Tải bản đầy đủ (.doc) (138 trang)

Đẩy mạnh thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn quận hải an – TP hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (556.42 KB, 138 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
Quận Hải An được thành lập theo nghị định số 106/NĐ-CP
ngày 20 tháng 12 năm 2002 của Chính Phủ, trên cơ sở sát nhập 5 xã
của huyện An Hải và một phường của quận Ngô Quyền.
Hải An là một quận có tiềm năng về đất đai và phát triển kinh
tế, xã hội, xây dựng các cơ sỏ hạ tầng, có nguồn nhân lực dồi dào,
có vị trí địa lý thuận lợi so với các quận nội thành của thành phố Hải
Phòng như: Ngô Quyền, Lê Chân, Hồng Bàng (có cảng biển, cảng
hàng không, gần trung tâm thành phố…) để thu hút đầu tư, có vị trí
quan trọng trong chuyển dịch kinh tế theo xu hướng của kinh tế thị
trường. Phát triển kinh tế của quận sẽ có vai trò quan trọng trong
phát triển kinh tế của thành phố Hải Phòng trong tương lai. Quận
cũng có lợi thế cho phát triển các KCC, CCN góp phần thu hút
nghiều nguồn lực đầu tư trong và ngoài nước đẩy mạnh quá trình
công nghiệp hóa của Thành phố Hải Phòng.
Chính vì vậy, hiểu được thực trạng thu hút đầu tư vào các
KCN trên địa bàn quận Hải An, từ đó đánh giá được kết quả cũng
như hạn chế còn tồn tại, sẽ giúp chúng ta tìm ra được những giải
pháp hiệu quả nhất để đẩy mạnh thu hút đầu tư vào các KCN trên
địa bàn quận.
1- Tính cấp thiết của đề tài


2

Trong thời đại ngày nay, khi kinh tế nhân loại ngày càng gia
tăng tính toàn cầu hoá, việc thu hút nguồn lực từ bên ngoài của các
nước đang phát triển phổ biến hướng vào thu hút đầu tư, công nghệ
tiên tiến thích hợp và phương thức quản lý hiện đại.


Sự ra đời của các Khu công nghiệp trên địa bàn Quận Hải An –
TP Hải Phòng đã chứng minh lợi thế trong việc tạo ra điều kiện, thể
chế và môi trường thuận lợi cho quá trình thu hút, sử dụng vốn, công
nghệ, trình độ quản lý tiên tiến từ bên ngoài vào địa phương. Nghĩa là
vừa phát huy tốt nội lực, vừa huy động ngoại lực có hiệu quả góp
phần quan trọng đẩy mạnh phát triển kinh tế của Quận Hải An cũng
như của TP Hải Phòng, tạo thêm nhiều việc làm cho người dân địa
phương, góp phần xóa đói giảm nghèo và nâng cao đời sống kinh tế
và tri thức cho người dân Hải Phòng, nhờ đó thúc đẩy quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và chủ động hội nhập kinh tế với
nước ngoài.
Hiện nay, các khu Công nghiệp trên địa bàn Hải An đã góp
phần đẩy mạnh sự phát triển Kinh tế - Xã hội của Quận và Thành
Phố Hải Phòng nhưng mật độ phủ kín các khu Công nghiệp trên địa
bàn quận vẫn chưa cao. Vì thế cần có các giải pháp góp phần đẩy
mạnh thu hút đầu tư vào các khu Công nghiệp trên địa bàn Quận.
Hải An là một quận mới thành lập với đầy đủ lợi thế về đất
đai, chính sách, cơ sở hạ tầng… của một quận cho phát triển các
KCN, KCX. Chính vì vậy, thu hút đầu tư vào các KCN của quận


3

chính là tiền đề quan trọng cho sự phát triển ngành công nghiệp của
thành phố Hải Phòng hiện tại và trong tương lai.
Xuất phát từ thực tế đó, tôi đã chọn đề tài: “Đẩy mạnh thu
hút đầu tư vào các Khu công nghiệp trên địa bàn Quận Hải An –
TP Hải Phòng” là đề tài cho luận văn thạc sỹ.
2- Mục đích nghiên cứu
Phân tích thực trạng về tình hình thu hút đầu tư vào các khu

công nghiệp trên địa bàn Quận Hải An, từ đó đánh giá được những
kết quả đạt được cũng như những hạn chế và nguyên nhân của nó,
trên cơ sở đó đưa ra được những giải pháp phù hợp và hiệu quả nhất
để đẩy mạnh thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn
quận Hải An – TP Hải Phòng.
3- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu tình
hình thu hút đầu tư (vốn, công nghệ, trình độ quản lý, lao động…)
của các nhà đầu tư cả trong nước và nước ngoài vào các khu công
nghiệp trên địa bàn Quận Hải An.

Phạm vi nghiên cứu:

- Không gian: Luận văn nghiên cứu tình hình thu hút đầu tư
vào các KCN trên địa bàn Quận Hải An.
- Thời gian: Các nội dung nghiên cứu tập trung trong giai đoạn
2003 - 2008


4

4- Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như phân
tích tổng hợp, so sánh, phương pháp đối chiếu, khái quát hoá, thống
kê… trên cơ sở sử dụng số liệu thống kê và tư liệu của các khu công
nghiệp trên địa bàn Quận Hải An để phân tích, đánh giá, rút ra kết
luận cho vấn đề nghiên cứu.
5- Đóng góp của đề tài
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản về thu hút đầu tư vào
các KCN.

- Đánh giá thực trạng thu hút đầu tư vào các KCN trên địa bàn
Quận Hải An – TP Hải Phòng.
- Đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư vào các
KCN trên địa bàn quận Hải An – TP Hải Phòng.
6- Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu thành ba chương:
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THU
HÚT ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP.


5

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ VÀO CÁC
KHU CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HẢI AN – TP
HẢI PHÒNG.
CHƯƠNG III: MỐT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH THU HÚT
ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN HẢI AN – TP HẢI PHÒNG


6

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THU
HÚT ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP

1.1 Khái quát chung về đầu tư và Khu công nghiệp.
1.1.1 Đầu tư.
1.1.1.1 Khái niệm đầu tư.
Luật Đầu tư được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa

Việt Nam khóa XI, kỳ họp tứ 8 (Từ ngày 18 tháng 10 đến ngày 29
tháng 11 năm 2005) thông qua, quy định:
Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu
hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu
tư theo quy định của pháp luật.
1.1.1.2 Phân loại đầu tư.
Căn cứ vào hình thức đầu tư, có thể phân đầu tư ra làm hai
loại:
- Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn
đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
- Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ
phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng


7

khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà
đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
Căn cứ vào nguồn hình thành vốn đầu tư, có thể phân đầu tư làm
hai loại:
- Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn
bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu
tư tại Việt Nam.
- Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào
Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành
hoạt động đầu tư.
1.1.1.3 Khái niệm vốn đầu tư.
Vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện
các hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư
gián tiếp.

1.1.2 Khu công nghiệp.
1.1.2.1 Khái niệm Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công
nghệ cao.
Theo Luật đầu tư được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 8 (Từ ngày 18 tháng 10 đến
ngày 29 tháng 11 năm 2005) thông qua thì:


8

Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và
thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý
xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ.
Khu chế xuất là KCN chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực
hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất
khẩu, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của
Chính phủ.
Khu công nghệ cao là khu chuyên nghiên cứu phát triển, ứng
dụng công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao, đào tạo
nhân lực công nghệ cao, sản xuất và kinh doanh sản phẩm công
nghệ cao, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định
của Chính phủ.
Đặc điểm của KCN:
- KCN có ranh giới địa lý xác định được phân cách bằng
đường bao hữu hình hoặc vô hình, không có dân cư sinh sống.
- Là nơi hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp công nghiệp
(hàng tiêu dùng, hàng công nghiệp chế biến, hàng tư liệu sản xuất)
và hệ thống doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và doanh nghiệp dịch
vụ cho sản xuất công nghiệp. Các doanh nghiệp này sử dụng chung
hạ tầng kỹ thuật và xã hội theo một cơ chế tổ chức quản lý thống

nhất của Ban quản lý KCN.


9

- Được sự quản lý trực tiếp của Chính phủ. (từ quyết định
thành lập, quy hoạch tổng thể, khung điều lệ mẫu, kiểm tra, kiểm
soát..).
- Trong KCN có doanh nghiệp phát triển hạ tầng KCN, có
trách nhiệm đảm bảo hạ tầng kỹ thuật và xã hội của cả khu trong
suốt thời gian tồn tại KCN.
1.1.2.2 Các loại hình Khu công nghiệp.
- Phân loại KCN theo quy mô: có 2 loại
+ KCN tập trung: có quy mô từ 50 ha trở lên.
+ KCN vừa và nhỏ: có quy mô nhỏ hơn 50 ha.
- Phân theo chủ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng KCN: có 3 loại.
+ KCN do doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài làm chủ đầu
tư. Ví dụ: KCN Hà Nội - Đài Tư (Hà Nội).
+ KCN do liên doanh giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài và các doanh nghiệp trong nước. Đặc trưng của các KCN này
là được xây dựng hiện đại có quy mô thường lớn hơn 100 ha, xuất
đầu tư bình quân 1triệu USD/ha. Thường ở các KCN này khi xây
dựng hoàn chỉnh mới cho các nhà đầu tư thuê xây dựng hạ tầng.


10

Điển hình ở Việt Nam có các khu: KCN Nomura (Hải Phòng),
KCN Nội Bài (Hà Nội), KCN Đà Nẵng (Đà Nẵng)...
+ KCN do doanh nghiệp trong nước làm chủ đầu tư. Đặc trưng

của các KCN này thường được xây dựng theo hình thức cuốn chiếu
(xây dựng đến đâu cho các nhà đầu tư thuê sau đó mới tiếp tục xây
dựng tiếp), xuất đầu tư của các KCN này bình quân 120.000
USD/ha
Điển hình ở Việt Nam có các khu: KCN Tiên Sơn (Bắc Ninh),
KCN Lệ Môn (Thanh Hoá), KCN Bắc Vinh (Nghệ An)...
- Phân theo mục đích phát triển KCN. Có các hình thức sau:
+ KCN nhằm thu hút đầu tư nước ngoài: Thường tập trung ở
các thành phố lớn, các trung tâm kinh tế lớn của đất nước. Quy
mô thường lớn hơn 100 ha.
+ KCN nhằm di dời các cơ sở công nghiệp trong các thành
phố, đô thị lớn. Thường tập trung ở các thành phố lớn, có quy mô
nhỏ hơn 100 ha. Đơn cử như KCN Phú thị (Hà Nội), KCN Thanh trì
(Hà Nội)...
+ KCN gắn với ưu thế của địa phương. Thường có quy mô
nhỏ hơn 100 ha, gắn với lợi thế của địa phương và chế biến các
nông sản, thực phẩm do địa phương đó sản xuất ra. Điển hình ở Việt


11

Nam có các khu: KCN Phú Khánh (Thái Bình), KCN Tâm Thắng
(Đắc Nông)...
- Phân theo đặc điểm ngành công nghiệp:
+ KCN tập trung các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp
chế tạo: Như KCN Phú Mỹ 1 (Bà Rịa-Vũng Tàu) tập trung các dự
án về thép, phân bón, điện, khí.
+ KCN tập trung các ngành công nghiệp nhẹ và sản xuất hàng
tiêu dùng: sản xuất các sản phẩm: may mặc, điện tử, da-giầy, xe
máy, .v.v. Như KCN Biên Hoà II (Đồng Nai), KCN Đồng An (Bình

Dương)....
+ KCN tập trung các ngành công nghiệp dịch vụ: chuyên sản
xuất các sản phẩm phục vụ cho các ngành công nghiệp như: bao bì,
đóng gói, .v.v. Như KCN Bình Đường (Bình Dương).
+ KCN gắn với nông nghiệp, nông thôn: gồm các ngành công
nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp, sản xuất các sản phẩm hỗ
trợ cho nông nghiệp và nông thôn. Như KCN Phúc Khánh (Thái
Bình), Tâm thắng (Đắc Nông) .v.v.
- Phân theo trình độ công nghệ hoá:
+ KCN tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công
nghệ thấp và trung bình tương đương với trình độ công nghệ của


12

các doanh nghiệp công nghiệp ngoài khu. Như KCN Bình Đường
(Bình Dương), KCN Lê Minh Xuân (thành phố Hồ Chí Minh).v.v.
+ KCN tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công
nghệ khá so với các ngành công nghiệp trong nước nhưng chỉ đạt
mức trung bình trong khu vực. Như KCN Nội Bài (Hà Nội), KCN
Sài Đồng B (Hà Nội).v.v.
+ KCN tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công
nghệ khá so với khu vực. Như KCN Thăng Long (Hà Nội), KCN
Vĩnh Lộc (thành phố Hồ Chí Minh).v.v.
+ KCN tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công
nghệ tiên tiến so với khu vực và thế giới như KCN Nomura (Hải
Phòng).
1.1.2.3 Ban quản lý các Khu công nghiệp cấp tỉnh.
Theo điều 27, Quy chế KCN, KCX, KCNC (Ban hành kèm
theo Nghị định số 36/CP ngày 24 tháng 4 năm 1997 của Chính phủ)

thì Ban quản lý KCN cấp Tỉnh là Cơ quan trực tiếp quản lý các
KCN do Thủ tướng Chính phủ thành lập, có nhiệm vụ và quyền
hạn:
- Xây dựng Điều lệ quản lý KCN trên cơ sở Điều lệ mẫu do
Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành trình UBND cấp Tỉnh phê duyệt.
Trường hợp Điều lệ quản lý KCN trên địa bàn liên Tỉnh thì Bộ kế


13

hoạch và Đầu tư phê duyệt. Đối với Điều lệ quản lý KCNC thì do
Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt.
- Tổ chức xây dựng và quản lý thực hiện quy hoạch chi tiết,
tiến độ xây dựng, phát triển KCN bao gồm: quy hoạch phát triển
công trình kết cấu hạ tầng; quy hoạch bố trí ngành nghề tham gia
phát triển công trình kết cấu hạ tầng ngoài KCN liên quan và khu
dân cư phục vụ cho công nhân lao động tại KCN.
- Đôn đốc, kiểm tra việc xây dựng các công trình kết cấu hạ
tầng trong và ngoài KCN liên quan để đảm bảo việc xây dựng và
đưa vào hoạt động đồng bộ theo đúng quy hoạch và tiến độ được
duyệt.
- Hỗ trợ, vận động đầu tư vào KCN.
- Tiếp nhận đơn xin đầu tư kèm theo dự án đầu tư, tổ chức
thẩm định và cấp Giấy phép đầu tư cho các dự án nước ngoài theo
sự uỷ quyền của Bộ Kế hoạch và Đầu tư; quyết định đầu tư cho
các dự án trong nước theo sự uỷ quyền của UBND Tỉnh; tiếp nhận
hồ sơ thành lập doanh nghiệp trong nước và các chính sách ưu
đãi, để cấp có thẩm quyền cấp giấy phép. Phê duyệt kế hoạch xuất
nhập khẩu, cấp Chứng chỉ xuất xứ hàng hoá sau khi được uỷ
quyền của Bộ Thương mại. Tiếp nhận hồ sơ xin cấp giấy phép lao

động cho người nước ngoài sau khi được uỷ quyền của Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội.


14

- Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện giấy phép đầu tư, hợp
đồng gia công sản phẩm, hợp đồng cung cấp dịch vụ, hợp đồng kinh
doanh, các tranh chấp kinh tế theo yêu cầu của đương sự.
- Phối hợp với các Cơ quan quản lý Nhà nước về lao động
trong việc kiểm tra, thanh tra các quy định của pháp luật về hợp
đồng lao động, thoả ước lao động tập thể, an toàn lao động tiền
lương.
- Quản lý hoạt động dịch vụ KCN.
- Thoả thuận với Công ty phát triển hạ tầng KCN trong việc
định giá cho thuê đất gắn liền với công trình kết cấu hạ tầng đã xây
dựng, các loại phí dịch vụ theo đúng chính sách và pháp luật hiện
hành.
- Cấp, điều chỉnh và thu hồi các loại giấy chứng chỉ thuộc
thẩm quyền hoặc theo uỷ quyền; cấp, điều chỉnh và thu hồi các
loại giấy phép theo uỷ quyền.
- Được mời đại diện tham dự các cuộc họp của cơ quan
Chính phủ và UBND cấp Tỉnh khi bàn về việc hình thành, xây
dựng, phát triển và quản lý KCN.
- Báo cáo định kỳ và hàng năm theo quy định của pháp luật về
tình hình hình thành, xây dựng, phát triển và quản lý các KCN về
UBND cấp Tỉnh, các Cơ quan Chính phủ có liên quan.


15


1.2 Những vấn đề lý luận cơ bản về thu hút đầu tư vào
các KCN.
1.2.2 Sự cần thiết hình thành các khu công nghiệp.
Văn kiện Đại hội IX của Đảng ghi rõ: "Đường lối kinh tế của
Đảng ta là: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp;
ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ
sản xuất phù hợp theo định hướng Xã hội chủ nghĩa; phát huy cao
độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững;
tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát
triển kinh tế - xã hội với tăng trưởng quốc phòng - an ninh".
Trong quá trình thực hiện CNH, HĐH ở Việt Nam. Các
KCN, KCX thực sự có vai trò đóng góp rất quan trọng, kể từ khi
hình thành và phát triển đến nay. Tuy thời gian phát triển chưa
lâu, nhưng các KCN, KCX Việt Nam bước đầu đã khẳng định
được vai trò của mình là một lực lượng công nghiệp mạnh, có
đóng góp ngày càng to lớn trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Vai trò quan trọng và hiệu quả kinh tế của
việc xây dựng và phát triển các KCN, KCX đã được Đảng và
Nhà nước ta xác định rõ trong các Văn kiện quan trọng về


16

đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nghị quyết
Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII đã nêu rõ: "Quy hoạch các
vùng, trước hết là các địa bàn trọng điểm, các khu chế xuất, khu

kinh tế đặc biệt, khu công nghiệp tập trung". Nghị quyết Đại hội
VIII đã cụ thể hóa: "Hình thành các khu công nghiệp tập trung
(bao gồm cả khu chế xuất và khu công nghệ cao), tạo địa bàn
thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới. Phát
triển mạnh công nghiệp nông thôn và ven đô thị, ở các thành
phố, thị xã, nâng cấp, cải tạo các cơ sở công nghiệp hiện có, đưa
các cơ sở không có khả năng xử lý ô nhiễm ra ngoài thành phố,
hạn chế việc xây dựng cơ sở công nghiệp mới xen lẫn với khu
dân cư". Hội nghị Trung ương 4 (khóa VIII) đã xác định phương
hướng phát triển KCN trong những năm tiếp theo là: "phát triển
từng bước và nâng cao hiệu quả các khu công nghiệp". Đây
cũng là những định hướng quan trọng của Đảng và Nhà nước về
xây dựng và phát triển các KCN, KCX nhằm thúc đẩy tiến trình
CNH, HĐH đất nước. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII tại đại hội lần thứ IX của Đảng về
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2005 tiếp tục khẳng
định "Quy hoạch phân bố hợp lý công nghiệp trên cả nước. Phát
triển có hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế xuất, xây dựng
một số khu công nghệ cao, hình thành các cụm công nghiệp lớn
và khu kinh tế mở".


17

1.2.3 Vai trò của Khu công nghiệp và thu hút đầu tư vào
khu công nghiệp đối với phát triển kinh tế - xã hội
của từng địa phương và từng vùng trong cả nước.
Vai trò của KCN được thể hiện qua việc làm thoả mãn hài hoà
các mục tiêu của các nhà đầu tư và của quốc gia, địa phương có
KCN.

1.2.3.1 Vai trò kinh tế:
KCN, với việc tập trung đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng
kỹ thuật và áp dụng mô hình quản lý đặc biệt, là một mô hình tổ
chức sản xuất công nghiệp hiện đại, có hiệu quả, tạo sự hấp dẫn
trong thu hút đầu tư trong và ngoài nước và là một trong những giải
pháp quan trọng để đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH đất nước.
Phát triển KCN đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
công nghiệp, đẩy nhanh tốc độ, tạo ra những bước đột phá trong
phát triển công nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế xã hội nói
chung của mỗi địa phương và toàn vùng kinh tế của cả nước.
Riêng các KCN ước tính đã đóng góp hơn 1/4 giá trị sản xuất
công nghiệp toàn quốc. Trong thời kỳ 2001 - 2005, tổng giá trị
sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN, KCX (kể cả
trong nước và nước ngoài) đạt khoảng 44,4 tỷ USD, tăng bình
quân khoảng 32%/năm, giá trị xuất khẩu đạt trên 22,3 tỷ USD,
tăng bình quân khoảng 24%/năm - cao hơn tốc độ tăng trưởng
bình quân giá trị xuất khẩu công nghiệp của cả nước (đạt bình


18

quân khoảng 17%/năm), giá trị nhập khẩu đạt khoảng 27,3 tỷ
USD, tăng bình quân khoảng 32%/năm, nộp ngân sách tăng
mạnh và đạt khoảng 2 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 45%/năm,
thu hút khoảng 953 ngàn lao động trực tiếp tính đến cuối năm
2005 (tăng gấp 3,7 lần so với năm 2001).
KCN, với cơ sở hạ tầng sẵn có và với những ưu đãi của Nhà
nước nên rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong nước và nước
ngoài, đóng vai trò quan trọng trong việc huy động các nguồn lực
phát triển. Thu hút đầu tư nước ngoài là một trong những chiến lược

quan trọng của nước ta.
Áp dụng nguyên lý tập trung theo chiều dọc trong xây dựng
nhà máy ở KCN nên nguồn nguyên liệu tại chỗ được sử dụng tối
đa và giá thành sản phẩm giảm đáng kể. Các KCN được trang bị
đầy đủ cơ sở hạ tầng nên các nhà đầu tư khi đến các KCN sẽ giảm
được rất nhiều chi phí ngoại doanh nghiệp như chi phí mua đất
xây dựng nhà máy với giá cao, phí tự xây dựng nhà máy, đường
giao thông, hệ thống điện. Nhờ có sẵn các doanh nghiệp cung cấp
đầu vào và tạo đầu ra cho nhà máy do các nhà máy được tập trung
vào một khu vực nên các doanh nghiệp giải quyết dễ dàng đầu ra,
đầu vào với chi phí thấp nhất.
Sự phát triển nhanh, có chất lượng của các KCN có tác động
rất tích cực đối với sự chuyển dịch cơ cấu của một tỉnh, một vùng


19

và của cả nước. Góp phần tăng trưởng kinh tế, tạo thêm năng lực
sản xuất mới, tạo nguồn hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước
và xuất khẩu. Tạo điều kiện phát triển công nghiệp theo quy hoạch,
tránh tự phát, phân tán, tiết kiệm đất đai, sử dụng có hiệu quả vốn
đầu tư, tiết kiệm chi phí sản xuất.
KCN là hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế vùng, lãnh thổ,
đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá. Phát triển các KCN là nhân tố thúc đẩy
tốc độ đô thị hoá và tác động lan toả tích cực trong việc CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn. Mặt khác, KCN là ″hạt nhân” trong chuỗi
quy hoạch đô thị sẽ được hình thành trong tương lai với hệ thống
kết cấu hạ tầng ngoài KCN có chất lượng cao, gắn với sự hình thành
các khu dân cư, khu thương mại, dịch vụ và các khu phù trợ khác.
KCN là nơi tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và học tập

kinh nghiệm quản lý các công ty tư bản nước ngoài. Để tránh bị tụt
hậu về kinh tế, đặc biệt trong sản xuất công nghiệp và tăng sức cạnh
tranh hàng xuất khẩu trên thị trường thế giới.
1.2.3.2 Vai trò xã hội.
- Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động: Từ một nước
nông nghiệp đang ở trong giai đoạn đầu của quá trình CNH, nhu cầu
việc làm rất lớn. Phát triển công nghiệp nói chung và các KCN nói
riêng nhằm tạo ra nhiều việc làm, thu hút ngày càng nhiều lao động


20

dư thừa ở khu vực nông nghiệp, góp phần nâng cao năng suất ở khu
vực này.
Người lao động ở các KCN có nhiều cơ hội để phát triển so
với việc họ thường nghỉ dài trong mùa nông nhàn, không có việc
làm hoặc có việc làm nhưng thu nhập rất ít, bấp bênh. Họ được
trực tiếp tiếp cận với công nghệ sản xuất hiện đại, phương thức
quản trị kinh doanh tiên tiến và được đào tạo kỹ năng chuyên
môn để đáp ứng yêu cầu công việc. Nhờ vậy, trình độ tay nghề
và sức sáng tạo của người lao động được nâng lên rõ rệt, đồng
thời họ cũng rèn cho mình tác phong làm việc công nghiệp, có
hiệu quả và năng suất cao, góp phần làm lành mạnh hoá các quan
hệ xã hội, tạo nên một thị trường lao động với đầy đủ yếu tố
cung cấp và cạnh trạnh. Qua đó thúc đẩy sự quan tâm của xã hội
đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo, làm chuyển đổi cơ cấu lao
động và hình thành đội ngũ lao động lành nghề. Đối với Việt
Nam, đào tạo nguồn nhân lực là một việc làm quan trọng vì lao
động có chuyên môn và hàm lượng chất xám cao sẽ làm ra những
sản phẩm có giá trị cao, đóng góp tích cực vào quá trình CNH,

HĐH đất nước; đồng thời làm thay đổi cơ cấu lao động vốn chủ
yếu là lao động nông nghiệp. Theo số liệu thống kê, hệ thống đào
tạo nghề của Việt Nam gồm 157 trường dạy nghề, 137 trường đại
học, cao đẳng có đào tạo nghề, 148 trung tâm dạy nghề, 147
trung tâm xúc tiến việc làm và dịch vụ việc làm có dạy nghề.


21

Ngoài ra còn có hàng trăm trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp
hướng nghiệp và các trung tâm giáo dục thường xuyên có đào tạo
nghề. Trên thực tế, một số KCN, KCX đã thành lập các cơ sở,
trường dạy nghề tại địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo
và cung ứng lao động cho các KCN, KCX khác như Trường dạy
nghề Dung Quất (KCN Dung Quất), Trung tâm dạy nghề Việt
Nam - Singapore (KCN Việt Nam - Singapore), Trường dạy nghề
Nghi Sơn (KCN Nghi Sơn), Trường kỹ nghệ Thừa Thiên - Huế
(KCN Phú Bài)...
Người lao động trong KCN, KCX thường xuyên có việc
làm, thu nhập tăng và đời sống khá ổn định, giúp họ xoá đói
giảm nghèo, giảm bớt các tệ nạn xã hội. Những năm gần đây
người lao động ngày càng được hưởng nhiều chính sách ưu đãi
của Nhà nước, cũng như được đảm bảo các quyền lợi về lao
động.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng địa phương, tác động tích
cực đến các ngành khác trong nền kinh tế. Tăng trưởng GDP, góp
phần tăng ngân sách nhà nước.
Đối với phát triển kinh tế - xã hội vùng. Trên cơ sở lợi thế của
vùng, phát triển KCN vừa khai thác lợi thế của vùng và vừa tránh
được đầu tư phân tán, phát huy được hiệu quả của vốn đầu tư xây

dựng cơ sở hạ tầng. Phát triển KCN là phát triển công nghiệp theo


22

quy hoạch nên tiết kiệm và phát huy hiệu quả sử dụng đất và các
nguồn lực khác, hình thành các đô thị mới, thực hiện văn minh, tiến
bộ xã hội, giảm khoảng cách giữa các vùng nông thôn và thành thị.
Phát triển KCN là giải pháp quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ở các vùng.
1.2.3.3 Bảo vệ môi trường.
Do tập trung các cơ sở sản xuất nên có điều kiện thuận lợi
trong việc kiểm soát, xử lý chất thải và bảo vệ môi trường. KCN
là địa điểm tốt để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm từ nội
thành, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững.
Phát triển KCN là phát triển công nghiệp theo quy hoạch,
qua đó góp phần đẩy mạnh các hoạt động kinh tế xã hội theo định
hướng bảo vệ môi trường và phát triển bền vững; ngăn chặn tình
trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường.
1.3 Một số nhân tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư vào
các KCN.
1.3.1 Hệ thống luật pháp.
Hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN, các doanh
nghiệp xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN, Ban quản lý các KCN
đều phải tuân thủ quy định của pháp luật như: Quy chế KCN, KCX,
KCNC, Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài, Luật lao động,
Luật đất đai, Luật môi trường... Do vậy nếu các luật này được ban


23


hành với nội dung cụ thể, đồng bộ và được sử dụng có hiệu lực
thống nhất giữa các cơ quan thi hành luật thì sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho các hoạt động trong KCN.
Về môi trường pháp lý cho việc thực hiện đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào KCN thì Việt Nam còn phải tiếp tục hoàn thiện
nhiều để tương đồng với các nước ASEAN. Chúng ta phải
nhanh chóng ban hành các chính sách có liên quan đến đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào các KCN, nhằm tạo ra một hệ thống
văn bản pháp quy đồng bộ cho hoạt động đầu tư vào các KCN
cũng như sự vận hành nền kinh tế nói chung. Đó là việc ban
hành các đạo luật còn thiếu và sửa đổi các đạo luật trái với
thông lệ quốc tế.
1.3.2 Nhóm các yếu tố liên quan đến quản lý nhà nước và
thủ tục hành chính.
Ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất được uỷ quyền
cấp giấy phép đầu tư cho các loại dự án:
Phù hợp với quy hoạch của khu công nghiệp.
Doanh nghiệp chế xuất có quy mô vốn đến 40 triệu USD.
Các dự án sản xuất có quy mô vốn đến 10 triệu USD.
Các dự án dịch vụ công nghiệp có quy mô vốn đến 5 triệu
USD.


24

Không thuộc danh mục các dự án có tiềm năng gây ảnh
hưởng đến môi trường.
Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất phải cố gắng hoạt
động theo cơ chế một cửa, tại chỗ, giải quyết nhanh các thủ tục hành

chính cho các nhà đầu tư vào khu công nghiệp.
Thời gian giải quyết các thủ tục hành chính là rất quan trọng.
Để doanh nghiệp nhanh chóng tiến hành sản xuất kinh doanh thì
thời gian phê duyệt, quyết định cấp giấy phép đầu tư, cũng như thời
gian thẩm định thiết kế kỹ thuật, thẩm định môi trường cho các dự
án trong khu công nghiệp phải nhanh chóng. Cải cách thủ tục hành
chính, rút ngắn thời gian phê duyệt, sẽ là một yếu tố giúp cho doanh
nghiệp giảm thiểu được chi phí giao dịch trong quá trình sản xuất
kinh doanh.
1.3.3 Về lao động.
Lao động là một trong những yếu tố đầu vào của sản xuất, như
vậy chất lượng lao động và giá cả lao động cũng sẽ quyết định hiệu
quả sản xuất của doanh nghiệp. Lao động ở Việt Nam nói chung dồi
dào, nhưng lao động tay nghề thấp chiếm tỷ trọng cao. Khả năng
đáp ứng nhu cầu về lao động có tay nghề cao ở một số lĩnh vực, đặc
biệt là các ngành công nghệ cao ở Việt Nam còn hạn chế, nên hầu
hết các doanh nghiệp ( kể cả doanh nghiệp trong khu công nghiệp )
đều phải tự đào tạo lao động cho mình, như vậy sẽ làm chậm quá


25

trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì thời gian đào tạo
thường dài và chi phí đào tạo khá lớn. Nếu trong các khu công
nghiệp có dịch vụ cung cấp lao động thoả mãn nhu cầu của doanh
nghiệp được thực hiện tốt thì sẽ đem lại hiệu quả cho cả doanh
nghiệp, công ty phát triển cơ sở hạ tầng khu công nghiệp và Ban
quản lý khu công nghiệp.
Lao động là một trong những yếu tố đầu vào của sản xuất,
chất lượng lao động và giá cả lao động cũng sẽ quyết định đến

hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong điều kiện
sản xuất như hiện nay, về cơ bản người lao động nước ta đáp ứng
được yêu cầu và có mặt bằng tiền lương thấp hơn các nước trong
khu vực. Đây là một yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư.
1.3.4 Các yếu tố liên quan đất đai, cơ sở hạ tầng.
Về giá đất: Giá thuê đất trong KCN sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
quyết định đầu tư của các nhà đầu tư (nhất là các nhà đầu tư trong
nước). Do đó nếu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, xem xét hỗ
trợ các doanh nghiệp khi thuê đất trong KCN để đảm bảo giá thuê
đất hợp lý thì cũng là một cách tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư.
Về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: cũng là một
yếu tố tạo nên tính hấp dẫn của môi trường đầu tư. Nếu có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, các doanh nghiệp có thể dùng nó để
huy động vốn, thế chấp khi cần vay tín dụng.


×