Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Luật cạnh tranh năm 2004 và vai trò bảo vệ người tiêu dùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.6 KB, 20 trang )

A.

MỞ ĐẦU
Người tiêu dùng là người bỏ tiền ra để mua sản phẩm, hàng hóa, mua
(thuê) dịch vụ của nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ, do vậy người tiêu dùng
chính là người mang lại lợi nhuận cho các doanh nghiệp, các nhà sản xuất, nhà
cung cấp dịch vụ. Hay nói cách khác, người tiêu dùng chính là người duy trì sự
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Khi sản phẩm, dịch vụ của một doanh
nghiệp đưa ra thị trường mà không có người sử dụng hoặc chỉ có một số ít người
sử dụng thì doanh nghiệp đó chắc chắn sẽ nhanh chóng phá sản.
Người tiêu dùng chính là người góp phần “nuôi sống” doanh nghiệp
nhưng họ lại luôn ở trong tình trạng “người yếu thế”. Vì vậy, pháp luật luôn
dành một bộ phận không nhỏ các quy định của mình để bảo vệ những “người
yếu thế này”. Mặc dù không phải luật chuyên ngành để bảo vệ người tiêu dùng
nhưng Luật cạnh tranh năm 2004 đã góp một vai trò không nhỏ vào mục tiêu
này. Với đề tài “Luật cạnh tranh năm 2004 và vai trò bảo vệ người tiêu dùng”,
người viết tập trung nghiên cứu để tìm ra câu trả lời cho câu hỏi “Luật cạnh
tranh năm 2004 đã có những đóng góp gì vào công tác bảo vệ người tiêu dùng?”

B.

NỘI DUNG
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG

1.1.
a.

Khái niệm người tiêu dùng và những quyền lợi cơ bản của người tiêu dùng
Định nghĩa người tiêu dùng
Có nhiều khái niệm về người tiêu dùng. Hiện nay, có hai cách hiểu khác
nhau về người tiêu dùng:


+ Theo nghĩa hẹp, người tiêu dùng là các cá nhân, hộ gia đình, tổ chức
mua hoặc sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích sinh hoạt, tiêu dùng của
mình. Như vậy, người tiêu dùng bao gồm cả người mua hàng hóa (mua lương
thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, quần áo, thiết bị máy móc, đồ dùng sinh hoạt,
phương tiện đi lại...) và người sử dụng dịch vụ (dịch vụ bảo hiểm, vận tải, vui
chơi, giải trí, khám chữa bệnh, sửa chữa, lắp đặt thiết bị...).
+ Theo nghĩa rộng, người tiêu dùng ngoài mục đích mua hàng hoá, sử
dụng dịch vụ để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thì còn có thể phục vụ cho mục đích


tái sản xuất kinh doanh (mua sản phẩm này để chế biến, sản xuất thành sản
phẩm khác, ví dụ như mua vải để may thành quần, áo và mang đi bán).
Ở nước ta, người tiêu dùng được hiểu là người mua, sử dụng hàng hóa,
dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức.[3]
b.

Những quyền lợi cơ bản của người tiêu dùng
Theo Nghị quyết số 39/248 ngày 09/4/1985 của Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua “Bản hướng dẫn bảo vệ Người tiêu dùng”, thì người tiêu dùng
có tám quyền cơ bản sau:
Một là, quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản: là quyền được cung
cấp những sản phẩm và dịch vụ cơ bản, thiết yếu như các nhu cầu về lương thực,
thực phẩm, quần áo, nhà ở, đi lại, giáo dục, vui chơi, giải trí, chăm sóc sức khỏe,
dịch vụ công cộng…;
Hai là, quyền được an toàn: là quyền được bảo vệ để không phải sử dụng
các sản phẩm hàng hóa, quy trình sản xuất và dịch vụ nguy hại cho sức khỏe
hoặc đời sống của người tiêu dùng;
Ba là, quyền được cung cấp thông tin: người tiêu dùng được quyền có các
số liệu và dữ liệu cần thiết để trên cơ sở đó lựa chọn, chống gian dối, lừa đảo,
quảng cáo, ghi nhãn không rõ ràng, không chân thực;

Bốn là, quyền được lựa chọn: người tiêu dùng được tự do lựa chọn sản
phẩm và dịch vụ có giá cả, chất lượng phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng;
Năm là, quyền được đại diện: người tiêu dùng được đưa ra các ý kiến với
đại diện của người tiêu dùng trong việc hoạch định các chính sách của Chính
phủ trong phát triển hàng hóa và dịch vụ;
Sáu là, quyền được khiếu nại và bồi thường thiệt hại: người tiêu dùng
được quyền khiếu nại với nhà sản xuất kinh doanh khi mua phải hàng hóa kém
chất lượng, không phù hợp và được giải quyết thỏa đáng những khiếu nại, được
bồi thường những thiệt hại do mua phải hàng hóa, dịch vụ không đúng cam kết
của doanh nghiệp, nhà sản xuất;
Bảy là, quyền được giáo dục về tiêu dùng: người tiêu dùng được quyền có
những kiến thức và kỹ năng cần thiết để yêu cầu được cung cấp thông tin, được
2


hướng dẫn sử dụng; có kiến thức để lựa chọn hàng hóa, dịch vụ; có kiến thức về
các quyền cũng như trách nhiệm của người tiêu dùng và cách thức thực thi các
quyền và trách nhiệm đó;
Tám là, quyền được sống trong một môi trường trong sạch và lành mạnh:
người tiêu dùng có quyền sống và làm việc trong một môi trường không bị ô
nhiễm cả trong hiện tại và tương lai.
Các quốc gia đã căn cứ vào 8 quyền cơ bản của người tiêu dùng nêu trong
Bản hướng dẫn bảo vệ người tiêu dùng của Liên hợp quốc, thể chế hoá thành
văn bản pháp luật quốc gia phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội, phong tục tập
quán cũng như đặc điểm riêng của quốc gia mình để đảm bảo quyền lợi của
người tiêu dùng được bảo vệ. Ở Việt Nam, kế thừa quy định này của “Bản
hướng dẫn bảo vệ Người tiêu dùng” của Đại hội đồng Liên hợp quốc những
quyền lợi cơ bản của người tiêu dùng đã được ghi nhận tại Điều 8 Luật bảo vệ
người tiêu dùng năm 2011.[3]
1.2.


Sự cần thiết của các quy định pháp luật bảo vệ người tiêu dùng
Theo báo cáo của Cục quản lý cạnh tranh - Bộ Công thương, mỗi năm có
hơn 100.000 vụ vi phạm về quyền lợi người tiêu dùng mà Cục đã xử lý. Các vụ
vi phạm quyền lợi người tiêu dùng diễn ra phổ biến với hành vi và thủ đoạn
ngày càng tinh vi, các vi phạm nhiều nhất là chất lượng hàng hóa
Người tiêu dùng Việt Nam đang phải sống trong một môi trường không an
toàn, quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm nghiêm trọng. Trong khi đó, các quy
định của pháp luật hiện hành còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho quá trình phát
hiện và xử lý các vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng. Thực trạng này đòi hỏi
phải xây dựng một cơ chế pháp lý đầy đủ và hoàn thiện nhằm bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.[3]

1.3.

Hệ thống các văn bản pháp luật Việt Nam hiện hành có quy định về bảo vệ
người tiêu dùng
Trước đây, trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, mọi hàng
hóa, dịch vụ đều do các doanh nghiệp nhà nước hoặc thành phần kinh tế tập thể
(hợp tác xã) sản xuất, kinh doanh và phải tuân thủ chặt chẽ các chỉ tiêu chất
3


lượng do Nhà nước quy định. Người tiêu dùng tuy phải mua sản phẩm theo định
mức quy định (thông qua cơ chế tem phiếu), nhưng lại không phải lo lắng về
chất lượng của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Vì vậy, trong thời kỳ này mặc dù
nước ta chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định trực tiếp về bảo vệ
người tiêu dùng nhưng quyền và lợi ích của người tiêu dùng về cơ bản vẫn được
bảo đảm.
Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, Việt Nam thực hiện chính sách đổi

mới, mở cửa, xóa bỏ bao cấp và từng bước chuyển dịch sang nền kinh tế thị
trường. Bên cạnh những mặt tích cực, cơ chế này cũng là nguyên nhân nẩy sinh
những hành vi xâm hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích chính đáng của người
tiêu dùng như việc sản xuất, kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng, gian lận
trọng lượng, quảng cáo gian dối đánh lừa người tiêu dùng... Trước tình hình đó
Nhà nước ta đã phải có những văn bản đặt ra các quy chuẩn đối với các doanh
nghiệp trong sản xuất, cung ứng dịch vụ để bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người
tiêu dùng. [3]
Song song với các quy định pháp luật chuyên ngành như Pháp lệnh về
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (sau này được thay thế bằng Luật bảo vệ
người tiêu dùng năm 2010), bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng còn được quy
định trong nhiều văn bản luật khác nhau như: Bộ luật dân sự năm 2005, Luật
thương mại năm 2005, Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật chất lượng sản phẩm,
hàng hóa năm 2007, Luật đo lường năm 2011, Luật an toàn thực phẩm năm
2010, Luật tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật năm 2006, Luật quảng cáo năm
2012, Luật giá năm 2012 cùng một loạt các văn bản dưới luật.
Trong đó Luật Cạnh tranh năm 2004 với mục tiêu là chống lại các tác
động tiêu cực của các hành vi hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành
mạnh trên thị trường làm phương hại tới quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp
của doanh nghiệp và người tiêu dùng được xác định là một công cụ pháp lý
quan trọng để bảo vệ người tiêu dùng.
Chương 2. QUY ĐỊNH BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG LUẬT
CẠNH TRANH NĂM 2004
4


Cạnh tranh trong kinh doanh có vai trò vô cùng quan trọng, được coi là
động lực của sự phát triển không chỉ đối với mỗi doanh nghiệp mà còn với cả
nền kinh tế. Có cạnh tranh, hàng hóa sẽ có chất lượng ngày càng tốt hơn, mẫu
mã ngày càng đẹp, phong phú, đa dạng hơn. Người tiêu dùng có thể thoải mái,

dễ dàng trong việc lựa chọn các sản phẩm phù hợp với túi tiền và sở thích của
mình. Để tăng sức cạnh tranh với doanh nghiệp khác, các doanh nghiệp sẽ có
những chính sách ưu đãi dành cho khách hàng – chính là những người tiêu dùng.
Vì vậy, người tiêu dùng sẽ nhận được sự chăm sóc tận tình, chu đáo từ phía các
doanh nghiệp.
Bên cạnh những hành vi cạnh tranh mang lại lợi ích cho người tiêu dùng
thì có rất nhiều hành vi cạnh tranh đã và đang xâm hại trực tiếp tới quyền lợi của
họ. Vì vậy với mục tiêu là chống lại các tác động tiêu cực của các hành vi hạn
chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường làm phương hại
tới quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của doanh nghiệp và người tiêu dùng,
Luật cạnh tranh năm 2004 đã có những quy định để kiểm soát các hành vi hạn
chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
2.1.. Những quy định của Luật cạnh tranh năm 2004 để kiểm soát các
hành vi hạn chế cạnh tranh
2.1.1. Định nghĩa về hành vi hạn chế cạnh tranh
Khoản 3 Điều 3 Luật cạnh tranh năm 2004 (LCT) quy định “Hành vi hạn
chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh
tranh trên thị trường, bao gồm hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế”.
Trong đó:
- Các hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm:



Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng



dịch vụ;

Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán



hàng hoá, dịch vụ;
Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
5




Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán
hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không



liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;
Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị



trường hoặc phát triển kinh doanh;
Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên



của thoả thuận;
Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung cấp




hàng hoá, cung ứng dịch vụ.
Doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường là:
Doanh nghiệp có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả



năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể.
Hai doanh nghiệp cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh có tổng thị



phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan;
Ba doanh nghiệp cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh và có tổng thị



phần từ 65% trở lên trên thị trường liên quan;
Bốn doanh nghiệp cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh và có tổng thị

-

phần từ 75% trở lên trên thị trường liên quan.
Doanh nghiệp là có vị trí độc quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh

-

về hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan.
Hành vi tập trung kinh tế bao gồm các hành vi: Sáp nhập doanh nghiệp; Hợp
nhất doanh nghiệp; Mua lại doanh nghiệp; Liên doanh giữa các doanh nghiệp;

Các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật.
2.1.2. Những hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm
- Những hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm: Thoả thuận
ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát
triển kinh doanh; Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không
phải là các bên của thoả thuận; Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận
thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ hoặc Thoả thuận ấn
định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; Thoả thuận phân
chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ; Thoả thuận
hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, dịch
vụ; Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư; Thoả
6


thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng
hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên
quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng mà khi các bên tham gia thỏa thuận
có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên.
- Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền trên thị trường
bị cấm: bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối
thủ cạnh tranh; áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn
định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng; hạn chế sản xuất, phân
phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công
nghệ gây thiệt hại cho khách hàng; áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong
giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh; áp đặt điều kiện
cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc
doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối
tượng của hợp đồng; lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc hủy
bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng; ngăn cản việc tham gia
thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới (Điều 13 và Điều 14 LCT).

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp có ví trí độc quyền còn bị cấm: áp đặt
các điều kiện bất lợi cho khách hàng; lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương
thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lí do chính đáng
(Khoản 2,3 Điều 14 LCT)
- Cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham
gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan (Điều 18 LCT).
2.2. Những quy định của Luật cạnh tranh năm 2004 để kiểm soát các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh
2.2.1. Định nghĩa về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh
nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo
đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng. (Khoản
4 Điều 3 LCT). Hành vi cạnh tranh không lành mạnh bao gồm 9 hành vi sau:
7


Chỉ dẫn gây nhầm lẫn; xâm phạm bí mật kinh doanh; gièm pha doanh nghiệp
khác; gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác; quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh; khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
phân biệt đối xử của hiệp hội; bán hàng đa cấp bất chính và các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh khác trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức
kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng (Điều 39
LCT).
2.2.2. Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm
Để bảo vệ lợi ích kinh tế xã hội nói chung và bảo vệ quyền lợi của
người tiêu dùng nói riêng, Luật cạnh tranh năm 2004 cấm các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh sau của các doanh nghiệp:
-


Sử dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu
kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý và các yếu tố khác để
làm sai lệnh nhận thức của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích

-

cạnh tranh (khoản 1 Điều 40 LCT);
Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các
biện pháp bảo mật của người sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh đó; Tiết lộ, sử
dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí
mật kinh doanh; Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi dụng lòng tin của
người có nghĩa vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập và làm lộ thông tin thuộc bí
mật kinh doanh của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó; Tiếp cận, thu thập thông
tin thuộc bí mật kinh doanh của người khác khi người này làm thủ tục theo quy
định của pháp luật liên quan đến kinh doanh, làm thủ tục lưu hành sản phẩm
hoặc bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan nhà nước hoặc sử
dụng những thông tin đó nhằm mục đích kinh doanh, xin cấp giấy phép liên

-

quan đến kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm (Điều 41 LCT).
Ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng hành vi đe
dọa hoặc cưỡng ép để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh
nghiệp đó (Điều 42 LCT).
8


-


Gièm pha doanh nghiệp khác bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra thông
tin không trung thực, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt

-

động kinh doanh của doanh nghiệp đó (Điều 43 LCT).
Gây rối hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp khác bằng hành vi
trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh

-

nghiệp đó (Điều 44 LCT).
So sánh trực tiếp hàng hoá, dịch vụ của mình với hàng hoá, dịch vụ cùng loại
của doanh nghiệp khác; bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm
lẫn cho khách hàng; đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng
về giá, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày sản
xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hóa, người sản xuất, nơi sản xuất, người
gia công, nơi gia công hoặc cách thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn

-

bảo hành... (khoản 2,3 Điều 45 LCT).
Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng; khuyến mại không trung thực
hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng; phân biệt đối xử
với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau
trong cùng một chương trình khuyến mại; tặng hàng hóa cho khách hàng dùng
thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác
sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình (Điều 46

-


LCT).
Từ chối doanh nghiệp có đủ điều kiện gia nhập hoặc rút khỏi hiệp hội nếu việc
từ chối đó mang tính phân biệt đối xử và làm cho doanh nghiệp đó bị bất lợi
trong cạnh tranh; Hạn chế bất hợp lý hoạt động kinh doanh hoặc các hoạt động
khác có liên quan tới mục đích kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên.

-

(Điều 47 LCT)
Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hoá
ban đầu hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán
hàng đa cấp; Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã
bán cho người tham gia để bán lại; Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền
thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng
lưới bán hàng đa cấp; Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia
9


mạng lưới bán hàng đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng
hóa để dụ dỗ người khác tham gia. (Điều 48 LCT)
Chương 3. VAI TRÒ CỦA CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH
TRANH NĂM 2004 TRONG BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG VÀ PHƯƠNG
HƯỚNG HOÀN THIỆN LUẬT CẠNH TRANH NĂM 2004
3.1. Luật cạnh tranh năm 2004 góp phần bảo vệ tốt hơn quyền lợi của
người tiêu dùng
Cạnh tranh trong kinh doanh bao gồm các hành vi như: sử dụng các biện
pháp bất chính để loại bỏ đối thủ cạnh tranh (câu kết, tạo rào cản...); lạm dụng vị
trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền; tập trung, tích tụ kinh tế; cải tiến công
nghệ, công tác quản lý; đưa ra giá cả hợp lý; nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch

vụ; đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ; mở rộng thị trường... [5]
Luật cạnh tranh 2004 đưa ra các quy định không nhằm mục đích triệt tiêu
các hành vi cạnh tranh mà các quy định của Luật được xây dựng để nhằm loại
bỏ các hành vi hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh như: sử dụng
các biện pháp bất chính để loại bỏ đối thủ cạnh tranh (câu kết, tạo rào cản...);
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền; tập trung, tích tụ kinh
tế;... Thông qua đó, Luật hướng tới khuyến khích các hành vi cạnh tranh lành
mạnh như: cải tiến công nghệ, công tác quản lý; đưa ra giá cả hợp lý; nâng cao
chất lượng sản phẩm, dịch vụ; đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ; mở rộng thị
trường... giữa các doanh nghiệp để xây dựng thị trường Việt Nam trở thành thị
trường cạnh tranh lành mạnh và tự do, qua đó góp phần đảm bảo các quyền lợi
cơ bản sau của người tiêu dùng:
Thứ nhất, Luật cạnh tranh góp phần đảm bảo quyền được cung cấp
thông tin một cách khách quan và chính xác của người tiêu dùng. Với các
quy định như nghiêm cấm doanh nghiệp sử dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin
gây nhầm lẫn vê tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh,
bao bì, chỉ dẫn địa lý (Điều 40 LCT) hay quảng cáo bắt chước một sản phẩm
quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng (Khoản 1 Điều 45 LCT), đưa
thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về giá, số lượng, chất
10


lượng,... (Khoảng 3 Điều 45 LCT) hay nghiêm cấm một doanh nghiệp có hành
vi gièm pha một doanh nghiệp khác, Luật cạnh tranh đã đóng vai trò quan trọng
trong việc đảm bảo cho người tiêu dùng được quyền có các số liệu và dữ liệu
chuẩn xác cần thiết để trên cơ sở đó lựa chọn phù hợp với ý chí của mình. Quy
định của Luật là căn cứ để loại bỏ các hành vi “chỉ dẫn gây nhầm lẫn” như của
cơ sở sản xuất cà phê Mê Hy Côi hay hành vi “gièm pha” của otosaigon.comiii.
Loại bỏ những hành vi cạnh tranh đem đến những thông tin không chính xác cho
người tiêu dùng chính là cách Luật cạnh tranh 2004 bảo vệ người tiêu dùng.

Thứ hai, Luật cạnh tranh góp phần đảm bảo quyền được lựa chọn
của người tiêu dùng, tạo điều kiện để người tiêu dùng có cơ hội sử dụng các
sản phẩm với mức giá cạnh tranh nhất, chất lượng phù hợp với túi tiền của
mình nhất. Các quy định về trường hợp tập trung kinh tế bị cấm tại Điều 18
LCT và trường hợp tập trung kinh tế phải thông báo tại Điều 20 LCT đã góp
i Cơ sở cà phê Mê Hy Cô đã sử dụng biển hiệu nhằm gây nhầm lẫn với biển hiệu của Xí nghiệp Trung Nguyên.
Cụ thể, Doanh nghiệp Trung Nguyên hoạt động kinh doanh với ngành nghề chế biến cà phê bột (đăng ký kinh
doanh năm 1996). Doanh nghiệp nghiệp này sử dụng rộng rãi biển hiệu: “Trung Nguyên – cho bạn nguồn cảm
hứng sáng tạo mới” trong hoạt động kinh doanh. Biển hiệu này được sử dụng tại các quán cà phê và ở những địa
điểm cung ứng cà phê của Trung Nguyên. Biển hiệu của Xí nghiệp Trung Nguyên có những đặc điểm chính như
sau (theo bố cục của biển hiệu từ trên xuống): dòng chữ “cà phê hàng đầu Buôn Mê Thuột” màu vàng; dòng chữ
“Trung Nguyên” ở giữa màu trắng; dòng chữ “mang lại nguồn cảm hứng sáng tạo mới” được thể hiện theo
đường uốn khúc (chữ đỏ trên nền vàng); góc bên phải có hình mũi tên viền trắng hướng lên trên; góc bên trái là
hình tách cà phê trên nền các hạt cà phê. Cơ sở cà phê Mê Hy Cô hoạt động kinh doanh từ năm 1999 có cùng
ngành nghề chế biến cà phê với xí nghiệp Trung Nguyên và hoạt động tại địa bàn tỉnh Đắc Lắc. Cơ sở Mê Hy Cô
sử dụng biển hiệu “Mê Hy Cô – Cho bạn cảm giác sáng tạo mới” tại một số địa điểm kinh doanh của cơ sở và tại
những địa điểm đã đặt biển hiệu của xí nghiệp Trung Nguyên. Biển hiệu của cơ sở Mê Hy Cô có những đặc điểm
chính sau đây: dòng chữ “hãng cà phê hàng đầu Buôn Mê Thuột” màu vàng ở phía trên; dòng chữ “Mê Hy Cô” ở
giữa màu trắng; dòng chữ “hương vị cho bạn cảm giác sáng tạo mới” được thể hiện theo đường uốn khúc (chữ
đỏ trên nền vàng); góc bên phải có hình mũi tên viền trắng hướng lên trên; góc bên trái là hình tách cà phê trên
nền các hạt cà phê. Cà phê Trung Nguyên là nhãn hiệu được nhiều người biết đến và phổ biến trên thị trường,
mọi người cũng quen thuộc với biển hiệu, màu chữ. Việc cơ sở Mê Hy Cô “nhái” lại biển hiệu của cà phê Trung
Nguyên gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng nếu không để ý kĩ. Và họ sẽ mua một sản phẩm với chất lượng không
như ý chí mong muốn của họ. Với quy định của Khoản 1 Điều 40 LCT thì hành vi của cơ sở sản xuất cà phê Mê
Hy Cô sẽ bị nghiêm cấm, thông qua đó quyền lợi của người tiêu dùng sẽ được bảo vệ. [6]
ii Otosaigon.com là một trang web thuộc Cty cổ phần ô tô Xuyên Việt (778/1D Nguyễn Kiệm, phường 4, quận
Phú Nhuận, TP.HCM) chuyên đưa tin về xe hơi, quảng cáo bán xe, trong đó còn có một diễn đàn (forum) dành
cho các thành viên tranh luận về tất cả những chuyện liên quan đến xe hơi. Còn Cty TNHH cơ khí ô tô Phạm Gia
(216B Nguyễn Thái Bình, P.12, Q. Tân Bình, TP. HCM) là một công ty có tầm cỡ chuyên kinh doanh dịch vụ
bảo dưỡng, sửa chữa và buôn bán xe hơi, được chứng nhận Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn Quốc tế

ISO 9001:2000. Thành lập từ 7 năm nay với gần 200 nhân viên, Cty Phạm Gia đã sửa chữa trên 20.000 xe ô tô
các loại. Phạm Gia cũng đã ký quỹ 2 triệu USD để trở thành nhà phân phối cấp 1 đạt chuẩn 3S cho hạng xe hơi
Chrysler của Mỹ tại VN và đầu tư 20 tỷ đồng cho việc xây dựng Showroom trang thiết bị nhà xưởng với diện
tích hơn 7.000m2 ở huyện Bình Chánh, TPHCM. Thế nhưng otosaigon.com đã xây dựng diễn đàn “Bó toàn thân
với Phạm Gia- kinh nghiệm cho các bác sửa xe” để các thành viên của diễn đàn bêu xấu Phạm Gia. Hành vi trên
của otosaigon.com chính là một trong những hành vi gièm pha doanh nghiệp khác. (nguồn:
truy cập ngày 11/11/2015)

11


phần kiểm soát độc quyền. Khi một doanh nghiệp nắm vị trí độc quyền i họ sẽ có
thể tự mình ấn định giá, “lười” áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ và
sản xuất, không quan tâm đến khách hàng của mình và khách hàng dù muốn hay
không vẫn chỉ có duy nhất một lựa chọn là sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp
độc quyền đó. Các quy định của LCT đã góp phần hạn chế tối đa câu chuyện
độc quyền nhưng vẫn cho phép các doanh nghiệp được quyền tập trung kinh tế
nếu thị phần sau tập trung dưới 50% (Điều 20 LCT), qua đó vừa giúp các doanh
nghiệp nhỏ và vừa tăng khả năng cạnh tranh vừa đảm bảo quyền lợi của người
tiêu dùng.
Thứ ba, Luật cạnh tranh góp phần bảo vệ người tiêu dùng trước
những hành vi cạnh tranh hạn chế cạnh tranh của các doanh nghiệp. Có lẽ
vẫn còn nhiều người nhớ đến câu chuyện của 3 hãng nước giải khát Pepsi, CocaCola và Tribeco những năm cuối thế kỷ XX. Trong đó Tribeco mặc dù là doanh
nghiệp sản xuất nước ngọt thành công nhất trên thị trường nội địa những năm
đầu thập kỷ 90, nhưng vẫn đã bị Pepsi và Coca-Cola đánh bật ra khỏi thị trường
bằng chiêu giảm giá. Cụ thể, vào năm 1998, Coca-Cola giảm giá 30%, giá giao
cho đại lý là 800 đồng/chai; loại chai lớn giảm từ 31.200 đồng còn 20.600/đồng
két. Pepsi cũng giảm giá từ 31.200 đồng xuống còn 20.000 đồng/két. Ngay lập
tức, để đối phó, Tribeco phải hạ giá sản phẩm từ 950 đồng còn 660 đồng/chai
(giá giao tại đại lý). Tuy nhiên, trong cuộc chơi tài chính, người ít tiền sẽ không

bao giờ thắng kẻ nhiều tiền. Sản lượng Tribeco giảm từ 30 triệu lít (1998) xuống
còn 4 triệu lít (2000), lợi nhuận từ 6,8 tỉ đồng chỉ còn 0,2 tỉ đồng. Tribeco đã
chạy khỏi lĩnh vực nước uống có gas và nhảy sang vùng đất mới là sữa đậu nành
đóng chai, đóng hộp và nước trái cây tươi. ii Ngay sau khi đánh bật được Tribeco,
Coca-Cola đã ngay lập tức tăng giá bán lên 2.000 đồng/chai để bù lại những chi
phí đã phải bỏ ra để “loại bỏ đối thủ”. Và người chịu thiệt hại lúc này sẽ là
người tiêu dùng. Nhưng đây là câu chuyện của những năm khi chưa có Luật
i Không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường
liên quan (Điều 12 LCT)
ii Nguồn: truy cập ngày 11/11/2015.

12


cạnh tranh. Hành vi này của Coca-Cola và Pepsi nếu xét theo Luật cạnh tranh
năm 2004 thì sẽ bị nghiêm cấm (vi phạm Khoản 1 Điều 13 LCT). Như vậy có
thể thấy LCT đã giúp người tiêu dùng được bảo vệ tốt hơn trước các hành vi hạn
chế cạnh tranh của các doanh nghiệp.
3.2. Một số bất cập trong các quy định của Luật cạnh tranh xâm hại
đến quyền lợi của người tiêu dùng
Thứ nhất, pháp luật hiện hành đã bỏ sót một số chủ thể không bị xử lí
vi phạm pháp luật cạnh tranh về hành vi hạn chế cạnh tranh. Khoản 2 Điều
2 LCT quy định: Hiệp hội ngành nghề là đối tượng áp dụng của LCT. Khoản 1
Điều 2 Nghị định số 120/2005/NĐ-CP về xử lí vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
cạnh tranh cũng xác định hiệp hội ngành nghề hoạt động tại Việt Nam là đối
tượng bị xử lí nếu vi phạm pháp luật cạnh tranh. Trong thực tế kinh doanh tại
Việt Nam, để giúp các thành viên của hiệp hội phối hợp hoạt động tốt hơn, hiệp
hội ngành nghề đã đưa ra khuyến cáo, hướng dẫn đối với các doanh nghiệp
thành viên và trong một số trường hợp đã dẫn đến hình thành các thoả thuận hạn
chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thành viên của hiệp hội. Các thoả thuận

này có thể là các thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm theo quy định của LCT.
Khuyến nghị của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam đưa ra vào tháng 8 năm 2009 cho
các doanh nghiệp thành viên về việc đồng thuận tăng phí bảo hiểm vật chất xe
cơ giới là ví dụ điển hình về vấn đề này. Tuy nhiên, LCT và Nghị định
120/2005/NĐ-CP đã không quy định cụ thể hành vi nào của hiệp hội sẽ bị kiểm
soát cũng như không có chế tài áp dụng đối với các hành vi của hiệp hội gây cản
trở cạnh tranh trên thị trường. LCT chỉ có một điều cấm hiệp hội không được
phân biệt đối xử và hành vi này thuộc hành vi cạnh tranh không lành mạnh chứ
không thuộc hành vi hạn chế cạnh tranh (Điều 47 LCT). Do đó, cơ quan cạnh
tranh không có cơ sở pháp lí để áp dụng chế tài đối với hiệp hội khi hiệp hội là
chủ thể quan trọng dẫn đến hình thành các hành vi hạn chế cạnh tranh. Đây là
điểm thiếu sót cần bổ sung trong LCT.[8]
Thứ hai, hình thức xử phạt đối với chủ thể thực hiện hành vi hạn chế
cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh chưa phù hợp, còn quá nặng về
13


hình thức phạt tiền mà coi nhẹ hình thức phạt cảnh cáo mang tính giáo dục
đối với chủ thể vi phạm có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Theo khoản 1 Điều 117
LCT, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về cạnh tranh phải chịu 1 trong 2 hình
thức xử phạt chính là cảnh cáo và phạt tiền. Căn cứ vào Điều 119 LCT và các
quy định về thẩm quyền xử lí vụ việc cạnh tranh cho thấy Hội đồng xử lí vụ việc
cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh có quyền phạt cảnh cáo, phạt tiền và một số
hình thức xử lí khác đối với doanh nghiệp thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh
và cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, việc phạt cảnh cáo và phạt tiền trong
trường hợp nào thì phải được pháp luật quy định cụ thể. Nghị định số
120/2005/NĐ-CP chỉ quy định về các trường hợp áp dụng hình thức phạt tiền và
mức tiền phạt mà không có điều nào cụ thể hoá việc áp dụng phạt cảnh cáo đối
với hành vi hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh. Theo Nghị định
này, phạt cảnh cáo chỉ áp dụng đối với một số hành vi như: vi phạm quy định về

cung cấp thông tin, vi phạm quy định liên quan đến quá trình điều tra và xử lí vụ
việc cạnh tranh (quy định tại Điều 39, Điều 40 Nghị định số 120/2005/NĐ-CP).
Như vậy, Nghị định số 120/2005/NĐ-CP không quy định các trường hợp áp
dụng hình thức cảnh cáo đối với doanh nghiệp thực hiện hành vi hạn chế cạnh
tranh là đã tước đi quyền được ra quyết định cảnh cáo của cơ quan cạnh tranh
được quy định trong LCT. Mặt khác, quy định như vậy là đã quá chú trọng đến
việc phạt tiền làm giảm doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp mà chưa tạo
điều kiện giúp doanh nghiệp thoát khỏi khó khăn về tài chính khi thực hiện hành
vi hạn chế cạnh tranh nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đặc biệt là đối với các
doanh nghiệp mới thành lập vi phạm quy định của Luật do chưa tìm hiểu kĩ các
quy định của LCT (vì sự tồn tại của Luật này tương đối mới trong hệ thống pháp
luật ở Việt Nam). [8]
Thứ ba, mức phạt tiền đối với chủ thể thực hiện hành vi hạn chế cạnh
tranh và cạnh tranh không lành mạnh bị cấm chưa được quy định cụ thể,
rõ ràng. Khoản 1 Điều 118 LCT quy định: Hành vi vi phạm quy định về thoả
thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền hoặc tập
trung kinh tế có thể bị phạt tiền tối đa đến 10% tổng doanh thu của tổ chức, cá
14


nhân vi phạm trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Nghị
định số 120/2005/NĐ-CP đã đưa ra khung phạt xử lí đối với từng hành vi hạn
chế cạnh tranh. Ví dụ, đối với hành vi thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ
một cách trực tiếp hoặc gián tiếp sẽ phạt tiền đến 5% hoặc từ 5% đến 10% tổng
doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm của từng
doanh nghiệp là các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường
liên quan từ 30% trở lên đối với một trong các hành vi quy định tại Điều 10
Nghị định số 120/2005/NĐ-CP. Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành,
mức phạt tiền đối với chủ thể thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh là chưa rõ
ràng, chưa đưa ra các tiêu chí cụ thể để xác định mức phạt trong khi khung phạt

quá rộng dẫn đến tuỳ tiện trong việc quyết định mức phạt đối với từng vụ việc
cụ thể. Mặt khác, việc phạt tiền đối với mỗi doanh nghiệp có hành vi hạn chế
cạnh tranh tính trên tỉ lệ phần trăm doanh thu trong năm tài chính trước năm
thực hiện hành vi vi phạm dẫn đến mức phạt sẽ là không đồng nếu doanh nghiệp
không có doanh thu. Điều này làm cho mục đích của việc áp dụng chế tài phạt
tiền để ngăn ngừa, răn đe chủ thể có hành vi vi phạm không đạt được.[8]
Thứ tư, quy định tại Điều 8 và Điều 39 của LCT đã tỏ ra cứng nhắc
trong việc giới hạn các loại thoả thuận hạn chế cạnh tranh và các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh. Theo lí thuyết về cạnh tranh, thoả thuận hạn chế
cạnh tranh được chia làm 2 loại: Thoả thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều
ngang (thoả thuận giữa các doanh nghiệp ở cùng một khâu, một giai đoạn của
chu trình kinh doanh và tính được thị phần kết hợp của các bên tham gia thoả
thuận trên thị trường liên quan) và thoả thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc
(thoả thuận giữa các doanh nghiệp ở các khâu, các giai đoạn khác nhau của chu
trình kinh doanh và mỗi bên hoạt động trên thị trường liên quan khác nhau). Vì
vậy, để đảm bảo sự linh hoạt trong việc xác định thoả thuận hạn chế cạnh tranh
sẽ bị xem xét theo quy định của LCT, pháp luật cạnh tranh của nhiều nước trên
thế giới như Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Nhật Bản, Hàn Quốc… không liệt kê các loại
thoả thuận hạn chế cạnh tranh mà thường chỉ đưa ra các tiêu chí để xác định các
thoả thuận giữa các đối thủ cạnh tranh dẫn tới hạn chế cạnh tranh và bao gồm cả
15


các thoả thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang và các thoả thuận hạn chế
cạnh tranh theo chiều dọc. Khác với pháp luật của nhiều nước, Điều 8 LCT Việt
Nam đã giới hạn các loại thoả thuận hạn chế cạnh tranh thuộc phạm vi điều
chỉnh của Luật và chỉ bao gồm 8 loại thoả thuận. Bởi vậy, một số thoả thuận
theo chiều dọc như: Thoả thuận duy trì giá bán lại; thoả thuận hạn chế liên quan
tới việc bán cho người tiêu dùng cuối cùng; thoả thuận phân chia khu vực địa lí
của nhà phân phối hay của đại lí sẽ không được LCT điều chỉnh.[8] Bởi vậy mà

trên thực tế có rất nhiều doanh nghiệp đang “lách luật” để thực hiện các hành vi
này xâm hại trực tiếp đến quyền lợi người tiêu dùng từng giờ, từng ngày.
Thứ năm, các hình thức tập trung kinh tế bị kiểm soát và tiêu chí để
kiểm soát các hành vi tập trung kinh tế chưa được quy định đầy đủ, hợp lí.
Điều 18 LCT quy định: Các hình thức tập trung kinh tế sẽ bị cấm nếu thị phần
kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị
trường liên quan (trừ các trường hợp được miễn trừ theo quy định tại Điều 19
LCT). Theo quy định này, LCT lấy tiêu chí thị phần kết hợp của các bên tham
gia tập trung kinh tế để đặt ra ngưỡng kiểm soát tập trung kinh tế, tức là LCT chỉ
quan tâm đến các trường hợp tập trung kinh tế theo chiều ngang (là hình thức
tập trung kinh tế giữa các doanh nghiệp trong cùng một thị trường liên quan) mà
chưa quan tâm kiểm soát các hoạt động tập trung kinh tế theo chiều dọc (là hình
thức tập trung kinh tế giữa các doanh nghiệp có quan hệ người mua và người
bán với nhau) và tập trung kinh tế hỗn hợp (là hình thức tập trung kinh tế giữa
các doanh nghiệp không cùng hoạt động trên cùng một thị trường sản phẩm
đồng thời cũng không có mối quan hệ khách hàng với nhau). Tuy nhiên, các
hiện tượng tập trung kinh tế theo chiều dọc và tập trung kinh tế hỗn hợp đã và sẽ
diễn ra trong hoạt động kinh doanh và cũng có khả năng gây hại không nhỏ cho
môi trường cạnh tranh nên LCT cần phải có cơ chế thích hợp để kiểm soát. (9)
Theo Điều 18 và Điều 20 của LCT, tiêu chí thị phần kết hợp trên thị trường liên
quan của các bên tham gia tập trung kinh tế là tiêu chí duy nhất và là ngưỡng
được đặt ra để kiểm soát tập trung kinh tế theo chiều ngang. Theo đó, các hình
thức tập trung kinh tế sẽ bị cấm nếu thị phần kết hợp của các bên tham gia tập
16


trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan; các doanh nghiệp tập
trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì
đại diện hợp pháp của các doanh nghiệp đó phải thông báo cho cơ quan quản lí
cạnh tranh trước khi tiến hành tập trung kinh tế; trường hợp thị phần kết hợp của

các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế thấp hơn 30% trên thị trường liên
quan hoặc sau khi tập trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ thì
không phải thông báo. Tuy nhiên, pháp luật cạnh tranh hiện hành chưa hướng
dẫn cụ thể về cách xác định thị trường liên quan trong các trường hợp sáp nhập
doanh nghiệp, hợp nhất doanh nghiệp, mua lại doanh nghiệp, liên doanh giữa
các doanh nghiệp nên rất khó xác định trường hợp nào thì tập trung kinh tế sẽ bị
cấm, trường hợp nào thì phải thông báo vì doanh nghiệp thường hoạt động kinh
doanh nhiều loại hàng hoá, dịch vụ khác nhau. [8]
Thứ sáu, các quy định của Luật cạnh tranh chưa tách biệt được những
hành vi cạnh tranh nào là cạnh tranh lành mạnh và những hành vi nào là cạnh
tranh không lành mạnh. Vì vậy trên thực tế, có những hành vi cạnh trang mang
lại lợi ích cho người tiêu dùng vẫn có thể bị LCT xếp vào mục “hành vi hạn chế
cạnh tranh bị cấm”. Bà Trần Thị Hồng Hạnh, Tổng Thư ký Hiệp hội ngân hàng
Việt Nam cho biết, trước đây, khi lãi suất cao, Hiệp hội rất muốn các ngân hàng
có mức lãi suất thấp để hưởng ứng chỉ đạo của Thống đốc là hạ lãi suất cho
doanh nghiệp. Tuy nhiên, các ngân hàng muốn thống nhất với nhau hạ lãi suất
xuống thấp thì lại sẽ vi phạm Luật Cạnh tranh. Cũng theo bà Hạnh, hoạt động về
thẻ tín dụng là lĩnh vực mới tại Việt Nam, chi phí đầu tư phục vụ hạ tầng và các
chi phí khác rất lớn. Hiện nay, các ngân hàng thu phí thẻ đang bị lỗ, do đó cần
có một mức thu phí sử dụng thẻ hợp lý để bù lại những chi phí đã đầu tư. Tuy
nhiên, nếu cơ quan quản lý đưa ra mức chi phí về thẻ thì lại mang tính chất hành
chính áp đặt. Nếu trong trường hợp các hội viên hội thẻ đặt ra một mức phí tính
khấu hao trên cơ sở tính đủ chi phí thì lại “dính” vào Luật Cạnh tranh.[7]
3.3. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của Luật cạnh tranh
năm 2004 nhằm nâng cao vai trò của Luật cạnh tranh trong bảo vệ người
tiêu dùng
17


Nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong các quy định của Luật

cạnh tranh năm 2004 đã và đang gây tác động xấu đến công tác bảo vệ người
tiêu dùng, người viết mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị sau:
Một là: Bổ sung thêm các đối tượng chủ thể có thể bị xử lý về hành vi
hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh.
Hai là: Bên cạnh hình thức xử phạt tiền với các hành vi hạn chế cạnh
tranh và cạnh tranh không lành mạnh thì cần bổ sung cách thức xử phạt cảnh cáo
đối với các chủ thể thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh khi có một trong các
điều kiện sau: 1) Có nhiều tình tiêt giảm nhẹ, 2) Thuộc trường hợp được hưởng
miễn trừ nhưng doanh nghiệp chưa thực hiện thủ tục hưởng miễn trừ.
Ba là: Ngoài việc quy định mức phạt tiền tối đa tính theo tỉ lệ phần trăm
trên doanh thu của doanh nghiệp vi phạm LCT thì cần quy định mức phạt tiền
tối thiểu (tính theo giá trị nhất định) đối với các doanh nghiệp tham gia thoả
thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm hoặc doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh,
vị trí độc quyền mà trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm
chưa có doanh thu.
Bốn là: Cần đưa ra tiêu chí chung để xác định thế nào là thoả thuận hạn
chế cạnh tranh và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh chứ không phải sử
dụng theo cách liệt kê như Luật cạnh tranh hiện nay. Có như vậy mới đảm bảo
loại trừ được tất cả các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đang xâm hại tới
quyền lợi của người tiêu dùng.
Năm là: Luật Cạnh tranh cần có sự tách biệt rõ giữa các hành vi cạnh
tranh lành mạnh và không lành mạnh thông qua những tiêu chí cụ thể chứ không
phải là một định nghĩa chung chung như ở Khoản 4 Điều 3 LCT hiện nay để
không loại bỏ những hành vi thỏa thuận mang lại lợi ích cho người tiêu dùng.
C.

KẾT LUẬN
Người tiêu dùng được hiểu là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho
mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức. Người tiêu dùng
mặc dù chính là người bỏ tiền ra để duy trì sự tồn tại của các nhà sản xuất, cung

ứng dịch vụ nhưng quyền lợi của họ thì luôn bị xâm phạm.
18


Luật cạnh tranh mặc dù không phải là văn bản chuyên ngành về bảo vệ
người tiêu dùng nhưng cũng đã có những đóng góp không nhỏ vào công tác đảm
bảo quyền lợi cho nhóm đối tượng này.
1) Góp phần đảm bảo quyền được cung cấp thông tin một cách khách quan
và chính xác của người tiêu dùng.
2) Góp phần đảm bảo quyền được lựa chọn của người tiêu dùng, tạo điều
kiện để người tiêu dùng có cơ hội sử dụng các sản phẩm với mức giá
cạnh tranh nhất, chất lượng phù hợp với túi tiền của mình nhất.
3) Góp phần bảo vệ người tiêu dùng trước những hành vi cạnh tranh hạn
chế cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Tuy vậy, sau hơn 10 năm áp dụng vào thực tiễn, các quy định của Luật cạnh
tranh đã bộc lộ nhiều bất cập cần được điều chỉnh để có thể bảo vệ tốt hơn quyền
lợi của người tiêu dùng. Thông qua việc phân tích các bất lợi còn tồn tại người viết
cũng đã mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của Luật
cạnh tranh năm 2004./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Quốc hội, Luật số 27/2004/QH11 – Luật cạnh tranh năm 2004 ban hành ngày

2.

03/12/2004, Hà Nội.
Chính phủ, Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ quy

3.


định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.
Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ (2011),
Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Đặc san tuyên truyền pháp luật số

4.

06/2011, Hà Nội.
Cục quản lý cạnh tranh – Bộ Công thương, Báo cáo thường niên năm 2014, nguồn
trang thông tin điện tử Cục quản lý cạnh tranh – Bộ công thương:
truy cập ngày

5.

10/11/2015.
Trịnh Anh Tuấn, Vai trò của Luật cạnh tranh trong công tác bảo vệ người tiêu
dùng, nguồn:

/>
trong-cong-tac-bao-ve-nguoi-tieu-dung.htm?page=4, truy cập ngày 10/11/2015.

19


6.

Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Ví dụ về cạnh tranh không lành mạnh ảnh hưởng đến
người tiêu dùng, nguồn: />
7.


lanh-manh-anh-huong-den-nguoi-tieu-dung.htm, truy cập ngày 10/11/2015.
La Hoàn (tổng hợp), Nhìn lại Luật cạnh tranh Việt Nam sau 10 năm thực thi,
nguồn trang Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia:
/>
8.

truy cập ngày 11/11/2015.
TS. Nguyễn Thị Vân Anh, Một số bất cập trong pháp luật điều chỉnh hành vi hạn
chế

cạnh

tranh

của

Việt

Nam,

Tạp

chí

luật

học

số


4/2011,

nguồn: />truy cập ngày 11/11/2015.

20



×