Tải bản đầy đủ (.doc) (140 trang)

Tác động của gia nhập tổ chức thương mại thế giới đến nền nông nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (785.54 KB, 140 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là một thực tế khách
quan, một xu thế tất yếu cuốn hút các quốc gia. Việt Nam đã và đang
triển khai nhiều hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế và đã thu được
nhiều kết quả.
Thực hiện chủ trương tích cực và chủ động hội nhâp kinh tế
quốc tế, Việt nam coi việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới
(WTO) là một mục tiêu quan trọng. Việc tham gia các hiệp định,
các hiệp ước quốc tế về thương mại, về kinh tế trong WTO sẽ tạo
nhiều cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam phát triển. Nhưng việc tham
gia và theo đó là thực hiện các cam kết của WTO sẽ là một quá trình
đầy gay go, thách thức trên tất cả những lĩnh vực khác nhau của đời
sống kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp. Việt Nam
về cơ bản vẫn là một nước nông nghiệp với 67% lực lượng lao động
trong lĩnh vực nông nghiệp. Khoảng 1/4 tổng GDP và khoảng 1/3
tổng kim ngạch xuất khẩu là từ nông nghiệp, do đó ngành nông
nghiệp là một ngành quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam. Gia
nhập WTO nền nông nghiệp Việt Nam có thể chịu sự tác động trên
cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Tác động tích cực là mở rộng thị
trường xuất khẩu nông sản, phân bổ tốt hơn các nguồn lực quốc gia
đến các ngành có lợi thế cạnh tranh cao nhất, tăng cường học hỏi
công nghệ mới từ việc trao đổi ngày càng gia tăng với phần còn lại


2

của thế giới, tăng cường tính linh hoạt trong thương mại quốc tế để
đối mặt với những cú sốc do thiên tai… Mặt khác, đặt ngành nông


nghiệp trước khả năng biến động lớn do ảnh hưởng của thị trường
thế giới bởi xu hướng tự do hoá thương mại, đặt các doanh nghiệp
trước sức ép cạnh tranh lớn, mặt hàng có sức cạnh tranh yếu thì
nguy cơ phá sản là không thể tránh khỏi, điều đó dẫn đến nhiều
nông dân bị mất việc làm, làm sâu sắc thêm những bất bình đẳng về
thu nhập trong nông nghiệp, nông thôn và giữa thành thị với nông
thôn.
Xuất phát từ những vấn đề bức xúc nêu trên, nhất là khi Việt
Nam đang đứng trước ngưỡng cửa bước vào WTO, tôi chọn vấn đề:
“Tác động của gia nhập tổ chức thương mại thế giới đến nền nông
nghiệp Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
* Xoay quanh vấn đề Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại
thế giới đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả
đề cập ở nhiều khía cạnh khác nhau:
- Một số công trình nghiên cứu, bài viết trên các tạp chí đã tập
trung phân tích diễn biến tình hình Việt Nam đàm phán gia nhập
WTO và từ đó đưa ra các giải pháp đẩy nhanh việc gia nhập WTO;
nghiên cứu nội dung của các hiệp định của WTO, từ đó chỉ ra các
cơ hội và thách thức đối với các nước đang phát triển, cũng như
Việt Nam khi gia nhập WTO.


3

- Một số công trình, bài báo cũng đã nghiên cứu và làm rõ sự
cần thiết Việt Nam phải gia nhập WTO. Những điểm nêu trên có thế
tìm thấy trong các tác phẩm:
+Việt Nam gia nhập WTO: “Tác động tới nền kinh tế Đồng
Nai và các giải pháp để thích ứng với quá trình hội nhập”, Nhà xuất

bản Lý luận chính trị, Hà nôi 2005.
+ “Tổ chức thương mại thế giới (WTO) với nền kinh tế toàn
cầu”, của Nguyễn Văn Thanh, Tạp chí Cộng sản.
+ “Việt Nam con đường tới WTO”, của Vũ Xuân Trường, Báo
Hà Nội mới.
+ “Nhiều lợi thế cũng như thách thức khi Việt Nam gia nhập
WTO”, Bích Hạnh- Báo Nhân dân ngày 19/2/2004.
+ “Một bước chuẩn bị cho Việt Nam gia nhập WTO”, Thu
Hà-Báo Nhân dân ngày 20/2/2004.
+ “Trung Quốc gia nhập WTO thời cơ và thách thức”, Võ Đại
Lược- Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà nội 2004.
+ “Gia nhập WTO Việt Nam kiên định con đường đã chọn”,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia- 2004.
* Liên quan đến hội nhập WTO và tác động của nó đến nông
nghiệp Việt Nam. Đã có một số công trình khoa học, bài báo đề cập
đến các vấn đề nông nghiệp Việt Nam trong kinh tế toàn cầu và mối
quan hệ giữa bảo hộ và tự do hoá thương mại nông sản, kinh
nghiệm bảo hộ nông nghiệp trên thế giới, cái được và cái mất và tác


4

động đối với nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO. Các công
trình liên quan đến vấn đề này:
- “Làm gì cho nông thôn Việt Nam”, Phạm Đỗ Chí- Đặng Kim
Sơn-Nguyễn Tiến Triển, Đồng chủ biên 2003.
- “Bảo hộ hợp lý nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế ” Bùi Xuân Lưu, Nhà xuất bản Thống kê- Hà
nội 2004.
- “WTO và ngành nông nghiệp Việt Nam”, kết quả nghiên cứu

của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn do Australia tài trợ.
- “Tăng cường năng lực hội nhập quốc tế cho ngành nông
nghiệp và phát triển nông thôn”, kết quả nghiên cứu của Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn do AU said tài trợ.
- “Nông nghiệp và đám phán thương mại”, diễn đàn tài chính
kinh tế-tài chính Việt-Pháp, Nhà xuất bản CTQG-2001.
- “Các vòng đàm phán Urugoay về nông nghiệp và tác động
thực tiễn của chúng”, tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới số 22002.
- “Chính sách thương mại nông nghiệp trong quá trình Việt
Nam gia nhập WTO” của Ths Chu Ngọc Sơn.
- “Tác động của tiến trình gia nhập tổ chức thương mại thế
giới (WTO) đối với nền kinh tế Việt Nam” của PGS.TS Tô Huy Rứa.
Những công trình nghiên cứu, đề tài trên đã đề cập dưới các
góc độ khác nhau về thời cơ, thách thức và tác động của gia nhập


5

WTO đối với nền kinh tế Việt Nam, trong đó có nền nông nghiệp
Việt Nam song còn ít đề tài đi sâu phân tích, đánh giá toàn diện, cụ
thể tác động của gia nhập WTO đối với nền nông nghiệp Việt Nam
dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị. Vì thế đề tài “Tác động của
gia nhập WTO đến nền nông nghiệp Việt Nam” vẫn cần được
nghiên cứu một cách cơ bản và hệ thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn góp phần dự báo những tác động chủ yếu đến nền
nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO. Từ đó nêu ra phương
hướng và giải pháp thích ứng của nền nông nghiệp Việt Nam nhằm
phát huy những tác động tích cực và khắc phục hạn chế của hội nhập

WTO đối với nền nông nghiệp Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn:
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Phân tích khái quát về WTO. Nghiên cứu kinh nghiệm của
một số nước trong việc giải quyết vấn đề nông nghiệp khi gia nhập
WTO.
+ Phân tích những tác động chủ yếu của việc gia nhập WTO
đến nền nông nghiệp Việt Nam.
+ Nêu ra một số giải pháp thích ứng của nền nông nghiệp Việt
Nam khi gia nhập WTO.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những tác động của việc gia nhập WTO
đối với nền nông nghiệp Việt Nam trên góc độ những ảnh hưởng
của điều chỉnh chính sách và hàng nông sản xuất khẩu. Nghiên cứu


6

đối tượng này dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị, nên luận văn
chú trọng đến các vấn đề: xu hướng, các phương hướng và giải pháp
thích hợp để phát triển nông nghiệp Việt Nam khi hội nhập vào
WTO.
Thời gian: từ năm 2000 đến nay (từ phiên họp thứ tư-của giai
đoạn 3: Minh bạch hoá chính sách thương mại trong các cuộc đàm
phán đa phương).
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, ngoài ra luận văn còn sử dụng
một số phương pháp khác như: phân tích và tổng hợp, khái quát
hoá, trừu tượng hoá, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.

6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn hy vọng làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
những tác động chủ yếu đối với nền nông nghiệp Việt Nam khi gia
nhập WTO và đề xuất một số giải pháp thích ứng để phát triển nền
nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy các chuyên đề kinh tế phù
hợp
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn được bố cục thành 2 chương, 6 tiết.


7

Chương 1
TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI VÀ KINH NGHIỆM
CỦA CÁC NƯỚC TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
NÔNG NGHIỆP KHI GIA NHẬP WTO
1.1. KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ
GIỚI (WTO)
Từ tháng 6-1994, Việt Nam được công nhận là quan sát viên
của GATT-tiền thân của WTO. Ngày 1-1-1995, Việt Nam nộp đơn
gia nhập WTO. Từ đó đến nay, Việt Nam đã và đang tích cực chuẩn
bị các điều kiện cần thiết để gia nhập tổ chức thương mại thế giới
(WTO). Đến cuối tháng 5-2006 Việt Nam đã tiến hành 12 phiên
đàm phán đa phương và kết thúc đàm phán song phương với cả 28
quốc gia và vùng lãnh thổ yêu cầu đàm phán, vào ngày 31-5-2006
với đối tác cuối cùng là Mỹ. Như vậy, Việt Nam đang đứng trước
ngưỡng cửa gia nhập WTO.

Mỗi tổ chức quốc tế đều có mục tiêu, nguyên tắc và nội dung
hoạt động của mình. Một nước muốn trở thành thành viên của tổ
chức đó phải cam kết tuân thủ các quy định của tổ chức và chứng tỏ
khả năng của mình trong việc hoàn thành nghĩa vụ của thành viên
trong tổ chức, cũng như hưởng các lợi ích do việc tham gia tổ chức
mang lại. Vì thế, trong chương 1 này, cần thiết phải tìm hiểu sơ bộ
về tổ chức thương mại thế giới (WTO), các hiệp định chính trong
WTO, nhất là các hiệp định của WTO liên quan đến lĩnh vực nông


8

nghiệp, nhằm tạo cơ sở cho việc phân tích những tác động có thể
của việc gia nhập WTO đến nền nông nghiệp Việt Nam ở chương 2.
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được thành lập ngày 1
tháng 1 năm 1995, kế tục và mở rộng phạm vi điều tiết thương mại
quốc tế của tổ chức tiền thân của nó là Hiệp định chung về Thuế
quan và Thương mại (GATT). GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán
chủ yếu về thuế quan. Tuy nhiên từ thập kỷ 70 và đặc biệt từ vòng
đàm phán Urugoay (1986-1994) do thương mại quốc tế không
ngừng phát triển, nên GATT đã mở rộng diện hoạt động, đàm phán
không chỉ về thuế quan mà còn tập trung xây dựng các Hiệp định
thành các chuẩn mực, luật chơi điều tiết các vấn đề hàng rào phi
quan thuế, về thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, các biện
pháp đầu tư có liên quan đến thương mại, về thương mại nông sản,
hàng dệt may (dỡ bỏ năm 2005) và cơ chế giải quyết tranh chấp.
Với diện điều tiết của thương mại đa biên được mở rộng nên
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) với tư cách
là một sự thỏa thuận có nhiều nội dung ký kết mang tính chất tùy ý tỏ
ra không thích hợp. Do đó, ngày 15/4/1994, tại Marrkesh (Ma-rốc),

kết thúc vòng đàm phán Urugoay, các thành viên GATT đã cùng
nhau ký Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
nhằm kế tục và phát triển sự nghiệp của GATT. Theo đó WTO chính
thức được thành lập độc lập với hệ thống Liên hiệp quốc và đi vào
hoạt động từ 1/1/1995. Cho đến nay tổ chức thương mại thế giới


9

(WTO) đã có 148 thành viên và tính đến tháng 12/2004 với khoảng
97% thương mại toàn thế giới.
* Mục tiêu của WTO:
Với tư cách là tổ chức thương mại toàn cầu, WTO có những
mục tiêu cơ bản như sau:
- Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá và dịch vụ, nâng
cao việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trên thế giới phục vụ
cho sự phát triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường, thông
qua việc tạo ra một tập hợp các quy tắc và nguyên tắc cho thương
mại quốc tế, bảo đảm một môi trường minh bạch, dễ dự báo trong
thương mại quốc tế. WTO vẫn đảm đương trách nhiệm của GATT
về thúc đẩy đàm phán đa phương nhằm tự do hoá thương mại, đóng
góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của các quốc gia thành
viên.
- Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các
bất đồng và tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên trong
khuôn khổ của hệ thống thương mại đa phương, phù hợp với các
nguyên tắc cơ bản của các Công ước quốc tế: bảo đảm cho các nước
đang phát triển và đặc biệt là các nước kém phát triển nhất được thụ
hưởng những lợi ích thực sự từ sự tăng trưởng của thương mại quốc
tế, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế của các nước này và

khuyến khích các nước ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền
kinh tế thế giới.


10

- Nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm cho người dân các
nước thành viên, bảo đảm các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu
được tôn trọng.
* Chức năng chính:
WTO thực hiện các chức năng cơ bản sau:
- Thống nhất việc quản lý thực hiện các Hiệp định và thỏa
thuận thương mại đa phương và nhiều bên; giám sát tạo thuận lợi,
kể cả trợ giúp kỹ thuật cho các nước thành viên thực hiện nghĩa vụ
thương mại quốc tế của họ.
- Là khuôn khổ thể chế để tiến hành các vòng đàm phán thương
mại đa phương trong khuôn khổ WTO, theo quyết định của Hội nghị
Bộ trưởng WTO.
- Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên
liên quan đến việc thực hiện và giải thích Hiệp định WTO và các
biện pháp thương mại đa phương và nhiều bên.
- Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước
thành viên, bảo đảm thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hóa thương
mại và tuân thủ các quy định của WTO, Hiệp định thành lập WTO
đã quy định một cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại áp dụng
chung đối với tất cả các thành viên.
- Thực hiện hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế như Quỹ
tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới trong việc hoạch định những



11

chính sách và dự báo về những xu hướng phát triển tương lai của
kinh tế toàn cầu.
Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng
Thương mại - nhóm họp ít nhất hai năm một lần. Giữa hai nhiệm kỳ
Hội nghị, Đại hội đồng (Bao gồm Đại diện có thẩm quyền của tất cả
các thành viên) có chức năng thường trực và báo cáo lên Hội nghị
Bộ trưởng, đồng thời Đại hội đồng đóng vai trò là một cơ quan giải
quyết tranh chấp và cơ quan rà soát chính sách của WTO. Dưới Đại
hội đồng là Hội đồng thương mại về hàng hoá, Hội đồng thương
mại về dịch vụ và Hội đồng về các khía cạnh liên quan đến thương
mại về quyền sở hữu trí tuệ. Các Hội đồng trên chịu trách nhiệm
điều hành việc thực thi Hiệp định WTO về từng lĩnh vực thương
mại tương ứng. Tham gia các Hội đồng là đại diện của các thành
viên.
Phần lớn các quyết định của WTO đều được thông qua trên cơ
sở đồng thuận. Trong một số trường hợp nhất định, khi không đạt
được sự đồng thuận, các thành viên có thể tiến hành bỏ phiếu.
WTO chứa đựng một hệ thống các quy định vô cùng phức tạp
và cụ thể cho các lĩnh vực như thương mại hàng hoá, dịch vụ, đầu tư
và sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, tất cả những quy định đó đều dựa trên 5
nguyên tắc cơ bản [1, tr.225].
- Nguyên tắc thương mại không có sự phân biệt đối xử:
Nguyên tắc này yêu cầu các nước thành viên phải dành cho nhau
Đãi ngộ Tối huệ quốc (MNF) (tức là không phân biệt đối xử giữa


12


hàng hoá và dịch vụ của các nước thành viên khác nhau) và Đãi ngộ
Quốc gia (NT) (yêu cầu mỗi nước thành viên không được phân biệt
đối xử giữa hàng hoá và dịch vụ trong nước và nhập khẩu).
- Nguyên tắc thương mại phải ngày càng được tự do hơn
thông qua đàm phán: Các hàng rào cản trở thương mại dần dần
được loại bỏ, cho phép các nhà sản xuất hoạch định chiến lược kinh
doanh dài hạn có thời gian điều chỉnh, nâng cao sức cạnh tranh hoặc
chuyển đổi cơ cấu. Mức độ cắt giảm các hàng rào bảo hộ được thỏa
thuận thông qua các cuộc đàm phán song phương và đa phương.
- Nguyên tắc dễ dự báo, dự đoán: Các nhà đầu tư cũng như
Chính phủ nước ngoài tin chắc rằng hàng rào thuế quan và phi thuế
quan khác sẽ không bị thay đổi và tăng một cách tùy tiện. Cam kết
về thuế quan và các biện pháp khác bị ràng buộc về mặt pháp lý.
- Nguyên tắc tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình
đẳng: Hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh
không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp hay dành các đặc quyền
cho một số doanh nghiệp nhất định.
- Nguyên tắc dành cho các thành viên đang phát triển một số
ưu đãi: Các ưu đãi này được thể hiện thông qua việc cho phép các
thành viên đang phát triển có một số quyền và không phải thực hiện
một số nghĩa vụ hay có thời gian quá độ dài hơn để điều chỉnh chính
sách cho phù hợp.
1.2. CÁC HIỆP ĐỊNH CỦA WTO LIÊN QUAN ĐẾN
NÔNG NGHIỆP


13

Các hiệp định của WTO điều chỉnh các lĩnh vực như thương
mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Chúng đề ra

những nguyên tắc về tự do hoá và những ngoại lệ được phép áp
dụng; nêu lại cam kết của từng nước về giảm thuế quan và các rào
cản thương mại khác, về mở cửa và duy trì mở cửa thị trường dịch
vụ; quy định thủ tục giải quyết tranh chấp; quy định các nước đang
phát triển phải được đối xử đặc biệt, buộc các chính phủ phải thông
báo cho WTO biết những luật lệ hiện hành và các biện pháp được
áp dụng trong nước song song với các báo cáo định kỳ của Ban thư
ký về chính sách thương mại của các nước.
Các hiệp định này thường được gọi là các luật lệ thương mại
của WTO và WTO thường được miêu tả như là một hệ thống hoạt
động dựa trên các luật lệ. Để điều chỉnh quan hệ thương mại quốc
tế, WTO có 16 hiệp định chính như: Hiệp định chung về Thuế quan
và Thương mại (GATT 1994); Hiệp định về Hàng rào Kỹ thuật
trong thương mại (TBTs); Hiệp định về các Biện pháp vệ sinh kiểm
dịch (SPS); Hiệp định về thủ tục cấp phép xuất nhập khẩu (ILP);
Hiệp định về Quy tắc xuất xứ (ROO); Hiệp định về Kiểm tra trước
khi giao hàng (PSI); Hiệp định Trị giá tính thuế hải quan (ACV);
Hiệp định về các Biện pháp tự vệ (ASG); Hiệp định về Trợ cấp
(SCM) và Phá giá (ADP), Hiệp định về Nông nghiệp (AOA); Hiệp
định về Thương mại hàng dệt may và may mặc (ATC); Hiệp định
về các Biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS); Hiệp
định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu


14

trí tuệ (TRIPS) và thoả thuận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh
việc giải quyết tranh chấp (DSU)… [1, tr. 226].
Tất cả các thành viên WTO đều phải tham gia vào các hiệp
định nói trên, quy định này gọi là sự chấp thuận cả gói. Bên cạnh đó

WTO vẫn duy trì 2 hiệp định nhiều bên, các thành viên WTO có thể
tham gia hoặc không tham gia, đó là: Hiệp định về buôn bán máy
bay dân dụng; Hiệp định về mua sắm của Chính phủ. Còn 2 Hiệp
định nhiều bên khác là Hiệp định quốc tế về các sản phẩm sữa; Hiệp
định quốc tế về thịt bò thì cuối năm 1997, WTO đã chấm dứt và đưa
những nội dung của chúng vào phạm vi điều chỉnh của các Hiệp
định Nông nghiệp và Hiệp định về các Biện pháp vệ sinh kiểm dịch.
Trong khuôn khổ của WTO có một số hiệp định cũng như quy
định liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp, bao gồm: Hiệp định chung
về thuế quan và thương mại (GATT 1947, GATT 1994), Hiệp định
nông nghiệp (AoA), Hiệp định về việc áp dụng các biện pháp vệ
sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (SPS), Hiệp định về hàng
rào kỹ thuật trong thương mại (TBTs), Hiệp định về thủ tục giấy
phép xuất nhập khẩu (ILP), Hiệp định về các khía cạnh thương mại
của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS)…
1.2.1. Hiệp định nông nghiệp (AOA)
Hình thành “một hệ thống thương mại nông nghiệp định
hướng thị trường bình đẳng và công bằng” thông qua yêu cầu các
quốc gia thực hiện các nguyên tắc mới giám sát:


15

- Việc sử dụng các đường biên để kiểm soát nhập khẩu.
- Sử dụng trợ cấp xuất khẩu.
- Các trợ cấp khác Chính phủ cung cấp để hỗ trợ giá của sản
phẩm nông nghiệp hay thu nhập của nhân dân.
* Tiếp cận thị trường: Theo điều 4 của Hiệp định này các
nước trước đây áp dụng các biện pháp phi thuế quan (ví dụ như hạn
chế định lượng, giấy phép không tự động và thuế biến đổi) đều bị

yêu cầu bãi bỏ chúng, thay thế bằng thuế nhập khẩu bị ràng buộc ở
mức bảo hộ tương đương hoặc thấp hơn. Việc chuyển từ các biện
pháp phi thuế sang thuế được gọi là “thuế hóa”. Các quốc gia thành
viên đồng ý cắt giảm thuế nhập khẩu theo tỷ lệ cố định. Các nước
phát triển và chuyển đổi phải giảm thuế 36% theo bình quân trong
thời hạn 6 năm từ 1995 đến 2000, ít nhất là 15% đối với mỗi dòng
thuế. Các nghĩa vụ tương tự đối với các nước đang phát triển là 24%
trong vòng 10 năm từ 1995 đến 2004 và ít nhất 10% đối với mỗi sản
phẩm.
Tuy nhiên, các hàng rào phi thuế cũng không bị loại bỏ hoàn
toàn. Các thành viên được phép sử dụng một số hạn chế phi thuế
như các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật để bảo
vệ con người và động vật khỏi các rủi ro từ thực phẩm nảy sinh từ
việc sử dụng các chất kích thích, các chất gây ô nhiễm, độc tố hay
các sinh vật gây bệnh và để bảo vệ động thực vật khỏi các sâu bệnh
hay dịch bệnh có thể tác động đến sản xuất nông nghiệp.


16

Ràng buộc mọi dòng thuế đối với nông sản cũng được tất cả
các nước đồng ý (phát triển, đang phát triển, kém phát triển) để
không tăng quá mức đã cam kết trong Biểu nhượng bộ của các
nước. Các nước đang phát triển và kém phát triển được linh hoạt
hơn khi ràng buộc các mức thuế tại thuế trần có thể cao hơn so với
mức thuế áp dụng thực tế.
* Hỗ trợ trong nước:
Các cam kết cắt giảm mức hỗ trợ trong nước làm bóp méo
thương mại được thể hiện ở mức Tổng các biện pháp hỗ trợ gộp hay
“Các mức cam kết ràng buộc hàng năm và cuối cùng”. Mức tổng

các biện pháp hỗ trợ gộp (“Tổng AMS”) là tổng các hỗ trợ trong
nước được cung cấp để hỗ trợ các nhà sản xuất nông nghiệp. Mức
này được tính toán là tổng hỗ trợ đối với các sản phẩm nông nghiệp,
các biện pháp hỗ trợ không cụ thể và tất cả “các biện pháp tương
đương” (một cách tính đối với các hỗ trợ gộp đối với các sản phẩm
trong trường hợp không thể tính được một cách chi tiết).
Hiệp định nông nghiệp cũng đặt ra mức tối đa đối với Tổng
AMS mà mỗi quốc gia thành viên tính toán và báo cáo theo một
phom sẵn có trong bản ACC/4 và phải cam kết giảm từ mức Tổng
đó.
- Hộp xanh lá cây: Bao gồm các trợ cấp không hoặc rất ít bóp
méo thương mại và sản xuất nông sản và không có “tác động trợ giá
đối với người sản xuất” và do đó được miễn trừ khỏi các cam kết cắt


17

giảm. Theo như điều 2 của Hiệp định nông nghiệp, các trợ cấp
thuộc hộp xanh có thể cung cấp cho các nhà sản xuất dưới dạng như
sau:
+ Chi tiêu của Chính phủ đối với nghiên cứu nông nghiệp, kiểm
soát sâu bệnh, kiểm tra và xếp loại các sản phẩm cụ thể, dịch vụ
marketting và xúc tiến.
+ Sự tham gia tài chính của Chính phủ đối với các chương
trình bảo hiểm thu nhập và mạng an sinh thu nhập.
+ Thanh toán bù trừ thiên tai.
+ Các trợ cấp điều chỉnh cơ cấu thông qua:
. Các chương trình hồi hưu người sản xuất được thiết kế
để hỗ trợ các cá nhân tham gia sản xuất nông nghiệp.
. Chương trình ngừng sử dụng các nguồn tài nguyên như

đất và các tài nguyên khác bao gồm động vật, thôi không tham gia sản
xuất nông nghiệp.
. Các trợ cấp đầu tư được thiết kế để hỗ trợ tái cơ cấu tài
chính hay cơ cấu vật chất của các hoạt động của các nhà sản xuất.
. Các thanh toán trong các chương trình môi trường.
. Các thanh toán trong các chương trình hỗ trợ khu vực.
Một số chương trình ở các nước đang phát triển cũng được
miễn trừ khỏi các cam kết cắt giảm như hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ đầu tư
cho người nghèo và người có thu nhập thấp hay nông dân ở những


18

vùng khó khăn, hỗ trợ nông dân chuyển đổi từ cây thuốc phiện sang
các cây trồng khác.
- Hộp xanh lơ: Bao gồm các thanh toán trực tiếp trong các
chương trình giới hạn sản xuất dựa trên diện tích hay năng suất
cố định hay số đầu gia súc. Hiệp định nông nghiệp cho phép các
nước thành viên không phải tính đến các thanh toán thuộc các
chương trình “giới hạn sản xuất” khi tính toán tổng mức AMS.
- Hộp hổ phách: Đây là dạng trợ cấp được coi là bóp méo
thương mại, bao gồm các trợ cấp trong nước mà các thành viên của
WTO bị yêu cầu phải cắt giảm trong Hiệp định nông nghiệp trên cơ
sở tính toán Tổng AMS. Các trợ cấp thuộc hộp hổ phách có thể dưới
nhiều dạng nhưng tất cả đều thuộc dạng cung cấp trực tiếp cho sản
xuất nông nghiệp theo quy định của Chính phủ (nó không nhất thiết
là Chính phủ phải trực tiếp chi trả từ nguồn ngân sách của mình).
Chúng có thể bao gồm các quy định nhằm giữ vững hay tăng giá
đầu ra hay giảm giá đầu vào đối với sản xuất hoặc cố định giá lưu
kho hoặc phân phối sản phẩm. Chúng có thể bao gồm bất kỳ một

thanh toán trực tiếp đến các nông dân trên cơ sở các quyết định sản
xuất của họ (các thanh toán có liên quan đến sản xuất).
Trên cơ sở tính toán tổng AMS của biện pháp trợ cấp thuộc
Hộp hổ phách, các nước thành viên của WTO có các biện pháp trợ
cấp nông nghiệp bóp méo thương mại có nghĩa vụ cắt giảm mức
Tổng AMS. Các nước phát triển có nghĩa vụ cắt giảm 20% của


19

Tổng AMS được tính toán trong giai đoạn 6 năm kể từ năm 1995 và
các nước đang phát triển phải cắt giảm 13,3% trong vòng 10 năm.
Tuy nhiên, có bốn dạng ngoại lệ không phải tính đến khi tính
toán Tổng mức AMS. Đó là các trợ cấp thuộc hộp “xanh lá cây” và
“xanh lơ”, các mức trợ cấp đối với sản phẩm hay trợ cấp chung dưới
mức tối thiểu và các ngoại lệ cụ thể đối với các nước đang phát
triển.
Mức tối thiểu: Đối với các nước đang phát triển, các chi trả trợ
cấp bất kỳ dạng nào chưa đến 5% của giá trị sản xuất nông nghiệp
và 5% của giá trị sản xuất của một sản phẩm nông nghiệp cơ bản thì
sẽ không phải đưa vào khi tính toán mức AMS. Mức tối thiểu này
đối với các nước đang phát triển là cao hơn 10%.
Các nước đang phát triển cũng được cho phép, nhằm mục đích
khuyến khích phát triển nông nghiệp và nông thôn, không đưa vào
khi tính mức AMS và do vậy không phải đưa vào cam kết cắt giảm
những trợ cấp dưới đây:
+ Trợ cấp đầu tư chung trong nông nghiệp.
+ Trợ cấp đầu vào nói chung đối với những người sản xuất thu
nhập thấp hoặc ở những vùng khó khăn.
+ Trợ cấp để khuyến khích chuyển đổi từ cây thuốc phiện sang

cây trồng khác.
Trợ cấp xuất khẩu: Đây là dạng hỗ trợ được coi là các biện
pháp bóp méo nhất đối với thương mại của các Chính phủ. Các trợ


20

cấp này được sử dụng để hỗ trợ nông dân hay người sản xuất bán
các sản phẩm của họ trên thị trường quốc tế. Chúng bao gồm:
+ Các trợ cấp trực tiếp của Chính phủ liên quan đến hoạt động
xuất khẩu.
+ Việc bán hay thanh lý dự trữ nông sản phi thương mại của
Chính phủ hoặc các cơ quan của Chính phủ với giá thấp hơn so với
giá của sản phẩm cùng loại trên thị trường.
+ Các khoản thanh toán xuất khẩu nông sản hoàn toàn do
Chính phủ thực hiện, dù có tính vào tài khoản công hay không, kể
cả các thanh toán lấy từ khoản thu từ nông sản có liên quan hoặc từ
nông sản mà từ đó sản phẩm xuất khẩu được làm ra.
+ Trợ cấp nhằm giảm chi phí tiếp thị xuất khẩu nông sản (khác
với trợ cấp thúc đẩy xuất khẩu và dịch vụ tư vấn có sẵn rộng rãi), kể
cả chi phí vận chuyển, nâng phẩm cấp và các chi phí chế biến khác,
chi phí vận tải quốc tế và cước phí.
+ Phí vận tải nội địa và cước phí của các chuyến hàng xuất
khẩu do Chính phủ cung cấp hoặc ủy quyền với điều kiện thuận lợi
hơn so với các chuyến hàng nội địa.
+ Trợ cấp cho nông sản với điều kiện tham gia vào sản phẩm xuất
khẩu.
Tuy nhiên các nước đang phát triển không bị yêu cầu thực
hiện các cam kết cắt giảm đối với các loại trợ cấp xuất khẩu như trợ
cấp nhằm làm giảm chi phí tiếp thị, chi phí vận chuyển, chi phí chế



21

biến, phí vận tải và cước phí với điều kiện các loại trợ cấp đó không
được áp dụng với cách có thể lẩn tránh thực hiện cam kết cắt giảm.
Theo Hiệp định nông nghiệp, các thành viên của WTO không
được phép áp dụng các biện pháp trợ cấp xuất khẩu mới đối với
nông sản và phải cam kết cắt giảm giá trị cũng như số lượng trợ cấp
xuất khẩu hiện hành. Các nước phát triển phải cắt giảm 36% về giá
trị và 21% về số lượng trong thời hạn 6 năm kể từ năm 1995. Đối
với các nước đang phát triển thì nghĩa vụ này là 24% về giá trị và
14% về số lượng trong thời hạn 10 năm [6; tr. 27].
1.2.2. Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại
(TBTs)
Hiệp định này đặt ra một số quy định và điều lệ liên quan đến các
biện pháp phi thuế có ảnh hưởng đến thương mại, bao gồm thương mại
nông nghiệp.
Hiệp định này nhằm đảm bảo rằng các cuộc đàm phán kỹ
thuật và các tiêu chuẩn cũng như việc kiểm tra và thủ tục cấp phép
không tạo ra các cản trở không cần thiết đến thương mại. Tuy nhiên,
Hiệp định thừa nhận rằng các nước có quyền bảo hộ ở những mức
độ mà họ thấy phù hợp. Hiệp định này do đó khuyến khích các nước
sử dụng những tiêu chuẩn quốc tế nếu phù hợp nhưng không yêu
cầu các nước này phải thay đổi mức độ bảo hộ do kết quả của tiêu
chuẩn hóa.
Hiệp định cũng bao gồm các tiêu chuẩn được áp dụng trong
các phương pháp chế biến và sản xuất liên quan đến đặc tính của



22

bản thân sản phẩm. Hiệp định đưa ra những nghĩa vụ liên quan đến
các thủ tục đánh giá sự phù hợp và các điều khoản thông báo áp
dụng cả đối với các chính quyền địa phương cũng như cơ quan phi
Chính phủ.
Một chuẩn thực hiện tốt cho việc chuẩn bị, thông qua và áp
dụng các tiêu chuẩn của các cơ quan tiêu chuẩn cũng có thể được
chấp nhận bởi các đơn vị tư nhân cũng như trong khu vực công ích,
cũng được bao gồm trong phần phụ lục của Hiệp định này.
Nhìn chung, Hiệp định TBTs yêu cầu các quốc gia phải đảm
bảo rằng các yêu cầu kỹ thuật của họ đối với hàng hoá phải đảm bảo
một số điều kiện cơ bản như: không phân biệt đối xử, đối xử quốc
gia đối với hàng nhập khẩu, không hạn chế thương mại nhiều hơn
mức cần thiết và dựa trên cơ sở khoa học thích hợp. Hiệp định này
cũng yêu cầu các cơ quan tiêu chuẩn quốc gia phải tuân thủ một số
điều lệ và quy định như: i) sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế làm cơ sở
cho các tiêu chuẩn quốc gia; ii) đảm bảo các tiêu chuẩn quốc gia
phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.
Hiệp định về các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động
thực vật (SPS) áp dụng đối với tất cả các biện pháp vệ sinh dịch tễ
và kiểm dịch động thực vật mà chúng trực tiếp hay gián tiếp có thể
ảnh hưởng đến thương mại quốc tế.
Hiệp định SPS yêu cầu các quốc gia thành viên:
- Cơ sở các biện pháp SPS của mình dựa vào các tiêu chuẩn,
hướng dẫn hay khuyến nghị quốc tế được xây dựng bởi các tổ chức


23


của thế giới (ví dụ như Ủy ban An toàn thực phẩm, Cơ quan dịch tễ
quốc tế IOE, các cơ quan hoạt động trong khuôn khổ của Công ước
Bảo vệ thực vật quốc tế IPPC, hay một tổ chức quốc tế nào được chỉ
định bởi ủy ban WTO về SPS)
- Tham gia đầy đủ vào các hoạt động để thúc đẩy quá trình hài
hòa hóa các biện pháp SPS trên cơ sở quốc tế.
- Tạo cơ hội cho các nước quan tâm được đóng góp ý kiến khi
xây dựng các tiêu chuẩn.
- Chấp nhận các biện pháp SPS của nước xuất khẩu là tương
đương nếu chúng cũng đạt được mức độ bảo vệ SPS tương tự và
tham gia vào các hiệp định trên cơ sở thừa nhận song phương về
tính tương đương của các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch
động thực vật cụ thể.
Hiệp định SPS cũng yêu cầu các quốc gia “phải đảm bảo rằng
các biện pháp của họ thích ứng với các đặc trưng kểm dịch động
thực vật của khu vực xuất xứ của sản phẩm và nơi sản phẩm sẽ
được chuyển đến” và không áp dụng chúng để tạo ra các đối xử
tùy tiện hay không công bằng giữa các quốc gia và vùng có cùng
điều kiện hay để tạo ra hạn chế trá hình đối với thương mại quốc
tế.
Hiệp định SPS cũng cho phép các quốc gia được quyền áp
dụng các biện pháp SPS đối với mức độ bảo hộ cao hơn nếu có sự
biện hộ khoa học hay quốc gia đó dựa trên cơ sở đánh giá nguy cơ


24

quyết định rằng mức độ bảo hộ kiểm dịch động thực vật cao hơn là
cần thiết.
1.2.3 Hiệp định về thủ tục cấp phép xuất nhập khẩu(ILP)

Hiệp định yêu cầu các thủ tục cấp phép nhập khẩu không được
sử dụng theo cách phân biệt đối xử hay tạo ra các phiền toái.
Cấp phép nhập khẩu được định nghĩa là các thủ tục hành chính
được sử dụng trong hoạt động của hệ thống cấp phép nhập khẩu yêu
cầu nộp đơn hay các tài liệu khác đến một cơ quan hành chính như
là một điều kiện tiên quyết cho nhập khẩu trước khi vào địa phận
hải quan của nước thành viên nhập khẩu. Các điều lệ của thủ tục cấp
phép nhập khẩu phải trung lập khi áp dụng và phải được quản lý
một cách công bằng và bình đẳng. Các điều lệ cũng như tất cả các
thông tin liên quan đến các thủ tục về việc nộp đơn, kể cả tư cách
của thể nhân, công ty hay cơ quan thực hiện việc nộp đơn, đơn vị
hành chính nhận đơn và danh sách các sản phẩm chịu yêu cầu cấp
phép đều phải được công bố.
Hệ thống cấp phép có thể tự động, trong hệ thống tự động các
cơ quan có thẩm quyền sẽ cấp phép tự động (trong khoảng thời gian
tối đa 10 ngày làm việc kể từ khi nhận đơn xin) mà không sử dụng
bất kỳ một quyền tuỳ ý nào. Các hệ thống cấp phép không tự động
quản lý thông qua hạn chế hạn ngạch và các biện pháp khác, các cơ
quan sẽ sử dụng quyền chủ ý của họ khi cấp giấy phép (trong vòng
tối đa 30 ngày kể từ ngày kể từ khi nhận đơn xin). Tuy nhiên, các cơ


25

quan cấp giấy phép quốc gia phải tuân thủ theo các quy định với
mục đích cơ bản là bảo vệ quyền lợi của nhà nhập khẩu và các nhà
cung cấp nước ngoài. Trên nguyên tắc những thủ tục cấp phép:
- Không được gây phiền toái hơn mức cần thiết để điều hành
hệ thống.
- Minh bạch và dự đoán được

- Không có những chậm trễ không cần thiết và các hành động tuỳ
ý chủ quan
1.2.4. Hiệp định về các khía cạnh thương mại của Quyền
sở hữu trí tuệ (TRIPS)
Hiệp định này yêu cầu các tiêu chuẩn tối thiểu để bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ cũng như thủ tục và các phương tiện cưỡng chế
thi hành.
Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí
tuệ tập trung vào những điểm sau:
- Nguyên tắc cơ bản và các nghĩa vụ chung: Các quốc gia
nước ngoài phải được đối xử không kém thuận lợi hơn bởi một quốc
gia so với quyền sở hữu trí tuệ trong quốc gia đó và các quốc gia
phải đối xử MNF đối với tất cả các nước trên cơ sở không phân biệt
đối xử.
- Tiêu chuẩn tối thiểu của bảo hộ bao gồm những đối tượng,
các quyền, các ngoại lệ được chấp thuận và thời gian bảo hộ tối
thiểu (bằng sáng chế, bản quyền, nhãn mác, thiết kế công nghiệp…)
- Các hành động phi cạnh tranh khi cấp phép giao kèo.


×