Công), Tống Trân - Cúc Hoa
(Tống Tân - Cúc Hoa)… Nhìn chung trong kho tàng truyện thơ khá phong phú của
các dân tộc anh em hình thành nên các bộ phận khác nhau, bổ sung cho nhau, tạo nên
những diện mạo đa dạng của loại hình truyện thơ trong nền văn học các dân tộc ít
người” [51, tr.780]. Mặc dù cho rằng truyện thơ dân tộc ít người trong đó có dân tộc
Thái sao chép hay “dịch” từ truyện thơ Nôm của dân tộc Kinh nhưng tác giả không
đưa ra những cứ liệu chứng minh. Sự phân vân của ông gợi ý cho chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài, nhằm trả lời chính xác câu hỏi sao chép hay sáng tác thực thụ?
Cuốn Văn học so sánh nghiên cứu và dịch thuật, in năm 2003 (nhiều bài đã
được dịch từ trước đó) của Ban Khoa học Xã hội, Đại học Quốc gia Hà Nội có
chuyển tải lại ý kiến của N.I.Nikulin từ văn bản tiếng Nga. Ông định danh truyện thơ
dân tộc ít người là trường ca tự sự. Trong chuyên luận nghiên cứu Truyện thơ Việt
Nam thế kỉ XVIII - giữa thế kỉ XIX và tiểu thuyết hiện đại, ông nhận thấy giữa truyện
thơ và truyện thơ Nôm có những kiểu truyện giống nhau nhưng không đưa ra lí do vì
sao chúng lại giống nhau “Những kiểu truyện tương tự như truyện Nôm có thể tìm
thấy trong những trường ca dân gian của các dân tộc sinh sống ở Việt Nam như
Mường, Nùng, Tày, Thái…” [152, tr.161].
Sự giống nhau còn được giải thích từ hiện tượng đồng loại hình. Truyện thơ
được sinh ra bởi các dân tộc Đông Nam Á cũng như các dân tộc ít người ở Việt
Nam cùng có “nguồn gốc nhân chủng, nguồn gốc dân tộc, lịch sử, ngôn ngữ, cho
đến kinh tế, văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng” [39, tr.266]. Ý kiến
của Kiều Thu Hoạch có phần thận trọng song đã cung cấp cho chúng tôi một
phương diện khác khi nghiên cứu các văn bản sáng tác theo đề tài mang tính chất
toàn thế giới giữa các nhóm truyện.
16
Quá trình thiên di và giao lưu văn hóa tạo ra hiện tượng hòa đồng. Người Thái
vốn có nguồn gốc bản tộc từ Vân Nam, (Trung Hoa), nơi đây cũng có tộc người Kinh
cư ngụ lâu đời. Tộc người Kinh ở khu tự trị Choang tỉnh Quảng Tây, Trung Hoa cũng
sở hữu tác phẩm Tống Trân - Trần Cúc Hoa có nội dung tương tự truyện thơ Nôm
Tống Trân - Cúc Hoa của người Kinh, Việt Nam. Trong cuốn Kinh tộc văn học sử,
các tác giả Tô Duy Quang, Quá Vĩ, Vi Kiên Bình đã sưu tầm được hai bản kể. Trong
đó, bản kể do các nghệ nhân người Kinh là Nguyễn Kế Tự (72 tuổi), Phạm Trọng
Phương (64 tuổi) ở đảo Sơn Tâm; Tô Tích Quyền (80 tuổi) ở đảo Lệ Vĩ đã kể lại vào
năm 1980; Tô Duy Quang, Nguyễn Thành Trân, Phù Đạt Thăng, Quá Vĩ đã sưu tập,
phiên dịch và in cuối Tuyển tập dân ca người Kinh. Nội dung của truyện kể khá
giống với truyện thơ Nôm Tống Trân - Cúc Hoa của người Kinh. [173]
Như vậy, rất có thể, trong quá trình thiên di, xảy ra hiện tượng giao lưu văn
hóa, người Thái đã tiếp nhận tác phẩm này và biến đổi từ khá sớm. Mối quan hệ ảnh
hưởng qua lại của văn học dân tộc Kinh và dân tộc Thái có bắt nguồn từ chủng tộc
văn hóa, chẳng hạn như quan hệ Thái - Việt hay Việt - Mường thuộc một nhóm ngôn
ngữ, hay một lí do nào khác? Đây là nhiệm vụ mà đề tài cần lí giải.
Từ tổng quan cho thấy, những công trình trên chủ yếu đưa ra phán đoán tản
mạn, sơ lược về đề tài, nội dung, nghệ thuật, điểm giống, khác nhau ở phương diện
cốt truyện giữa truyện Nôm Kinh và truyện thơ các dân tộc ít người (trong đó có
truyện thơ Thái) nhưng chưa có học giả nào công phu chứng minh, làm rõ và chưa có
công trình chuyên biệt nào đi sâu khảo sát, phân tích, so sánh cụ thể các nhóm truyện
nhằm tìm ra kết luận khoa học. Bởi vậy, trên cơ sở tổng kết ý kiến có tính chất định
hướng của các nhà nghiên cứu, chúng tôi coi đó là thành tựu cần được kế thừa và là
những gợi ý để tiến hành Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam
có cùng đề tài với truyện thơ Nôm dân tộc Kinh nhằm rút ra ý nghĩa văn học sử, nhận
diện mối giao thoa và ảnh hưởng văn hóa, diễn hóa mô tip trong tương quan với một
số truyện Nôm dân tộc Kinh.
3. Đối tượng nghiên cứu
17
Đề tài tập trung khảo sát 5 truyện thơ dân tộc Thái là: Trạng Tư, Trạng
nguyên, Ý Nọi - Náng Xưa, Ngu háu và Ú Thêm.
Sự lựa chọn đối tượng này xuất phát từ hiện trạng văn bản. Văn tự lưu trữ tại
Thư viện tỉnh Sơn La và đặc biệt 2 truyện Ú Thêm, Ý Nọi - Náng Xưa đã được dịch,
biên soạn sang tiếng Việt. Ba truyện thơ còn lại là Trạng nguyên, Trạng Tư, Ngu háu
(Cầm Cường phiên âm là Chãng Nghiên, Chãng Tư, Lưu Vĩnh), như đã nói ở trên, do
Nghiên cứu sinh thực hiện luận án cùng các cộng sự dịch, biên soạn từ văn bản cổ ở
Thư viện tỉnh Sơn La. Qua thực tế điền dã, chúng tôi được biết thư viện các tỉnh khác
(nơi có người Thái sinh sống) gồm Điện Biên, Lai Châu, Hòa Bình, Thanh Hóa, Phú
Thọ đều chưa có văn bản này. Do vậy, đây là những lựa chọn không mang tính ngẫu
nhiên mà dựa trên tình hình thực tế về vốn tư liệu cũng như hiện trạng truyện thơ
Thái. Các văn bản đã dịch chỉ có một bản duy nhất, không có dị bản, hơn nữa các tác
phẩm ấy chưa từng được chứng minh là đã truyền miệng cũng như diễn xướng. Vậy
những tác phẩm này có thể được xem xét với tư cách là những sáng tác văn học viết.
Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận ra rằng có những truyện thơ Nôm của dân
tộc Kinh vừa mang đề tài tương thích, vừa có những tên gọi na ná và có những típ truyện
chung. Những suy nghĩ này gợi ý cho chúng tôi so sánh khái quát 5 truyện thơ với những
truyện thơ Nôm dân tộc Kinh tương tự như Hoàng Trừu, Tống Trân - Cúc Hoa, Cái Tấm
- Cái Cám, Thạch Sanh, Truyện Từ Thức… Trong 5 truyện thơ trên, 2 truyện Ý Nọi Náng Xưa và Ngu háu được sáng tác dựa vào đề tài mang tính chất toàn thế giới. Các
truyện mang tính chất thành văn là Trạng nguyên, Trạng Tư dựa vào cốt truyện của người
Kinh. Truyện Ú Thêm được sáng tác dựa trên mô típ chung có trong truyện thơ Nôm dân
tộc Kinh. Đây là quá trình vận động từ việc mượn đề tài, sử dụng mô típ, cho đến việc
thoát khỏi văn học dân tộc Kinh mà sáng tạo ra cốt truyện của truyện thơ Thái.
4. Nhiệm vụ và giới hạn của đề tài
4.1. Nhiệm vụ của đề tài
Nhiệm vụ chính của đề tài là nghiên cứu tổng thể, toàn diện, hệ thống phương
diện nội dung và nghệ thuật truyện thơ dân tộc Thái có cùng đề tài với văn học dân
tộc Kinh, nhằm làm rõ những dấu ấn tư tưởng, thành tựu nghệ thuật thể hiện riêng
của chúng. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi trình bày các vấn đề sau:
- Nghiên cứu những vấn đề chung liên quan đến truyện thơ và truyện thơ Thái.
18
- Nghiên cứu nội dung, nghệ thuật 5 truyện thơ Thái.
- So sánh, lí giải nguyên nhân xuất hiện sự tương đồng và khác biệt giữa
truyện thơ Thái và truyện thơ Nôm dân tộc Kinh được đề cập.
Trên cơ sở sử dụng những khái niệm lí luận có tính công cụ để phục vụ cho
việc nghiên cứu vấn đề đặt ra, trong chừng mực nhất định, chúng tôi cố gắng mở rộng
thêm tới truyện thơ dân tộc ít người khác có liên quan.
4.2. Giới hạn của đề tài
Đề tài chỉ nghiên cứu 5 truyện thơ của dân tộc Thái (Trạng Tư, Trạng nguyên, Ý
Nọi - Náng Xưa, Ngu háu, Ú Thêm) có cùng đề tài với một số truyện thơ Nôm dân tộc
Kinh (Hoàng Trừu, Tống Trân - Cúc Hoa, Cái Tấm - Cái Cám, Thạch Sanh, Truyện Từ
Thức…) chứ không nghiên cứu toàn bộ những truyện thơ trong nền văn học dân tộc Thái
và cũng không nghiên cứu toàn bộ truyện thơ các dân tộc ít người ở Việt Nam.
Để thực hiện nhiệm vụ nêu trên, trong quá trình nghiên cứu, nếu thấy cần
thiết, chúng tôi cố gắng mở rộng thêm tới các nền văn học dân tộc ít người khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận án này, chúng tôi sử dụng 4 phương pháp chính sau:
5.1. Phương pháp hệ thống
Người nghiên cứu đi từ chi tiết, đặc điểm nội dung và nghệ thuật của từng tác
phẩm, đặt trong hệ thống thể loại, trong nhóm truyện, rút ra những nhận xét cụ thể về
tác phẩm.
5.2. Phương pháp liên ngành
Thể loại truyện thơ, trong đó có những tác phẩm đề cập được coi là cầu nối giữa
văn học dân gian và văn học viết. Do đó khi nghiên cứu, chúng tôi sử dụng kết hợp
phương pháp phân tích tác phẩm văn học viết với phương pháp phân tích tác phẩm văn
học dân gian. Các khái niệm như đề tài, cốt truyện, kết cấu, nhân vật, sự kiện… vốn
được áp dụng trong nghiên cứu tác phẩm văn học viết. Các khái niệm như mô típ, kiểu
truyện vốn được áp dụng trong nghiên cứu văn học dân gian và cả văn học viết. Khi
nghiên cứu những phương diện đó trong cùng một tác phẩm, luận án cần đặt trong mối
tương quan giữa đặc điểm tác phẩm folklore với đặc điểm tác phẩm văn học viết.
19
Các phạm vi văn học có mối quan hệ với nhau đồng nghĩa với việc chúng có
mối quan hệ về văn hóa. Để từng bước chỉ ra sự giao lưu giữa chúng, luận án cũng sử
dụng thêm phương pháp liên ngành văn hóa - văn học.
5.3. Phương pháp so sánh
So sánh là phương pháp cần thiết để xử lí đề tài. Muốn tìm ra những đặc điểm
về nội dung và nghệ thuật của nhóm truyện thơ Thái trong mối tương tác với truyện
thơ Nôm chúng tôi nhất thiết phải sử dụng phương pháp so sánh.
Luận án sẽ tiến hành so sánh 5 truyện thơ Thái với những truyện thơ Nôm có
cùng đề tài để nhìn nhận những giá trị tương đồng khác biệt và phương diện nội dung
và nghệ thuật.
5.4. Phương pháp loại hình
Phương pháp loại hình tìm hiểu một số nguyên tắc và những cơ sở cho phép
nói tới tính cộng đồng nhất định về mặt văn học – thẩm mỹ, tới việc một hiện tượng
nhất định thuộc về một kiểu, một loại hình nhất định. Loại hình học văn học đề ra
việc khám phá các xu hướng chung và riêng của sự phát triển trong các nền văn học ở
những dân tộc vốn gần gũi nhau về ngôn ngữ và về số phận lịch sử cũng như trong
các nền văn học những dân tộc không có đặc điểm ấy. Trong văn học có hiện tượng
“cùng họ” do sự gần gũi, sự giống nhau giữa một số đặc điểm cơ bản của chúng.
Truyện thơ có xuất hiện những đặc điểm mang thuộc tính loại hình. Vì vậy
luận án có sử dụng phương pháp này để nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận án
Thực hiện đề tài này chúng tôi đóng góp 5 vấn đề sau:
- Tổng quan về 5 truyện thơ dân tộc Thái cùng đề tài với truyện thơ Nôm dân
tộc Kinh.
- Đánh giá và khảo sát một cách hệ thống để phác thảo diện mạo truyện thơ dân
tộc Thái cùng đề tài với truyện thơ Nôm dân tộc Kinh.
- Đánh giá nội dung và nghệ thuật một số truyện thơ Thái cùng đề tài với
truyện thơ Nôm dân tộc Kinh.
- So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa truyện thơ dân tộc Thái với truyện
thơ Nôm dân tộc Kinh.
20
- Cung cấp tư liệu, 3 bản dịch truyện Trạng nguyên, Trạng Tư, Ngu háu (mà
Nghiên cứu sinh cùng các cộng sự là trí thức bản tộc đã tiến hành dịch, biên soạn).
Từ đó khẳng định vị trí truyện thơ Thái và những điểm mới của nó trên văn
đàn văn học các dân tộc ít người.
Nếu thực hiện 5 mục đích trên, luận án sẽ có những đóng góp vào việc nghiên
cứu văn học Việt Nam nói chung, nghiên cứu văn chương văn học dân tộc Thái nói
riêng và có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác giảng dạy, học tập.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án được chia làm 2 phần.
Phần Chính văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về truyện thơ dân tộc Thái cùng đề tài với
truyện thơ Nôm dân tộc Kinh.
Chương 2: Nội dung của một số truyện thơ dân tộc Thái có cùng đề tài với
truyện thơ Nôm dân tộc Kinh.
Chương 3: Nghệ thuật của một số truyện thơ dân tộc Thái có cùng đề tài với
truyện thơ Nôm dân tộc Kinh.
Phần Phụ lục gồm:
Phụ lục 1: Tóm tắt một số truyện thơ Thái liên quan đến đề tài.
Phụ lục 2: Giới thiệu một số trích đoạn truyện thơ Thái đã được dịch.