Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN một số kinh nghiệm rèn kĩ năng tính, giải toán cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.2 KB, 21 trang )

Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng tính, giải toán cho học sinh lớp 1

MỤC LỤC
Tên mục

Trang

Ghi chu

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ do chọn đề tài.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
3.Đối tượng nghiên cứu.

2

4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận.
2. Thực trạng.

3

2.1. Thuận lợi – khó khăn.
2.2. Thành công – hạn chế.
2.3. Mặt mạnh – mặt yếu.
2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động.
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề và thực trạng mà đề
tài đã đặt ra.


4

3. Giải pháp, biện pháp.
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện
pháp.

5

3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học
của vấn đề nghiên cứu.

17

III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHI
1. Kết luận.

18

2. Kiến nghị.

19

Tài liệu tham khảo

21

Phạm Thị Hòe - Tiểu học Hoàng Văn Thụ


1


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng tính, giải toán cho học sinh lớp 1

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Mỗi môn học đều có vai trò quan trọng góp phần vào việc hình thành
nhân cách học sinh, trong đó có môn toán. Những con số trong môn toán được
hoà mình vào hết thảy ở hầu hết các môn học từ mầm non cho đến trung học phổ
thông và cho đến cao học. Từ trường học cho đến trong cuộc sống. Nói như vậy
ý khẳng định rằng môn toán vô cùng quan trọng từ trong trường học cho đến
cuộc sống đời thường. Ở trường học môn toán lớp 1 cung cấp cho các em kiến
thức ban đầu, là cơ sở cho việc phát triển kĩ năng tính toán và tư duy, là nền tảng
cho những năm học tiếp theo.
Các kiến thức, kỹ năng của môn toán có nhiều ứng dụng trong đời sống,
giúp học sinh nhận biết mối quan hệ về số lượng và hình dạng không gian của
thế giới hiện thực. Một trong những nội dung toán đáp ứng được mục đích trên
đó là đơn vị đo lường. Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật
và công nghệ thông tin đã làm cho khả năng nhận thức của trẻ cũng vượt trội.
Điều đó đã đòi hỏi những nhà nghiên cứu giáo dục luôn luôn phải điều chỉnh nội
dung, phương pháp giảng dạy phù hợp với nhận thức của từng đối tượng học
sinh nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện góp phần đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho quê hương, đất nước.
Chính vì nhận thức được ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của môn học
này. Qua nhiều năm dạy lớp 1, qua trải nghiệm trong thực tế giảng dạy, qua tìm
hiểu, nắm bắt tâm sinh lý của học sinh lớp 1 nên tôi viết: “ Một số kinh nghiệm
rèn kĩ năng giúp học sinh tính toán đúng, nhanh. Giải toán nhanh, chính xác"
cho học sinh lớp 1.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài

Nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và bổ sung vốn kiến thức
cho các em. Giúp các em có kĩ năng tính toán đúng, nhanh trong học tập và
trong cuộc sống hằng ngày. Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
cho học sinh
3. Đối tượng nghiên cứu
Kinh nghiệm rèn kĩ năng tính, giải toán đúng, nhanh.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Xuyên suốt trong quá trình dạy học học sinh khối 1 và học sinh lớp 1D
năm học 2014 – 2015 và đến giữa học kì 2 lớp 1B năm học 2015 – 2016 của
trường tiểu học Hoàng Văn Thụ.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp trải nghiệm thực tế.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp khảo nghiệm.
Phạm Thị Hòe - Tiểu học Hoàng Văn Thụ

2


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng tính, giải toán cho học sinh lớp 1

- Phương pháp quan sát, thực hành theo mẫu.
- Nghiên cứu tài liệu
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Mục tiêu của môn toán ở tiểu học là hình thành những biểu tượng toán học
ban đầu và rèn luyện kĩ năng tính toán cho học sinh, tạo cơ sở phát triển tư duy
và phương pháp toán học cho học sinh sau này. Mặt khác, toán học còn có tính
thực tiễn: Các kiến thức toán học đều bắt nguồn từ cuộc sống. Mỗi mô hình toán
học là khái quát từ các tình huống trong cuộc sống. Dạy học toán ở tiểu học là

giúp các em hoàn thiện những gì vốn có trong các em. Cho các em ghi lại kiến
thức toán học bằng ngôn ngữ và các kí hiệu toán học.
Đối với học sinh lớp 1, tâm lý lứa tuổi của các em còn rất hồn nhiên và
trong sáng. Các em rất bỡ ngỡ khi bước vào môi trường tiểu học, với các em
mọi cái đều mới lạ. việc tiếp thu kiến thức cũng như kĩ năng tính, giải toán cũng
bắt đầu từ đây. Đối với lớp 1, các em được học phép cộng trừ không nhớ trong
phạm vi 100 gồm ( tính; đặt tính rồi tính) tính kết quả của dãy tính. Sau đó các
em sẽ được học giải toán có lời văn; tính toán có kèm tên đơn vị (đo đại lượng).
2. Thực trạng.
- - Học sinh lớp 1 đa số các em dễ nhớ nhưng lại mau quên nên việc ghi nhớ lời
thầy cô dạy là chưa bền vững.
- Các em thường máy móc tính toán trên đồ dùng trực quan khi tính, hoặc
viết thiếu lời giải khi giải toán. Chưa biết hoặc lúng túng khi viết phép tính giải,
viết thiếu hoặc viết sai tên đơn vị.
2.1 Thuận lợi – khó khăn
+ Thuận lợi: - Vì các em mới bước vào ngưỡng cửa của bậc học mới nên
việc hướng dẫn, giúp các em phát triển từ kĩ năng tính, giải toán chưa bền vững
tới kĩ năng tính, giải toán có bền vững nhanh hơn.
+ Khó khăn: - Trong quá trình dạy vì đa số các em là học sinh dân tộc
thiểu số tại chỗ nhiều, các em chủ yếu chỉ học những gì trên lớp do thầy cô
giảng dạy, còn hầu như về nhà cha mẹ ít quan tâm, không đôn đốc các em tự học
hoặc không giúp đỡ được nhiều khi hướng dẫn cho các em. Còn có những
trường hợp một vài em chưa nói, nghe thông thạo Tiếng Việt nên kết quả học
tập của các em chưa thật cao đặc biệt là môn toán.
2.2. Thành công – hạn chế
+ Thành công: Hầu hết các em được học qua do tôi chủ nhiệm, các em
đều
có kĩ năng tính toán đúng, nhanh, trình bày tương đối khoa học, sạch đẹp.
+ Hạn chế:
* Đối với giáo viên: Còn có giáo viên

Phạm Thị Hòe - Tiểu học Hoàng Văn Thụ

3


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng tính, giải toán cho học sinh lớp 1

- Chưa giám sát việc học tập của học sinh mà chỉ kiểm soát kết quả học
tập thông qua việc chấm bài ở vở của các em.
- Chưa xác định trọng tâm của môn học cũng như chưa linh hoạt trong
việc dạy theo hướng phân hóa đối tượng học sinh nên chưa phát huy hết tính
sáng tạo của những học sinh có năng khiếu môn toán.
- Kiểm tra bài cũ còn mang tính máy móc, chưa sáng tạo.
* Đối với học sinh: - Các em còn lúng túng khi tính toán, giải toán có lời
văn.
- Không hiểu các thuật ngữ toán học như: thêm, bớt, cho đi, mua về, bay
đi, chạy đến,. . . và câu hỏi: Có tất cả bao nhiêu? Còn lại bao nhiêu? . . . .
2.3. Mặt mạnh - mặt yếu
+ Mặt mạnh: - Hầu hết các em hiểu và phát huy được những ưu điểm khi
tôi hướng dẫn cách tính, giải toán
+ Mặt yếu: - Những em chưa thông thạo Tiếng Việt, hoặc cha mẹ các em
thiếu quan tâm khi học ở nhà việc hướng dẫn các em tính, giải toán có lời văn có
phần hạn chế.
2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động:
- Nhờ sự tạo điều kiện giúp đỡ về thời gian của lãnh đạo trường, sự phối
hợp đồng bộ của giáo viên trong toàn khối và giáo viên bộ môn, kết hợp với sự
quan tâm nhiệt tình của giáo viên chủ nhiệm đối với từng học sinh kể cả vật chất
lẫn tinh thân nên việc đồng tình ủng hộ của cha mẹ học sinh kết quả đạt được có
khả thi.
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề và thực trạng mà đề tài đã đặt ra.

- Do các em rất hiếu động, dễ nhớ nhưng lại mau quên nên việc ghi nhớ lời
thầy cô dạy là chưa bền vững.
- Do các em thường máy móc tính toán trên đồ dùng trực quan khi tính, do
chưa thuộc lòng các phép tinh cộng, trừ không nhớ trong phạm vi 10. Viết thiếu
lời giải khi giải toán do chưa hiểu kĩ đề. Chưa biết hoặc lúng túng khi viết phép
tính giải, viết thiếu hoặc viết sai tên đơn vị do chưa hiểu thuật ngữ trong toán
học. Tóm lại chưa có điểm tựa để giúp các em dễ nhớ và nhớ lâu.
3. Giải pháp, biện pháp:
- Biện pháp, giải pháp làm thay đổi kĩ năng.
+ Mục tiêu: - Giúp các em hiểu và tính đúng, có kĩ năng tính toán nhanh,
có mẹo tính toán đặc biệt vận dụng vào việc giải toán có lời văn
+ Cách thức thực hiện:
- Ví dụ: - Khi dạy bài phép cộng trong phạm vi 4, tôi sử dụng đồ dùng
trực quan để thành lập các phép tính cộng, sau khi thành lập đầy đủ các phép
Phạm Thị Hòe - Tiểu học Hoàng Văn Thụ

4


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng tính, giải toán cho học sinh lớp 1

tính cộng gồm: 3 + 1 = 4; 1 + 3 = 4; 2 + 2 = 4. Tôi cho các em đọc thuộc, sau
đó xóa dần kết quả và hướng dẫn trả lời kết quả nhanh bằng cách hỏi lộn xộn.
VD: 1 + 3 bằng mấy. Yêu cầu các em phải nhắc lại phép tính và kết quả thật
nhanh thông qua trò chơi “ Ai đúng và nhanh”. Một em hỏi, em khác trả lời, sau
khi bạn trả lời xong, em ra đố nhận xét.Nếu trả lời chậm nghĩa là các em còn
phải nhẩm tính lại là chưa đạt – coi như thua cuộc. Đây là bài học thứ hai sau bài
phép cộng trong phạm vi 3, tính đúng, nhanh rất quan trọng ở giai đoạn này. Sẽ
giúp các em việc hình thành kĩ năng tính toán nhanh, đúng sẽ giúp các em trong
những bài học sau. Vì những bài sau nhiều phép tính hơn, tính toán nhiều số,

rườm rà hơn. Từ đây cũng sẽ giúp các em trong việc vận dụng linh hoạt khi tính
giải toán có lời văn mà không cần qua bước trung gian là nháp theo kiểu đặt tính
cột dọc.
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.
Đề tài đưa ra một số giải pháp, biện pháp nhằm giúp giáo viên hướng dẫn
rèn cho các em phát triển kĩ năng làm tính đúng, nhanh và giải toán có lời văn
đúng nâng cao chất lượng học tập cho các em.
Việc rèn kĩ năng tính, giải toán giúp các em tự tin trong quá trình học tập,
tính toán trong cuộc sống hằng ngày, tự tin khi giao tiếp, lĩnh hội được kiến thức
bài giảng của giáo viên đầy đủ hơn, dễ hiểu hơn, hiểu sâu hơn. lôi kéo tất cả mọi
đối tượng học sinh vào bài học tốt hơn, hiệu quả cho tiết dạy của giáo viên vẹn
toàn như mong muốn.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
3.2a. Rèn kĩ năng tính, giải toán trong giờ học toán.
Trong mỗi môn học ở các cấp học, thì môn học nào cũng có vai trò quan
trọng, nhưng trong đó môn toán và môn Tiếng Việt là quan trọng nhất vì hai
môn học này còn được gọi là môn công cụ. Nói như vậy chắc ai cũng phải hiểu
ý nghĩa và tầm quan trọng của môn học này. Môn toán còn được vận dụng trong
cuộc sống đời thường, được phát xuất từ trong cuộc sống hằng ngày mà ra. Dù
học cao tới đâu, dù làm công việc gì thì một người bình thường cũng rất cần tới
những con số để tính toán. Thời đại chúng ta là thời đại công nghệ, nhưng cho
dù ở đâu, dù máy móc có tinh xảo hiện đại thế nào đi chăng nữa thì tất cả đều
được do đầu óc con người tạo thành.
A. Đối với dạng toán đơn:
a: Đối với bài mới:
Sau khi thành lập hoàn chỉnh các phép tính phần bài mới xong, tôi yêu
cầu các em học thuộc theo thứ tự xuôi, sau đó tôi hướng dẫn các em đáp nhanh
kết quả của các phép tính do tôi hỏi ( hỏi lộn xộn: VD bài phép trừ trong phạm
vi 9, tôi chỉ hỏi 9 – 2 = ?; 9 – 5 = ?), yêu cầu em đó trả lời nhanh kết quả, cả lớp
cùng nhận xét đưa ra ý trả lời đúng – sai. Vì trong quá trình các em tính toán

cũng như thực hành tính, người giáo viên không thể ra đề xuôi y như bài mới
được mà phải đảo vị trí các phép tính. Trong thực tế cuộc sống hằng ngày cũng
Phạm Thị Hòe - Tiểu học Hoàng Văn Thụ

5


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng tính, giải toán cho học sinh lớp 1

vậy, nếu không rèn ngay từ đầu tính nhanh nhạy thì các em sẽ bị lệ thuộc vào đồ
dùng rất nhiều ví dụ các em dùng ngón tay để đếm kết quả, hay hoặc nhẩm tính
lại từ đầu các phép tính có trong bảng cộng, trừ đã học. Nếu như vậy thì sẽ
không thể đảm bảo được thời gian cho một tiết học toán. Ngoài ra còn giúp các
em tính tổng, hiệu các số có nhiều chữ số ở các lớp học trên.
b: Đối với phần thực hành của bài mới và bài luyện tập – luyện tập
chung.
Từ việc vận dụng kĩ năng tính đúng, nhanh của phần bài mới, tôi đã
hướng dẫn các em vận dụng linh hoạt vào thực hành tính thông qua phần thực
hành, tiết luyện tập, luyện tập chung. Vì tất cả các phép tính đều được hình
thành từ phần bài mới mà ra. Nếu tính theo hàng ngang cần đảm bảo tính từ trái
sang phải. Nếu gặp bài tính nhẩm thì tôi yêu cầu theo dõi bài trong sách giáo
khoa và lần lượt nối tiếp nêu nhanh phép tính có trong sách và kết quả của phép
tính đó, em nào chậm thì em khác trả lời, nếu trả lời chưa đúng, tôi cho cứu trợ
bằng phép tính khác tùy vào lực học của em đó. Khi tôi hỏi, tôi đã yêu cầu tất cả
các em trong lớp đều làm việc (làm ban giám khảo). Như vậy sẽ củng cố được
kiến thực và vừa tránh lãng phí thời gian, vừa làm cho lớp học thêm sôi động,
giúp các em tự lĩnh hội được kiến thức thông qua câu trả lời của bạn.
c. Đối với dạng bài tính theo dãy tính.
Tôi đã hướng dẫn các em bắt buộc tính từ trái sang phải các số chỉ có một
chữ số thì tương đối dễ, nhưng đối với số có hai chữ số ( cộng, trừ không nhớ

trong phạm vi 100), thì tôi hướng dẫn cộng hoặc trừ các chữ số hàng đơn vị
trước và viết kết quả sau dấu bằng (=) nhưng hơi cách dấu bằng một chút vì kết
quả đó thuộc hàng đơn vị, còn hàng chục tiếp tục thực hiện tính như hàng đơn
vị, nhưng khi viết kết quả phải viết trước số lúc nãy đã viết (viết ngay sau dấu
bằng – trước của số chỉ hàng đơn vị) vì kết quả đó thuộc hàng chục. Thay vì tập
trung vào nháp, thì tôi định hướng cho các em tính đúng, rèn kĩ năng thực hiện
tính nhanh. Nếu học đến bài có kèm tên đơn vị (cm) thì tôi hướng dẫn các em
tính như thông thường và chỉ cần ghi tên đơn vị vào sau kết quả tính là xong.
d. Đối với đạng bài đặt tính rồi tính.
Nhiều học sinh chưa hiểu rõ hết yêu cầu của đề nên vẫn còn có học sinh
viết kết quả theo hàng ngang. VD: đặt tính rồi tính 2 + 3. Học sinh viết kết quả
ngay sau dấu bằng. 2 + 3.= 5
Còn tôi, tôi giúp các em hiểu rõ yêu cầu của đề. Bài yêu cầu những gì?
(đặt tính – tính kết quả). Chốt lại: bài có 2 yêu cầu (yêu cầu thứ nhất là đặt tính;
yêu cầu thứ hai là tính kết quả) và tôi lấy phấn gạch chân 2 yêu cầu của đề để
làm rõ trọng tâm của đề
Tôi hướng dẫn các em viết số theo đề hay số nào đọc trước thì viết trước,
số viết sau phụ thuộc vào số viết trước sao cho các hàng tương ứng phải thẳng
cột với nhau. Sau đó viết dấu cộng (+) hoặc dấu trừ (-) hơi lệch về bên trái giữa
hai sô, kẻ dấu gạch ngang thay cho dấu bằng, vì nếu các em quên không gạch
ngang mà ghi kết quả của phép tính cộng thì coi phép tính đó chưa có kết quả.
Phạm Thị Hòe - Tiểu học Hoàng Văn Thụ

6


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng tính, giải toán cho học sinh lớp 1

Còn nếu phép tính trừ thì đặt tính sai ( vì không thể đặt tính trừ khi có ba số trở
lên). Khi dạy làm quen đọc viết các số từ 1 -> 9 ở đầu năm học, tôi đã giúp các

em hiểu các số có một chữ số đều thuộc hàng đơn vị, nên khi đặt tính tới đây đối
với mấy phép tính đầu tôi thường hỏi để nhắc nhở các em cần đặt tính đúng
thông qua câu hỏi giúp các em tự định hướng cho bài làm của mình ví dụ: số thứ
nhất có mấy chữ số?, số thứ hai có mấy chữ số?, sau khi viết các số xong cần
làm gì? vì chỉ có đặt tính đúng, thực hiện tính đúng mới cho kết quả đúng.
+

34
42
76

36
- 6
30

Thường thì học sinh hay đặt tính sai ở số thứ hai, vì các em chưa biết phân biệt
và chưa có kĩ năng đặt tính khi viết số thứ hai cần phụ thuộc vào số thứ nhất.
VD:
+

30
6
90

+

30
6
36


Nhìn vào ví dụ, ta nhận thấy ở phép tính thứ nhất, do các em đặt tính sai dẫn
đến kết quả của phép cộng sai; ở phép tính thứ hai tuy các em đặt tính sai nhưng
vẫn có kết quả đúng vì đây là phép tính đơn giản, có thể em tính nhẩm cũng có
kết quả đúng, nhưng đặt tính sai.
Tôi đã hướng dẫn các em đặt tính như sau: - Viết số thứ nhất, số thứ hai viết ở
dòng dưới của số thứ nhất sao cho các hàng tương ứng phải thẳng cột với nhau,
đồng thời tôi chỉ số tương ứng (VD phép tính 30 + 6 thì viết số 6 thẳng cột với
số 0 vì số 0 và số 6 đều thuộc hàng đơn vị ). Muốn vậy, các em phải nhận biết
được số các chữ số của từng số.
Từ ví dụ trên, tôi viết lại để sửa lỗi sai, đặt tính đúng phải là:
Hoặc phép tính cộng
30
+ 6
36

3
+
62
65

Phạm Thị Hòe - Tiểu học Hoàng Văn Thụ

7


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng tính, giải toán cho học sinh lớp 1

Chốt ý: Khi tính phải thực hiện tính từ phải sang trái, nhưng khi viết số ta phải
viết
số từ trái sang phải

đ. Đối với dạng viết phép tính thích hợp thông qua kênh hình.
Qua thực tế giảng dạy lớp 1 nhiều năm tôi thấy:
- Phần lớn học sinh biết làm bài toán có lời văn.
- Học sinh ham học, có hứng thú học tập môn toán nói chung và “Giải bài
toán có lời văn” nói riêng.
- Học sinh bước đầu biết vận dụng bài toán có lời văn vào thực tế.
Song bên cạnh đó, qua quá trình giảng dạy tôi thấy còn không ít học sinh
còn lúng túng khi giải bài toán có lời văn. Đó là:
+ Đọc được đề bài nhưng chưa hiểu đề bài, chưa biết thế nào là tìm hiểu
bài toán có lời văn như: Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì ?
+ Không hiểu các thuật ngữ toán học như: thêm, bớt, cho đi, mua về, bay
đi, chạy đến,. . . và câu hỏi: Có tất cả bao nhiêu? Còn lại bao nhiêu? . . . .
+ Không biết tóm tắt bài toán, lúng túng khi nêu câu lời giải, có khi học
sinh nêu (viết lại) câu hỏi của bài toán. Không hiểu thuật ngữ toán học nên
không biết nên cộng hay trừ dẫn đến nói sai, viết sai phép tính, sai đơn vị, viết
sai đáp số.
Bài toán giải có lời văn được hình thành từ kiểu bài toán đơn qua tranh vẽ
là viết phép tính thích hợp.
VD: Ngay từ bài đầu tiên: Bài phép trừ trong phạm vi 3
Ta gọi hình vẽ đó là quả trứng. Nhìn vào hình vẽ, có em sẽ đọc bài toán như
sau: Có 2 quả trứng và 1 quả trứng bị gạch bỏ. Hoặc có 3 quả trứng, gạch 1 quả
trứng 2 quả trứng. Ta đều nhận ra rằng cả hai cách đọc đề của học sinh chưa
đúng. Tôi vẽ lại hình và gợi ý giúp các em hiểu lúc đầu có mấy quả trứng? ( 3 ),
sau đó tôi gạch bớt đi 1 quả trứng, kết hợp hỏi: Bỏ bớt đi mấy quả trứng? ( 1 ).
Và đề bài toán hoàn thiện là: Lúc đầu có 3 quả trứng, bớt đi 1 quả trứng. Hỏi
còn lại mấy quả trứng? Tôi đã hướng dẫn và yêu cầu các em nhắc lại nhiều lần
đề bài toán sau khi đã hoàn thiện.
Vừa làm vừa hướng dẫn các em viết phép tính thích hợp vào ô trống như sau:
Có 3 quả trứng được viết số liệu là số 3 vào ô trống thứ nhất, bớt đi ta làm tính
trừ.

Đến đay tôi nhấn mạnh các thuật ngữ dùng trong toán như: bớt đi ta làm tính trừ
kết hợp viết dấu trừ vào ô trống thứ hai. Yêu cầu nhìn vào hình vẽ và hướng dẫn
đếm xem còn lại mấy quả trứng? ( 2 ),

Phạm Thị Hòe - Tiểu học Hoàng Văn Thụ

8


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng tính, giải toán cho học sinh lớp 1

Hướng dẫn các em lập phép tính: 3 – 1 = và hướng dẫn điền kết quả hoặc nếu
em nào đã hiểu phép tính trừ 3 – 1 = 2 thì điền số 2 vào sau dấu bằng.
3

-

1

=

2

Lưu ý: đối với viết phép tính thích hợp qua kênh hinh, tranh. Tôi yêu cầu các em
phải viết phép tính theo hàng ngang ( không được viết theo cột dọc ) và đây
cũng là cơ sở để các em vận dụng, rèn kĩ năng vào giải toán có lời văn khi viết
phép tính giải.
Sau mỗi bài toán đều có chốt ý, tôi tìm điểm đặc trưng của bài toán để chốt ý sao
cho toát lên được ý chính của bài, đó cũng là điểm tựa giúp các em dễ nhớ.
Cũng trong bài phép trừ trong phạm vi 3, quan sát tranh trong sách giáo khoa

toán 1 ta thấy ở bài tập số 3 ( phần thực hành của bài mới), đề yêu cầu viết phép
tính thích hợp. Nhìn vào tranh vẽ tôi đã gợi ý để các em nói được: lúc đầu trên
cành cây có 3 con chim, sau đó 2 con chim bay đi. Hỏi trên cành cây còn lại
mấy con chim. Và hướng dẫn các em hiểu thuật ngữ “ bay đi” ta làm tính trừ.
Đến đây tôi chốt lại. Như vậy nếu nhìn vào tranh vẽ mà các em đọc đúng đề là
bay đi, cho đi, rụng đi, hái đi, nhảy đi, gạch bỏ đi, chạy đi. Ta làm tính trừ.
Tương tự với phép cộng:
Các mũi tên theo chiều ngang ( thêm ), các thuật ngữ bay đến, chạy đến ( chỉ
hướng con vật đến), trong cùng một hình nhưng được chia 2 phần ( gộp). Ta
làm tính cộng.
e. Với dạng: Viết phép tính thích hợp
Kiểu viết đề theo tóm tắt bằng lời.
Xét 2 ví dụ:
VD1:

VD2:

Có: 10 quả trứng

Có:

5 kẹo

Cho: 3 quả trứng

Thêm:

3 kẹo

Còn: ....quả trứng?


Có tất cả:…kẹo?

Trước khi chính thức học “Giải toán có lời văn” học sinh được học bài
nói về cấu tạo của một bài toán có lời văn. Hai ví dụ trên tuy hai phép tính khác
nhau nhưng cùng có một điểm chung của đề, đó là: Bài gồm hai thành phần
chính là những cái đã cho (đã biết) và những cái phải tìm (chưa biết). Vì vậy có
thể giải thích cho học sinh: “ Bài toán đã cho biết gì?” - tôi gạch chân dữ kiện
của đề đã cho để giúp các em nhận biết phần nào gọi là cái đã cho, cái đã cho
bao giờ cũng có số liệu cụ thể và các thuật ngữ để thiết lập phép tính đó. Bài
toán hỏi gì? – Tôi gạch chân câu hỏi. Mà muốn nhận biết câu hỏi (cái cần tìm)
thì cuối câu hỏi bao giờ cũng có dấu hỏi chấm ( ? ). Kết hợp giữa thuật ngữ để
thiết lập phép tính đúng và câu hỏi để khẳng định chắc chắn bài toán cần thiết
lập phép tính nào cho đúng.
Phạm Thị Hòe - Tiểu học Hoàng Văn Thụ

9


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng tính, giải toán cho học sinh lớp 1

Kiểu bài thực hiện tính trư
Bài bảng cộng và bảng trừ trong phạm vi 10
Ở bài tập số 3 ( b), có đề tóm tắt.
Có: 10 quả bóng
Cho: 3 quả bóng
Còn: ....quả bóng?
Nếu các em nhìn tóm tắt sẽ đọc đề theo tóm tắt như sau: Có 10 quả bóng, cho 3
quả bóng. Còn chấm chấm quả bóng? (các em đọc đề theo tóm tắt). Có nhiều
giáo viên dạy vì không hướng dẫn hoặc hướng dẫn sơ sài phần bài viết phép tính

thích hợp chỉ nhìn tranh vẽ mà không cho học sinh đọc đề theo tranh vẽ, nên khi
gặp bài toán này, các em thường lúng túng khó định hướng được phải làm tính
gì?
Tôi ghi đề theo tóm tắt và hướng dẫn các em đọc đề hoàn chỉnh như sau: Có 10
quả bóng, cho đi 3 quả bóng. Hỏi còn lại mấy quả bóng? Vừa đọc đề theo tóm
tắt đồng thời tôi hướng dẫn giúp các em hiểu đề bài toán. Tôi lấy phấn gach
chân số liệu; các từ thông qua câu hỏi gợi mở như: Có mấy quả bóng? (10 ), cho
đi mấy quả bóng? ( 3), tôi gạch chân từ cho đi và số 3.
Cho học sinh nhắc lại các thuật ngữ như: cho đi, bay đi, rụng đi, hái đi, nhảy đi,
gạch bỏ đi, chạy đi, cắt đi.
Ta làm tính gì? ( tính trừ). Và giúp các em hiểu câu hỏi của bài toán gắn liền với
thuật ngữ của đề bài đã cho đó là: Nếu ở đề bài có các từ như: cho đi, bay đi,
rụng đi, hái đi, nhảy đi, gạch bỏ đi, chạy đi, rời bến ( ô tô, tàu), cắt đi …thì câu
hỏi bao giờ cũng gắn liền với từ để hỏi là: còn lại. Các thuật ngữ ở đề bài đã cho
liên quan mật thiết với câu hỏi và phép tính, do đó khi đọc đến đây, tôi gạch
chân từ: ( còn), từ đó sẽ giúp các em nhớ lại kiến thức đã học và lập đúng được
phép tính.
10 – 3 = 7
Vận dụng từ cách học của các phép tính cộng, trừ trong phạm vi 10, như
trên tôi đã nêu. Đến đây tôi chỉ hướng dẫn các em cách đọc đề hoàn chỉnh theo
tóm tắt và thiết lập phép tính đúng theo đề chứ tôi không nhắc lại kết quả của
phép tính nữa mà tôi yêu cầu các em trả lời nhanh kết quả ( vì đã học toán đơn),
Ở bài này, tôi chốt ý qua câu hỏi: Vậy các thuật ngữ như: cho đi, bay đi, rụng đi,
hái đi, nhảy đi, gạch bỏ đi, chạy đi, đã bán, đã ăn, căt đi, … ( không còn nữa).
Mà câu hỏi là: “ còn lại”, ta làm phép tính gì? ( tính trừ ).
Kiểu bài thực hiện tính cộng.
Tôi cũng thực hiện cách làm như trên nhưng thay các thuật ngữ “ thêm,
chạy tới, đi tới, sẽ gắn liền với câu hỏi: có tất cả – ta thực hiện phép tính cộng”
VD: Đề bài tập số 5 / a – trang 89


Phạm Thị Hòe - Tiểu học Hoàng Văn Thụ

10


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng tính, giải toán cho học sinh lớp 1

Có: 5 quả
Thêm: 3 quả
Có tất cả:…quả?
Cũng có khi phải thực hiện phép tính cộng nhưng lại gặp phải đề như bài tập số
4 của bài luyện tập chung ( trang 88 )
Tổ 1: 6 bạn
Tổ 2: 4 bạn
Cả hai tổ: … bạn?
Khi gặp phải đề như vậy, các em thường chưa định hướng được phép tính thích
hợp, tôi cho các em trực tiếp thực hành như đề
Gọi 6 em lên bảng đứng, chỉ vào và nói: ( đây là các bạn tổ 1)
Gọi 4 em khác lên bảng đứng, chỉ vào và nói: ( đây là các bạn tổ 2), sau đó tôi
dắt các em xích lại gần nhau và nói: ( đây là số các bạn của cả 2 tổ). Vậy cả hai
tổ có mấy bạn? và yêu cầu các em đếm, nêu ( 10 bạn ), đến đây các em tự viết
đúng được phép tính. Đây chính là bài toán thêm nhưng có biến tấu một chút
thành bài toán gộp.
6

+

4

=


10

Chốt ý: Có hai số liệu đã cho cụ thể, mà câu hỏi là cả hai, ta phải viết và thực
hiện phép tính cộng.
B. Dạy “Giải toán có lời văn”
Một bài toán giải có lời văn bao giờ cũng có hai phần chính.
- Dữ kiện (cái đã cho) – gồm số liệu và tên đơn vị.
- Cái phải tìm ( kết quả) – kèm tên đơn vị.
1 Một số dạng toán có lời văn ở lớp 1:
a) Điền phép tính thích hợp: Học sinh chỉ việc nhìn tranh và trả lời câu
hỏi rồi điền phép tính.
Ví dụ như tranh minh họa bài tập 4/b (sách giáo khoa trang 69) – Phần
này tôi đã viết ở trên
b) Viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán:
Bài toán: Có … bạn, có thêm … bạn đang đi tới. Hỏi tất cả có bao nhiêu bạn?
Với bài này, học sinh chỉ việc nhìn tranh trả lời câu hỏi của giáo viên rồi
điền vào số vào đề bài thành bài toán có lời văn

Phạm Thị Hòe - Tiểu học Hoàng Văn Thụ

11


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng tính, giải toán cho học sinh lớp 1

c) Yêu cầu học sinh điền số vào tóm tắt và tìm lời giải, phép tính rồi
điền vào đáp số.
Ví dụ: Lúc đầu tổ em có 6 bạn, sau đó có thêm 3 bạn nữa. Hỏi tổ em có tất cả
mấy bạn?

Tóm tắt

Bài giải

Có :…… bạn

…………………………………

Thêm :…… bạn

………………………………..

Có tất cả :…… bạn?

Đáp số:…. bạn.

d) Điền số vào tóm tắt rồi tự tìm lời giải và giải:
Ví dụ (bài 1 trang 121):
Trong vườn có 12 cây chuối, bố trồng thêm 3 cây chuối. Hỏi có tất cả bao
nhiêu cây chuối ?
Tóm tắt
Có

:…… cây

Thêm

:…… cây

Có tất cả :…… cây ?

Bài này giáo viên cần giúp học sinh tìm hiểu đề thông qua câu hỏi gợi mở
như: Bài toán cho biết gì?, bài toán hỏi gì? để từ đó các em hiểu đề và giải dễ
dàng hơn.
Nhìn chung những dạng toán trên cũng phù hợp với học sinh những cũng
có phần
gây khó khăn cho một số học sinh trung bình, học sinh chưa hoàn thành môn.
Đây cũng là yêu cầu đối với giáo viên làm sao cho học sinh hiểu được bài toán
và giải được thông qua bước phân tích đề bài sau đây.
2. Nhận biết cấu tạo bài toán có lời văn:
Tiết 84: Bài toán có lời văn. Học sinh được học với đề toán chưa hoàn thiện.
Tiếp tục sử dụng kĩ năng quan sát tranh, học sinh đã rất thành thạo ở giai đoạn 2
vậy nên hoàn thiện nốt đề bài toán là điều không khó đối với học sinh lớp tôi.
Tiếp tục tôi giảng để học sinh nắm chắc một bài toán có lời văn ở lớp 1 gồm 2
phần: phần cho biết, phần hỏi.
Gồm 4 bài toán có yêu cầu khác nhau:
* Viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán:
Bài toán 1: Có …bạn, có thêm… bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn ?
Bài toán 2: Có … con, có thêm … con thỏ đang chạy tới. Hỏi có tất cả bao
nhiêu con thỏ ?

Phạm Thị Hòe - Tiểu học Hoàng Văn Thụ

12


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng tính, giải toán cho học sinh lớp 1

* Bài toán còn thiếu câu hỏi (cái cần tìm):
Bài toán 3: Viết tiếp câu hỏi để có bài toán.
Có 1 gà mẹ và có 7 gà con.

Hỏi ………………………………………………….?
* Bài toán còn thiếu cả số cả câu hỏi (cái đã cho và cái cần tìm)
Bài toán 4: Có … con chim đậu trên cành, có thêm….con chim bay đến.
Hỏi ………………………………………………….?
- Dạy dạng toán này tôi phải xác định làm thế nào giúp các em điền đủ được
các dữ kiện (cái đã cho và cái cần tìm) còn thiếu của bài toán và bước đầu các
em hiểu được bài toán có lời văn là phải đủ các dữ kiện; đâu là cái đã cho và đâu
là cái cần tìm.
Bước 1: Tôi đặt câu hỏi - HS trả lời và điền số còn thiếu vào chỗ chấm để có
bài toán. Tôi kết hợp dùng phấn màu ghi số còn thiếu vào bài toán mẫu trên
bảng lớp.
Bước 2: Hướng dẫn các em xác định cái đã cho và cái cần tìm. (dữ kiện và yêu
cầu bài toán). Dùng phấn màu gạch chân dữ kiện và từ quan trọng (tất cả) của
bài toán.
Sau khi hoàn thành 4 bài toán giáo viên nên cho các em đọc lại và xác
định bài 1 và bài 2 thiếu cái đã cho; bài 3 thiếu cái cần tìm; bài 4 thiếu cả cái đã
cho và cái cần tìm. Qua đó giúp các em hiều được đây là dạng toán có lời văn
phải có đủ dữ kiện.
3. Quy trình giải toán có lời văn:
Gồm các bước:
- Tìm hiểu bài toán.
- Tìm đường lối (cách) giải bài toán
- Trình bày bài giải (gồm 3 phần: câu lời giải, phép tính, đáp số).
- Kiểm tra lại bài giải
* Dạy bài: Giải bài toán có lời văn
VD: Bài 2 (trang 118)
- Lúc đầu tổ em có 6 bạn, sau đó có thêm 3 bạn nữa. Hỏi tổ em có mấy bạn?
Bước 1: Tìm hiểu bài
Tôi yêu cầu học sinh:
- Đọc bài toán.

- Đặt câu hỏi tìm hiểu bài: Bài toán giải có lời văn bao giờ cũng có hai phần
Phần đầu ( đã cho biết) và phần sau hỏi (cái phải tìm)

Phạm Thị Hòe - Tiểu học Hoàng Văn Thụ

13


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng tính, giải toán cho học sinh lớp 1

+ Bài toán cho biết gì? (Lúc đầu tổ em có 6 bạn, sau đó có thêm 3 bạn nữa). Tôi
gạch chân dữ kiện thường ở lớp 1 ra đề theo chiều xuôi từ đầu bài cho đến trước
chữ hỏi. (Phần đã cho biết của bài toán)
Đề bài: Lúc đầu tổ em có 6 bạn, sau đó có thêm 3 bạn nữa. Hỏi tổ em có mấy
bạn?
+ Bài toán hỏi gì? (Hỏi tổ em có tất cả mấy bạn?), tôi gạch chân từ chữ hỏi đến
hết và nhấn mạnh tạo điểm tựa cho các em dễ nhớ. Các số 6; 3 là số liệu đã cho.
Vậy thêm ta làm tính gì? (tính cộng) và câu hỏi (có tất cả) bao giờ cũng logic
với thuật ngữ đã cho (thêm) để các em thiết lập đúng phép tính.
Bước 2: Tìm đường lối (cách) giải bài toán
+ Trước khi làm bài toán giải, bao giờ cũng phải ghi từ: ”Bài giải”(thường
được đặt ở giữa dòng), nhưng cũng tùy vào cách trình bày của mỗi giáo viên đê
ghi. Tôi vừa hướng dẫn, vừa làm mẫu.
a) Hướng dẫn học sinh viết lời giải:
Tôi hỏi học sinh: Dựa vào đâu ta viết được lời giải của bài toán ?
Học sinh: Dựa vào câu hỏi của bài toán
Tôi nhấn mạnh cho học sinh: Bài toán hỏi cái gì thì trả lời ngay cái đó.
Tôi có thể hướng dẫn các em viết câu lời giải theo một số cách sau:
Cách 1: Hướng dẫn cho HS chọn cách viết câu lời giải gần với câu hỏi nhất đó
là:

- Đọc kĩ câu hỏi.
- Bỏ chữ Hỏi đầu câu hỏi. Tôi gạch chéo bỏ
- Thay chữ mấy (thuật ngữ dùng để hỏi), gạch chéo bỏ và viết dưới chữ
mấy là chữ số.
- Thêm vào cuối câu chữ là và dấu hai chấm
Để có câu lời giải: “ Tổ em có tất cả số bạn là”
Đề bài: Lúc đầu tổ em có 6 bạn, sau đó có thêm 3 bạn nữa. Hỏi tổ em có mấy
bạn?
Vừa làm, tôi vừa giảng giải.
Cách 2: Đưa từ “ bạn” ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ “Hỏi” và thêm từ
Số (ở đầu câu), là ở cuối câu để có “Số bạn ở tổ em có tất cả là”
Cách 3: Dựa vào dòng cuối cùng của câu tóm tắt coi đó là “từ khoá” của câu lời
giải rồi thêm thắt chút ít. Ví dụ: Từ dòng cuối của tóm tắt “ Có tất cả?”. Học
sinh viết câu lời giải: “ Có tất cả là:”
Vậy là có rất nhiều câu lời giải khác nhau, yêu cầu học sinh chọn câu lời giải
thích hợp nhất, không nên bắt học sinh nhất nhất phải viết theo lời giải theo một
kiểu.
Phạm Thị Hòe - Tiểu học Hoàng Văn Thụ

14


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng tính, giải toán cho học sinh lớp 1

b) Hướng dẫn học sinh viết phép tính:
Do ở phần viết phép tính thích hợp tôi đã hướng dẫn các em kĩ nên khi gặp đề
như thế này, các em dễ dàng thiết lập đúng được phép tính, sau đó tôi hướng dẫn
các em ghi tên đơn vị.
Lưu ý bài toán hỏi cái gì thì ghi tên đơn vị cái đó ( ở bài toán này hỏi bạn
thì tên đơn vị ở lời giải và ở phép tính giải phải ghi “ bạn” . Tên đơn vị ở phép

tính giải phụ thuộc vào tên đơn vị ở lời giải.
c) Hướng dẫn học sinh viết đáp số:
Tôi cho học sinh biết: Viết từ đáp số viết kết quả của phép tính, tên đơn vị
không viết trong ngoặc đơn
Bước 3: Trình bày hoàn chỉnh bài giải :
Bài giải
Tổ em có tất cả số bạn là:
6 + 3 = 9 (bạn)
Đáp số: 9 bạn
Bước 4: Kiểm tra lại bài giải
Sau khi học sinh làm bài xong yêu cầu các em kiểm tra lại bài xem đã
đúng chưa (có thể quan sát tranh lại để kiểm tra)
- Đối với giải bài toán theo tóm tắt:
Tôi cho học sinh đọc tóm tắt đề toán, nhìn tóm tắt nêu đề toán, phân tích
đề và giải bài toán như trên.
- Ngoài ra còn có dạng đề ít gặp nhưng vẫn có trong chương trình SGK
toán 1. VD bài tập số 2/ 151. Khi gặp đề này, nhiều học sinh lúng túng không
biết phải làm tính gì, có em làm tính cộng, có em làm tính trừ là do (may mắn
làm đúng ), vì không có điểm tựa, các em không định hướng ngay sau khi đọc
đề mà phải mất một thời gian để suy nghĩ tính toán.
Đề bài: Tổ em có 9 bạn, trong đó có 5 bạn nữ. Hỏi tổ em có mấy bạn nam?
- Tôi cho thực tế 5 em nữ lên xếp hàng và gọi thêm 1 số em nam lên cùng đứng
vào hàng đó, sao cho có đủ 9 em. Tôi vừa giảng giải, lại vừa hướng dẫn các em
thực hành. Tổ em có 9 bạn, trong đó có 5 bạn nam, tôi tách 5 em nam ra và tôi
yêu cầu các em đếm xem có mấy bạn nữ. Vì đây là số liệu nhỏ, tên đơn vị lại là
học sinh nên dễ thực hành.
Tôi định hướng giúp các em hiểu đề. Đề cho có hai số liệu cụ thể bao giờ cũng
có số liệu có giá trị nhiều cho trước, số liệu bé cho sau. Có thuật ngữ trong đó,
tôi lấy phấn gạch chân từ ( trong đó) để giúp các em chú ý hơn về thuật ngữ này.
Và tên đơn vị cần tìm sẽ khác tên vị đã cho. Khi viết lời giải và tên đơn vị ở lời

giải cần bám sát câu hỏi để các em (trả lời), thì ta làm tính trừ. lấy số lớn trừ đi

Phạm Thị Hòe - Tiểu học Hoàng Văn Thụ

15


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng tính, giải toán cho học sinh lớp 1

số bé. Tên đơn vị ở phép tính chính là tên đơn vị của câu hỏi ( đề ) và cũng
chính là tên đơn vị ở lời giải.
Chốt ý: thuật ngữ trong đó ta làm tính trừ.
Vậy khi gặp bài toán số liệu lớn, ví dụ như đề bài tập số 4 /162
Đề bài: Hà và Lan hái được 68 bông hoa, riêng Hà hái được 34 bông hoa. Hỏi
Lan hái được bao nhiêu bông hoa?
- ở bài này đề bài có “ biến tấu ” đi đôi chút, đó là từ “riêng” – tôi định hướng
giúp học sinh hiểu từ “riêng”, đó là thuật ngữ tương tự như từ “trong đó” và sau
khi tôi gạch chân từ “riêng”, các em đã tự thiết lập và làm đúng được bài toán
vừa nêu.
3.2b. Sử dụng tốt các phương pháp dạy học trong dạy giải toán có lời
văn:
b.1 Phương pháp trực quan: Giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt
động trực tiếp trên các hiện tượng, sự vật cụ thể để dựa vào đó nắm bắt được
kiến thức, kĩ năng của môn Toán.
b.2. Phương pháp thực hành luyện tập: Là phương pháp dạy học
liên quan đến hoạt động thực hành luyện tập các kiến thức, kĩ năng của môn
học, chiếm 50% tổng thời gian dạy học Toán. Vì vậy phương pháp này được
thường xuyên sử dụng trong dạy học Toán nói chung và dạy giải toán có lời văn
nói riêng. Cụ thể cho học sinh luyện tập ở: + Làm trên bảng lớp
+ Làm trên bảng con của học sinh.

+ Luyện tập Toán trong vở .
+ Làm trong phiếu học tập.
b.3. Phương pháp gợi mở vấn đáp: là phương pháp sử dụng một hệ thống
các câu hỏi để hướng dẫn học sinh suy nghĩ, lần lượt trả lời từng câu hỏi, từng
bước dần đến cách trình bày bài toán có lời văn.
b.4. Phương pháp giảng giải minh hoạ: Phương pháp này dùng lời nói để giải
thích, kết hợp với các phương tiện trực quan để hỗ trợ cho việc giải thích.
* Tuyên dương, động viên, nhắc nhở kịp thời
Đây chính là động lực lớn góp phần vào sự hứng thú, say mê, tự giác học tập
của các em. Tôi làm rất tốt công tác nêu gương (được thông qua hình thức tuyên
dương sau mỗi câu trả lời đúng của các em) và cho học sinh bình chọn bông hoa
học tốt để ghi vào bảng thi đua của lớp vào cuối mỗi tuần (tiết sinh hoạt lớp).
* Công tác phối kết hợp với cha (mẹ) học sinh
- Tôi làm rất tốt công tác tuyên truyền. Ngay buổi họp cha mẹ học sinh đầu năm
về cách học của các em và cách kiểm tra của phụ huynh khi ở nhà. Đây là động
lực nòng cốt không thể thiếu mỗi khi các em đến trường. Tôi thường làm ví dụ
minh họa cho cách dạy kèm các em khi ở nhà để phụ huynh hiểu và cùng làm
theo cũng như kết hợp nhắc nhở, đôn đốc các em trong học tập khi ở nhà để
Phạm Thị Hòe - Tiểu học Hoàng Văn Thụ

16


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng tính, giải toán cho học sinh lớp 1

cùng giáo viên giúp đỡ học sin. Muốn học sinh thực hiện tốt các yêu cầu trước
hết mỗi bậc cha mẹ, thầy cô phải trở thành tấm gương về nghị lực trong mắt trẻ.
* Sử dụng hợp lý, có hiệu quả đồ dùng dạy học, đặc biệt là đồ dùng
trực quan:
- Dạy giải toán có lời văn giáo viên cho học sinh quan sát đồ dùng trực

quan
đem lại hứng thú cho học sinh. Lớp học thoải mái, vui vẻ, giờ học đạt hiệu quả
cao.
Học sinh ham thích học toán.
- Học sinh được học tập qua ứng dụng công nghệ thông tin bằng hình ảnh
được trình chiếu một cách sinh động tạo sự hứng thú cho các em tập trung hơn.
Tuy nhiên giáo viên không nên lạm dụng quá vào việc dạy học.
* Tích cực, kiên trì và chủ động, sáng tạo đổi mới phương pháp dạy
học.
- Chuẩn bị bài trước khi lên lớp rất quan trọng nên việc xây dựng mục tiêu
bài học cũng như sắp xếp, tổ chức các hoạt động dạy - học cần được coi trọng.
- Ngoài ra giáo viên cần mạnh dạn trao đổi những vấn đề khó, những vấn
đề
mới với ban giám hiệu, đồng nghiệp để được tư vấn.
- Trong giảng dạy có nhiều học sinh nhận thức chậm. Giáo viên phải kiên
trì, không nên khắt khe mà nên tạo điều kiện cho các em được tham gia vào các
hoạt động học tập, được chia sẻ để tự tin hơn…
- Giáo viên tích cực đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá học sinh
thường xuyên trao đổi với giáo viên trong tổ, tổ chức các chuyên đề, sinh hoạt
chuyên môn mới, chia sẻ, giải quyết kịp thời các khó khăn.
- Tăng cường khảo sát chất lượng học sinh ngay tại các giờ học, buổi học,
tuần học.
- Chấm bài thường xuyên, có thể nhận xét trực tiếp hoặc ghi nhận xét vào
vở học sinh, động viên học sinh kịp thời.
* Dự giờ thăm lớp.
Tôi thường hay đi dự giờ và khảo sát học sinh, sau đó tôi cùng đồng
nghiệp nghiên cứu bài làm trên giấy của học sinh, phân tích tiết dạy tìm ra và
cùng nhau phân tích nguyên nhân học sinh mắc sai lầm hoặc không nắm được
bài để rút ra kinh nghiệm nâng cao chất lượng cho học sinh học tập theo đợt của
mỗi thể loại bài.

3.3. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp.
Giáo viên cần nắm vững và hiểu rõ vai trò của môn toán 1. Cần có sự hỗ
trợ đồng bộ của giáo viên bộ môn và giáo viên dạy thay cũng như kinh nghiệm
của giáo viên trong toàn khối 1
Phạm Thị Hòe - Tiểu học Hoàng Văn Thụ

17


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng tính, giải toán cho học sinh lớp 1

- Muốn giúp các em hiểu bài và hiểu chắc chắn hơn, bao giờ tôi cũng tìm
và chỉ ra được điểm tựa để giúp các em có cơ sở dễ nhớ, giúp tiếp thu bài nhanh
hơn, các em chủ động tham gia tích cực phát biểu hơn làm cho không khí lớp
học sôi động. Ngoài ra cần:
+ Xây dựng kế hoạch bài dạy theo kiểu chiến lược đó là: xây dựng theo
năm, kì, tháng, tuần, từng bài. Và xem kiến thức trong chương trình toán 1 thì
đâu là những kiến thức cơ bản, trọng tâm.Trong môn toán ở tất cả các khối đều
có sự liên quan giữa kiến thức của bài cũ với bài mới nên tôi đã dạy những bà
học trước kĩ giúp các em học – tập được tốt, học đến đâu hiểu chắc đến đó; học
đến đâu hành “ thực hành” đúng đến đó. Vì còn có sự liên quan chặt chẽ đến các
bài tập sau này
+ Tìm hiểu đối tượng học sinh thông qua cha mẹ học sinh
+ Kết hợp các anh chị đội viên khi sinh hoạt sao.
+ Phối kết hợp với giáo viên dạy thay và dạy bộ môn.
+ Thông qua kế hoạch hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
+ Thu thập thông tin, điều tra khảo sát chất lượng theo đợt.
3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.
Các giải pháp, biện pháp như tôi vừa trình bày nó có quan hệ mật thiết và
lôgic xuyên suốt trong quá trình dạy học của cả năm học.

4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề
nghiên cứu
- Qua khảo nghiệm thu được những kết quả khả thi. Đa số học sinh làm và
có kĩ năng làm bài đúng, nhanh.
Kết quả khảo nghiệm năm học 2014 – 2015 của lớp 1D trường tiểu học
Hoàng Văn Thụ do tôi chủ nhiệm ( TSHS 25 em ).
Lớp tôi đạt kết quả theo giai đoạn
- (tính, đặt tính rồi tính )
Năm học: Tổng số HS
2014 - 2015

25 em

Năng khiếu

Đạt yêu cầu

SL

%

SL

%

SL

%

7


28

14

56

4

16

Phạm Thị Hòe - Tiểu học Hoàng Văn Thụ

Chưa đạt

18


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng tính, giải toán cho học sinh lớp 1

- Giải toán có lời văn:
Năm học: Tổng số HS
2014 - 2015

25 em

Năng khiếu

Đạt yêu cầu


Chưa đạt

SL

%

SL

%

SL

%

6

24

14

56

5

20

Và tính đến giữa học kì 2 lớp 1B do tôi chủ nhiệm năm học 2015 – 2016
(TSHS 16 em ).
Lớp tôi đạt kết quả theo giai đoạn
- ( tính, đặt tính rồi tính ).

Tính đến
giữa học kì 2
Năm học:
2015 - 2016

Tổng số HS
16 em

Năng khiếu

Đạt yêu cầu

Chưa đạt

SL

%

SL

%

SL

%

13

81,3


2

12,5

1

6, 2

- Giải toán có lời văn:
Tính đến
giữa học kì 2
Năm học:
2015 - 2016

Tổng số HS
16 em

Năng khiếu

Đạt yêu cầu

Chưa đạt

SL

%

SL

%


SL

%

12

75

3

18,8

1

6, 2

III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHI
1. Kết luận
Muốn có chất lượng trong giờ dạy tốt thì việc đầu tiên người giáo viên
phải xây dựng được kế hoạch bài dạy dài hạn và theo từng chủ đề, từng bài theo
hướng đổi mới. Vậy muốn cho học sinh làm đúng, trước hết người giáo viên
phải nắm được vai trò của việc rèn kĩ năng tính, giải toán. Người giáo viên chủ
nhiệm phải biết xây dựng kế hoạch lâu dài và ngắn hạn phù hợp với điều kiện
hoàn cảnh của học sinh địa phương.
Cần phối hợp đồng bộ giữa giáo viên chủ nhiệm với giáo viên bộ môn,
giáo viên dạy thay; với cha mẹ học sinh; với giáo viên trong toàn khối 1 trong
trường được tốt.
2. Kiến nghị
Đối với lãnh đạo trường cần mở chuyên đề (một tiết dạy) cụ thê cho học

sinh như vùng có nhiều học sinh là học sinh dân tộc thiểu số đang theo học đặc
biệt là lớp một.

Phạm Thị Hòe - Tiểu học Hoàng Văn Thụ

19


Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng tính, giải toán cho học sinh lớp 1

Người viết

Phạm Thị Hòe

NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SKKN CẤP TRƯỜNG

1

CHỦ TICH HỘI ĐỒNG

NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SKKN CẤP HUYỆN

1

CHỦ TICH HỘI ĐỒNG

Phạm Thị Hòe - Tiểu học Hoàng Văn Thụ

20



Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng tính, giải toán cho học sinh lớp 1

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TT

Tên tài liệu

Tên tác giả

Nhà xuất
bản

1

- Tâm lí lứa tuổi học
sinh

2

Một số biện pháp - Xem tài liệu qua
nâng cao hiệu quả mạng internet
dạy – học môn toán
cho HS lớp 1

3

Tham khảo tài liệu
trên mạng internet


4

Sách giáo khoa toán 1 - Đỗ Đình Hoan ( chủ - Giáo
biên).
dục

Năm xuất
bản

2008

- Nguyễn Áng; Đỗ
Trung Hiếu; Phạm
Thanh Tâm

Phạm Thị Hòe - Tiểu học Hoàng Văn Thụ

21



×