Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số kinh nghiệm giúp học sinh tích cực học môn tập làm văn lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.2 KB, 17 trang )

MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH TÍCH CỰC HỌC
MÔN TẬP LÀM VĂN Ở LỚP BA
PHẦN I: MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài
Ở Tiểu học, môn Tiếng Việt có vai trò nền tảng cho học sinh trau dồi, phát
huy vốn ngôn ngữ, rèn cho học sinh kỹ năng sử dụng Tiếng Việt.
Thực tế cho thấy khả năng sử dụng từ, đặt câu, viết văn của học sinh là
không đều nhau. Với chương trình giảng dạy hiện nay môn Tập làm văn được đổi
mới với nhiều thể loại: miêu tả, kể chuyện, thuật, tranh luận trao đổi, xây dựng
chương trình hoạt động, làm một số văn bản hành chính (đơn từ), biên bản. Điều
này giúp học sinh tiến bộ về nhiều mặt, về khả năng vận dụng, sử dụng ngôn ngữ
Tiếng Việt. Tuy nhiên, việc dùng từ ngữ đặt câu, viết văn của các em còn nhiều
hạn chế. Các em sử dụng dấu câu còn lúng túng, sai vị trí cho nên khi đọc câu văn
của các em trở nên khó hiểu và tối nghĩa. Việc giao tiếp của các em với thầy cô
và bạn bè diễn ra tương đối tự nhiên. Nhưng khi gặp một vấn đề nào đó trong
việc phải có từ ngữ, hình ảnh mới về một chủ đề nào đó đang tìm hiểu thì các em
lúng túng ngay. Đối với học sinh lớp Ba việc diễn đạt ý, dùng từ, đặt câu, viết
đoạn văn của các em còn rất yếu do vốn từ ngữ còn hạn chế. Nhiều học sinh lo
lắng, sợ sệt khi học tiết Tập làm văn. Học sinh không chủ động nắm bắt kiến
thức, thiếu tự tin trong mỗi tiết học, ảnh hưởng đến quá trình học tập ở các lớp
học cao hơn. Vấn đề trên là mối trăn trở của tôi và rất nhiều giáo viên đứng lớp.
Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm giúp học sinh tích cực
học môn Tập làm văn ở lớp Ba”. Với hi vọng giúp học sinh biết viết được các
bài văn, đoạn văn có những từ ngữ, hình ảnh sinh động, lưu loát và đúng theo
chuẩn kiến thức kĩ năng của môn Tiếng Việt, tự tin trong học tập, hoàn thành
nhiệm vụ học tập, tiếp tục học tập ở các lớp cao hơn.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
a. Mục tiêu của đề tài.
- Thực trạng việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh về phân môn
Tập làm văn lớp 3 ở Trường Tiểu học hiện nay.
- Nghiên cứu tìm ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giờ học tập


làm văn ở lớp 3 với dạng bài: Nghe- kể lại chuyện; kể hay nói, viết về một chủ đề.
- Tìm hiểu các bài tập làm văn lớp 3 đã hình thành và rèn luyện cho học sinh
các kỹ năng: quan sát các sự vật, hiện tượng và trình bày lại kết quả học tập bằng
lời nói, bài viết,... vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống, góp phần bồi dưỡng
và phát triển ở học sinh kĩ năng sống như: ham học hỏi, tìm hiểu, khám phá để
biết về môi trường xung quanh các em; yêu thiên nhiên, con người, quê hương đất
1


nước; tôn trọng bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và văn hoá gần gũi với cuộc sống
xung quanh các em.
b. Nhiệm vụ của đề tài.
- Tìm hiểu thực trạng dạy và học phân môn tập làm văn lớp 3 hiện nay của lớp
3C trong trường tiểu học TH Tây Phong và tìm ra những biện pháp tháo gỡ
những khó khăn của giáo viên và học sinh.
- Đưa ra những giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn để đạt được kết quả
tốt trong việc dạy và học phân môn Tập làm văn lớp 3
I.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 3C của Trường TH Tây Phong và tập
thể giáo viên khối 3 năm học 2014 – 2015
I.4. Phạm vi nghiên cứu.
- Đề tài xoay quanh việc nghiên cứu giảng dạy và học tập với việc: giúp học
sinh tích cực học môn Tập làm văn ở lớp Ba.
- Đề tài này tôi đã nghiên cứu và áp dụng qua thực tế giảng dạy tại các lớp
khối 3 nơi tôi đang công tác hiện nay
I.5. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài tôi đã sử dụng các phương pháp:
+ Phương pháp điều tra.
+ Phương pháp thu thập thông tin.
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu, lí luận.

+ Phương pháp phân tích, tổng hợp.
PHẦN II : NỘI DUNG
II.1. Cơ sở lí luận:
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, sự phát triển Công nghiệp hoá-hiện đại
hoá đất nước cần phải có những con người năng động, sáng tạo, tự lực, tự cường.
Nhu cầu này đòi hỏi phải có sự điều chỉnh mục tiêu, nội dung Chương trình,
phương pháp giảng dạy ở bậc Tiểu học một cách phù hợp.
Mục tiêu của giáo dục Tiểu học đặt ra là: “ giúp học sinh hình thành những
cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, phẩm
chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”.
Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn
Tiếng Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng
hợp từ nhiều phân môn trong môn Tiếng Việt. Để làm được một bài văn không
những học sinh phải sử dụng cả bốn kỹ năng: nghe - nói - đọc - viết mà còn phải
2


vn dng cỏc k nng v Ting Vit, v cuc sng thc tin. Do ú T p lm v n
l phõn mụn cú tớnh ch t tớch h p c a cỏc phõn mụn khỏc. Qua ti t t p lm v n
h c sinh cú kh n ng xõy d ng m t v n b n ú l bi núi, bi vi t. Núi v vi t l
nh ng hỡnh th c giao ti p r t quan tr ng, thụng qua ú con ng i th c hi n quỏ
trỡnh t duy - chi m l nh tri th c, trao i t t n g, tỡnh c m, quan i m , giỳp m i
ng i hi u nhau, cựng h p tỏc trong cu c s ng lao n g . Ngụn ng (d i d ng
núi - ngụn b n v d i d ng vi t v n b n) gi vai trũ quan tr ng trong s phỏt
tri n xó h i. Chớnh vỡ v y h n g d n h c sinh núi ỳng v vi t ỳng l h t s c
c n thi t. Nhi m v n ng n ú ph thu c r t l n vo vi c gi ng d y mụn Ti ng
Vi t núi chung v phõn mụn t p lm v n núi riờng, c th tỡm hi u
õy l
ch n g trỡnh t p lm v n l p 3.
II.1. Thc trng

Nm hc 2014- 2015 tụi c phõn cụng dy lp 3C trng TH Tõy Phong
vi tng s hc sinh l: 21 em. Qua kho sỏt u nm hc phõn mụn Tp lm vn
cỏc em t c nh sau:
( S bi t im gii: 0; khỏ: 2; TB: 5; yu: 14)
S li cỏc em mc phi thng l: cõu vn cha rừ rng, dựng t cha
chớnh xỏc cũn lp t, vn t cũn nghốo nn, chm cõu cha ỳng v trớ.
Phõn mụn Tp lm vn dy theo chng trỡnh mi cú ni dung phong phỳ
v a dng. Trong ú giỏo viờn chỳ trng rốn luyn cho hc sinh cỏc k nng:
nghe, núi, c, vit. Nhm phc v cho hc tp v giao tip. Giỏo viờn cn cú
bin phỏp dy hc thớch hp nhm phỏt huy tớnh ch ng, sỏng to ca hc sinh
trong hot ng luyn tp thc hnh, lm ming, lm bi vit. Tuy nhiờn trong
thc t dy hc cỏc trng giỏo viờn v hc sinh cũn cú nhng hn ch sau:
a. Thun li, khú khn.
+ Thun li
- Giỏo viờn:
Giỏo viờn luụn ý thc quan tõm, chm chỳt hc sinh trong tng tit hc.
Vi mi loi bi tp, giỏo viờn ó nghiờn cu k k hoch bi dy la chn v
t chc nhng hỡnh thc luyn tp sao cho phự hp vi i tng hc sinh. Vi
mi tit dy giỏo viờn đã có sự chuẩn bị chu đáo: Phơng tiện, tài liệu, hệ thống
câu hỏi từ dễ đến khó, ở nhiều mức độ khác nhau, có nhiều dạng câu hỏi khác
nhau. Giỏo viờn đã nhấn mạnh đợc thể loại văn, kiểu bài, nội dung của đề bài v
chỳ ý khai thỏc cú hiu qu phơng pháp dạy học lấy hc sinh làm trung tâm...
Bờn cnh ú, giỏo viờn luụn ng viờn khuyn khớch, khen gi hc sinh
trớ tng tng, úc sỏng to. T ú kớch thớch c s tỡm tũi ham hc hi hc
sinh, hỡnh thnh thúi quen hc tp tt phõn mụn Tp lm vn. giỳp hc sinh
vit c nhng bi vn hay, ý tng phong phỳ, sỏng to giỏo viờn luụn chỳ
trng rốn k nng núi cho hc sinh vỡ hc sinh núi tt s trỡnh by bi vit tt.
Qua cỏc phng tin thụng tin i chỳng: xem i, c sỏch bỏo, ti liu
giỏo viờn thng xuyờn c tip cn vi vic i mi phng phỏp.
3



- Học sinh: Nội dung chương trình môn Tiếng Việt nói chung và phân môn
Tập làm văn nói riêng rất phong phú; kênh hình Sách giáo khoa được trình bày
đẹp, phù hợp tâm sinh lí lứa tuổi các em.
Học sinh đã nắm vững kiến thức, kĩ năng dùng từ đặt câu, kĩ năng kể
chuyện, miêu tả từ các lớp dưới. Đây là cơ sở giúp các em học tốt phân môn Tập
làm văn lớp ba.
+ Khó khăn
Tập làm văn là phân môn khó so với các phân môn khác của môn Tiếng
Việt, vì vậy việc dạy – học ở phân môn này có những hạn chế nhất định.
Trong việc rèn kĩ năng nói-viết cho học sinh, giáo viên có đầu tư nghiên cứu
mục tiêu các tiết dạy để lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học
sao cho phù hợp từng đối tượng học sinh, nhưng sự đầu tư chưa sâu nên hiệu quả
dạy học phân môn Tập làm văn chưa cao.
Phần mở rộng vốn từ của giáo viên còn hạn chế. Khả năng diễn đạt ngôn ngữ
chưa được trau chuốt: giáo viên còn “ bí từ” khi giảng; kiến thức bài còn bó hẹp
hoàn toàn trong sách giáo khoa và chỉ biết hướng dẫn học sinh những kiến thức
có trong sách giáo khoa chưa chú trọng chốt nội dung khi dạy xong một tiết học,
một chủ đề,...khi dạy cho học sinh về một chủ đề nào đó giáo viên chỉ có hướng
dẫn học sinh hiểu nội dung các câu hỏi ở sách giáo khoa và trả lời bằng miệng
sau đó yêu cầu học sinh viết về chủ đề đó. Do vậy mà hiệu quả của giờ dạy chưa
cao, học sinh chưa được rèn kĩ năng nói, kĩ năng viết, đặc biệt là những học sinh
yếu. Đây là vấn đề đòi hỏi giáo viên phải có biện pháp thích hợp để tạo được
hứng thú cho học sinh yêu thích học môn Tập làm văn.
Học sinh lớp 3 vốn ngôn ngữ của các em chưa nhiều, các em còn mải chơi
nhiều hơn học,việc tiếp thu bài còn thụ động, hơn thế nữa nội dung kiến thức của
Tập làm văn tổng hợp các kĩ năng khó , nhiều em còn ngại đọc, viết, nói, lười suy
nghĩ, viết bài cho qua loa. Câu văn viết rời rạc, chưa liên kết, có câu đã đủ ý
nhưng chưa có hình ảnh, các từ ngữ được dùng về nghĩa chưa rõ ràng, viết đoạn

còn nghèo ý. Một số em còn mắc phải lỗi: lạc đề, chính tả, dùng từ, viết câu, lỗi
trình bày,... điều đó đã làm cho một số em không tích cực khi học tiết Tập làm
văn.
b. Thành công, hạn chế.
- Thành công
Sau khi thực hiện xong đề tài, tôi nhận thấy thành công lớn nhất là học sinh
đã có hứng thú học tập làm văn, bước đầu có kĩ năng quan sát, tìm ý, dùng từ, đặt
câu. Đa số học sinh xác định được trọng tâm của đề bài. Học sinh khá, giỏi nói,
viết lưu loát, mạch lạc, dùng từ sắp xếp ý, nối kết các đoạn văn thành một bài văn
hoàn chỉnh. Các em đã hứng thú trao đổi với bạn về bài văn của mình, thích học và
khám phá phân môn Tập làm văn
- Hạn chế.
4


Một số học sinh do vốn sống còn hạn chế nên việc tìm ý để phục vụ cho đặt
câu, viết đoạn còn hạn chế dẫn đến còn ngại học môn tập làm văn. Môn Tập làm
văn là một môn khó, nhiều em ngại học, lười suy nghĩ nên ở các giờ học các em
còn ngại phát biểu, vốn từ ít nên viết bài qua loa cho xong, vì vậy mà viết đoạn
văn còn nghèo ý.
Học sinh một số em còn nhút nhát chưa mạnh dạn tự tin trong học tập.
c. Mặt mạnh, mặt yếu
- Mặt mạnh.
Học sinh đã có hứng thú trong các tiết học tập làm văn góp phần nâng cao
chất lượng môn Tiếng Việt nói chung.
Không khí lớp học sôi nổi, các nhóm học tập trao đổi tích cực, tự giác, kĩ
năng nói, viết của học sinh tiến bộ rõ rệt, các em mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp
với mọi người.
- Mặt yếu.
Sự chuyển biến của học sinh sau khi thực hiện đề tài chưa đạt ở mức độ

tuyệt đối. Một số em vẫn mắc phải các lỗi như: vèn tõ cßn nghÌo nµn, cha n¾m ®îc nghÜa cña tõ; diÔn ®¹t cha râ ý; chưa tích cực trao đổi với bạn trong nhóm.
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động.
Giáo viên còn thụ động với kiến thức ở sách giáo khoa. Đôi khi tổ chức các
hoạt động trong giờ học chưa phân định được hoạt động nào là trọng tâm; hình
thức tổ chức dạy học chưa phong phú và đa dạng, chưa thực sự chú trọng đến
việc sử dụng đồ dùng dạy học cho các hoạt động dạy học. Một số giáo viên chưa
đầu tư cho kế hoạch bài dạy do vậy những tiết học được tổ chức theo hình thức
nhóm, trò chơi học tập, sắm vai …, còn mang tính hình thức “ Tổ chức cho có
hình thức chứ phát huy hết hiệu quả”.
Giáo viên chưa chú trọng đến việc cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh ở các
phân môn khác để học sinh vận dụng vào học môn phân môn Tập làm văn.
Học sinh có xu hướng học lệch, thích học Toán hơn học Tiếng Việt; một số
em còn hạn chế về vốn từ nên ngại học phân môn Tập làm văn. Việc học của học
sinh tất nhiên là phải phụ thuộc vào khâu tổ chức của giáo viên, giáo viên tổ chức
dạy thế nào thì học sinh học theo thế đó. Với việc tổ chức đàm thoại, vấn đáp,
học sinh lên lớp chỉ ngồi nghe – ghi nhớ kiến thức mà thầy truyền đạt. Chính vì
điều đó mà học sinh rất rụt rè, nhút nhát trong các hoạt động, nhàm chán trong
việc học tập, kết quả học tập không cao, khả năng tự bộc lộ bản thân yếu, tư duy
chậm... Lên lớp chỉ cần truyền thụ hết khối lượng kiến thức trong sách giáo
khoa, chú ý đến nhiều về việc trình bày kiến thức của mình. Các kĩ năng sư phạm
chủ yếu là giảng giải. Học sinh tập trung vào việc ghi nhớ luyện tập và làm theo.
Học sinh thường làm việc đơn lẻ. Giáo viên chỉ tập trung vào việc dạy theo
chương trình, sách giáo khoa ít chú ý tới sự tiếp thu của học sinh.
5


Vấn đề kinh nghiệm trong dạy học là vấn đề tạo nên sự thành công, mang lại
chất lượng giáo dục cao. Đòi hỏi phải có thâm niên dạy học nhiều, học hỏi nhiều.
Không có kinh nghiệm dạy học tức là chưa có kĩ năng tổ chức, xử lí các tình
huống sư phạm. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng học tập của học

sinh.
Thông qua các hoạt động dạy, giáo viên có thể hỗ trợ các đối tượng học
sinh theo nhu cầu khác nhau đồng thời tạo cho các em tính mạnh dạn, tự tin trong
quá trình giao tiếp. Hơn 50 % học sinh có vốn từ vựng còn nghèo nàn, sự rụt rè
thiếu tự tin khi giao tiếp diễn ra còn phổ biến.Học sinh còn lúng túng, nhút nhát,
ít nói, chưa mạnh dạn tham gia vào các hoạt động nhất là các em học sinh chưa
hoàn thành nhiệm vụ học tập.
Cơ sở vật chất: M Trang thiết bị dạy học còn ít, không đồng bộ,tài liệu về bồi
dưỡng nghiệp vụ, rèn kĩ năng dạy học vẫn chưa đồng bộ, nội dung còn chung
chung.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Tập làm văn là phân môn thực hành và rèn luyện tổng hợp bốn kỹ năng, có
tính chất tích hợp các phân môn khác trong môn Tiếng Việt. Qua tiết Tập làm
văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn bản nói hoặc viết và từng bước nâng
cao chất lượng giáo dục theo chương trình của Bộ. Bản thân tôi đã áp dụng vào
lớp 3C Trường Tiểu học Tây Phong và chia sẻ kinh nghiệm của mình tới đồng
nghiệp.
Thông qua trao đổi, tranh luận các em có thể chia sẻ cho nhau những gì
mình biết được, học được và cách học của mình cho bạn bè. Để thực hiện được
điều đó thì giáo viên cần phải biết hình thức đặc trưng của môn học. Biết được
tầm quan trọng và ích lợi của môn Tiếng Việt cùng các môn học khác có nhiệm
vụ cung cấp cho học sinh bốn kỹ năng: “Nghe - Nói - Đọc - Viết” . Tập làm văn là
phân môn thực hành và rèn luyện tổng hợp bốn kỹ năng đó, có tính chất tích hợp
các phân môn khác trong môn Tiếng Việt, là giúp học sinh tích cực tham gia ý
kiến và có cơ hội trao đổi với các bạn khác để cùng học, khám phá và phát triển
tư duy. Các kĩ năng giao tiếp về mặt xã hội và một số kĩ năng sống được phát
triển. Thông qua các hoạt động học các em có thể tự diễn đạt bằng lời và chia sẻ
các ý tưởng của mình với những người khác trong việc phát triển các kĩ năng
ngôn ngữ, qua đó các em có thể giúp đỡ lẫn nhau.
Thông qua hoạt động nhóm, giáo viên có thể hỗ trợ các đối tượng học sinh

theo nhu cầu khác nhau đồng thời tạo cho các em tính mạnh dạn, tự tin trong quá
trình giao tiếp. Học sinh được làm việc nhiều dần dần tự tin hơn. Điều quan trọng
nhất vẫn là làm thế nào để có hiệu quả, biến những lý thuyết trên thành các hoạt
động cụ thể, mang tính thường xuyên.
Khuyến khích, động viên học sinh tự học, tự tìm tòi, giúp các em chiếm
lĩnh tri thức và tự rút ra kết luận phù hợp với bài học để vận dụng kiến thức đã
học vào nói, viết khi giao tiếp trong thực tế cuộc sống.
6


Giáo viên phải hiểu rõ tính tích hợp giữa các phân môn
trông môn Tiếng Việt như: tập đọc, kể chuyện, chính tả, luyện từ
và câu, tập viết,... để giảng dạy và tạo đà cho học sinh học tập
tốt phân môn Tập làm văn.
Qua hệ thống câu hỏi, giáo viên giúp học sinh bày tỏ được
thái độ, tình cảm, ý kiến nhận xét, đánh giá của mình về vấn đề
nêu ra trong bài học. Song song với quá trình đó, giáo viên cần
hỏi ý kiến nhận xét của học sinh về câu trả lời của bạn để học
sinh rút ra câu trả lời đúng nhất phù hợp với tình huống đó, và
tạo cho học sinh cách ứng xử hay. Giao viên lưu ý dạy tập làm
văn là dạy tích hợp lồng ghép phương pháp đặc trưng khi dạy
phân môn Tập Làm Văn lớp 3.
Dạy học theo quan điểm giao tiếp. Dạy học theo quan điểm
giao tiếp là hình thành cho học sinh kĩ năng diễn đạt thông qua
các bài học, hình thành thói quen ứng xử trong giao tiếp hàng
ngày với thầy, cô, cha mẹ, bạn bè, và mọi người xung quanh.
Vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm này, giáo viên
tạo cho học sinh nhiều cơ hội thực hành, luyện tập, không quá
nặng về lý thuyết như phương pháp dạy truyền thống. Do vậy
học sinh hào hứng tham gia vào các hoạt động học tập, tích cực

sáng tạo trong làm văn. Việc hình thành và rèn luyện các kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết cho học sinh thông qua phân môn Tập Làm
Văn đảm bảo đạt được hiệu quả tối ưu. Giáo viên chú trọng về lời
văn kể và nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Giáo viên cần hướng cho
các em cách chon lựa, sử dụng từ ngữ, hình ảnh diễn đạt sao cho
dễ hiểu, sinh động. Có như vậy người nghe đọc sẽ dễ dàng hình
dung, tưởng tượng, nắm bắt được sự việc, nhất là tình cảm của
các em muốn thể hiện qua bài nói, bài viết. Người nghe, người
đọc tuy không trực tiếp nhìn diện mạo của nhân vật, xem bối
cảch của sự việc qua hình ảnh miêu tả, so sánh cùng với những
tình cảm, thái độ, sự đánh giá của các em.
Giáo viên biết tổ chức tốt cho học sinh cách quan sát tranh,
cách dùng từ, giọng kể, lời nhân vật, nói viết thành câu. Động
viên khuyến khích học sinh tự học, học theo phương pháp tự tìm
tòi. Giáo viên tổ chức, phối hợp linh hoạt các hình thức và
phương pháp dạy học theo hướng đổi mới. Dạy học hướng tập
trung vào học sinh, học sinh coi học là chủ thể hoạt động, tổ
chức các hoạt động giúp các em chiếm lĩnh tri thức và rút ra kết
luận phù hợp với bài học.
Như vậy qua tiết học này, học sinh mở rộng vốn từ, rèn lối
diễn đạt mạch lạc, lôgíc, câu văn có hình ảnh, cảm xúc. Trên cơ
7


sở đó, bài luyện nói của các em sẽ trôi chảy, sinh động, giàu cảm
xúc, đồng thời hình thành cho các em cách ứng xử linh hoạt
trong cuộc sống. Học sinh rèn kĩ năng quan sát, nói-viết, rút ra
những nét điển hình, đặc trưng của từng vùng miền, thấy được
vẻ đẹp đáng yêu, đáng tự hào của mỗi vùng miền, từ đó hình
thành nuôi dưỡng tình cảm gắn bó, yêu thương, ý thức giữ gìn,

xây dựng quê hương đất nước. Ngoài ra, mỗi giáo viên cần chú
trọng vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm giao tiếp,
khơi dậy ở các em những cảm xúc, đánh thức tiềm năng cảm thụ
văn học và có nhu cầu thể hiện, bày tỏ cảm thụ đó với người
khác. Như vậy mỗi bài nói bài viết sẽ chính là tâm hồn tình cảm
của các em, các em sẽ thêm yêu văn, yêu cái hay cái đẹp, yêu
Tiếng Việt, giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
Qua đó các em đã tiến bộ rất nhanh, hứng thú tích cực hơn
khi vào tiết học tập làm văn, đến cuối kì I 98% học sinh của lớp
đã nói viết được hoàn chỉnh một đoạn, một bài văn lớp 3 đạt
chuẩn kiến thức kĩ năng. Học sinh năng khiếu văn ngoài viết văn
tốt các em còn làm thơ, sáng tác những mẩu chuyện ngắn vui,
hóm hỉnh ( 3 em).
Để đạt được kết quả trên bản thân tôi đã tận tụy, gần gũi và quan tâm, chú ý
đến tất cả các đối tượng học sinh. Đặc biệt chú ý đến đến học sinh còn mắc nhiều
lỗi trong một tiết học, một bài văn để sửa cho các em kịp thời đồng thời luôn động
viên khích lệ các em khi các em tiến bộ, chú trọng rèn kĩ năng nói, viết câu đúng,
có cảm xúc, hình ảnh trong tất cả các môn học, với những học sinh có năng khiếu
tôi đã phát hiện và bồi dưỡng vốn từ, kĩ năng dùng từ, viết câu,… cho các em ngay
trong từng hoạt động của tiết học và dành thời gian soạn thảo thêm các đề bài mở
rộng để bồi dưỡng kiến thức nâng cao cho các em.
II.3. Giải pháp, biện pháp
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Trang bị kiến thức cho học sinh luôn chú trọng việc lồng ghép kiến thức
giữa các phân môn Tiếng Việt:
Khích lệ học sinh tích cực sáng tạo, chủ động trong học tập, biết diễn đạt
suy nghĩ của mình thành một bài văn hoàn chỉnh đáp ứng yêu cầu đạt chuẩn kiến
thức kĩ năng môn học.
Phân môn Tập làm văn là phân môn khó trong môn Tiếng Việt. Trong quá
trình tham gia vào các hoạt động học tập học sinh với vốn kiến thức hạn chế,

phạm vi giao tiếp hẹp nên các em còn rụt rè, nhút nhát ngại giao tiếp, ngại nói vì
sợ sai. Vì vậy để khắc phục được các tình trạng trên tôi xin nêu ra một số giải
8


pháp để khắc phục những hạn chế trong khi dạy Tập làm văn để tiết Tập Làm
Văn ở lớp ba thực sự đạt hiệu quả.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
b.1. Dạy học chú trọng : Tích hợp - lồng ghép.
Khi dạy Tập làm văn tôi luôn tìm hiểu để rõ tính tích hợp kiến thức giữa các
phân môn; Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập viết để giảng dạy
và tạo đà cho học sinh học tốt môn Tập làm văn. Các bài được biên soạn theo chủ
điểm ở tất cả các phân môn.
Ví dụ: Dạy chủ điểm “Tới trường” khi dạy các môn Tập đọc kể chuyện,
Luyện từ và câu, Tập viết, Chính tả tôi chú trọng hướng học sinh theo chủ đề.
Khai thác nội dung các bài học để cung cấp cho học sinh vốn từ về chủ đề tới
trường, rèn cho học sinh tính cẩn thận khi viết bài. Cụ thể khi dạy bài Tập đọc
“Nhớ lại buổi đầu đi học” tôi khai thác nội dung bài theo các câu hỏi sau:
+ Điều gì khiến tác giả nhớ đến kỷ niệm của buổi tựu trường?
+ Trong ngày đến trường đầu tiên vì sao tác giả thấy cảnh vật xung quanh
đang có sự thay đổi lớn?
+ Những hình ảnh nào trong bài nói lên sự bỡ ngỡ rụt rè của đám học trò mới
tựu trường?
+ Em hãy kể ngắn gọn về ngày đầu tiên đi học của em. Qua đó tôi định
hướng cho học sinh thấy ý nghĩa của ngày đầu tiên đi học, nhớ lại ngày đầu tiên
đi học của mình từ đó có cơ sở để chuẩn bị cho tiết Tập làm văn “ Kể lại buổi đầu
em đi học” cùng với chủ đề này thì phân môn Luyện từ và câu cũng cung cấp cho
các em những từ ngữ về trường học, hiểu nghĩa các từ ngữ. Qua đó học sinh có
thêm vốn từ để trao đổi giao tiếp trong học tập và trong cuộc sống. Khi dạy các
phân môn: Tập đọc, Chính tả, Tập viết Luyện từ và câu có nội dung phù hợp tiết

Tập làm văn sắp học; giáo viên cần dặn dò hướng dẫn học sinh quan sát tìm hiểu
kĩ đối tượng cần nói đến và ghi chép cụ thể hình ảnh, hoạt động ấy vào vở ghi
chung ...; với những sự việc hoặc hoạt động các em không được chứng kiến hoặc
tham gia, giáo viên khuyến khích các em quan sát qua tranh ảnh, sách báo, trên
tivi,…hoặc hỏi những người thân hay trao đổi với bạn bè. Ngoài ra ở các chủ
điểm tôi còn rèn luyện cho học sinh cách sử dụng dấu câu, giúp học sinh hiểu cấu
tạo câu và sử dụng trong quá trình giao tiếp. Khi được trang bị những kiến thức
cơ bản như thế, học sinh sẽ có những ý tưởng độc lập từ đó các em có thể trình
bày được bài văn chân thực, sinh động và sáng tạo.
Trong việc trang bị kiến thức cho học sinh, giáo viên không nên áp đặt các
em vào một khuôn mẫu nhất định, như: chỉ định học sinh phải quan sát một bức
tranh, một sự vật, con người hay một công việc cụ thể như thế sẽ hạn chế năng
lực sáng tạo của các em. Như vậy việc dạy tích hợp tất cả các phân môn sẽ tạo đà
cho học sinh học tốt phân môn Tập làm văn.
b.2. Tạo không khí lớp học sôi động, hào hứng.
9


Tổ chức trò chơi học tập
Tổ chức hoạt động theo nhóm
Tổ chức dạy học ngoài trời
Tạo hứng thú học tập bằng việc xây dựng môi trường thân thiện giữa thầy và
trò, trò và trò.
Ở tất cả các tiết dạy nói chung và tiết Tập làm văn nói riêng tôi luôn chuẩn bị
kỹ bài trước khi lên lớp, thuộc lòng nội dung, câu chuyện cần kể có điệu bộ, cử
chỉ hấp dẫn lôi cuốn học sinh ngay từ những phút đầu.
Khi lập kế hoạch bài dạy tôi luôn trăn trở, tìm tòi để sáng tạo ra hình thức
dạy học phù hợp với đối tượng học sinh của lớp nhằm cuốn hút học sinh vào các
hoạt động học tập một cách chủ động tích cực. Có thể tổ chức các hình thức dạy
học linh hoạt tạo không khí học tập thoải mái như : thảo luận nhóm, đôi bạn học

tập, tiếp sức, đóng vai, vận dụng các trò chơi trong tiết học, các cuộc thi để học
sinh có cơ hội thi đua cạnh tranh lành mạnh qua đó học sinh lĩnh hội kiến thức
tích cực, tự giác theo hình thức “ Học mà chơi - chơi mà học”.
Ví dụ 1: Đề bài: Nói về quê hương em (BT2-TV3 -Tập1- Tr 92)
1. Chuẩn bị: Phiếu học tập
a..Hoàn thành bảng dưới đây
Tên bài đọc
Quê hương là...
Chi tiết làm em xúc động nhất
Giọng
quê ...................................... ..............................................................
hương
...................................... ..............................................................
Quê hương
..................................... ...............................................................
..................................... ..............................................................
Đất quý, đất ..................................... .............................................................
yêu
..................................... .............................................................
Vẽ quê hương ..................................... ...............................................................
..................................... ..............................................................
Chõ
bánh ..................................... ..............................................................
khúc của dì ..................................... ..............................................................
tôi
b.Đánh dấu X trước mỗi câu nếu em đồng ý, đánh XX trước mỗi câu nếu
em rất đồng ý.
Qua các bài đọc trên em thấy quê hương:
+ Là tất cả những gì gần gũi, thân thương đối với mình.
+ Là nơi mình sinh ra và lớn lên.

10


+ Là những điều mình có thể nghe, có thể thấy, có thể sờ, có thể nếm.
+ Là cái gì đó mà khi xa mình thấy nhớ thương.
c. Các em hãy nghĩ về quê hương mình:
Quê em ở đâu? Em yêu nhất cảnh vật gì ở quê hương? Cảnh vật đó có gì
đáng nhớ? Tình cảm của em đối với quê hương như thế nào?
2. Cách tiến hành:
Hoạt động 1: Giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu của đề bài và chuẩn bị thông
tin ý tưởng để nói. Trước hết giáo viên phát phiếu học tập cho học sinh và dẫn dắt
học sinh hoàn thành bài tập a, b trên phiếu (theo nhóm)
Giáo viên treo bảng phụ có ghi các bài tập a, b trên bảng. Cho các nhóm tự
nêu kết quả bài làm của mình, các nhóm khác nhận xét, giáo viên bổ sung hoàn
thành bài tập.
Hoạt động 2: Học sinh tập trung động não nghĩ về quê hương đã xác định
trong khung chủ đề và viết ra bất kì những từ ngữ nào liên quan đến quê hương
mà mình đang nghĩ tới.
Giáo viên treo bài tập c (ghi sẵn ở bảng phụ) lên bảng kèm với lời dẫn dắt
để kích thích học sinh hồi tưởng.
Học sinh làm vào giấy nháp; Giáo viên đồng thời gọi hai em làm vào bìa
phụ ghi vào khung chủ đề cụm từ “Quê hương em” rồi sau đó ghi ra bất kì ý
tưởng nào của mình có được xung quanh chủ đề ấy (lưư ý HS chỉ ghi từ hoặc cụm
từ)
Ví dụ:
ngôi nhà
vườn bách thú
thành phố

con sông


nông thôn

Quê hương em

đường phố

cây đa, giếng nước

nhà cao tầng

Hoạt động 3: Học sinh đánh số thứ tự các ý mình vừa tìm được, giáo viên
hướng dẫn các em sắp xếp các ý bằng số thứ tự 1,2,3.
Giáo viên bao quát lớp đặc biệt là chú ý học sinh trung bình và yếu để giúp
các em điều chỉnh.
Hoạt động 4: Học sinh nhìn sách của mình và nói : Cho hai em nói mẫu
trước lớp
11


Ví dụ: Em sinh ra và lớn lên ở nông thôn. Quê hương em thật là đẹp. Ở đó có
cây đa cổ thụ che bóng rợp cả một vùng. Giếng nước trong veo. Trước mặt ngôi
nhà em là con sông quê hương. Em rất thích tắm mình dưới con sông ấy khi mùa
hè đến. Em yêu quê hương của mình.
Hoặc: Em và gia đình sống ở thành phố. Ở đó em thấy có nhiều ngôi nhà cao
tầng. Trên đường phố, mọi người và xe cộ đi lại tấp nập. Ngày nghỉ, em thường
được bố mẹ dẫn đi xem vườn bách thú, được ngồi trên lưng chú voi con. Cảm
giác của em lúc đó rất là thích. Em yêu quý nơi này.
Cả lớp nhận xét, giáo viên bổ sung.
Hoạt động 5: Học sinh nói theo cặp (hoặc nhóm 4). Giáo viên bao quát lớp

đặc biệt lưu ý giúp học sinh yếu.
Hoạt động 6: Học sinh nói thể hiện trước lớp:
Giáo viên gọi đại diện các nhóm lên nói trước lớp .Nếu là học sinh yếu,
giáo viên cho học sinh nhìn sách để nói.
Tổ chức cho học sinh thể hiện mở rộng cảm xúc về quê hương mình.
Khuyến khích học sinh tự tìm đặt thêm câu hỏi mở rộng. Giáo viên nhận xét
chung.
Học tiết Tập làm văn trong không khí lớp học sôi nổi, thoải mái, khiến học
sinh mạnh dạn tự tin, khi nói. Từ đó rèn cho các em có khả năng diễn đạt, phát
biểu ý kiến, đánh giá trước đông người thể hiện suy nghĩ, cảm xúc, thái độ yêu
ghét, trân trọng hay phê phán để các em trở nên mạnh dạn tự tin trong học tập và
giao tiếp.
b.3. Tăng cường luyện tập thực hành
Học sinh được học hai buổi trên ngày nên những tiết luyện Tiếng Việt ,tôi
luôn tăng cường cho học sinh học phân môn Tập làm văn để các em có cơ hội thể
hiện mình. Trong những tiết học này tôi luôn hướng dẫn và tạo điều kiện cho tất
cả học sinh rèn kĩ năng nói trong nhóm, nói trước lớp, đặc biệt là học sinh yếu
được nói cho cô, bạn khá giỏi nghe. Các em sẽ nói về các bài học thuộc chủ đề đã
học. Tôi luôn tạo không khí gần gũi để học sinh được thể hiện những hiểu biết
bằng lời nói một cách tự nhiên. Từ đó tôi sẽ có kế hoạch sửa chữa những lỗi sai
của học sinh ngay khi nói. Khen ngợi kịp thời để học sinh yếu cảm thấy không
mặc cảm khi tham gia nói trước lớp. Do vậy học sinh nắm vững kiến thức và làm
tốt dạng bài tập viết.
Ví dụ: khi giới thiệu về tổ em, học sinh nói: ‘Tổ em bạn nào cũng chăm
ngoan, riêng bạn Lan học giỏi Toán lại hát hay như chim Sơn ca”; hoặc nói về
người lao động trí óc, học sinh nói: “Cô giáo em có mái tóc dài, đen mượt như
nhung”.
Trí tưởng tượng, liên tưởng ở học sinh lứa tuổi này rất hồn nhiên ngây thơ và
ngộ nghĩnh, cho nên để rèn luyện kĩ năng này cho học sinh, giáo viên có thể
12



chuẩn bị những câu, đoạn văn hay cho học sinh tham khảo, học hỏi làm phong
phú thêm vốn kiến thức cho các em.
Khi học sinh viết bài ở lớp và ở nhà, tôi dành thời gian chữa bài viết của học
sinh ngay tại lớp giúp học sinh có cơ hội nhận xét bài của bạn và tự rút kinh
nghiệm sửa chữa bài viết của mình.
b.4. Sử dụng tranh ảnh và đồ dùng dạy học
Trong dạy học ở tiểu học , sử dụng tranh ảnh và đồ dùng dạy học là rất cần
thiết không thể thiếu. Chính vì vậy trong mỗi tiết học, tôi chuẩn bị đầy đủ các đồ
dùng, nắm vững nội dung của từng tranh, cách sử dụng từng loại đồ dùng. Khai
thác triệt để nguồn tranh trong sách giáo khoa và tranh được cấp phục vụ cho
giảng dạy.
Ví dụ: Khi dạy tiết Tập làm văn “ Nghe – kể: Dại gì mà đổi. Điền vào giấy
tờ in sẵn” Bài tập 1: Nghe và kể lại câu chuyện Dại gì mà đổi.
b.5. Tổ chức trò chơi học tập
Tôi cho học sinh quan sát tranh minh họa sách giáo khoa và hỏi:
Bức tranh vẽ gì? ( Hai mẹ con một cậu bé đang ngồi nói chuyện).
Giáo viên kể chuyện
Sau khi tôi kể chuyện, cho học sinh tìm hiểu truyện theo các câu hỏi gợi ý.
Tôi cho học sinh nhìn tranh kể lại câu chuyện theo nhóm như vậy học sinh sẽ có
điểm tựa để nhớ nội dung câu chuyện.…
Ngoài ra tôi còn sưu tầm thêm tranh ảnh, làm đồ dùng phục vụ tiết dạy đặc
biệt là các mẫu đơn từ, bảng phụ ghi các câu hỏi gợi ý. Như vậy tôi mới làm chủ
được thời gian, học sinh có thời gian luyện tập thực hành thể hiện mình trong mỗi
tiết học.
c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
Giáo viên có năng lực chuyên môn, nắm chắc các phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học, thường xuyên tìm tòi nghiên cứu khi lập kế hoạch bài dạy.
Ở mỗi đề tài của loại bài Tập làm văn, giáo viên cần cho học sinh tự xác định rõ

yêu cầu các bài tập. Giúp học sinh tự xác định đúng yêu cầu bài tập để khi thực
hành các em sẽ không chệch hướng, đảm bảo đúng nội dung đề tài cần luyện tập.
Với những kinh nghiệm mà tôi nêu trên, tôi đã áp dụng có hiệu quả rõ rệt
ở trường Tiểu học Tây Phong và đều có thể áp dụng được để dạy học phân môn
Tập làm văn ở các trường Tiểu học.
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Các giải pháp, biện pháp trên đều có mối quan hệ thống nhất biện chứng
với nhau, do vậy cần được phối kết hợp sử dụng thì mới giúp học sinh chủ động,
tích cực học môn Tập làm văn ở lớp Ba. Với mỗi chủ đề của bài Tập làm văn nếu
học sinh trình bày đủ nội dung theo gợi ý đã cho thì bài văn của các em xem như
hoàn chỉnh. Nhưng để có một đoạn văn mạch lạc rõ ràng, ý tưởng liên kết chặt
13


chẽ nhau thu hút được người đọc; giáo viên cần giúp các em biết viết đoạn văn có
mở và kết đoạn, biết dùng từ liên kết câu, dùng câu liên kết đoạn một cách hợp lí
và sáng tạo.
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Nhờ áp dụng các biện pháp hợp lý, phù hợp với đặc điểm tình hình của lớp,
trường của địa phương nên chất lượng giáo dục của lớp 3C trong năm học này
không ngừng được nâng cao, cả về chất lượng mũi nhọn (HS năng khiếu môn
Tiếng Việt) và chất lượng đại trà. Tôi xin thống kê kết quả thu được qua các
năm học và cuối học kì I như sau:
Kết quả đạt được (tỉ lệ %)
Nội dung khảo sát
2014-2015
2012-2013 2013-2014
(Học kì I)
Biết viết câu, dùng từ hợp lí
68.7 %

70.5%
74.2%
Biết nói, viết thành câu
67.5%
68.8%
68.9%
Biết dùng từ, câu văn có hình ảnh
48,6%
49.4%
50.20%
Biết trình bày đoạn văn
64.5%
65.7%
69.8%
Bài viết đạt trung bình trở lên
83.7%
85.4%
92.4%
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên
cứu.
Kết quả thu được sau khi khảo nghiệm: Khi thực hiện đề tài vào giảng dạy
tôi nhận thấy bản thân mỗi giáo viên có nhận thức cao hơn trong công tác của
mình, chất lượng của học sinh có tiến bộ rõ rệt. Khi thực hiện đề tài đã được các
đồng nghiệp hỗ trợ và đồng tình thực hiện.
Giá trị khoa học: Đề tài được áp dụng cho công tác giảng dạy ở trường tiểu
học nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và chất lượng giáo dục toàn diện
học sinh. Vì vậy mỗi giáo viên phải đổi mới, tạo ra những hình thức và phương
pháp dạy học mới cho các tiết học Tập làm văn nói riêng và các tiết học khác thu
hút các em thích học và tự giác học, thật sự ham mê học tập, tự tin, mạnh dạn
trước đông người. Học sinh lĩnh hội kiến thức nhanh và chắc đem lại một chất

lượng dạy học mới. Trong môi trường dạy học lấy học sinh làm trung tâm, năng
lực của giáo viên sẽ được nhân lên nhiều lần song trong môi trường đó cũng đòi
hỏi giáo viên phải cố gắng cao, phải có những kiến thức và kỹ năng mới, phải tự
học, tự nghiên cứu nhiều tài liệu bổ sung kiến thức hiểu biết cho mình.
PHẦN III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận: Để giúp học sinh tích cực học môn Tập làm văn chúng ta cần:
Dạy học Tập làm văn theo phương pháp tích hợp các phân môn trong môn
Tiếng Việt; Biết kết hợp mối quan hệ chặt chẽ về yêu cầu kiến thức phân môn
Tập làm văn của các khối lớp.
14


Trong giảng dạy giáo viên có đầu tư nghiên cứu sâu, phối hợp tổ chức linh
hoạt các hình thức và phương pháp dạy học theo hướng đổi mới.
Giáo viên có ý thức tự học tự rèn; tham khảo các tài liệu, tạp chí, văn bản
có liên quan đến chuyên môn và các dạng bài khó.
Giáo viên dành thời gian bồi dưỡng và phụ đạo cho học sinh môn Tiếng
Việt.
Động viên, khuyến khích học sinh tự học, tự tìm tòi; tận tâm sửa chữa sai
sót cho học sinh, hướng dẫn học sinh ghi chép vào sổ tay vở nháp.
Học sinh có thói quen đọc sách báo, truyện phù hợp lứa tuổi, tập ghi chép
sổ tay những từ ngữ, câu văn hay các em đọc được.
Học sinh tự tin, mạnh dạn phát biểu trong các hoạt động học tập, có kĩ năng
trong giao tiếp ứng xử. Đề tài là cơ sở để giáo viên nghiên cứu và thực hiện trong
giảng dạy phân môn Tập làm văn. Giúp giáo viên từng lúc san bằng trình độ học
sinh trong lớp học; giúp học sinh tự tin hơn trong học tập, trong giao tiếp để các
em hoàn thành nhiệm vụ học tập và tiếp tục học tập ở các lớp cao hơn. Đây là cơ
sở làm nền tảng cho các em học tốt phân môn Tập làm văn ở các lớp cuối cấp
Tiểu học
Dưới sự tổ chức và hướng dẫn của giáo viên, học sinh tự giác học tập, tự

chiếm lĩnh kiến thức mới. Vận dụng kiến thức cũ để chiếm lĩnh kiến thức mới.
Với sự gần gũi nhiệt tình của giáo viên, học sinh sẽ yêu trường, yêu lớp hăng say
học tập. Từ đó chất lượng dạy và học được nâng cao góp phần xây dựng một nền
giáo dục thân thiện và hiệu quả.
2. Kiến nghị
Đối với giáo viên: Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học môn
Tiếng việt ở Tiểu học nói riêng, giáo viên cần có ý thức nghiên cứu, tìm hiểu, vận
dụng nhiều biện pháp, thủ thuật để nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh.
Đối với Tổ chuyên môn của nhà trường cần có các buổi sinh hoạt chuyên
môn có chất lượng để giáo viên có thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Trên đây là một kinh nghiệm nhỏ mà tôi đã thử nghiệm thành công tại đơn
vị để góp phần nâng cao chất lượng dạy, học phân môn Tập làm văn lớp 3. Rất
mong ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp để tôi tiếp tục hoàn thiện bản thân và
giảng dạy tốt hơn nữa trong những năm tiếp theo. Xin chân thành cảm ơn.
Băng ADRênh, ngày 30 tháng 01 năm
2015
Người viết

15


Dương Thị Liên

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tiếng Việt lớp 3 tập 1, 2
2. Bồi dưỡng năng lực Tiếng Việt lớp 3. Tác giả: Võ Thị Hoài Tâm.
3.Bồi dưỡng văn Tiếng Việt 3. Tác giả: Nguyễn Thị Kim Dung
Nhà xuất bản tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh
4. 35 bộ đề văn Tiếng Việt 3. Tác giả: Nguyễn Thị Kim Dung

Nhà xuất bản tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh

16


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

……………………………………………………………………………
………......................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

17



×