Tải bản đầy đủ (.doc) (273 trang)

LAO ĐỘNG NHẬP CƯ VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (875.33 KB, 273 trang )

4

PHAÀN MÔÛ ÑAÀU

1. Tính cấp thiết của đề tài


5

Trong lịch sử nhân loại, dân số, dân cư là một trong những điều kiện
tất yếu, khách quan hợp thành kết cấu tồn tại xã hội. Trong một phương
thức sản xuất vật chất nhất định của xã hội, yếu tố dân số, bao gồm cả chất
lượng và số lượng của nó, nhân tố con người sản xuất, nguồn nhân lực trong
q trình sản xuất vật chất, giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển và
tiến bộ xã hội. Trong thời đại tồn cầu hóa hiện nay, tính chất và đặc điểm
của yếu tố dân số, dân cư đã có những biến đổi. Người lao động đã ln có
sự thay đổi mơi trường lao động một cách năng động, linh hoạt. Lao động
nhập cư gắn với hiện tượng di dân, đã giữ một vị thế đặc biệt quan trọng
trong phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Vì vậy, di dân là một hiện tượng
kinh tế – xã hội phổ biến, gắn liền với lòch sử phát triển của xã hội loài
người. Trong lịch sử, di dân luôn giữ vai trò rất quan trọng trong quá trình
phát triển dân số, kinh tế – xã hội của loài người - lòch sử của loài người
luôn gắn liền với quá trình di dân. Những người dân di cư được gọi là
“lao động nhập cư” hay “lao động tạm trú”. Ở Việt Nam, lực lượng lao
động nhập cư có mặt trong hầu hết các lónh vực đời sống xã hội của cả
nước với tỷ lệ không nhỏ, góp phần quan trọng trong việc thực hiện các
mục tiêu tăng trưởng của các tỉnh, thành phố trong cả nước. Đặc biệt, ở
thành phố Hồ Chí Minh, do khoảng cách phát triển có sự cách biệt khá lớn
so với các tỉnh, thành khác của cả nước cho nên lao động nhập cư vẫn sẽ
tiếp tục đến thành phố. Với sự hiện diện của mình, một mặt, lao động nhập
cư đã đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế, phát triển nguồn nhân lực


của thành phố; mặt khác, lao động nhập cư cũng đặt thành phố trước nhiều
thách thức khơng nhỏ, trong đó có những vấn đề rất nan giải như: vấn đề
chính sách quản lý, đào tạo và sử dụng, vấn đề chính sách, nhà ở, đất đai, cư
trú, giáo dục, y tế. Qn triệt Nghị quyết số 16 – NQ/TW của Bộ Chính trị,
hiện nay, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố đang nỡ lực phấn
đấu xây dựng thành phố Hồ Chí Minh trở thành một thành phố “văn minh,


6

hiện đại với vai trò đô thị đặc biệt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, đóng góp ngày càng lớn với khu vực và cả nước; từng bước
trở thành trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học - công
nghệ của đất nước và khu vực Đông Nam Á” [190,46]. Trong xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay, để thực hiện thành công sự nghiệp ấy, việc
phát huy tiềm năng của các nguồn lực trong nhân dân là nhu cầu, nhiệm vụ
được Đảng và nhà nước ta đặt lên hàng đầu. Song song với quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển kinh tế, sự tái cấu trúc về cơ
cấu kinh tế, sự chuyển dịch mạnh mẽ sang lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, sự
phát triển nhanh chóng của các đô thị, khu công nghiệp, sự phân bố lại lao
động đã và đang diễn ra. Số lao động dư thừa ở nông thôn ngày càng tăng
lên, khu vực thành thị với cơ cấu kinh tế mở năng động, đã trở thành điểm
thu hút lao động nông thôn hướng về. Trong điều kiện đó, di dân và lực
lượng lao động nhập cư trở thành một hiện tượng thường xuyên, đặc biệt
đối với các quốc gia đang bước vào thời kỳ công nghiệp theo hướng hiện
đại hóa như Việt Nam. Sự thiếu ổn định của tăng trưởng kinh tế, nhu cầu
công ăn việc làm, sự chênh lệch giữa các vùng, miền tạo nên làn sóng di
dân và từ đó hình thành hiện tượng “lao động nhập cư” tại các đô thị lớn,
đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Ở các tỉnh, thành phố có ít
khu chế xuất, khu công nghiệp, quá trình tăng trưởng kinh tế chậm, nhu cầu

việc làm cao thường có hiện tượng dư thừa về số lượng lao động. Và tất
nhiên, các tỉnh, thành tập trung nhiều khu chế xuất, khu công nghiệp như
thành phố Hồ Chí Minh sẽ là điểm đến có sức thu hút mạnh mẽ đối với lực
lượng lao động này ở các địa phương.


7

Theo quan điểm hiện nay, sự phát triển của các thành phố lớn gắn
liền với sự phát triển chung của khu vực, cũng như của cả nước. Đồng thời
với tăng trưởng kinh tế của thành phố là sự phát triển nguồn nhân lực và sự
phát triển thị trường lao động. Trong đó, người lao động nhập cư là nhân tố
quan trọng, một mặt thúc đẩy sự phát triển nguồn nhân lực, phát triển thị
trường lao động cho thành phố; mặt khác cũng tạo nên sự quá tải của cơ sở
hạ tầng, gây ra những khó khăn nhất định cho công tác quản lý trật tự an
toàn xã hội.


8

Hiện nay, tại thành phố Hồ Chí Minh, vấn đề con người lao động,
trong đó có lao động nhập cư với những vấn đề về chính sách đối với lao
động và nguồn nhân lực, luôn là một trong những yêu cầu bức thiết của
chính quyền thành phố. Theo Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh
của Cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh năm 2012, dân số thành phố có
7.681,7 ngàn người. Trong đó, có trên 5,4 triệu người trong độ tuổi lao
động, chiếm 70,3% dân số; có khoảng 4,1 triệu người đang tham gia vào
lực lượng lao động của thành phố, chiếm 53,37% dân số (số người nhập cư
vào thành phố bình quân trong 3 năm 2010, 2011, 2012 là trên 200.000
người/năm – Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh năm 2010, 2011,

2012). Trong tổng dân số của thành phố, có trên 2,2 triệu dân nhập cư,
chiếm gần 30%. Cũng theo Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh
năm 2012, trong số này, có trên 1,66 triệu người đang tham gia vào lực
lượng lao động của thành phố, chiếm 40,49% lực lượng lao động của thành
phố, chiếm 75.45% tổng số dân nhập cư. Với cơ cấu và tỷ lệ như trên, có
thể thấy lao động nhập cư có vai trò đáng kể trong sự phát triển nguồn nhân
lực, phát triển kinh tế - xã hội thành phố trong những năm qua. Trong thời
gian qua, mặc dù chính quyền thành phố đã có nhiều chủ trương, chính sách
thoáng hơn nhiều so với những năm trước đây để quản lý, đào tạo và sử
dụng lao động nhập cư. Tuy nhiên, với sự gia tăng ngày càng nhanh lao
động nhập cư, một số chủ trương, chính sách trở nên bất cập, đặc biệt là
chưa có được đánh giá đầy đủ về sự đóng góp của lao động nhập cư vào sự
phát triển kinh tế nói chung, nguồn nhân lực của thành phố nói riêng. Do
đó, tiếp cận từ phương diện triết học xã hội để nghiên cứu, tìm hiểu một
cách thấu đáo, đánh giá đúng đắn thực trạng, tác động của lao động nhập
cư, cũng như nhận diện những mặt tích cực và tiêu cực của lao động nhập
cư trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, nhằm đưa ra phương hướng và các
giải pháp phát huy vai trò của lao động nhập cư trong phát triển nguồn nhân
lực ở thành phố Hồ Chí Minh, phục vụ quá trình công nghiệp hóa – hiện đại


9

hóa của thành phố, có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn thiết thực. Do đó,
nghiên cứu sinh đã chọn đề tài: “Lao động nhập cư và vai trò của nó đối
với phát triển nguồn nhân lực ở thành phố Hồ Chí Minh” làm luận án
tiến sỹ chun ngành chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề di dân, di cư nói chung, trong đó có lao động nhập cư, là một

vấn đề lớn, với nhiều nội dung sâu sắc, mang tính nhân văn và thực tiễn
cao. Chính vì vậy, vấn đề di dân, lao động nhập cư đã và đang thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà khoa học với nhiều cơng trình nghiên cứu, nhiều
hội thảo, nhiều ý kiến trao đổi khác nhau. Các cơng trình nghiên cứu về lao
động nhập cư được tập trung theo các hướng: các cơng trình liên quan đến
những quan điểm, lý luận chung về lao động nhập cư và phát triển nguồn
nhân lực; các cơng trình liên quan đến những quan điểm về thực trạng lao
động nhập cư và những vấn đề đặt ra về chính sách đối với lao động
nhập cư tại thành phố Hồ Chí Minh; các cơng trình liên quan đến những
giải pháp để khai thác và quản lý có hiệu quả đối với lao động nhập cư tại
thành phố Hồ Chí Minh. Nhìn chung, có thể khái qt các cơng trình
nghiên cứu đó thành ba chủ đề chính.


10

Chủ đề thứ nhất, đó là các cơng trình liên quan đến những quan điểm,
lý luận chung về lao động nhập cư và phát triển nguồn nhân lực . Trong
chủ đề này có các cơng trình nghiên cứu khoa học đã được cơng bố như: Từ
nơng thơn ra thành phớ – tác đợng kinh tế – xã hợi của di cư ở Việt Nam
của Lê Bạch Dương – Nguyễn Thanh Liêm, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
2008; Lao động nữ di cư tự do Nông thôn – Thành thò của Hà Thò Phương
Tiến và Hà Quang Ngọc, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 2000; Tác động của di cư
tự do vào thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới của Ths. Trần
Hồng Vân, Nxb. Khoa học xã hội, thành phố Hồ Chí Minh, 2002; Báo
cáo sơ bộ một số kết quả nghiên cứu về di dân của Viện kinh tế thành phố
Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh, 2005; Giáo trình kinh tế ng̀n
nhân lực, Nxb. Đại học kinh tế Quốc dân, Hà Nội, 2009 của PGS. TS Trần
Xn Cầu (chủ biên) – PGS.TS Mai Quốc Chánh; Cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam lý ḷn và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,

2002 của TS Nguyễn Trọng Chuẩn – PGS.TS Nguyễn Thế Nghĩa - PGS.TS
Đặng Hữu Tồn (chủ biên); Phát triển ng̀n nhân lực phục vụ cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005 của TS
Nguyễn Thanh; Quản trị ng̀n nhân lực, Nxb. Phương Đơng, Tp.Hồ Chí
Minh, 2011 của TS. Bùi Văn Danh - MBA. Nguyễn Văn Dung – Ths. Lê
Quang Khơi; Phát triển ng̀n nhân lực dựa trên các chiến lược kinh tế, Hà
Nội, 2009 của Phùng Lê Dung – Đỡ Hồng Hiệp, Hà Nội, 2009, đăng trên
Tạp chí nghiên cứu Châu Phi và Trung Đơng; Di cư trong nước – Cơ hợi và
thách thức đới với sự phát triển kinh tế – xã hợi ở Việt Nam, Hà Nội, 2010
của Veronique Marx và Katherine Fleischer thuộc tổ chức United Nations
Viet Nam; Hội thảo khoa học phát triển bền vững kinh tế – xã hội của các
thành phố theo hướng hiện đại, Hà Nội, 2011 do Viện kinh tế phát triển Hà
Nội tổ chức; Phát triển ng̀n nhân lực ở thành phớ Hờ Chí Minh trong
q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, thành phố Hồ Chí Minh, 2014 của


11

TS. Nguyễn Long Giao. Trong công trình Di dân tự do đến Hà Nội, thực
trạng và giải pháp quản lý của TS. Hoàng Văn Chức, Nxb. Chính trò quốc
gia, Hà Nội, 2004 đã phân tích khá rõ thực trạng, ngun nhân dẫn đến di
dân, đặc điểm của di dân đồng thời đưa ra một số giải pháp đối với vấn đề
di dân. Trước tiên, tác giả đã nêu những nhận định khái qt nhất về di dân
“Di dân là một hiện tượng kinh tế – xã hội gắn liền với lòch sử phát triển
của xã hội loài người với những thay đổi của tự nhiên, xã hội và sự phát
triển không đồng đều về kinh tế – xã hội giữa các vùng, các quốc gia
trên thế giới” [51, 8]. Bên cạnh đó, trong cơng trình của mình, tác giả
cũng đã giới thiệu lại đònh nghóa của Liên hợp quốc về di dân. Theo
Liên hợp quốc “Di dân là sự di chuyển trong không gian của con người
giữa một đơn vò đòa lý hành chính này vào một đơn vò đòa lý hành chính

khác, kèm theo sự thay đổi chỗ ở thường xuyên trong khoảng di dân xác
đònh” [51, 9-10]. Theo tác giả, nguyên nhân cơ bản, có tính phổ biến,
dẫn đến di dân là nguyên nhân kinh tế. Bên cạnh nguyên nhân kinh tế
còn có các nguyên nhân khác như: nguyên nhân chính trò, tôn giáo, tâm
lý, tình cảm, quốc phòng hoặc các nguyên nhân về điều kiện tự nhiên
(động đất, núi lửa,…) Trong công trình này, ngoài việc phân tích các
nguyên nhân dẫn đến di dân, tác giả còn đưa ra những nhận đònh về đặc
điểm của di dân. Theo đó, di dân có 3 đặc điểm chính: thứ nhất, con
người di chuyển khỏi nơi cư trú thường xuyên đến một nơi nào đó với
một khoảng cách nhất đònh; thứ hai, người di chuyển có mục đích, họ rời
nơi ở cũ đến nơi ở mới thực hiện mục đích của mình; thứ ba, thời gian ở
lại nơi mới phải kéo dài trong khoảng thời gian xác đònh, tối thiểu phải
từ 6 tháng trở lên mới xác đònh đó là di dân. Ngoài ra, theo tác giả,
chúng ta có thể nhận biết di dân qua một đặc điểm nữa đó là sự di


12

chuyển nơi ở và thay đổi nơi làm việc, nghề nghiệp và các hoạt động
sinh sống hàng ngày.


13

Chủ đề thứ hai, đó là các cơng trình liên quan đến thực trạng lao
động nhập cư và những vấn đề đặt ra về chính sách đối với lao động nhập
cư tại thành phố Hồ Chí Minh. Trong chủ đề thứ hai, có các tác phẩm như:
Hội thảo quốc gia tăng cường năng lực xây dựng chính sách di dân nội
đòa Việt Nam, phần II của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 1998,
thành phố Hồ Chí Minh; Chi cục phát triển nông thôn thành phố Hồ Chí

Minh (2005), Hành trình hội nhập của di dân tự do vào thành phố Hồ Chí
Minh nhìn từ góc độ kinh tế và xã hội, thành phố Hồ Chí Minh; Cư dân đơ
thị và khơng gian đơ thị trong tiến trình đơ thị hóa ở thành phớ Hờ Chí
Minh: Thực trạng và dự báo của Viện nghiên cứu phát triển thành phố Hồ
Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh, 2010; Sự thớng nhất và mâu th̃n về
lợi ích giữa các nhóm, giai tầng xã hợi ở thành phớ Hờ Chí Minh hiện nay
– Thực trạng và giải pháp, của Viện nghiên cứu xã hội thành phố Hồ Chí
Minh - Viện khoa học xã hội vùng Nam Bộ - Báo Sài Gòn giải phóng,
thành phố Hồ Chí Minh, 2006; Mợt sớ vấn đề về di cư nơng thơn – đơ thị –
Thách thức và cơ hợi cho thành phớ Hờ Chí Minh của Bùi Việt Thành, Đại
học Khoa học xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ
Chí Minh, 2011; Vấn đề lao đợng di cư ra thành thị, khu cơng nghiệp trong
bới cảnh sau khi Việt Nam gia nhập WTO – Thực trạng và giải pháp, của
Trung tâm phát triển và mơi trường Vùng thuộc Liên hiệp các hội Khoa học
kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội, 2012; Đời sớng văn hóa tinh thần của cơng
nhân ở các khu chế xuất – khu cơng nghiệp thành phớ Hờ Chí Minh của TS.
Phạm Đình Nghiệm, thành phố Hồ Chí Minh, 2007; Di cư và đơ thị hóa ở
Việt Nam: Thực trạng, xu hướng và những khác biệt của Tổng cục thống kê,
Hà Nội, 2011. Trong cơng trình Sự thớng nhất và mâu th̃n về lợi ích giữa
các nhóm, giai tầng xã hợi ở thành phớ Hở Chí Minh hiện nay – Thực trạng
và giải pháp của Viện nghiên cứu xã hội thành phố Hồ Chí Minh - Viện
khoa học xã hội vùng Nam Bộ - Báo Sài Gòn giải phóng, thành phố Hồ Chí


14

Minh, 2006, các tác giả đã đặt ra những vấn đề chính sách còn nan giải của
thành phố đối với lao động nhập cư trên khá nhiều lĩnh vực như: nhà ở, điều
kiện hạ tầng, giáo dục, y tế, tiếp cận tín dụng, việc làm, hộ khẩu, hội nhập
cộng đồng. Đối với lĩnh vực nhà ở, công trình cho rằng chất lượng nhà ở là

vấn đề khó khăn của lao động nhập cư. Lao động nhập cư thường phải sống
trong điều kiện chật hẹp, vệ sinh môi trường không đảm bảo chất lượng,
tình trạng an ninh trật tự kém. Đối với lĩnh vực hạ tầng cơ sở, cụ thể là điện,
nước, lao động nhập cư phải trả tiền điện, nước cao hơn nhiều so với lao
động sở tại. Đối với lĩnh vực giáo dục, mặc dù ngành giáo dục không có chủ
trương hạn chế lao động nhập cư nhưng việc thiếu trường, lớp là áp lực lớn
nên các trường đã có sự chọn lọc mà một trong những tiêu chí để chọn lọc
chính là hộ khẩu. Đối với lĩnh vực y tế, công trình cho rằng việc thu hút lao
động nhập cư vào các chương trình giảm nghèo, trong đó có hỗ trợ về y tế,
vẫn còn có hạn chế. Đối với lĩnh vực tiếp cận tín dụng, công trình cho rằng
ngoài các lĩnh vực tín dụng có tính chất xã hội từ thiện như Quỹ hội phụ nữ,
Quỹ xóa đói giảm nghèo thì việc tiếp cận để vay vốn từ ngân hàng còn rất
khó khăn đối với lao động nhập cư bởi để được vay vốn từ ngân hàng thì
phải có các yếu tố để thế chấp và đảm bảo như: nhà, đất, hộ khẩu,…trong
khi lao động nhập cư thì khó hoặc không thể có các yếu tố này. Đối với lĩnh
vực việc làm, công trình khẳng định rằng lao động nhập cư hầu như không
có cơ hội làm việc trong khu vực nhà nước do không có hộ khẩu và khi làm
việc trong khu vực tư nhân, họ dễ bị người sử dụng lao động vi phạm về
quyền lợi như: không ký hợp đồng lao động, kéo dài thời gian thử việc, nợ
bảo hiểm xã hội,… Đối với lĩnh vực hộ khẩu, công trình cho rằng chính
sách hộ khẩu với sự phân biệt người tại chỗ và người nhập cư, đã gia tăng
thêm tâm lý “ngụ cư” vốn tiềm tàng. Đồng thời việc ăn theo hộ khẩu của
các chính sách, quy định và giao dịch dân sự đã làm cho cuộc sống của lao
động nhập cư vốn đã có nhiều khó khăn lại tiếp tục phải gánh thêm rất
nhiều khó khăn nữa. Đối với việc tham gia đời sống cộng đồng, công trình


15

khẳng định rằng lao động nhập cư thường ít tham gia các đồn thể trong

cộng đồng. Điều này một phần do người nhập cư khơng muốn tham gia
nhưng phần lớn là do cách nhìn của người tại chỡ, người quản lý cộng đồng
khơng xem trọng vai trò của họ.
Chủ đề thứ ba là các cơng trình liên quan đến những giải pháp để
khai thác và quản lý có hiệu quả đối với lao động nhập cư tại thành phố
Hồ Chí Minh. Trong chủ đề này, có các cơng trình nghiên cứu khoa học
như: Báo cáo thuyết minh tổng hợp “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế
– xã hội thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025”
của Viện nghiên cứu phát triển thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí
Minh, 2013; Hành trình hợi nhập của di dân tự do vào thành phớ Hờ Chí
Minh – nhìn từ góc đợ kinh tế và xã hợi của Nguyễn Trọng Liêm và các
thành viên, thành phố Hồ Chí Minh, 2005; Chính sách lao động nhập cư
của thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay của Th.s Nguyễn
Văn Lâm, thành phố Hồ Chí Minh, 2005; Về nguồn nhân lực của Việt
Nam trong năm 2010 và những năm sau của PGS.TS Phạm Đức Vượng,
Hà Nội, 2010; Hiện tượng di dân đến thành phố: nhận đònh và đề xuất
chính sách của PGS.TS Lê Xuân Bá, Hà Nội, 2010; Di dân với phát triển
kinh tế - xã hợi thành phớ Hờ Chí Minh của Lê Văn Thành, thành phố Hồ
Chí Minh, 2011; Hội thảo khoa học phát triển bền vững kinh tế – xã hội
của các thành phố theo hướng hiện đại, Hà Nội, 2011 do Viện kinh tế phát
triển Hà Nội tổ chức; Giải pháp cho doanh nghiệp lao động nhập cư tại
thành phố Hồ Chí Minh của Nguyễn Đức Thuấn, Hà Nội, 2011; Nhân lực
chất lượng cao và lao động nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh của
Trần Anh Tuấn, thành phố Hồ Chí Minh, 2013.


16

Trong các công trình nghiên cứu này, phải kể đến công trình Di dân
với phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí

Minh, 2011 của tác giả Lê Văn Thành, tác giả đã nêu một số dự báo quan
trọng về tình hình dân số thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2020 – 2025.
Theo đó, từ 2020 – 2025, thành phố sẽ có 10 – 12 triệu dân, tăng gấp đôi
trong vòng 15 năm. Công trình cũng khẳng định, người nhập cư sẽ ngày
càng gia tăng trong tình hình Vùng kinh tế phía Nam đã giải tỏa bớt áp lực.
Từ dự báo đó, công trình đã đưa ra một số giải pháp đối với lao động nhập
cư. Thứ nhất, cần quản lý tốt người nhập cư, đưa các công trình xã hội vào
những cộng động người nhập cư. Thứ hai, cần có cơ chế thông tin tốt cho
người nhập cư về việc làm, điều kiện sống đồng thời đảm bảo các chế độ
bảo hiểm xã hội. Thứ ba, cần gắn vấn đề phân bố dân cư (có người nhập cư)
với quy hoạch và đầu tư cơ sở hạ tầng đô thị, tại thành phố Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó, các công trình, đề tài nghiên cứu về di dân, về lao động
nhập cư còn được đăng trên các tạp chí chuyên ngành như Lê Văn Thành,
Dân nhập cư với vấn đề phát triển kinh tế xã hội của thành phố Hồ Chí
Minh, Tạp chí Khoa học xã hội, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2007; Trần
Đan Tâm, Vấn đề của người nhập cư vào thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí
Khoa học xã hội, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2007; Nguyễn Thị Thiềng Vũ Hoàng Ngân, Khó khăn của người di cư đến Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh, Tạp chí Kinh tế và phát triển, Hà Nội, năm 2006; Phạm Thị Xuân
Thọ, Về quá trình di dân ở thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí Khoa học xã
hội, thành phố Hồ Chí Minh, năm 1997; Lê Văn Năm, Di dân nông thôn đô thị và sự phát triển đô thị bền vững tại thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí
Khoa học xã hội, thành phố Hồ Chí Minh, năm 1999. Ngoài ra, còn nhiều
công trình khác cũng trình bày nhiều khía cạnh khác nhau đối với vấn đề di
dân và lao động nhập cư.


17

Trong các công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã tập trung làm rõ
khái niệm di dân, đặc điểm, xu hướng của di dân trên thế giới cũng như các
quan điểm, các vấn đề đặt ra đối với di dân và các giải pháp cho vấn đề di

dân ở Việt Nam giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, vấn đề “Lao động nhập cư
và vai trò của nó đối với phát triển nguồn nhân lực ở thành phố Hồ Chí
Minh” cho đến nay vẫn chưa được nghiên cứu một cách hệ thống ở bất kỳ
công trình nào đã công bố.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu: luận án tập trung nghiên cứu về vấn đề lao
động nhập cư, thực trạng lao động nhập cư ở thành phố Hồ Chí Minh và về
vai trò, tác động của lao động nhập cư đối với sự phát triển nguồn nhân lực,
phát triển kinh tế, xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh trên cả phương diện lý
luận và thực tiễn.
- Phạm vi nghiên cứu: luận án chỉ tập trung nghiên cứu về lao động
nhập cư, trong tổng thể nguồn nhân lực, trong phạm vi địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh hiện nay.
4. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án là tập trung nghiên cứu, làm rõ vai trò to lớn của
lao động nhập cư cũng như sự tác động, ảnh hưởng của lao động nhập cư
đối với sự phát triển nguồn nhân lực ở thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở
đó, đề xuất các giải pháp góp phần quản lý có hiệu quả lao động nhập cư
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Để đạt được mục đích trên đây, luận án xác định cần thực hiện các
nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, trình bày, phân tích cơ sở lý luận chung về lao động nhập
cư, mối quan hệ giữa lao động nhập cư và phát triển nguồn nhân lực.
Thứ hai, trình bày, phân tích thực trạng của lao động nhập cư ở thành
phố Hồ Chí Minh và những vấn đề đặt ra về chính sách đối với lao động
nhập cư ở thành phố Hồ Chí Minh.


18


Thứ ba, đề xuất những giải pháp có tính đònh hướng và khả thi, để
góp phần quản lý một cách có hiệu quả lao động nhập cư trên địa bàn
thành phố, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của thành phố Hồ
Chí Minh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể: nghiên cứu sinh đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể, phù hợp: hệ thống cấu trúc,
lơgích và lịch sử, tổng hợp và phân tích, diễn dịch và quy nạp, thống kê, …
để thực hiện luận án.
- Phương pháp tiếp cận: luận án được triển khai nghiên cứu từ phương
diện triết học chính trị, triết học xã hội; vận dụng lý luận triết học để giải
quyết vấn đề cụ thể do thực tiễn đặt ra.
6. Đóng góp mới của luận án
Luận án có những đóng góp mới trong nghiên cứu học thuật như sau:
Thứ nhất, từ ngun lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử và những
luận điểm của các nhà nghiên cứu về lao động nhập cư, về các đặc điểm của
lao động nhập cư và nguồn nhân lực ở thành phố Hồ Chí Minh trên phương
diện lý luận, luận án đã hệ thống hóa, khái qt, làm rõ những vấn đề lý
luận chung về lao động nhập cư và phát triển nguồn nhân lực, về sự tác
động biện chứng giữa lao động nhập cư và sự phát triển nguồn nhân lực ở
thành phố Hồ Chí Minh.


19

Thứ hai, từ sự lý giải, phân tích bằng các số liệu chứng minh, luận án
đã chỉ ra thực trạng lao động nhâp cư và vai trò của nó đối với phát triển

nguồn nhân lực ở thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó, trên phương diện thực
tiễn, đề xuất những phương hướng và giải pháp chủ yếu để quản lý hiệu quả
lao động nhập cư đối với sự phát triển nguồn nhân lực ở thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa của thành
phố.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Nghiên cứu về lao động nhập cư và vai trò của nó đối với phát triển
nguồn nhân lực ở thành phố Hồ Chí Minh có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất
sâu sắc đối với sự phát triển kinh tế, xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay.
Về lý luận, luận án đã góp phần khái quát hóa, hệ thống hoá và làm rõ
những quan điểm về lao động nhập cư trên thế giới nói chung, ở Việt Nam
nói riêng, làm rõ mối quan hệ giữa người lao động nhập cư với phát triển
nguồn nhân lực; làm rõ sự tác động, ảnh hưởng to lớn của lao động nhập cư
đối với sự phát triển nguồn nhân lực ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Về ý nghĩa thực tiễn, từ thực trạng và giải pháp có tính định hướng đối
với lao động nhập cư ở thành phố Hồ Chí Minh mà luận án đề xuất, có thể
góp phần thiết thực vào việc phát triển, hoàn thiện và nâng cao hiệu lực,
hiệu quả vai trò quản lý nhà nước của chính quyền thành phố Hồ Chí Minh
đối với vấn đề lao động nhập cư.
Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và
giảng dạy chuyên ngành chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử chuyên ngành triết học chính trị, triết học xã hội,…trong các trường
cao đẳng và đại học.
8. Kết cấu của luận án


20

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu

tham khảo, luận án được kết cấu thành 3 chương, 6 tiết, được thực hiện
trong 204 trang.


21

Chöông 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LAO ĐỘNG NHẬP CƯ
VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
1.1. QUAN NIỆM VỀ LAO ĐỘNG NHẬP CƯ
1.1.1. Khái niệm lao động và lao động nhập cư
Khái niệm lao động


22

Theo quan niệm duy vật lịch sử, con người là chủ thể của lịch sử, giữ
vai trò quyết định đối với sự tồn tại và tiến bộ của xã hội. Con người sáng
tạo chân chính ra lịch sử là nhờ các hoạt động lao động, sản xuất ra của cải
vật chất, ra các giá trị tinh thần cho xã hội loài người. Vì thế, hoạt động lao
động của con người và loài người là một trong những vấn đề trung tâm của
học thuyết Mác. Xét toàn cục, nó là điểm khởi đầu và cũng là điểm tận cùng
trong lý luận về lịch sử của Mác, là một trong những giá trị nền tảng của
triết học Mác. Và vì thế, chủ đề lao động như sợi chỉ đỏ, đã xuyên suốt
trong học thuyết Mác từ những bản thảo đầu tay đến những tác phẩm đỉnh
cao của sự tổng kết về lý luận. Hiện nay, có nhiều cách tiếp cận khác nhau
về lao động. Và như vậy, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về lao động.
Tuy nhiên, dù tiếp cận ở góc độ nào thì chúng ta cũng đều phải thừa nhận
rằng, lao động là hoạt động đặc thù, là phương thức hoạt động bản chất nhất
của con người, chỉ riêng có ở con người, lao động là ranh giới để phân biệt

giữa con người và con vật. Một chân lý hiển nhiên là, khác với con vật, lao
động của con người là hoạt động có mục đích, có ý thức còn hoạt động của
loài vật có tính bản năng. Và cũng nhờ lao động, con người đã sản xuất ra
tư liệu sinh hoạt của mình – một điểm khác biệt nữa giữa con người và con
vật. C. Mác và Ph. Ăngghen đã viết “bản thân con người bắt đầu bằng tự
phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt của mình” [116, 29]. Và chính con người đã tạo ra lịch sử - xã hội
của mình từ quá trình hoạt động lao động sản xuất ra sản phẩm vật chất đó.
Thông qua lao động, con người tác động vào thế giới tự nhiên nhằm cải
biến các vật thể của tự nhiên thành các sản phẩm phù hợp với nhu cầu của
mình. Do đó, lao động là cơ sở tồn tại và phát triển của con người và xã hội
loài người. C. Mác đã viết “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa
con người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính
mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa
họ và tự nhiên” [115, 230]. C. Mác cũng đã chỉ rõ “con người không chỉ


23

làm biến đổi hình thái những cái do tự nhiên cung cấp…con người cũng
đồng thời thực hiện các mục đích tự giác của mình, mục đích ấy quyết định
phương thức hành động của họ, giống như một quy luật và bắt ý chí của họ
phải phục tùng nó” [124, 32].
Theo quan điểm của Mác, lao động là hoạt động có ý thức và mục đích
của con người. Do vậy, nó là cơ sở thực tiễn tạo ra mọi vấn đề và phương
hướng giải quyết những vấn đề đó, phục vụ nhu cầu tồn tại và phát triển của
con người. Lao động có ý thức là một thuộc tính đặc trưng của con người và
vì thế, nó chi phối lịch sử con người một cách thường xuyên và phổ biến
đến mức có thể nâng lên thành bản chất của con người. C. Mác đã viết “sự
tất yếu tự nhiên vĩnh cửu làm môi giới cho sự trao đổi chất giữa con người

và tự nhiên, tức là cho sự sống của con người” [124, 61]. Với hình thức lao
động đó, con người chẳng những chiếm hữu tự nhiên mà còn làm thay đổi
bản tính con người nghĩa là “phát triển những tiềm lực đang ngái ngủ trong
bản tính đó và bắt sự hoạt động của những tiềm lực ấy phải phục tùng quyền
lực của mình” [124, 231]. Hoạt động lao động chính là bản chất của loài
người. Những hoạt động đó là những hoạt động mang tính giống loài của con
người và vì thế, con người “không chỉ nhân đôi mình lên một cách chỉ bằng trí
óc, như trường hợp xảy ra trong ý thức mà còn tự nhân đôi mình lên một cách
tích cực, một cách hiện thực, và con người ngắm nhìn bản thân mình trong thế
giới do mình sáng tạo ra” [123, 120]. Chính lao động có ý thức là điểm gạch
nối giữa con người và thế giới tự nhiên và ngoài thực tiễn ấy ra thì không có
một cái gì khác – điểm cốt lõi trong học thuyết Mác, về lịch sử - xã hội nói
chung.


24

Với Ph. Ăngghen, ông khẳng định rằng, lao động là nguồn gốc của
mọi của cải và giúp cải biến chính con người “Lao động đúng là như vậy,
khi đi đôi với giới tự nhiên là cung cấp những vật liệu cho lao động đem
biến thành của cải. Nhưng lao động còn là một cái gì vô cùng lớn lao hơn
thế nữa, lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài
người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải
nói: Lao động đã sáng tạo ra loài người” [106, 641]. Thật vậy, lao động
không chỉ tạo ra của cải để con người phục vụ cho nhu cầu của chính mình
mà còn cải tạo chính bản thân con người, phát triển con người cả vể thể lực
và trí lực – một dòng chảy liên tục, từ quá khứ đến tương lai. Con người đã
nhận thức và hành động đúng theo quy luật khách quan để trở thành con
người “tự do” trong quá trình lao động. Lênin cho rằng “lực lượng sản xuất
hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động” [105,

430].


25

Trong kinh tế học chính trị Mác - Lênin, lao động được hiểu là sự tiêu
dùng sức lao động trong hiện thực. Lao động là hoạt động có mục đích, có ý
thức của con người nhằm tạo ra các sản phẩm phục vụ các nhu cầu bản chất
nhất của con người và là hoạt động đặc trưng nhất, sáng tạo nhất của con
người. Và hàng hoá chính là sản phẩm tạo ra của lao động, sản phẩm hàng
hóa được dùng để mua bán, trao đổi nhằm phục vụ cho nhu cầu của con
người. Hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị. Hai thuộc tính
này được quyết định bởi tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá:
lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Trong đó, lao động cụ thể là lao
động có ích ở một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn
nhất định. Mỗi lao động cụ thể có đối tượng lao động, mục đích, phương
pháp, tư liệu lao động và kết quả sản xuất riêng. Có rất nhiều loại lao động
cụ thể khác nhau, và chính cái riêng đó là yếu tố để phân biệt các loại lao
động cụ thể. Mỗi lao động cụ thể tạo ra một giá trị sử dụng nhất định và vì
thế, có vô số giá trị sử dụng được tạo ra trong xã hội. Lao động cụ thể tồn
tại vĩnh viễn cùng với sản xuất và tái sản xuất, và sự tồn tại đó không phụ
thuộc vào bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào. Tuy nhiên, hình thức của lao
động cụ thể có thể thay đổi và phụ thuộc vào sự phát triển của kỹ thuật, của
lực lượng sản xuất và phân công lao động. Điều đó có nghĩa là khoa học, kỹ
thuật, phân công lao động càng phát triển thì các hình thức lao động cụ thể
càng phong phú, đa dạng. Lao động trừu tượng là lao động của người sản
xuất hàng hoá đã gạt bỏ hình thức biểu hiện cụ thể của nó để quy về một cái
chung đồng nhất: đó là sự tiêu phí sức lao động, tiêu hao sức bắp thịt, sức
thần kinh của con người. Nếu như lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng thì
lao động trừu tượng lại tạo ra giá trị hàng hoá. Và lao động trừu tượng

không phải là sự tiêu hao sức lực của con người nói chung mà là sự tiêu phí
sức lực của người sản xuất hàng hoá. Chỉ có lao động sản xuất hàng hoá
mới có tính chất là lao động trừu tượng và ngược lại, lao động trừu tượng
chỉ có trong nền sản xuất hàng hoá, bởi mục đích của sản xuất là trao đổi


26

tiêu dùng. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị làm cơ sở cho sự ngang bằng
trong trao đổi. Nếu không có sản xuất hàng hoá, không có sự trao đổi trên
thị trường thì cũng không cần phải quy các lao động cụ thể về lao động trừu
tượng. Và vì thế, lao động trừu tượng là phạm trù lịch sử riêng có của nền
sản xuất hàng hoá trong đời sống lịch sử.
Tổng hợp toàn bộ những quan niệm về lao động như nêu trên, chúng ta
có thể định nghĩa về lao động như sau: “Lao động là hoạt động có mục
đích của con người trong những lĩnh vực, ngành, nghề kinh tế khác nhau,
nhằm tạo ra các sản phẩm vật chất, các sản phẩm tinh thần để đáp ứng nhu
cầu của xã hội”.


27

Khi phân tích đến vấn đề lao động, chúng ta khơng thể khơng nói đến
nhân tố con người, đến người lao động bởi như trên đã phân tích, lao động
là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người. Khi nói đến nhân tố con
người lao động, người ta thường xem xét, phân tích, đánh giá con người
trong mối quan hệ với tư liệu sản xuất, mà trước tiên là cơng cụ lao động.
Bởi vì cơng cụ lao động hay cơng cụ sản xuất là “hệ thống xương cốt và bắp
thịt” của sản xuất và là một trong những tiêu thức cơ bản để phân biệt các
thời đại kinh tế. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về lực lượng sản

xuất cũng đã nói đến điều đó. Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật lịch
sử, lực lượng sản xuất là khái niệm biểu hiện mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên; trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện mức độ chinh phục
tự nhiên của con người ở mỡi giai đoạn lịch sử nhất định. Lực lượng sản
xuất cũng là một hệ thống mà cấu trúc của nó bao gồm tồn bộ tư liệu sản
xuất và người lao động với tri thức và phương pháp sản xuất, kỹ năng, kỹ
xảo và thói quen lao động của họ. Do đó, lực lượng sản xuất chính là thước
đo năng lực thực tiễn của con người trong q trình cải tạo tự nhiên nhằm
thỏa mãn những nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội lồi người. Và lực
lượng sản xuất cũng chính là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản
xuất, mà trước tiên là cơng cụ lao động. Trên thực tế, mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên được thực hiện thông qua lực lượng sản xuất, hay lực
lượng sản xuất là biểu hiện sự chinh phục tự nhiên của con người. Lực
lượng sản xuất luôn vận động, biến đổi và trong bản thân nó đã từng
diễn ra những cuộc cách mạng to lớn, quyết đònh các bước chuyển vó đại
về chất của xã hội loài người từ mông muội, dã man sang văn minh với
các nền văn minh kế tiếp nhau: nông nghiệp, công nghiệp và trí tuệ.
Ngày nay, khoa học đã trực tiếp trở thành một bộ phận quan trọng hàng đầu
của lực lượng sản xuất. Dĩ nhiên, những thành tựu khoa học hoặc được vật
chất hóa trong tư liệu sản xuất hoặc thơng qua người lao động với những kỹ


28

năng lao động mới trong một tổ chức lao động có hiệu suất cao do khoa học
và công nghệ đem lại. Bên cạnh đó, các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất
có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó con người là chủ thể có ý nghĩa
quyết định. Trên cơ sở và tiền đề như vậy, vai trò của người lao động được
thể hiện vừa với tư cách là chủ thể vừa với tư cách là khách thể của các quá
trình kinh tế - xã hội. Thật vậy, trong quan hệ với nguồn lực tự nhiên và các

nguồn lực khác thì nguồn lực con người thể hiện với tư cách là chủ thể của
sự khai thác, sử dụng. Bởi vì bản thân nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực
khác không thể tự tham gia vào các quá trình kinh tế - xã hội và do đó, chưa
thể trở thành động lực của sự phát triển của xã hội. Vai trò quan trọng đó,
quyết định đó luôn luôn thuộc về con người, người lao động. Chính con
người, người lao động, với tư cách là chủ thể, với sức lực và trí tuệ của
mình, luôn là nhân tố quan trọng, quyết định hiệu quả của việc khai thác
nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác, góp phần quan trọng vào sự phát
triển bền vững trong tương lai. Với tư cách là khách thể, con người, người
lao động trở thành đối tượng của sự khai thác, sử dụng, đầu tư và phát triển.
Song song đó, khi nói đến con người, người lao động, người ta cũng thường
hay xem xét trong mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất. Trong quá trình sản xuất, con người không chỉ có quan hệ với tự
nhiên, tác động vào tự nhiên, mà còn có mối quan hệ với nhau, tác động lẫn
nhau. Và đương nhiên, chỉ có trong quan hệ tác động lẫn nhau, con người
mới có sự tác động vào tự nhiên.


×