Tải bản đầy đủ (.doc) (186 trang)

Giải pháp triển khai tính chi phí kinh doanh tại công ty TNHH thương mại hiệp quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4 MB, 186 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU

Lời mở đầuLỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Việt nam đang trên đà phát triển kinh tế thị trường. Trong nền
kinh tế này, các sản phẩm, dịch vụ do doanh nghiệp làm ra khó bán
hơn mua thì sự cạnh tranh quyết liệt để bán được hàng là điều tất
yếu. Để có được sức mạnh cạnh tranh trên thị trường, doanh nghiệp
phải áp dụng các công nghệ, kỹ thuật tiên tiến của thế giới, đổi mới
bộ máy quản lý cồng kềnh, xây dựng văn hóa doanh nghiệp…và
điều quan trọng hơn là doanh nghiệp cần có cách tính chi phí sản
xuất kinh doanh một cách chính xác, sát thực với thị trường để ra
quyết định quản trị đúng đắn, kịp thời. Để đạt được điều này, trước
hết doanh nghiệp cần có các thông tin kinh tế cần thiết, thông tin
kinh tế này có hai loại: thông tin kinh tế phục vụ bên ngoài và thông
tin kinh tế phục vụ bên trong doanh nghiệp. Các thông tin kinh tế
phục vụ bên ngoài doanh nghiệp, chủ yếu phục vụ cho cơ quan quản
lý vĩ mô của Nhà nước, cơ quan Nhà nước, do vậy mang tính chất
bắt buộc thống nhất và kiểm tra được. Ngoài ra các thông tin kinh tế
này phục vụ cho nhiều đối tượng khác nhau như: bạn hàng, khách
hàng, cán bộ, công nhân viên của doanh nghiệp, các nhà cung ứng,
các nhà đầu tư….Tuy nhiên các doanh nghiệp cũng phải hiểu biết

1


2

hết sức rõ ràng về bản thân mình thì mới có các quyết định đúng


đắn. Về bản chất thì hoạt động quản trị là quá trình chuẩn bị và ra
quyết định quản trị, do vậy bộ máy quản trị cần nắm rõ các thông
tin hết sức quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết định quản
trị, đó là các thông tin kinh tế phục vụ bên trong doanh nghiệp. Có
thể nói thông tin kinh tế bên trong đặc biệt quan trọng, có rất nhiều
loại thông tin kinh tế phục vụ bên trong doanh nghiệp như thông tin
về nguồn nhân lực, công nghệ, thiết bị, tính CPKD..song thông tin
bên trong căn bản nhất chính là tính CPKD . Tính CPKD làm cơ sở
cho việc ra quyết định quản trị. Quản trị là quan trọng, do vậy việc
ra quyết định phải đảm bảo tính chính xác và hiệu quả.
Thông tin kinh tế phục vụ bên ngoài được lấy từ các báo cáo tài
chính của kế toán tài chính doanh nghiệp. Một trong những thông
tin mà kế toán tài chính mang lại đó là CPTC và giá thành SP. Chi
phí này được tính dựa theo những quy định của Bộ tài chính áp
dụng chung cho nền kinh tế quốc dân. Các nhà quản trị thấy rằng,
nếu sử dụng kết quả tính chi phí của kế toán tài chính để ra quyết
định kinh doanh kết quả là trong rất nhiều trường hợp ra quyết định
kinh doanh không chính xác, đơn cử một ví dụ: quy định khấu hao
của Bộ tài chính cho kế toán tài chính của một loại thiết bị máy móc
là 15 năm được áp dụng chung cho mọi doanh nghiệp sử dụng loại
thiết bị máy móc này. Song trong thực tế có doanh nghiệp kinh
doanh kém hiệu quả nên sử dụng trên 15 năm. Ngược lại, có những

2


3

doanh nghiệp chỉ sử dụng 7 đến 10 năm, sau đó thanh lý, nhượng
bán để mua loại máy móc khác thay thế. Như vậy nếu dựa vào quy

định khấu hao của Nhà nước, sẽ không đúng với thực tế doanh
nghiệp kéo theo đó là các quyết định quản trị không chính xác. Hơn
thế nữa, trong điều kiện kinh tế thị trường, giá cả vận động theo quy
luật cung cầu nhìn chung là tăng dần, việc hạch toán và tính chi phí
sản xuất kinh doanh theo giá mua nguồn lực ghi trên hóa đơn chứng
từ của kế toán tài chính tất sẽ dẫn đến hiện tượng “ Lãi giả, lỗ
thật”. Vì thế, đã xuất hiện nhu cầu chế biến thông tin khác với chế
biến thông tin theo quy định của Nhà nước. Thông tin này, phải sát
hợp với thực tế thực trạng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
chứ không phải thông tin phù hợp với thực trạng của nền kinh tế
quốc dân được quy định khi thành lập báo cáo tài chính. Do vậy đã
có một bộ phận kế toán riêng ra đời đáp ứng đòi hỏi này, đó là tính
CPKD, hay kế toán quản trị nếu gọi theo ngôn ngữ kế toán. Ngoài
ra, tính CPKD dựa trên cơ sở đầy đủ thông tin về chi phí sản xuất và
tiêu thụ từng loại hàng hóa và toàn bộ hàng hóa và dịch vụ của
doanh nghiệp. Như vậy, thông tin của tính CPKD cung cấp cho bộ
máy quản trị không những đầy đủ mà còn chính xác và kịp thời.
Tính đầy đủ, chính xác và kịp thời của thông tin là điều kiện vô
cùng quan trọng cho các quyết định kinh doanh đúng.
Một điều hết sức quan trọng nữa, đó là, trong nền kinh tế thị
trường cùng với cơ chế mở và hội nhập, để có thể tồn tại và đứng
vững, các doanh nghiệp phải nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường

3


4

trong nước bằng cách tạo ra thế mạnh cạnh tranh về chất lượng SP,
sự khác biệt hóa SP, giá bán SP…đặc biệt là giá bán SP. Muốn có

lợi thế cạnh tranh về giá bán SP thì phải có chiến lược, chính sách
giá tạo lợi thế cạnh tranh. Nếu sử dụng CPTC làm cơ sở hình thành
nên giá bán SP thì với hạn chế của CPTC như được phân tích ở trên
thì chính sách giá bán SP được hình thành trong nhiều trường hợp
không sát thực so với thị trường.
Như vậy có thể nói, tính CPKD với những ưu điểm là cung cấp
thông tin một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác sẽ là cơ sở phù hợp
cho việc ra quyết định quản trị đặc biệt là quyết định về chính sách
giá bán SP của doanh nghiệp.
Công ty TNHH Thương mại Hiệp Quang là một doanh
nghiệp sản xuất và kinh doanh SP bao bì. Việc ra quyết định quản
trị của CT dựa vào kết quả tính CPTC của kế toán tài chính, vì vậy
không đảm bảo được độ chính xác của các quyết định quản trị, đặc
biệt là chính sách giá bán trong nhiều trường hợp không sát thực với
thị trường, và việc hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh của CT
theo giá mua nguồn lực ghi trên hóa đơn chứng từ của kế toán tài
chính trong điều kiện kinh tế thị trường, giá cả vận động theo quy
luật cung cầu nhìn chung là tăng dần rất dễ dẫn đến hiện tượng “
Lãi giả, lỗ thật”. Từ những bất cập trên, tôi quyết định lựa chọn đề
tài: “Giải pháp triển khai tính chi phí kinh doanh tại Công ty
TNHH Thương mại Hiệp Quang”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

4


5

-


Hệ thống hóa lý luận về CPKD và triển khai tính CPKD tại

CT.
- Áp dụng cụ thể vào việc triển khai tính CPKD tại CT, đề xuất
giải pháp cần thiết.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp so sánh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tính CPKD tại CT.
- Không gian nghiên cứu: Tại CT TNHH TM Hiệp Quang và các
CT cùng ngành.
- Thời gian nghiên cứu: Giai đoạn 2008- 2010.
5. Kết quả đạt được của đề tài
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về tính CPKD
trong các doanh nghiệp sản xuất bao bì.
- Đánh giá thực trạng của công tác tính CPTC tại CT, từ đó
đưa ra những điểm cần kế thừa và những điểm cần bổ sung cho
công tác tính CPTC tại CT, để có thể triển khai tính CPKD vào CT.
- Đề xuất những phương hướng, giải pháp để triển khai tính
CPKD vào CT.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành 4
chương:

5


6


Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Lý luận chung về chi phí kinh doanh và tính chi phí
kinh doanh
Chương 3: Thực trạng công tác tính chi phí kinh doanh tại Công
ty TNHH Thương mại Hiệp Quang
Chương 4: Giải pháp triển khai tính chi phí kinh doanh tại Công
ty TNHH Thương mại Hiệp Quang

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

6


7

1.1. Giới thiệu khái quát các kết quả nghiên cứu liên quan đến
đề tài
Qua quá trình nghiên cứu tôi thấy: có thể nói rằng, một nền
kinh tế phát triển là nền kinh tế có sự tách bạch giữa kế toán tài
chính và kế toán quản trị( hay tính CPKD). Đây là hai bộ phận
không thể thiếu của kế toán doanh nghiệp. Kế toán tài chính thực
hiện chức năng riêng của nó đó là phục vụ thông tin cho các đối
tượng bên ngoài doanh nghiệp. Kế toán tài chính mang tính chất công
khai, minh bạch, rõ ràng thể hiện thông qua các báo cáo tài chính cuối
năm. Còn kế toán quản trị thực hiện chức năng cung cấp thông tin
mang bản chất nội bộ cho bộ máy quản trị ra quyết định kinh doanh,
và thông tin này mang tính bảo mật. Tại sao lại có hai bộ phận kế
toán cấu thành nên kế toán doanh nghiệp? Khi nền kinh tế phát
triển ở mức độ cao hơn so với trước, các doanh nghiệp càng ngày

càng ý thức rõ về quyền tự chủ của mình trong kinh doanh. Các
doanh nghiệp thấy rằng: kế toán tài chính, bộc lộ những yếu điểm
nhất định khi cung cấp thông tin cho cả hai bộ phận là quản lý kinh
tế vĩ mô của Nhà nước và bộ máy quản trị kinh doanh của doanh
nghiệp. Trong nhiều trường hợp, kế toán tài chính đã không phát
huy được vai trò của nó trong việc cung cấp thông tin cho bộ máy
quản trị kinh doanh của doanh nghiệp để ra quyết định kinh doanh.
Từ đó, doanh nghiệp cần có một bộ phận kế toán mới chế biến
thông tin theo yêu cầu của doanh nghiêp và cung cấp thông tin
nhanh chóng, kịp thời và chính xác, phục vụ cho bộ máy quản trị

7


8

doanh nghiệp, để ra quyết định kinh doanh đúng- đó tính CPKD.
Điều này đã khẳng định quyền tự chủ của doanh nghiệp trong kinh
doanh của mình.
Sau đây là một số luận văn tôi tham khảo có liên quan đến việc
triển khai tính CPKD trong doanh nghiệp Việt nam:
1. Đề tài: “ Phương pháp phân tích và quản trị chi phí kinh
doanh ở các doanh nghiệp công nghiệp trong nền kinh tế thi
trường”. Tác giả - TS: Nguyễn Ngọc Huyền. Năm bảo vệ 2000, tại
Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
2. Đề tài “ Giải pháp triển khai tính Chi phí kinh doanh tại
Xí nghiệp sản xuất bao bì xuất khẩu trực thuộc Công ty sản
xuất bao bì và hàng xuất khẩu”. Tác giả - Thạc sỹ: Phạm Hồng
Hải. Năm bảo vệ 2006, tại Trường Đại học Kinh tế quốc dân..
3. Đề tài: “ Xây dựng mô hình Kế toán quản trị chi phí sản

xuất ở Tổng công ty xây dựng Hà Nội”. Tác giả - Thạc sỹ: Hoàng
Hưng. Năm bảo vệ 2005, tại Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
4. Đề tài: “ Xây dựng mô hình kế toán quản trị chi phí với việc
quản trị trong nội bộ ngành gốm sứ xây dựng”. Tác giả - Thạc sỹ:
Phan Bích Thảo. Năm bảo vệ 2004, tại Trường Đại học Kinh tế quốc
dân.
5. Đề tài: “ Hoàn thiện tổ chức Kế toán chi phí sản xuất và giá
thành tại Tổng công ty công nghiệp tàu thủy Việt nam”. Tác giả Thạc sỹ: Nguyễn Đức Thanh. Năm bảo vệ 2006, tại Trường Đại học
Kinh tế quốc dân.

8


9

1.2. Đánh giá chung về các kết quả nghiên cứu.
Thông qua việc nghiên cứu các luận văn viết về tính CPKD ở các
ngành, các lĩnh vực khác nhau tôi thấy: hầu hết các bài luận văn này
đều muốn làm rõ, ngoài kế toán tài chính ra còn bộ phận tính CPKD,
khẳng định vai trò của kế toán quản trị trong hệ thống kế toán doanh
nghiệp. Tính CPKD là một công cụ quan trọng không thể thiếu được
đối với công tác quản trị nội bộ doanh nghiệp. Thông qua tính CPKD,
các thông tin về hoạt động kinh tế tài chính của doanh nghiệp được
trình bày, diễn giải một cách cụ thể, đáp ứng yêu cầu quản lý theo từng
chỉ tiêu chi tiết và quản lý từng bộ phận doanh nghiệp. Có thể nói, rính
CPKD là loại kế toán dành cho những người làm công tác quản lý để ra
quyết định, là phương tiện để thực hiện kiểm soát quản lý doanh
nghiệp. Đó là vai trò của kế toán quản trị. Bên cạnh đó, các tác giả còn
đi nhận diện tính CPKD thông qua các thông tin do tính CPKD cung
cấp. Các thông tin này có đặc tính sau: thứ nhất, thông tin thường đặt

trọng tâm cho tương lai nghĩa là nó không chỉ dừng lại ở việc cung cấp
thông tin cho quá khứ mà trọng tâm hơn là tạo độ tin cậy cho các dự
đoán để đạt được các mục tiêu tương lai trong hoạt động sản xuất kinh
doanh; thứ hai, thông tin do tính CPKD cung cấp ngoài biểu hiện
thước đo giá trị còn sử dụng thước đo thời gian và hiện vật, nhằm
qua các thông tin đó cung cấp cho các nhà quản trị một cách nhìn,
từ khái quát đến cụ thể về hiện trạng hoạt động sản xuất kinh doanh
của mình để doanh nghiệp ứng xử và ra quyết định đúng đắn nhất.
Các tác giả phân tích rằng: tính CPKD và kế toán tài chính là hai bộ

9


10

phận không thể tách dời của kế toán doanh nghiệp nên chúng có
nhiều điểm giống nhau như: cùng nghiên cứu và cung cấp thông tin
kinh tế tài chính gắn với các quan hệ kinh tế pháp lý nhằm điều
hành một tổ chức; cùng thực hiện trách nhiệm, quyền lợi vật chất và
pháp lý của một tổ chức hoặc nhà quản trị; cùng sử dụng hệ thống
thông tin đầu vào trên cơ sở phân hệ thông tin của kế toán. Bên cạnh
những điểm giống nhau trên, kế toán tài chính và tính CPKD còn có
những điểm khác nhau, thể hiện: thứ nhất, về tính pháp lý của kế
toán: kế toán tài chính mang tính pháp lệnh, nghĩa là bắt buộc phải
sử dụng hệ thống tài khoản kế toán, hệ thống sổ sách, báo cáo thống
nhất do Bộ tài chính ban hành, phải tuân thủ các quy định, chuẩn
mực, nguyên tắc và phương pháp kế toán đã quy định để trình bày
và cung cấp thông tin. Trái lại, tính CPKD mang tính nội bộ của
từng doanh nghiệp, sử dụng hệ thống kế toán do doanh nghiệp tự
xây dựng trên cơ sở vận dụng linh hoạt, phù hợp và đúng đắn hệ

thống kế toán thống nhất hoặc có thể xây dựng hệ thống tính CPKD
riêng biệt, phù hợp với đặc điểm kinh doanh, yêu cầu và trình độ
quản lý của từng doanh nghiệp; thứ hai về đặc điểm, đối tượng cung
cấp và sử dụng thông tin: kế toán tài chính bảo toàn tài sản của
doanh nghiệp về mặt giá trị, còn tính CPKD thì bảo toàn tài sản của
doanh nghiệp về mặt hiện vật. Thông tin của kế toán tài chính là
thông tin việc thực hiện về những nghiệp vụ kế toán tài chính đã
phát sinh và hoàn thành thông qua hệ thống phương pháp kế toán để
cung cấp thông tin dưới dạng tổng quát. Trong khi đó, tính CPKD

10


11

không dừng lại ở việc ghi chép, phản ánh, các nghiệp vụ đã xảy ra,
mà còn sử dụng các phương pháp tổng hợp, phân tích nhằm xử lý,
cung cấp thông tin mà trọng tâm là cho tương lai và vì phần lớn
nhiệm vụ của nhà quản trị là lựa chọn phương án, đề án cho một sự
kiện hoặc một quá trình chưa xảy ra. Thông tin kế toán tài chính
cũng rất cần có việc lập kế hoạch song chưa đủ vì đó chỉ là sự phản
ánh đơn giản của quá khứ trong khi các sự vật hiện tượng kinh tế
luôn vận động không ngừng. Tính CPKD quan tâm đến tính linh
hoạt, tốc độ và thích hợp của thông tin hơn là độ chính xác tuyệt
đối, vì thông tin đến càng nhanh, các vấn đề càng sớm được giải
quyết, do vậy cạnh tranh càng có hiệu quả với đối thủ kinh doanh.
Nếu mất thời gian chờ đợi để độ chính xác tuyệt đối thì có thể mất
cơ hội kinh doanh. Trong khi đó, kế toán tài chính buộc thông tin
được cung cấp phải chính xác và chặt chẽ, khách quan đúng chuẩn
mực quy định để mọi thành phần bên ngoài doanh nghiệp đều có thể

hiểu được và có thể kiểm tra được dễ dàng, bằng không các thông
tin đó không được kế toán tài chính chấp nhận. Đối tượng sử dụng
thông tin của tính CPKD chủ yếu là dành cho các nhà quản trị trực
tiếp điều hành hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp, còn thông
tin của kế toán tài chính cung cấp chủ yếu được sử dụng cho các đối
tượng bên ngoài doanh nghiệp; thứ ba, về hình thức báo cáo sử
dụng: báo cáo kế toán tài chính là báo cáo theo mục tiêu chung của
toàn doanh nghiệp, phản ánh tình hình tài sản, nguồn vốn và toàn bộ
kế quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một

11


12

thời kỳ gồm: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh…Báo cáo tính CPKD đi sâu vào từng bộ phận, từng khâu
công việc của doanh nghiệp. Kỳ báo cáo của tính CPKD thường
xuyên hơn kỳ báo cáo của kế toán tài chính. Ngoài ra, giữa hai bộ
phận kế toán này còn một số sự khác biệt nữa. Như vậy, tính CPKD
và kế toán tài chính là hai lĩnh vực khác song chúng có mối liên hệ
mật thiết với nhau, hợp thành công cụ quản lý quan trọng trong hệ
thống công cụ quản lý kinh tế. Thông qua các nghiên cứu thực trạng
về kế toán doanh nghiệp trong doanh nghiệp cụ thể, các tác giả đã
nêu rõ: các doanh nghiệp mới chỉ áp dụng duy nhất một bộ phận kế
toán là kế toán tài chính hoặc có cả hai bộ phận kế toán , song với
bộ phận tính CPKD thì chỉ áp dụng dưới hình thức diễn giải, giải
thích số liệu hoặc thuyết minh mà chưa có dự đoán cần thiết cho
tương lai và đều khẳng định sự cần thiết phải triển khai tính CPKD
trong doanh nghiệp. Qua những nghiên cứu trên, tôi thấy chưa có

tác giả nào làm về đề tài: “ Giải pháp triển khai tính chi phí kinh
doanh tại Công ty TNHH Thương mại Hiệp Quang”. Do đó, tôi
khẳng định đề tài của tôi không trùng với bất kỳ đề tài nào khác.
CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHI PHÍ KINH DOANH
VÀ TÍNH CHI PHÍ KINH DOANH

2.1. Chi phí kinh doanh và Tính chi phí kinh doanh

12


13

2.1.1. Khái niệm và bản chất của Chi phí kinh doanh
2.1.1.1. Khái niệm chi phí kinh doanh.
Để có thể hiểu về CPKD, ta sẽ đi phân tích một số vấn đề sau:
Có thể nói phạm trù chi phí là nơi “khởi nguồn” của các doanh
nghiệp. Để các doanh nghiệp hoạt động được đầu tiên cần có yếu tố
sản xuất bao gồm : tư liệu lao động, đối tượng lao động, sức lao
động, ba yếu tố này được kết hợp theo một tỉ lệ nhất định để tạo
thành sản phẩm. Các yếu tố sản xuất đó chính là một phần của chi
phí. Chi phí chỉ có thể đầy đủ khi có thêm hai yếu tố chi phí đó là
chi phí quản lý và chi phí bán hàng và khi sản phẩm được bán ra
trên thị trường thu được doanh thu. Doanh thu này có thể bù đắp
được khoản chi phí bỏ ra thì phần “ trội” của doanh thu so với chi
phí chính là lợi nhuận.
Trong kinh doanh, lợi nhuận thu được nhiều hay ít chịu ảnh
hưởng trực tiếp của những chi phí đã chi ra. Do vậy, chi phí là mối
quan tâm hàng đầu của những nhà quản lý, vấn đề được đặt ra là làm
sao kiểm soát được các khoản chi phí. Nhận diện, phân tích các hoạt

động sinh ra chi phí là điều mấu chốt để có thể quản lý chi phí, từ đó
có những quyết định đúng đắn trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chi phí là một phạm trù quan trọng, do vậy trong kinh doanh việc đi
sâu phân tích chi phí là điều cần thiết cho mỗi doanh nghiệp. Theo
như trình bày ở trên, chi phí có thể hiểu như sau: “ Chi phí là mọi sự
hao phí nguồn lực của doanh nghiệp trong kinh doanh” [4].

13


14

Có thể nói phạm trù chi phí là phạm trù bao trùm, khái quát .
Có nhiều hành vi mang bản chất khác nhau nhưng đều gọi là chi
phí. Khi tìm hiểu về NVL của doanh nghiệp ta thấy có một số hành
vi đều được gọi là chi phí sau đây:
Đầu tiên là hành vi mua NVL, kế toán tài chính sẽ phản ánh
toàn bộ giá trị NVL được mua và bảo toàn chúng về mặt giá trị. Ở
hành vi này, thể hiện hành vi bỏ tiền ra mua NVL thế nhưng không
cho biết có sử dụng chúng hay không và sử dụng khi nào? có thể
mua để dự trữ cho kỳ sau, vì sản xuất là quá trình gối đầu liên tục
giữa các kỳ với nhau hoặc là mua để dùng vào mục đích buôn
bán….
Tiếp đến là hành vi xuất dùng: xuất NVL cho sản xuất với
khối lượng đã được lên kế hoạch từ trước, do vậy hành vi này phản
ánh hao phí đưa vào sử dụng, nhưng tiền mua chúng thì đã được bỏ
ra thời kỳ trước đó rồi.
Như vậy, rõ ràng hai hành vi này mang bản chất khác nhau
nhưng đều được gọi chung là chi phí: chi phí mua NVL và chi phí sử
dụng NVL và khi kinh doanh trở nên phức tạp với quy mô lớn, hoạt

động mua bán nhộn nhịp, chu kỳ kinh doanh kéo dài và có thêm
nhiều hoạt động diễn ra như dự trữ, sử dụng tài sản trong nhiều chu
kỳ kinh doanh, có vay, có nợ… thì việc sử dụng một phạm trù chi phí
sẽ trở thành bất tiện, thâm chí là rất bất tiện vì phạm trù này mô tả
các hành vi mang bản chất chi phí khác nhau. Để trở nên dễ dàng

14


15

hơn, phạm trù chi phí đã được phát triển thành ba phạm trù cụ thể
hơn, mô tả các hành vi chi phí rất cụ thể là chi tiêu, CPTC, CPKD.
Khi nói về phạm trù chi tiêu, chi tiêu là một bộ phận của phạm
trù chi phí phản ánh sự giảm lượng tiền của một doanh nghiệp. Chi
tiêu có thể gắn với kỳ tính toán, cũng có thể không gắn với kỳ tính
toán.
Ví dụ: việc chi trả nợ của kỳ trước, hoặc chi trả lương của kỳ
tính toán, hay việc ứng trước tiền hàng cho kỳ sau, hoặc là việc
giảm tiền khách nợ như là: giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại,
triết khấu thương mại..…đều phản ánh hành vi chi tiêu. Với ý nghĩa
đó chi tiêu là “ sự giảm tiền thanh toán, giảm tiền séc ở ngân hàng,
bưu điện, tăng nợ dưới hình thức nợ, vay ngắn hạn, giảm tiền khách
nợ” [4].
Còn về, chi phí tài chính: CPTC là một bộ phận của phạm trù
chi phí, là “sự giảm tài sản ròng của một thời kỳ tính toán được tập
hợp ở kế toán tài chính” [4] hoặc chi phí tài chính của một thời kỳ
tính toán xác định là chi tiêu gắn liền với kết quả của thời kỳ đó. Đó
là “Sự hao phí hoặc tiêu phí giá trị của một thời kỳ xác định được
tập hợp ở kế toán tài chính và có mặt trong tính toán lỗ lãi cuối

năm” [4]. Cũng có thể hiểu CPTC của một thời kỳ tính toán xác
định là một bộ phận chi phí gắn với kết quả của kỳ tính toán đó,
được tính toán theo nguyên lý của kế toán tài chính và có mặt ở các
báo cáo tài chính. Như thế CPTC là một phạm trù gắn liền với chi
phí song có ba đặc điểm cơ bản là:

15


16

+ Gắn với kết quả của một kỳ tính toán xác định
+ Phải được tính toán theo nguyên lý của kế toán tài chính
+ Chỉ xuất hiện ở bộ phận kế toán tài chính
CPTC là những khoản chi tiêu trong kỳ tính toán.
Ta thấy: chi tiêu và CPTC chỉ phản ánh về mặt giá trị, chú
trọng đến giá trị gốc của tài sản mà không bảo lưu được tài sản về
mặt hiện vật. Để khắc phục nhược điểm cơ bản của chi tiêu, CPTC,
người ta đã tìm hiểu và nghiên cứu thêm về hành vi chi phí thứ ba,
rất cần thiết đó là CPKD. CPKD là một bộ phận của phạm trù chi
phí.
Để hiểu rõ hơn về ba phạm trù nói trên, ta sẽ đi phân tích mối
quan hệ giữa chúng.
* Mối quan hệ giữa các phạm trù chi phí
Có thể nói, ba hành vi về chi phí là những bộ phận không thể
thiếu để cấu thành nên phạm trù chi phí. Chúng có mối quan hệ mật
thiết với nhau và mỗi hành vi giữ một vai trò nhất định.
+ Mối quan hệ giữa chi tiêu và chi phí tài chính:
Chi tiêu và CPTC có mối quan hệ vừa độc lập lại vừa gắn bó.
Trước hết nói về kỳ tính toán( kỳ kế toán, hay kỳ này) là những

khoản thời gian nhất định mà trong đó báo cáo tài chính được lập
phải để thuận tiện cho việc so sánh, thời gian của các kỳ kế toán
phải dài như nhau (tháng, quý, năm). Có những hành vi phản ánh số
tiền chi tiêu ra trong kỳ tính toán, thanh toán ngay trong kỳ tính
toán, ví dụ: việc trả lương, đóng bảo hiểm theo chế độ quy định cho

16


17

người lao động, đóng thuế giá trị gia tăng, trích nộp thuế thu nhập
trong kỳ tính toán….những hành vi này phản ánh chi tiêu trùng với
CPTC, song bên cạnh đó còn có một số hành vi như: số tiền chưa trả
được theo dõi vào tài khoản nợ phải trả bao gồm: vay ngắn hạn,
phải trả cho người bán…và sẽ được trả ở ngoài kỳ tính toán; hoặc
hành vi mua hàng, giá trị (giá gốc) được ghi nhận trong kỳ tính toán
nhưng đến kỳ sau mới chi trả hoặc đã trả ở kỳ trước đó; hay hành vi
thanh toán trong kỳ cho số hàng mua ở kỳ trước hoặc kỳ sau đó – là
hành chi tiêu mà không trùng với CPTC
VD: Trả nợ lương tháng 10 vào tháng tính toán là tháng
12/2010 ,hay hoạt động ứng trước tiền hàng, mua trả chậm tiền
hàng… Các hành vi này chỉ mang tính chi trả trong kỳ tính toán và
không được tính vào CPTC.
CPTC bao giờ cũng gắn với kỳ tính toán, là chi tiêu trong kỳ
tính toán. Trong kỳ tính toán, có những hoạt động chỉ mang tính
chất chi trả thì thường bị loại trừ như những chi trả thuần túy tài
chính, không liên quan đến kết quả chi ra cũng như CPTC, đó là các
hành vi sau: Cho vay, cho khách hàng nợ của những kỳ trước, kỳ
này khách hàng trả; thanh toán trong kỳ tính toán nhưng gắn với kết

quả của kỳ trước; hoặc kỳ này chi ra cho CPTC chính kỳ trước( vd:
các khoản nợ của kỳ trước…); hay chi trả trong kỳ tính toán để sử
dụng cho hoạt động của kỳ sau như mua hàng trả trước... Nhưng
cũng có những hoạt động mang tính chất chi trả song phải tính vào
CPTC như chi trả ở kỳ trước để sử dụng cho quá trình kinh doanh ở

17


18

kỳ tính toán như khấu hao- là những chi phí ở kỳ này nhưng lại chi
ra ở kỳ trước( khấu hao là việc thu hồi lại giá trị của TSCĐ đã bị
hao mòn trong quá trình sử dụng chúng, những TSCĐ này đã được
doanh nghiệp mua về và đã được chi trả); chi trả ở kỳ trước nhưng
được phân bổ vào kỳ tính toán; hoặc chi trả ở kỳ sau cho sử dụng
kỳ này như việc mua chịu đến kỳ sau mới trả; hay việc chi tiêu để
mua NVL, trong đó CPTC chỉ gắn với sử dụng NVL trong kỳ tính
toán chính là chi tiêu mua NVL trừ đi giá trị dự trữ NVL; hoặc là
chi tiêu cho việc mua sắm may móc thiết bị với giá trị lớn, nhưng
khi tính CPTC chỉ tính khấu hao máy móc thiết bị của kỳ tính toán
với giá trị nhỏ của giá trị lớn đó. Như vậy, có những chi tiêu trùng
với CPTC; cũng có những chi tiêu không trùng với CPTC; và có
những chi phí mang bản chất là chi tiêu của kỳ trước nhưng vẫn
được tính vào CPTC của kỳ này….

+ Mối quan hệ giữa chi phí tài chính và chi phí kinh doanh
CPTC và CPKD là hai bộ phận cấu thành nên chi phí khác
nhau về nội dung và độ lớn. Song hai bộ phận này cũng có một số
điểm giống nhau nếu cùng xét trong một thời kỳ xác định.

Trước hết là bộ phận CPTC trùng với CPKD. Ở tính CPKD
gọi bộ phận này là CPKD trùng với CPTC, bao gồm: Thứ nhất, là
chi phí trả lương cho người lao động: ngày nay, Chính phủ của các

18


19

nước đều muốn ổn định đời sống của người dân thông qua việc cố
gắng ổn định tiền lương, vì thế chi phí trả lương của hai phạm trù
này giống nhau; Thứ hai, chi phí NVL: Nếu giá mua NVL ổn định
thì ở tính CPKD sẽ dùng giá mua thực tế của lượng NVL sẽ được
xuất dùng cho sản xuất trong kỳ tính toán, được phản ánh ở kế toán
tài chính là CPTC sử dụng NVL giống CPKD; CPKD các khoản
dịch vụ thuê ngoài và các khoản phải nộp cũng trùng với CPTC ở
trường hợp có hợp đồng, hóa đơn, chứng từ...Trong trường hợp
không có hợp đồng, hóa đơn, chứng từ… đối với CPTC thì các chi
phí này sẽ không được tính vào. Đối với CPKD thì sẽ được tập hợp
và tính theo thực tế phát sinh.
Tiếp theo là CPKD không trùng với CPTC: xuất phát từ nguyên
lý kế toán khác nhau, ở CPTC thì tuân thủ theo nguyên tắc bảo toàn tài
sản về mặt giá trị trong khi đó CPKD thì lại bảo toàn tài sản về mặt
hiện vật. Mặt khác, ở tính CPKD ngoài CPKD trùng với CPTC còn có
CPKD tính bổ sung: Do trong quy định của kế toán tài chính chỉ tính
những chi phí mà doanh nghiệp phải chi ra theo chế độ kế toán, còn
tính CPKD sẽ tính toàn bộ đầy đủ những chi phí cần phát sinh để hoạt
động kinh doanh diễn ra.
1. Những CPKD tuân thủ theo nguyên tắc bảo toàn tài sản về
mặt hiện vật bao gồm: CPKD sử dụng NVL. Khi giá mua những

loại NVL không ổn định đặc biệt trong kỳ tính toán, khối lượng
NVL xuất dùng cho sản xuất có dự báo tăng giá trên thị trường thì

19


20

phải áp dụng nguyên tắc bảo toàn hiện vật để tránh “lãi giả, lỗ thật”.
Đối với CPKD khấu hao TSCĐ cũng tương tự như vậy.
2. Những CPKD được bổ sung như: CPKD đóng bảo hiểm cho
người lao động (25,5% lương cơ bản); tính tiền lãi của vốn chủ sở hữu
tạo ra, hay CPKD thiệt hại, rủi ro.
Thông qua phân tích trên ta có thể hiểu đầy đủ về CPKD.
CPKD được định nghĩa theo Mellorowict như sau: “Chi phí kinh
doanh là sự hao phí vật phẩm gắn với kết quả”[4]. Hummel định
nghĩa “Chi phí kinh doanh là sự hao phí vật phẩm, dịch vụ gắn với
việc tạo ra kết quả và đánh giá được”[4]. Woehe định nghĩa đầy đủ
hơn: “Chi phí kinh doanh là sự hao phí xét ở phương diện giá trị các
vật phẩm và dịch vụ để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cũng như để
duy trì năng lực sản xuất cần thiết cho việc sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm đó”[4].
2.1.1.2. Bản chất của CPCD
Trước hết có thể nói CPKD là một phạm trù của chi phí.
CPKD dựa trên nguyên tắc bảo toàn tài sản về mặt hiện vật, phản
ánh sự hao phí xét ở phương diện giá trị của vật phẩm và dịch vụ để
sản xuất và tiêu thụ SP và phải đảm bảo duy trì năng lực sản xuất
cần thiết cho việc sản xuất và tiêu thụ SP đó. CPKD tập hợp các chi
phí thực tế phát sinh trong sản xuất kinh doanh, kể cả trường hợp
không có chứng từ, sổ sách ghi nhận. CPKD không chỉ phản ánh

các số liệu trong quá khứ, thực tế mà còn phản ánh số liệu dự đoán
tương lai.

20


21

2.1.2. Tính chi phí kinh doanh
2.1.2.1. Khái niệm và bản chất của tính chi phí kinh doanh.
- Khái niệm tính chi phí kinh doanh
Từ những phân tích trên có thể nói, CPKD là một bộ phận
không thể thiếu của chi phí. Chính vì vậy, chúng ta phải đi tính toán
cụ thể CPKD, nhằm cung cấp thông tin về CPKD đảm bảo độ chính
xác cần thiết làm cơ sở để bộ máy quản trị ra quyết định kinh doanh.
Tính CPKD được hiểu như sau: “Tính CPKD là quá trình,
phân tích, tính toán, tập hợp các chi phí kinh doanh phát sinh. Trong
quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm (dịch vụ) nhằm cung cấp
thường xuyên các thông tin về CPKD đảm bảo độ chính xác cần
thiết làm cơ sở cho các quyết định quản trị kinh doanh”[4].
- Bản chất của tính chi phí kinh doanh
Để hiểu rõ bản chất của tính CPKD chúng ta hãy dựa trên cơ
sở phân biệt thật rõ ràng hai phạm trù kế toán tài chính và tính
CPKD. Kế toán tài chính có tính chất bắt buộc đối với các doanh
nghiệp do Nhà nước quy định với những chuẩn mực chung cho mọi
doanh nghiệp. Hệ thống này thường xuyên được thể hiện bởi hệ
thống chứng từ, tài khoản, sổ sách và báo cáo do nhà nước ban
hành. Đó là lý do để coi hệ thống kế toán tài chính là hệ thống
“cứng” đối với doanh nghiệp. Đặc điểm cơ bản của hệ thống kế toán
tài chính là chỉ ghi chép các số liệu bằng đơn vị tiền tệ phát sinh vào

trong khoảng thời gian đã định. Tính CPKD, khác với kế toán tài
chính, là do doanh nghiệp xây dựng theo mục tiêu quản trị của

21


22

mình. Tính CPKD hình thành do nhu cầu tự nhiên của doanh nghiệp
chứ không có tính bắt buộc về mặt pháp luật. Mặt khác, tính CPKD
không hoàn toàn đồng nhất giữa các doanh nghiệp vì nó được thiết
lập tùy thuộc đặc điểm hoạt động và yêu cầu quản lý của doanh
nghiệp. Thậm chí, trong một doanh nghiệp, ở những thời kỳ khác
nhau cũng có thể có sự điều chỉnh trong hệ thống tính CPKD để
đảm bảo sự phù hợp với mục tiêu quản trị cũng như đặc điểm hoạt
động của doanh nghiệp ở thời kỳ xem xét. Đó là lý do để coi hệ
thống tính CPKD là hệ thống “mềm” đối với doanh nghiệp. Sự phân
biệt này được trình bày cụ thể như sau:
Sự khác biệt cơ bản giữa tính CPKD và kế toán tài chính:
* Thứ nhất: Về đối tượng nhận thông tin.
+ Kế toán tài chính tạo lập thông tin phục vụ cho các đối tượng
bên ngoài mà không liên quan đến quá trình ra quyết định kinh doanh
của doanh nghiệp, ví dụ: Nhà cung cấp, nhà đầu tư, khách hàng, cơ
quan nhà nước…
+ Tính CPKD lại chỉ được phép cung cấp thông tin cho bộ
máy quản trị để ra các quyết định kinh doanh mà không được phép
cung cấp cho các đối tượng nào ngoài quá trình ra quyết định kinh
doanh.
* Thứ hai: Về mục đích sử dụng thông tin
+ Kế toán tài chính cung cấp thông tin để kiểm tra, kiểm

soát quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, về tình hình tài

22


23

chính và kiểm soát kinh tế tài chính xem có phản ánh đúng dòng
tiền của kỳ kế toán đó không.
+ Tính CPKD không phản ánh thực trạng tài chính mà chỉ
thực hiện nhiệm vụ là cung cấp thông tin cho bộ máy quản trị để ra
quyết định kinh doanh.
*Thứ ba: Sự khác nhau về nguyên tắc bảo toàn tài sản của
doanh nghiệp.
+ Kế toán tài chính tính toán các CPTC phát sinh trong một
thời kỳ tính toán theo nguyên tắc bảo toàn tài sản của doanh nghiệp
về mặt giá trị. Bảo toàn tài sản về mặt giá trị có nghĩa là khi mua bất
kỳ tài sản nào về doanh nghiệp và đưa vào sử dụng, kế toán tài
chính căn cứ vào giá trị tiền ghi trên hóa đơn để hạch toán chi phí.
+ Trong khi đó tính CPKD lại tính toán CPKD trên cơ sở tuân
thủ nguyên tắc bảo toàn về mặt hiện vật. Bảo toàn về mặt hiện vật
có nghĩa là doanh nghiệp có thể không quan tâm tới giá khi mua tài
sản thiết bị hoặc NVL về doanh nghiệp mà quan tâm tới giá cả ở
thời điểm sau khi thanh lý thiết bị hoặc bán hàng đã sản xuất từ
NVL đưa vào sử dụng và tính toán sao cho có đủ tiền để mua lại
thiết bị tương đương hoặc số lượng NVL đã sử dụng.
VD: Mua vào lượng NVL chính: VLP – 04 túi PE vào ngày
02/12/2010 với giá mua là: 127.962.500 đồng. Có dự báo thị trường
giá NVL này tăng 21.4%/1 tháng. Chu kỳ kinh doanh của doanh
nghiệp kéo dài 2 tháng.


23


24

CPTC theo nguyên tắc bảo toàn về mặt giá trị được tính ở đây
là:127.962.500 đồng.
Nếu tính chi phí NVL trên theo nguyên tắc bảo toàn về mặt hiện vật là:
CPKDNVL túi PE = 127.962.500( 1+21.4%) = 155.346.475
đồng.
Lãi giả của CPKD sử dụng NVL nếu không tính theo nguyên tắc
bảo toàn hiện vật trong 12/2010 là: 155.346.475 đồng – 127.962.500
đồng = 27.383.975 đồng.
Công thức tính CPKD sử dụng NVL được áp dụng trong ví dụ
như sau:
CPKD NVLi = NLV TDi x PĐGi x (1 + ΔPĐGi)n
Trong đó:
CPKD NVLi : CPKD sử dụng loại i
NLV TDi : Lượng tiêu thụ loại NVL thứ i
PĐGi: Đơn giá NVL thứ i được sử dụng để đánh giá.
(1 + ∆PĐGi): Mức biến động giá cả NVL thứ i
n : Thời gian của một chu kỳ kinh doanh (tháng, năm)
Theo cách tính CPTC, ở kỳ tính toán, tính theo giá mua( giá
gốc) của NVL. Trong điều kiện, có dự báo thị trường ở chu kỳ kinh
doanh của kỳ này là: giá mua NVL trên sẽ tăng lên. Vì giá mua
NVL tăng, nên để mua lại NVL phục vụ cho chu kỳ kinh doanh tới,
nếu ta không tính theo cách bảo toàn NVL về mặt hiện vật thì ta sẽ
phải lấy một phần lợi nhuận của kỳ này bù vào cùng chi phí bỏ ra để
mua lại NVL phục vụ cho sản xuất kinh doanh ở chu kỳ kinh doanh


24


25

tới. Điều này, sẽ làm giảm lợi nhận của kỳ tính toán đồng nghĩa với
kỳ tính toán đã bị lỗ phần lợi nhuận bỏ ra này.
* Thứ tư: Sự khác biệt với kế toán tài chính về tính chất.
+ Kế toán tài chính có ba tính chất cơ bản là bắt buộc, định kỳ
và công khai.
1. Tính chất bắt buộc xuất phát từ đòi hỏi của quản lý Nhà
nước, do yêu cầu cần kiểm soát, đảm bảo đánh giá chính xác thực
trạng tài chính của từng doanh nghiệp, doanh nghiệp bắt buộc phải
nộp báo cáo tài chính định kỳ, báo cáo tài chính bắt buộc phải có
hình thức, nội dung… theo đúng quy định của Nhà nước.
2. Doanh nghiệp phải nộp báo cáo tài chính theo định kỳ. Kỳ nộp
báo cáo tài chính thông thường là quý I, quý II và nửa năm đầu, quý IV
và cả năm.Và kỳ kế toán tháng thường được áp dụng trong tính giá
thành.
3. Tính chất công khai: Cụ thể là báo cáo tài chính nộp nhiều cơ
quan cũng như các đối tượng khác nhau, song công khai ở các phạm vi
nhất định đó là: Dòng tiền và dự trữ trong kỳ.
+ Trong khi đó tính CPKD lại có ba đặc trưng đối lập là tự
chủ, liên tục và bí mật. Tính tự chủ cho phép doanh nghiệp hoàn
toàn chủ động trong tính CPKD, chủ động về lựa chọn bước tính,
cách tính … Tính CPKD phải cung cấp thông tin một cách liên tục,
kỳ tính toán có thể là tháng, tuần, ngày, giờ, ca làm việc… Sở dĩ
tính CPKD phải cung cấp thông tin liên tục vì bất cứ lúc nào phải
ban hành các quyết định kinh doanh thì phải cung cấp các thông tin


25


×