Phßng gi¸o dôc ®µo t¹o giao thñy
Tr-êng tiÓu häc giao l¹c
SÁNG KIẾN DỰ THI CẤP HUYỆN
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
MỘT SỐ BIỆN PHÁP
RÈN KĨ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH LỚP 4
Tác giả: BÙI THỊ DUYÊN
Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Sƣ phạm
Chức vụ: Giáo viên
Nơi công tác: Trƣờng Tiểu học Giao Lạc
Huyện Giao Thuỷ - Tỉnh Nam Định
Giao Lạc, tháng 3 năm 2015
1
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến:
Một số biện pháp giúp giáo viên
rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Giáo dục Tiểu học
3. Thời gian áp dụng sáng kiến:
Từ ngày 05/ 09/2013 đến ngày 10/ 3/2015
4. Tác giả:
Họ và tên: Bùi Thị Duyên
Năm sinh: 15/7/1990
Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Sư phạm
Chức vụ công tác: Giáo viên
Nơi làm việc: Trường Tiểu học Giao Lạc
Địa chỉ liên hệ: Xóm 5 - Hồng Thuận - Giao Thuỷ - Nam Định
Điện thoại: 0976097483
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường Tiểu học Giao Lạc
Địa chỉ: Xã Giao Lạc- huyện Giao Thuỷ - tỉnh Nam Định
Điện thoại: 03503743033
2
Ngay từ những năm đầu thập kỷ 90, các tổ chức Liên Hiệp Quốc như Tổ
chức Y tế thế giới (WHO), Quỹ cứu trợ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF), Tổ
chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã ch
cho thanh thiếu niên
bởi lẽ “những thử thách mà trẻ em và thanh niên phải đối mặt là rất nhiều
đọc, viết, tính toán tốt nhất” (UNICEF). Vì thế, ở
hầu hết các nước trên thế giới, KNS đã được dạy trong chương trình
mà UNESCO đã đưa ra trong thời gian gần đây: “Học
để biết, Học để làm, Học để tự khẳng định mình và Học để cùng chung sống”
,
là “ Đào tạo con người Việt Nam
phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp,
trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
Từ nhiều năm nay Bộ Giáo dục - Đào tạo triển khai dạy KNS là một trong
những tiêu chí đánh giá "Trƣờng học thân thiện - học sinh tích cực". Trên tinh
thần đó tôi nhận thấy rằng chính ở dưới mái trường các em học được nhiều điều
hay, lẽ phải. Và nhà trường là ngôi nhà thân thiện, học sinh tích cực học tập để
thành người tài xây dựng đất nước, có khả năng hội nhập cao, từng bước trở
thành công dân toàn cầu.
KNS là một trong những khái niệm được
nhắc đến nhiều trong thời đại ngày nay. Cho nên, giáo dục KNS cho học sinh là
rất quan trọng và càng quan trọng hơn đối với các em học sinh bắt đầu bước vào
lứa tuổi thiếu niên ( lớp 4)
Các em không chỉ biết học giỏi về kiến thức mà còn phải được tôi luyện
những kĩ năng sống qua đó trang bị cho các em vốn kiến thức, kĩ năng, giá trị
sống để bước vào đời tự tin hơn. Đây cũng là một nhiệm vụ quan trọng đối với
các thầy cô giáo
.
ở lứa lớp 4 học sinh
đang phát triển về hệ xương, hệ thần kinh, học sinh có những nhận biết nhất định
về xung quanh, biết đánh giá nhận xét sự việc xảy ra quanh mình. Các em đã có
3
sự phát triển về trí tuệ, tâm hồn, các em thích quan sát mọi vật xung quanh. Khả
năng tư duy cụ thể nhiều hơn khả năng khái quát hóa. Về tình cảm, các em rất
nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, các em dễ xúc động và bắt đầu
biết mơ ước, thích nghĩ lại các vấn đề mà mình đã quan sát được và khả năng ứng
xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước
các tình huống của cuộc sống. Xác định tầm quan trọng đó tôi đã cố gắng nghiên
cứu thực hiện đề tài MỘT SỐ
RÈN KĨ NĂNG
SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 4. Đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 4A tôi
đang phụ trách, nhằm mong muốn trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết
làm hành trang bước vào đời.
II. THỰC TRẠNG
những yếu tố tích cực và có cả những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến KNS của
các em. Sự phát triển của công nghệ thông tin, sự ảnh hưởng của nền kinh tế thị
trường,…cũng là những yếu tố tác động nhiều đến cách sống, cách nghĩ, cách
làm của các em.
Giao Lạc là xã ven biển, dân c
2
Thực hiện nghị quyết 40/2008/CT-BGDĐT ngày 22 tháng 7 năm 2008 của
Bộ giáo dục và đào tạo về việc phát động phong trào thi đua: "Xây dựng trường
học thân thiện học sinh tích cực" trong các trường phổ thông giai đoạn 20082013, trong đó nội dung : Rèn luyện KNS cho học sinh phù hợp với lứa tuổi của
học sinh.
Căn cứ nhiệm vụ năm học 2014 - 2015 của ngành về việc chú trọng: Rèn
luyện KNS cho học sinh. Và đặc biệt trong
này,
– Đánh giá học sinh Tiểu học
, phẩm chất
4
thì việc giáo dục kĩ năng sống càng trở lên cần
thiết hơn bao giờ hết.
3
Năm học 2014-2015, Trường Tiểu học
lớp với tổng số 804
học sinh. Trường được công nhận danh hiệu trường chuẩn Quốc gia mức độ I
năm 2001, nhiều năm liền trường luôn được công nhận cơ quan văn hoá cấp
huyện và đạt danh hiệu trường tiên tiến cấp tỉnh. Trong hoạt động chuyên môn
dạy và học, Nhà trường thường xuyên nghiên cứu, cải tiến nâng cao chất lượng
giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, không ngừng đổi mới
PPDH phù hợp với nội dung chương trình. Và đặc biệt chú trọng đến việc "Giáo
dục kỹ năng sống" cho học sinh. Nhà trường coi đây là một trong những yếu tố
quan trọng hàng đầu trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục. Chính vì thế ngay
sau khi Bộ Giáo dục đào tạo đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống lồng ghép vào
các môn học và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, nhà trường tiến hành triển
khai đồng bộ đến toàn thể cán bộ giáo viên về việc tăng cường rèn luyện KNS
cho học sinh. Đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua “Xâ
tích cực”. Mỗi giáo viên trong nhà trường
không chỉ nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ, mà còn thường
xuyên quan tâm đến
4.
Hiện nay, nhiều phụ huynh học sinh đi làm ăn xa, để con cái ở nhà với ông
bà, hoặc mải buôn bán kiếm tiền ít quan tâm đến con em mình
n
Phụ huynh học sinh chỉ khuyến khích các con tìm
kiến thức mà quên hướng cho con em mình làm tốt hoạt động đoàn thể, hoạt
động xã hội và cách ứng xử trong cuộc sống. Phần lớn ở gia đình: việc xưng hô
chưa chuẩn mực nên các em bắt chước và xưng hô thiếu thiện cảm.
Đa số học sinh sống trong hai môi trường có hoàn cảnh khác nhau: một là
các em được sự quan tâm chăm sóc quá sức chu đáo của phụ huynh vì sống trong
gia đình ít con, hoàn cảnh kinh tế ổn định; hai là những em sống trong gia đình
với nhiều lo toan cho cuộc mưu sinh, phụ huynh bỏ mặc con cái. Cả hai hoàn
5
cảnh này đều làm cho các em thiếu đi những KNS cần thiết như: KN tự phục vụ
bởi ở gia đình, các em thường được cha mẹ thay hoặc cha mẹ không có thời gian
gần gũi để hướng dẫn, KN thể hiện sự cảm thông, KN đảm nhận trách nhiệm,…là
những KN rất quan trọng để giúp các em sống hài hòa với người khác nhưng ở
gia đình hầu như các em không có cơ hội và điều kiện trải nghiệm.
Học sinh
Hay khi có đoàn khách của Phòng, Sở về thăm trường,
thăm lớp các em luôn rụt rè, thiếu tự tin khi trả lời các câu hỏi phỏng vấn của khách
hoặc học sinh không giám gần khách để trò chuyện, giao lưu.
Phụ huynh vì bận nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong
các hoạt động cần thiết, làm cho các em rất rụt rè thiếu tự tin khi giao tiếp họăc
tham gia các hoạt động bởi các em bị cuốn hút theo các trò chơi điện tử và hệ
thống ảo trên Internet. Đây là những trò chơi làm cho các em xa lánh với môi
trường sống thực tế và thiếu sự tương tác giữa con người với con người, kĩ năng
xã hội của học sinh ngày càng kém. Điều này dẫn đến tình trạng học sinh trở nên
ích kỉ, không quan tâm đến cộng đồng. Câu hỏi mà chúng ta thường đặt ra cho
học sinh tiểu học là ngoài những kiến thức phổ thông về toán, khoa học và Tiếng
Việt, học sinh cần học điều gì để giúp các em hội nhập với xã hội, trở thành công
dân có ích cho cộng đồng.
Khi được hỏi những hiểu biết về KNS qua phiếu thăm dò ( Phụ lục 1),thì có
58% HS trả lời là các em đã có những hiểu biết về KNS tuy nhiên mới ở mức độ
hạn chế
4
có hiểu biết về KNS. Về phía phụ huynh
cũng qua phiếu thăm dò (Phụ lục 2) thì có 69% đã có hiểu biết về KNS và 31%
phụ huynh chưa hiểu biết về KNS.
5
Theo điều tra qua phiếu thăm dò ( Phụ lục 3) thì: Đối với giáo viên: 83% các
thầy cô đều xác định đúng khái niệm KNS,
KNS
chưa nhận thức rõ ràng, chính xác về
khái niệm
KNS
6
.
L
cho học sinh trong lớp tôi gặp phải một số thách thức sau:
+ Đó là HS kỉ luật chưa cao, các em khá rụt rè chưa mạnh dạn bày tỏ ý kiến.
Khi phát biểu các em nói không rõ ràng, trả lời trống không, nhiều lúc chưa nói
lời cảm ơn, xin lỗi với cô, ban bè. Ngoài ra, một trở ngại nữa là phụ huynh trong
lớp có một số bố mẹ thì quá nuông chiều, ngược lại một số phụ huynh vì bận
nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động cần thiết.
Nhiều em đến trường tỏ ra nói nhiều vì ở nhà các em không có người trò chuyện,
chia sẻ ...
+ Bên cạnh những khó khăn trên cũng có thuận lợi nhất định đó là: tôi nhận
được một tập thể học sinh khá ngoan và biết vâng lời, các em gần gũi với cô giáo.
Bên cạnh đó tôi có được sự ủng hộ của phụ huynh trong việc cùng nhà trường
giáo dục các em. Ngoài ra,
nhà trường luôn theo sát, quan tâm, hỗ
trợ cho giáo viên trong công tác giảng dạy cũng như giáo dục. Chính vì thế tôi
luôn cố gắng làm sao rèn cho các em kĩ năng sống, giúp các em có một niềm tin,
phát triển một cách toàn diện để trở thành con người năng động, sáng tạo phù hợp
với một xã hội hiện đại đang phát triển.
trong việc giáo dục KNS cho học sinh .
Từ tình hình thực tiễn trên, tôi đã cố gắng tìm nhiều biện pháp rèn
ể thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ năng sống, đem
lại kết quả cao tôi nhận thấy cần phải áp dụng một số biện pháp sau:
:
1. Giáo viên cần hiểu khái niệm “Kĩ năng sống”:
7
Có nhiều quan niệm về kĩ năng sống. Theo tôi, kĩ năng sống đơn giản là tất
cả những điều cần thiết chúng ta phải biết để có thể thích ứng với những thay đổi
diễn ra hằng ngày trong cuộc sống. Kĩ năng sống được hình thành theo một quá
trình, hình thành một cách tự nhiên qua những va chạm, những trải nghiệm trong
cuộc sống và qua giáo dục mà có. Có nhiều nhóm kĩ năng sống như: nhóm kĩ
năng nhận thức, nhóm kĩ năng xã hội và nhóm kĩ năng quản lí bản thân...Dù là kĩ
năng nào cũng đều rất quan trọng và cần thiết với mỗi con người.
2. Gần gũi và tạo mối quan hệ thân thiện với học sinh
Đầu tiên, sau khi tôi nhận lớp, để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh và
giáo viên chủ nhiệm, tôi sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu về
bản thân, động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước
mơ tương lai cũng như mong muốn của tôi với các em. Đây là hoạt động giúp cô
trò chúng tôi hiểu nhau, đồng thời tôi muốn tạo một môi trường học tập thân
thiện - Nơi " Trƣờng học thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em, các
thầy cô giáo là những ngƣời thân trong gia đình". Đây cũng là một điều kiện
theo tôi là rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi học
sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong một môi trường mà giáo viên luôn gò bó và
áp đặt.
Cô trò thân thiện ngoài giờ học.
Tiếp theo trong tuần đầu tôi cho học sinh tự do lựa chọn vị trí ngồi của mình
để qua đó phần nào nắm được đặc điểm tính cách của các em: mạnh dạn hay nhút
nhát,
...Và tiếp tục qua
8
những tuần học sau, tôi chú ý quan sát những biểu hiện về thái độ học tập, những
cử chỉ, hành vi tại vị trí ngồi mà các em chọn để bắt đầu có điều chỉnh phù hợp.
3. Giáo dục KNS qua việc tích hợp vào các môn học
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có thể thực hiện trong bất cứ lúc
nào, giờ học nào. Để việc rèn luyện diễn ra một cách thường xuyên và đạt hiệu
quả cao tôi tiếp tục vận dụng vào các môn học, tiết học, nhất là các môn như:
Tiếng Việt, Đạo đức; Khoa học; An toàn giao thông ....
Trong chương trình lớp 4, ở môn Tiếng Việt, có nhiều bài học mà tên gọi
của nó đã nói rõ mục tiêu giáo dục, các kĩ năng giao tiếp xã hội, như: Viết tự
thuật, lập danh sách học sinh, lập thời gian biểu, Viết thiếp chúc tết, viết nhắn tin,
viết bản tin, viết quảng cáo, viết thư, điền vào giấy tờ in sẵn, giới thiệu hoạt
động, giới thiệu địa phương, kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia. Bên
cạnh đó nhiều bài Luyện từ và câu có nội dung rèn luyện các nghi thức, lời nói,
nhiều bài tập đọc giới thiệu các văn bản mẫu chuẩn bị cho việc hình thành một số
kĩ năng giao tiếp cộng đồng như : Mẫu đơn, thư, quảng cáo...hoặc cung cấp
những câu chuyện mà qua đó học sinh có thể rút ra những kĩ năng sống . Thông
qua các hoạt động học tập, được phát huy trải nghiệm, rèn kĩ năng hợp tác, bày tỏ
ý kiến cá nhân, đóng vai, ...học sinh có được cơ hội rèn luyện, thực hành nhiều kĩ
năng sống cần thiết.
Ví dụ: Khi dạy bài : Luyện tập trao đổi ý kiến với ngƣời thân( 1 tiết)
( Phân môn Tập làm văn- Tiếng Việt 4 tuần 9)
Đầu tiên, tôi đưa ra tình huống trong bài tập đọc Thưa chuyện với mẹ
(Tuần 9), Cương thuyết phục mẹ cho học nghề rèn bằng cách đưa ra những lí lẽ
hợp tình, hợp lí .
Sau đó tôi cho học sinh phát biểu ý kiến bằng các câu hỏi sau:
- Em đã bao giờ đạt được nguyện vọng, mong muốn gì với người thân
chưa? Nguyện vọng mong muốn của em là gì?
- Người thân có ý kiến gì khi nghe em truyền đạt?
- Kết quả việc trao đổi giữa em và người thân như thế nào?
- Nếu thưc hiện lại cuộc trao đổi đó, em có thay đổi gì trong cách thuyết
phục người thân của em không?
9
Tiếp theo, tôi yêu cầu học sinh đọc đề bài( không đọc phần gợi ý), cả lớp
đọc thầm để xác định những tự ngữ quan trọng. Tôi gạch chân những từ ngữ quan
trọng trong đề bài( đã chép vào bảng phụ):
( Đề bài: Em có nguyện vọng học thêm một môn năng khiếu (họa, nhạc, võ
thuật...) Trước khi nói với bố mẹ, em muốn trao đổi với anh (chị) để anh (chị)
hiểu và ủng hộ nguyện vọng của em.
Hãy cùng bạn đóng vai em và anh chị thực hiện cuộc trao đổi .
Tôi hướng dẫn học sinh hiểu trọng tâm của đề bài bằng cách nêu câu hỏi:
+ Nội dung trao đổi là gì?( trao đổi về nguyện vọng của em muốn học
thêm một môn năng khiếu)
+ Đối tượng trao đổi là ai?( anh hoặc chị của em)
+ Mục đích trao đổi để làm gì? (làm cho anh, chị hiểu rõ nguyện vọng của
em, giải đáp những khó khăn, thắc mắc anh, chị đặt ra để anh chị ủng hộ em thực
hiện nguyện vọng ấy)
+ Hình thức thực hiện cuộc trao đổi là gì? (Em và bạn trao đổi. Bạn đóng
vai anh hoặc chị của em)
Tôi dành thời gian cho học sinh suy nghĩ chọn môn năng khiếu mình yêu
thích nhất và nêu trước lớp.
Sau đó, tôi cho học sinh đọc thành tiếng, đọc thầm phần gợi ý rồi cho học
sinh làm việc theo cặp: cùng trao đổi để viết ra nháp dàn ý cuộc trao đổi( cố gắng
hình dung ra các thắc mắc, khó khăn mà anh chị nêu ra để tìm cách giải đáp). Tôi
đến hỗ trợ, hướng dẫn thêm những em học yếu.
Bước tiếp theo tôi cho học sinh thực hành trao đổi kịch bản theo cặp:
+ Lúc đầu học sinh nhìn vào giấy đã ghi lời lẽ trao đổi.
+ Sau đó thuộc lời để nói tự nhiên hơn.
+ ( Hai em đóng vai rồi đổi vai để thực hiện cuộc trao đổi)
- Tôi đến từng cặp hướng dẫn học sinh thể hiện nét mặt, cử chỉ, điệu bộ
phù hợp cuộc trao đổi.
- Tôi gọi một số cặp lên trình bày trước lớp và nhận xét theo các tiêu chí đề ra.
Qua các hoạt động của tiết học tôi giúp học sinh rèn các kĩ năng sống cơ
bản như: KN giao tiếp; KN thể hiện sự cảm thông; KN trình bày suy nghĩ, ý
tưởng; KN lắng nghe tích cực .
10
Hay môn Đạo đức bài: “Tiết kiệm thời gian” tôi đưa ra nội dung: “ Trong
ngày chủ nhật, em đã thực hiện được những công việc nào? Hãy kể những việc
em đã làm? Những công việc nào em dự định làm nhưng chưa thực hiện được?
Vì sao? So sánh số lượng công việc giữa các bạn trong nhóm/ trong lớp? Tại sao
số lượng công việc thực hiện được lại khác nhau giữa các bạn trong cùng một
khoảng thời gian?”. Sau vài lời khuyến khích đầu tiên, tôi tổ chức cho các em
đứng thành vòng tròn chia sẻ ý kiến với cả lớp. Lúc đầu các em rất ái ngại không
tự tin khi chia sẻ nhưng tôi nhắc nhở những điều cần chú ý trong khi giao tiếp,
cộng thêm một môi trường hoà đồng thân thiện các em thực hiện rất tốt, không
còn những cái nhìn ái ngại. Thay vào đó là sự tự tin cùng câu nói chắc gọn:
“Sáng chủ nhật mình ở nhà làm...; Những công việc dự định mình chưa làm được
... So với số lượng công việc của mình với các bạn trong nhóm, trong lớp thì
mình thấy….; vì…..”
KN
đặt mục tiêu; KN kiên định; KN trình bày suy nghĩ, ý tưởng; KN trao đổi, thảo
luận; KN lắng nghe, cảm nhận, chia sẻ.
Tôi luôn tạo không khí thân thiện, áp dụng việc đổi mới phương pháp tạo
điều kiện cho các em mạnh dạn, tự lập, tự khẳng định và phát huy mình hơn qua
việc học nhóm.
Rèn kĩ năng sống có hiệu quả còn được tôi vận dụng khá nhiều trong trong
các môn học thông qua xử lí tình huống hay các trò chơi học tập có nội dung gần
gũi với cuộc sống hằng ngày của các em.
Như trong môn Khoa học, Ở bài: "Tại sao cần ăn phối hợp nhiều loại
thức ăn” tôi cho học sinh thảo luận nhóm và lên thực đơn cho các bữa ăn trong
một ngày: Sáng, trưa, tối dưới sự trợ giúp của giáo viên. Sau khi học sinh nhận
xét thực đơn của nhau, học sinh sẽ khắc sâu kiến thức về một bữa ăn đầy đủ cần
đảm bảo các chất ...
11
Giáo dục KNS qua việc tích hợp vào các môn học.
Các em làm việc tích cực, vui vẻ, tự mỗi em nói được tiếng nói, suy nghĩ
của mình với bạn bè, với thầy cô một cách tự tin mạnh dạn. Việc rèn luyện các kĩ
năng này đã tạo ra được thói quen tốt cho bản thân mỗi em, các em tham gia một
cách chủ động tích cực vào quá trình học tập, tạo điều kiện cho các em chia sẻ
những kinh nghiệm, ý kiến hay để giải quyết một vấn đề nào đó.
Hiệu quả đào tạo kĩ năng sống không đo đếm được bằng những con số chính
xác nhưng được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể: các em có ý thức, thái độ
khác với mọi người trong gia đình; luôn hoà đồng với bạn bè; tự tin khi nói
năng... đó chính là hiệu quả từ đào tạo kĩ năng sống. Việc sinh hoạt theo nhóm
tạo môi trường làm việc thân thiện, giúp các em cải thiện hành vi giao tiếp thông
qua các hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên. Các em trở nên thân thiện, từ đó
giúp bầu không khí học tập, lao động trở nên sôi động hơn. Tham gia sinh hoạt
theo nhóm giúp các em học sinh hưng phấn hơn trong học tập và tạo nên cách
ứng xử hợp lý trong mọi tình huống. Khi học nhóm, tôi luôn đưa ra nhiều tình
huống tạo sự phát triển tư duy cho các em. Đó cũng là cách rèn các KN hợp tác,
KN tìm kiếm sự hỗ trợ, KN giao tiếp, …
Ngoài ra tôi chú ý rèn luyện sức khoẻ và ý thức bảo vệ sức khoẻ, kĩ năng
phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích khác qua các môn học. Ai
cũng biết rằng sức khỏe là tài sản vô cùng quí báu của mỗi con người. Học tập
tốt, năng lực, phẩm chất tốt là những điều học sinh phải đạt được thì rèn luyện
sức khỏe tốt cho học sinh là điều phải được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên có được
một sức khỏe tốt và bảo vệ được nó thì thật không dễ. Dù vậy không có nghĩa là
12
không làm được, nhiều khi sức khỏe của các em phụ thuộc vào những điều rất
giản dị. Đó chính là giáo dục một lối sống khoa học.
Ở môn
: Các bài: “ Phòng bênh béo phì; Phòng bênh lây qua đường
tiêu hóa; Bạn cảm thấy thế nào khi bị bệnh; Phòng tránh tai nạn đuối nước; Ôn
tập con người và sức khỏe...” giáo dục các em hiểu rằng cần ăn uống cân đối hợp
lý; hoạt động phù hợp với lứa tuổi; có trách niệm giữ vệ sinh, phòng bênh cho
bản thân; gia đình và cộng đồng. Thân thể sạch sẽ giúp cho chúng ta khoẻ mạnh,
biết những việc nên làm và không nên làm để cơ thể luôn sạch sẽ, có ý thức tự
giác làm vệ sinh cá nhân hằng ngày, tự giác thực hiện nếp sống vệ sinh, khắc
phục những hành vi có hại cho sức khoẻ. Biết tham gia các hoạt động và nghỉ
ngơi một cách hợp lí để có sức khoẻ tốt. Có ý thức tự phòng tránh các tai nạn, đặc
biệt là tai nạn đuối nước.
Ngoài ra để các em có kĩ năng phòng chống tai nạn giao thông, đuối nước và
các thương tích khác tôi đã giáo dục các em thông qua các tiết: An toàn giao
thông hướng dẫn các em phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích khác
bằng cách đưa ra những tình huống cho các em xử lí.
Chẳng hạn :
- Khi đi qua ngã tư có đèn tín hiệu gặp đèn đỏ người và xe phải như thế nào?
- Khi nào thì người và xe mới được phép đi?
- Trẻ em dưới 7 tuổi phải đi cùng với ai khi đi trên đường phố và khi qua
đường? Đi bộ qua đường em phải đi ở đâu?
- Khi đi bộ em đi ở đâu? Nếu đường không có vỉa hè thì thế nào?
13
- Em có nên chơi đùa trên đưòng phố không? Có leo trèo qua dải phân
cách và chơi gần dải phân cách không? Vì sao?
- Việc chơi gần đường ray xe lửa có nguy hiểm không? Nguy hiểm như thế nào?
- Khi ngồi trên xe máy em phải như thế nào? Em hãy nêu cách đội mũ bảo
hiểm? Nêu sự cần thiết phải đội mũ bảo hiểm?
- Các em đã nhìn thấy tai nạn trên đường chưa? Theo các em vì sao tai nạn
xảy ra?
- Giáo dục cho các em tránh các tai nạn trên đường: không được chạy lao
ra đường, không được bám bên ngoài ô tô, không được thò tay, chân, đầu ra
ngoài khi đi trên tàu, xe, ghe, đò ...
Như vậy, các em có thể tự lập, xử lí được những vấn đề đơn giản khi gặp phải,
đó là các em đã có KN xác định giá trị, KN tự nhận thức, KN tìm kiếm sự giúp đỡ….
Một điều nữa theo tôi cũng khá quan trọng là kĩ năng ứng xử có văn hoá
cũng là lối sống lành mạnh mà các em cần phải được đào tạo, vì thế tôi tiếp tục:
3. G
ua
:
Việc giáo dục KNS cho học sinh thông qua các hoạt động ngoài giờ lên
lớp có lẽ là hiệu quả nhất nếu người giáo viên chủ nhiệm biết xây dựng kế
hoạch, tổ chức các hoạt động một cách khoa học, hợp lý. Bởi sự đa dạng các loại
hình hoạt động, các hình thức tổ chức HĐNGLL là yếu tố quan trọng thu hút HS
tích cực tham gia. Sự mới lạ bao giờ cũng có sức hấp dẫn đối với HS, khiến các
em say mê khám phá. Qua đó các em có dịp bộc lộ hết khả năng của mình cũng
như hình thành các KNS cần thiết. Xác định được vai trò quan trọng của các
hoạt động ngoài giờ lên lớp trong công tác giáo dục KNS nên ngay từ đầu năm
học dưới sự chỉ đạo của nhà trường tôi chủ động lên kế hoạch chi tiết tới từng
tháng, từng tuần để tổ chức các HĐNGLL cho HS sao cho phù hợp với điều kiện
của địa phương, nhà trường và của lớp. Các hoạt động này cần bám sát các chủ
đề hàng tháng được thực hiện theo văn bản hướng dẫn tạm thời của Vụ Giáo dục
Tiểu học như sau :
Chủ đề tháng 9 : Mái trường thân yêu của em.
Chủ đề tháng 10 : Vòng tay bạn bè.
Chủ đề tháng 11 : Biết ơn thầy, cô giáo.
Chủ đề tháng 12 : Uống nước nhớ nguồn.
14
Chủ đề tháng 1 : Ngày Tết quê em.
Chủ đề tháng 2 : Em yêu tổ quốc Việt Nam.
Chủ đề tháng 3 : Yêu quý mẹ và cô giáo.
Chủ đề tháng 4 : Hòa bình và hữu nghị
Chủ đề tháng 5 : Bác Hồ kính yêu.
- Ở mỗi chủ đề GVCN cần nghiên cứu, thiết kế, lựa chọn các loại hình hoạt
động sao cho sinh động, hấp dẫn để HS tích cực tham gia. Các chủ đề này thường
gắn với các ngày lễ lớn trong năm như: trong dịp lễ khai giảng năm học mới, kỉ niệm
ngày Nhà giáo Việt Nam, ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, lễ hội Tết cổ
truyền của dân tộc, ngày sinh nhật Bác Hồ, ngày thành lập Đội Thiếu niên Tiền
phong Hồ Chí Minh,… Ở mỗi chủ đề GVCN cần tổ chức nhiều các hoạt động khác
nhau để tăng sức hấp dẫn của chương trình như: văn nghệ, kể chuyện, trò chơi, thi
đấu thể thao, thi tìm hiểu về An toàn giao thông, thi vẻ đẹp đội viên, thi nghi thức
Đội, tham quan, tổ chức giao lưu, thi rung chuông vàng,…Qua đó HS có cơ hội trải
nghiệm để hình thành những KNS cần thiết.
* Sau đây là một số ví dụ về việc tích hợp GDKNS cho HS trong các
HĐNGLL được lồng ghép vào chủ đề sinh hoạt hàng tháng
:
Ở chủ đề tháng 2 là “Em yêu Tổ quốc Việt Nam”. Với chủ đề này tôi có thể
tổ chức các hoạt động như sau:
Tuần 1: Thi hùng biện ( Chủ đề “ Biển đảo quê hương
chủ đề “Việt
Nam – Tổ quốc em”)
Hình thức: Tổ chức th
Phương pháp:
àm việc theo nhóm (HS chuẩn bị nội
dung theo nhóm và cử đại diện mỗi nhóm một em thi hoặc nối tiếp nhau mỗi em
một đoạn). Qua việc thảo luận, chia sẻ với các bạn trong nhóm và việc tự phân
công nhiệm vụ cho từng thành viên trong nhóm để rèn cho HS KN hợp tác, KN
đảm nhận trách nhiệm, KN lắng nghe tích cực, KN tìm kiếm sự hỗ trợ, KN tìm
kiếm và xử lí thông tin,…Việc khuyến khích HS tham gia hùng biện sẽ giúp HS
rèn KN tự tin và KN diễn đạt trước đám đông.
15
Tuần 2: Giao lưu văn nghệ (Ca ngợi Bác Hồ, ca ngợi quê hương, đất nước)
Hình thức: Tổ chức thi hoặc tham gia trò chơi giữa các với nhau.
Phương pháp: GVCN cho HS chuẩn bị theo nhóm, các nhóm tự lựa chọn
các tiết mục và tự thiết kế cách biểu diễn, trình bày; qua đó rèn cho HS các KN:
tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải qvfuyết vấn đề, hợp tác,…Khi tổ chức cho HS
giao lưu GV có thể tổ chức dưới dạng một cuộc thi hoặc dưới dạng trò chơi (thi
hát đối, thi hát đuổi, thi hát tiếp sức,…) để tăng sự hào hứng cho HS và phát huy
tối đa KN hợp tác của HS.
Học sinh các tổ giao lưu văn nghệ chúc mừng thầy cô.
Tuần 3: Tổ chức chơi các trò chơi dân gian
Hình thức: Tổ chức cho HS chơi theo
các trò chơi dân gian
gần gũi với các em như bịt mắt bắt bóng, rồng rắn lên mây, mèo đuổi chuột,…
16
Phương pháp: GV CN chia nhóm cho HS chơi theo nhóm sau đó các
nhóm thi với nhau hoặc mỗi nhóm đều cử người sang chơi giao lưu với nhóm
khác để chia sẻ lẫn nhau. Qua đó HS sẽ được rèn luyện khả năng quyết định
lựa chọn cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp trong những tình huống cụ
thể và hình thành năng lực quan sát, KN nhận xét, đánh giá hành vi, KN hợp
tác, KN thương lượng,..
Học sinh hào hứng tham gia trò chơi “Mèo đuổi chuột”
Tuần 4: Tham quan một di tích0020lịch sử, di tích văn hóa ở địa phương
Hình thức: Tổ chức theo đơn vị lớp .
Phương pháp: Trong quá trình hướng dẫn HS tham quan, GVCN kết hợp sử
dụng các phương pháp, kĩ thuật “Viết tích cực” (HS ghi chép những thông tin,
những nhận xét của mình dưới hình thức cá nhân hoặc nhóm), kĩ thuật giao nhiệm
vụ, kĩ thuật đặt câu hỏi (giao nhiệm vụ và định hướng cho HS nội dung tham quan,
thời gian tham quan), kĩ thuật trình bày 1 phút (HS trình bày những hiểu biết,
những nhận xét hoặc những băn khoăn sau khi tham quan), kĩ thuật hỏi chuyên gia
(HS xung phong làm “chuyên gia” để giải đáp cho các bạn trong lớp về những vấn
đề còn băn khoăn, thắc mắc),…Nếu vận dụng tốt các kĩ thuật, các phương pháp
này vào trong quá trình hướng dẫn HS tham quan sẽ làm cho buổi tham quan trở
nên hữu ích, đem lại tác dụng GD cao; đồng thời sẽ tạo cơ hội để HS rèn được các
KNS như: KN hợp tác, KN đặt mục tiêu, KN quản lí thời gian, KN tư duy phê
phán, KN giao tiếp, KN kiên định,…
17
Học sinh thăm di tích lịch sử bốt Đại Đồng.
Ngoài việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp ngay tại phạm vi lớp mình,
tôi còn gắn việc GDKNS thông qua HĐNGLL với phong trào thi đua, các hoạt động
chung của nhà trường theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT và Phòng
GD&ĐT đã quy định về việc tổ chức các HĐNGLL trong nhà trường qua việc phối
hợp với các lực lượng đoàn thể khác trong trường như:
.
Học sinh biểu diễn văn nghệ chúc mừng thầy cô nhân ngày 20 - 11.
18
Học sinh biểu diễn Erobic nhân ngày 20-10.
Học sinh được giáo dục kĩ năng sống qua giao lưu với các nhà tài trợ.
19
Học sinh lớp 4A tham gia giải bóng đá Thiếu niên-Nhi đồng
trường Tiểu học Giao Lạc năm 2014.
Khi tổ chức các HĐNGLL với nhiều hình thức đa dạng, phong phú như vậy
HS sẽ rất hào hứng tham gia. Ở mỗi hoạt động, HS có được những trải nghiệm
khác nhau để hình thành những KNS khác nhau. Qua trò chơi, các em rèn được
KN tự quản lí thời gian, KN hợp tác, KN tư duy tích cực, KN tự tin,…; qua thi
văn nghệ, thời trang các em rèn được KN mạnh dạn tự tin, KN nhận thức và óc
thẩm mĩ; qua thi đấu thể thao các em rèn được KN hợp tác, KN tìm kiếm sự hỗ
trợ, KN làm chủ cảm xúc,…; qua hội chợ các em rèn được KN giao tiếp, KN thể
hiện sự cảm thông,…
Việc tích hợp GDKNS vào trong HĐNGLL nó không làm cho HĐNGLL
“cồng kềnh” thêm mà còn giúp cho việc tham gia các hoạt động của HS vui vẻ,
tích cực , hào hứng, sôi nổi và nhẹ nhàng hơn, tạo tinh thần đoàn kết, gắn bó,
quan tâm giúp đỡ lẫn nhau trong học tập. Học sinh nỗ lực tiếp thu bài giảng và
tìm tòi những kiến thức liên quan đến bài học để liên hệ áp dụng vào thực tiễn,
qua đó phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Các em cảm thấy
rất vui và biết thêm nhiều kiến thức.Việc vận dụng linh hoạt và hợp lí các phương
pháp và kĩ thuật dạy học vào các HĐNGLL sẽ làm tăng thêm hiệu quả giáo dục
của HĐNGLL đồng thời sẽ tạo điều kiện để HS được thực hành, trải nghiệm các
KNS cần thiết.
20
4.
KN: KN thể hiện sự tự tin, KN ra quyết định, KN đảm nhiệm trách
nhiệm qua
KN lắng nghe, KN hợp tác, KN
giải quyết mâu thuẫn…
KN hợp tác, KN giao tiếp, KN thể
hiện sự cảm thông….
: KN tự đánh giá, KN tự nhận thức…
: KN thể hiện sự tự tin, KN ra quyết định, KN đảm nhiệm trách nhiệm…
4.
KNS của HS được hình thành qua nhiều hoạt động, nhiều con đường khác
nhau: học tập trên lớp thông qua các môn học, các hoạt động, các trò chơi cùng
bạn bè; thông qua các hoạt động thể dục, thể thao, văn nghệ; thông qua các hoạt
động lao động; thông qua các hành vi ứng xử với mọi người xung quanh,… Vì
vậy, để hình thành những KNS tốt đẹp cho HS thì phải có sự kết hợp chặt chẽ và
thống nhất cao giữa Gia đình – Nhà trường – Xã hội.
Vì vậy tôi đã
hà trường tổ chức cam kết cộng
đồng trách nhiệm giữa nhà trường, gia đình, xã hội tham gia vào quá trình
GDKNS cho HS, thống nhất mục tiêu, phương pháp, hình thức tổ chức GDKNS
cho HS.
* Nhà trường chủ động phối hợp với gia đình HS:
- Đầu mỗi năm học nhà trường phối hợp với cha mẹ HS xây dựng tổ chức
hội cha mẹ HS đồng thời qua đó bàn bạc thống nhất các nội dung phối hợp giáo
dục giữa nhà trường với hội phụ huynh, thông tin những vấn đề cơ bản về HS cho
phụ huynh và định hướng những giải pháp phối hợp GD.
- Xây dựng quy chế phối hợp GD giữa nhà trường với ban đại diện cha mẹ
HS; giữa phụ huynh HS với GV chủ nhiệm, với Đội Thiếu niên, các quy tắc và
chế độ thông tin hai chiều giữa nhà trường và các bậc phụ huynh HS.
21
- Nhà trường và GVCN cần cung cấp đầy đủ các thông tin về HS ở trường
cho phụ huynh được biết từ nội dung, yêu cầu GD cho đến đặc điểm tâm sinh lí
lứa tuổi, quá trình học tập rèn luyện của các em,… một cách cụ thể, kịp thời
thông qua liên lạc trực tiếp hoặc qua sổ liên lạc, sổ liên lạc điện tử, email, website
của trường; đồng thời lắng nghe và tiếp thu ý kiến từ phía cha mẹ HS về cách tổ
chức và hiệu quả của các hoạt động GD của nhà trường để có sự điều chỉnh cho
phù hợp.
ổ chức họp phụ huynh HS theo định kì tùy theo tình hình thực
tế của nhà trường, của lớp (thông thường họp PHHS 3 lần: đầu năm, giữa năm,
cuối năm). Ở các cuộc họp này GVCN chủ động trao đổi, bàn bạc với phụ huynh
các giải pháp GD tốt nhất cho các em đồng thời, động viên cha mẹ HS tích cực,
nhiệt tình tham gia sự nghiệp GD cùng với nhà trường.
- GVCN cần chủ động phối kết hợp với phụ huynh trong việc GD HS, cần
chỉ cho họ thấy trách nhiệm của mình đối với xã hội và đối với con em mình,
không “khoán trắng” hoàn toàn cho nhà trường. Khi ở nhà, phụ huynh đừng “bao
cấp” hoàn toàn mà phải tập cho các em sống tự lập. Khi vấp ngã các em phải biết
tự đứng lên. Ngoài việc học bài, phải nhắc các em tập làm những công việc phù
hợp với khả năng của mình như nhặt rau, quét nhà, rửa bát,… Khi đưa con tới
trường phải để cho con biết đi từ cổng vào lớp học, biết xin cô giáo vào lớp khi
đến muộn…
- GVCN cần chủ động huy động các nguồn lực nhân lực, vật lực, tài lực từ
cha mẹ HS cho các hoạt động GD của
nhà trường.
- GVCN lôi cuốn gia đình cùng tham gia hỗ trợ các hoạt động GDKNS cho
HS như mời cha mẹ các em tham dự và cùng tham gia vào các HĐNGLL.
* Phối kết hợp với các đoàn thể xã hội ngoài nhà trường:
- Đối với địa phương,
nhà trường cần tuyên truyền, động
viên quần chúng nhân dân quan tâm tới sự nghiệp GD của nhà trường nói chung,
của con em mình nói riêng góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá trình
GD HS.
- GVCN
chủ động phối hợp với các ban ngành chức
năng như
tế, Hội Cựu chiến binh, Hội Khuyến học, Hội Phụ
nữ, Đoàn Thanh niên,... thực hiện các chuyên đề GD như : GD pháp luật, an toàn
22
giao thông, thông tin về phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, GD sức khỏe
giới tính, GD môi trường, GD truyền thống cách mạng và lịch sử địa
phương,…và tham gia quản lí, GD HS tại địa phương.
Phối hợp với trạm Y tế xã tiêm vacxin phòng Sởi-Rubella cho học sinh.
- Vào những dịp nghỉ Tết hoặc nghỉ hè của HS,
nhà trường cần
tổ chức bàn giao các em về sinh hoạt tại địa phương một cách chặt chẽ.
Tóm lại: KNS không phải “một sớm, một chiều” mà có được. Vì thế quá
trình GDKNS cho HS phải được tiến hành một cách thường xuyên, mọi lúc mọi
nơi, càng sớm càng tốt. Bởi vậy, đòi hỏi người GVCN phải có tâm huyết, phải
biết kiên nhẫn, linh hoạt, sáng tạo, phối hợp với các đoàn thể trong và ngoài nhà
trường trong quá trình GDKNS cho HS.
1. Hiệu quả:
Qua
23
thì kết quả rèn KNS của học sinh trong lớp tôi trong
2 năm liền như sau:
* Cuối năm học 2013-2014:
- 97
ơ
- 94
- 81,5% học
- 60,6% học sinh được rèn kĩ năng tự kiểm soát bản
- 89
tiếp; chung sống hòa bình, và tuyệt đối không xảy ra xung đột cá nhân ở trường
cũng như ở gia đình.
- 92
chữa bệnh kịp thời …
- 62% học sinh luôn có kết quả tốt trong học tập thông qua kết quả học tập
sau mỗi giai đoạn, qua kết quả kiểm tra đánh giá chất lượng sau mỗi chủ đề đối
với từng học sinh đạt và tốt, cụ thể: Mạnh dạn, tự tin: 87,3 %; kĩ năng hợp tác:
81,3%; kĩ năng giao tiếp: 86%; tự lập, tự phục vụ: 96 %; lễ phép: 98%; kĩ năng
thích khám phá học hỏi: 64,5%; kĩ năng tự kiểm soát bản thân: 75,2 %; kĩ năng
xác định mục tiêu: 66,6% …
97%
tôi
thấy các em có tiến bộ rõ rệt. Đa số các em đều có ý thức tốt trong việc rèn luyện các kĩ
năng, được thể hiện rõ qua: Việc sinh hoạt hằng ngày trên lớp, trong nhiều nghi thức lời
nói, các em biết vận dụng những lời nói thân thiện vào thực tế, những lời
24
này của lớp. Cụ thể như sau:
- 100% học sinh đều được g
ơ
o.
-
- 78,6% học sinh được rèn kĩ năng tự
tiếp; chung sống hòa bình, và tuyệt đối không xảy ra xung đột cá nhân ở trường
cũng như ở gia đình.
chữa bệnh kịp thời …
- 70% học sinh luôn có kết quả tốt trong học tập thông qua kết quả học tập
sau mỗi giai đoạn, qua kết quả kiểm tra đánh giá chất lượng sau mỗi chủ đề đối
với từng học sinh đạt và tốt, cụ thể: Mạnh dạn, tự tin: 92,9 %; kĩ năng hợp tác:
89,3%; kĩ năng giao tiếp: 92,9%; tự lập, tự phục vụ: 100 %; lễ phép: 100%; kĩ
năng thích khám phá học hỏi: 71,4 %; kĩ năng tự kiểm soát bản thân: 85,7 %; kĩ
năng xác định mục tiêu: 78,6% …
đến lớp; có kĩ năng lao động tự phục vụ cho bản thân, biết thương yêu bạn bè
trong cùng một mái trường, biết thông cảm và giúp đỡ bạn cùng tiến bộ…
2. Bài học kinh nghiệm:
Là giáo viên
, tôi hiểu rõ tầm quan trọng trong công tác trồng
người. Vì thế, bản thân tôi luôn cố gắng trau dồi sách vở, học hỏi từ đồng nghiệp
cũng như đúc kết kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, nâng cao đạo đức và
chuyên môn. Tôi đã luôn tôn trọng và kiên nhẫn, nhất là tạo cơ hội cho các em
25