Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Đơn vị: Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu
MỤC LỤC
Mã số: ................................
(Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi)
Mục lục .........................................................................................................
1
I. Lý do chọn đề tài ......................................................................................2
II. Cơ sở thực hiện đề tài ............................................................................3
1. Cơ sở lý luận .............................................................................................3
KIẾN KINH NGHIỆM
2. Cơ sở thực tiễn SÁNG
..........................................................................................
5
III. Tổ chức thực hiện đề tài ........................................................................6
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
1.
Phương SỬ
pháp 12
nghiên
cứu ............................................................................
LỊCH
THÔNG
QUA VIỆC KẾT HỢP VĂN6
HỌC
ĐỂ ...........................................................................................
GÂY HỨNG THÚ CHO HỌC SINH. 7
2. Phần
nội dung
3. Kết luận.................................................................................................... 12
IV. Những thành công và lưu ý cần khắc phục ........................................13
1. Thành công .............................................................................................13
2. Những bài áp dụng ..................................................................................13
Người thực hiện: Phan Thị Mùi
3.Lưu ý cần khắc phục
................................................................................
13
Lĩnh
vực nghiên cứu:
V. Đề xuất kiến nghị ..................................................................................
14
- Quản lý giáo dục
- Phương pháp dạy học bộ môn: Lịch sử
Lời cảm ơn ..................................................................................................
14
- Lĩnh vực khác: ......................................................
Có đính kèm:
Mô hình
Phần mềm
Phim ảnh
SKKN
Hiện vật khác
GV: Phan Thị Mùi
Năm học: 2011 - 2012
1
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu
SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI
TRƯỜNG THPT
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học 2011 - 2012
Tên sáng kiến kinh nghiệm:
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ THÔNG QUA
VIỆC KẾT HỢP VĂN HỌC ĐỂ GÂY HỨNG THÚ CHO HỌC SINH.
Họ và tên tác giả: Phan Thị Mùi
Đơn vị: Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu - Long Thành - Tỉnh Đồng Nai
Lĩnh vực:
Quản lý giáo dục:
Phương pháp dạy học bộ môn:
Phương pháp giáo dục:
Lĩnh vực khác:
1. Tính mới
- Có giải pháp hoàn toàn mới
- Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có
2. Hiệu quả
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng
trong toàn ngành có hiệu quả cao
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao
- Có tính cải tiến và đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng
tại đơn vị có hiệu quả cao
3. Khả năng áp dụng
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính
sách:
Tốt
Khá
Đạt
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện
và dễ đi vào cuộc sống:
Tốt
Khá
Đạt
SKKN
GV: Phan Thị Mùi
2
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt
hiệu quả cao trong phạm vi rộng:
Tốt
Khá
Đạt
XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN
(Ký tên và ghi rõ họ tên)
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
(Ký tên, ghi rõ họ tên và đóng dấu)
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: Phan Thị Mùi
2. Ngày tháng năm sinh: 09 – 01 – 1980
3. Nam, nữ: Nữ
4. Địa chỉ: Tổ 19 – Khu Văn Hải – TT Long Thành – Đồng Nai
5. Điện thoại: (CQ)/ 0613844537 – 0613 845107.(NR); ĐTDĐ: 0983477480
6. Fax:
E-mail:
7. Chức vụ: giáo viên
8. Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Đại Học
- Năm nhận bằng: 2003
- Chuyên ngành đào tạo: Lịch Sử
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy bộ môn Lịch sử.
- Số năm có kinh nghiệm: 07 năm
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
1. Thiết kế sơ đồ tiến trình phát triển của cách mạng Tư sản Pháp 1789.
Năm học 2006 – 2007.
2. Khai thác nội dung truyền thống yêu nước để giáo dục học sinh trong
dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Năm học 2008 -2009
3. Tầm quan trọng của bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử . Năm học
2009 – 2010.
4. Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử thông qua việc rèn luyện học sinh
làm bài tập. Năm học 2010 – 2011.
SKKN
GV: Phan Thị Mùi
3
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu
5. Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử thông qua việc kết hợp văn học
trong dạy học lịch sử lớp 12. Năm học 2011 – 2012.
Người thực hiện
Phan Thị Mùi
Tên sáng kiến kinh nghiệm:
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ LỚP 12 THÔNG QUA VIỆC
KẾT HỢP VĂN HỌC ĐỂ GÂY HỨNG THÚ CHO HỌC SINH.
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Nhiều năm qua trên thực tế việc đổi mới dạy và học luôn được diễn ra thường
xuyên. Nhưng hiệu quả đến đâu chưa ai khẳng định được, nhưng những bất cập đi
kèm là điều có thực. Những yếu kém của ngành giáo dục, đặc biệt trong những năm
gần đây bộc lộ khá rõ trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng. Biểu
hiện nỗi bật của việc giảm sút chất lượng bộ môn là tình trạng coi thường, nhớ nhầm
sự kiện, không hiểu lịch sử, không vận dụng bài học kinh nghiệm quá khứ vào rèn
luyện đạo đức, phẩm chất, quan điểm tư tưởng, thi cử chất lượng rất thấp.
Nghị quyết 40/2000QH10 đã khẳng định mục tiêu đổi mới chương trình giáo
dục phổ thông là “xây dựng nội dung chương trình và phương pháp giáo dục nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ. Đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn
nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tế và
truyền thống Việt Nam”
Thực tế hiện nay các em coi nhẹ bộ môn lịch sử. kiến thức môn lịch sử của các
em rất hời hợt, không chính xác, thiếu hệ thống. Nguyên nhân đưa tới tình trạng này
có nhiều: quan niệm không đúng về vị trí, chức năng, nhiệm vụ bộ môn Lịch sử
trong đào tạo thế hệ trẻ, cho là môn phụ, tác động mặt tiêu cực của cơ chế thị trường,
những thiếu sót trong công tác đào tạo bồi dưỡng giáo viên … Một trong nhiều
nguyên nhân đó ít nhiều thuộc trách nhiệm của người dạy.
Qua giảng dạy giáo viên cần cho các em học sinh thấy được vị trí, tác dụng của
bô môn Lịch sử là một môn khoa học. Cần phải có sự học tập và nghiên cứu nghiêm
túc mới nắm vững được kiến thức. Giáo viên cần có cách giảng dạy tốt để khơi dậy
hứng thú, phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Trong khi đó đối tượng học
tập của lịch sử là những sự kiện đã diễn ra trong quá khứ. Đối tượng nhận thức
không có trước mắt, hơn nữa chúng ta không thể tái diễn lại các sự kiện. Vì vậy việc
nhận thức lịch sử bao giờ cũng khó khăn, học sinh dễ nhàm chán, không hứng thú
môn học.
SKKN
GV: Phan Thị Mùi
4
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu
Là giáo viên dạy môn lịch sử tôi rất trăn trở về điều này, làm thế nào để các em
hứng thú hơn trong môn học lịch sử. Vì vậy để nâng cao chất lượng dạy học trong
trường phổ thông, nhằm khắc phục những hạn chế, tăng cường tính thực tiễn, kĩ
năng thực hành, năng lực tự học, phát huy sự chủ động và yêu thích môn học lịch sử,
theo tôi cần có phương pháp dạy học phù hợp để học sinh thấy được học lịch sử có
tác dụng thiết thực. Thầy phải cố gắng đầu tư thời gian và trí tuệ, làm cho môn học
có sức thu hút (ít nhất là trong các giờ lên lớp) làm cho học sinh ý thức được tầm
quan trọng của môn học mà không thể không học, điều này quả không dễ dàng chút
nào nhưng tôi biết không ít thầy cô đã làm được và làm rất tốt. Để góp phần vào đổi
mới phương pháp dạy và học cho phù hợp với tình hình hiện nay, từ thực tiễn giảng
dạy tôi biên soạn đề tài này nhằm góp một ý kiến nhỏ bàn về vấn đề “ đổi mới
phương pháp dạy học lịch sử thông qua việc kết hợp văn học để gây hứng thú cho
học sinh.
II. CƠ SỞ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI.
1. Cơ sở lý luận:
1.1. Tính hệ thống trong cấu tạo Chương trình các môn học nói chung và các bộ
môn Khoa Học Xã Hội (KHXH) nói riêng trong trường học:
Chúng ta đều biết, các môn học trong nhà trường Phổ thông là một hệ thống hoàn
chỉnh nhằm trang bị cho học sinh kiến thức thuộc tất cả các môn, các lĩnh vực ở mức
độ, tính chất “phổ thông”, giúp các em có một hành trang cơ bản làm tiền đề cho các
cấp học cao hơn. Các môn học đó không chỉ liên quan chặt chẽ với nhau mà còn tạo
nên một hệ thống hoàn chỉnh, khoa học. Cũng như các bộ môn Khoa Học Tự Nhiên
(KHTN), các môn học thuộc KHXH như Văn học, Lịch sử, Địa lý … có vai trò hết
sức to lớn trong việc hình thành và giáo dục nhân cách, đạo đức đối với học sinh nên
lại càng liên quan và hệ thống hơn.
Các nhà nghiên cứu lý luận dạy học cho rằng: trong một tiết học, bài học, giáo
viên có thể lược bỏ bớt những nội dung kiến thức không phải là trọng tâm trong sách
giáo khoa và có thể cung cấp thêm cho học sinh một số kiến thức mở rộng nằm ngoài
sách giáo khoa môn học mình đang dạy. Những kiến thức đó thuộc nhiều kênh thông
tin khác nhau: có thể là trên sách báo, truyền hình, ngoài xã hội hoặc ở sách giáo
khoa các môn học khác. Tuy nhiên, việc cung cấp kiến thức đó phải sát với bài học,
phải đảm bảo tính phù hợp, vừa sức nhằm làm bật nổi trọng tâm bài học và gây được
hứng thú cho học sinh trong việc tiếp nhận kiến thức. Việc làm này càng có tác dụng
đối với những bài học, tiết học được xem là “khô khan” như nhiều tiết, bài Lịch sử vì
chúng có quá nhiều số liệu mà học sinh cho là khó nhớ. Tất nhiên, việc cung cấp kiến
thức “bên ngoài” bao nhiêu, như thế nào để đạt hiệu quả cao lại là chuyện khác.
Theo tôi, thực ra cơ sở này vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn. Suy
cho cùng, đối tượng nghiên cứu của Văn học cũng như Sử học đều là Con Người.
Văn học ngợi ca vẻ đẹp của non sông, đất nước, ca ngợi những con người mang
những phẩm chất tốt đẹp, cao quý cũng như đả kích, lên án cái xấu của họ thì Lịch sử
SKKN
GV: Phan Thị Mùi
5
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu
cũng ghi nhận công lao, đóng góp của những con người ấy (Nhân vật Lịch sử) và
phán xét nghiêm minh đối với những người có tội với dân, với nước. Không phải
ngẫu nhiên mà trong chương trình Văn học lại có phân môn Văn học sử và trong
Chương trình Lịch sử lại có phần Lịch sử Văn học.
Khi chúng ta, tức là những giáo viên giảng dạy Lịch sử, giảng dạy đến sự kiện,
biến cố lịch sử nào, nhân vật lịch sử nào thì dù muốn hay không, chúng ta cũng
thường liên tưởng đến những bài thơ, áng văn đã từng đề cập đến sự kiện đó, con
người đó mà chúng ta từng được đọc, được học. Trong thực tế, có không ít người vừa
là nhà Văn, nhà Thơ đồng thời là nhà Sử học mà Bác Hồ kính yêu của chúng ta là
một ví dụ điển hình. Chính Người đã từng dạy rằng:
Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam
1.2. Thực tiễn Dạy - Học Lịch sử ở trường Phổ thông trong những năm gần đây.
“ Lịch sử là sự kiện”. Đó là một tổng kết mang tính chất kinh điển. Bản thân
những sự kiện lịch sử vốn đã khô khan, nhất là những bài, những chương viết về các
trận đánh có rất nhiều những con số về ngày, tháng, năm xảy ra sự kiện hoặc những
số liệu về các thành tựu đã đạt được trên mọi lĩnh vực. Để chuyển tải cho học sinh
những số liệu một cách khô cứng như vậy, đòi hỏi người giáo viên phải linh hoạt và
sáng tạo trong việc sử dụng phương pháp. Thực tế cho thấy, trong những năm gần
đây, giáo viên giảng dạy môn Lịch sử ở cấp THPT nói chung vẫn giảng dạy một cách
khô khan, cứng nhắc, nặng về cung cấp kiến thức, sự kiện một cách đơn thuần, do
vậy không gây được hứng thú học tập cho học sinh trong việc tiếp thu bài học. Mặt
khác một số giáo viên chỉ biết bám vào sách giáo khoa một cách lệ thuộc, truyền thụ
kiến thức đơn thuần theo phương pháp “đọc - ghi”, làm cho tiết học trở nên khô khan
đối với học trò. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính làm cho học sinh
chưa thích học bộ môn Lịch Sử.
Từ thực tế đó tôi đã có điều kiện dự giờ nhiều của đồng nghiệp bộ môn văn học.
Qua dự giờ, tôi đã rút ra được một kinh nghiệm mà bản thân tôi cho là rất quý giá. Đó
là: khi áp dụng kiến thức thơ, văn vào việc giảng dạy Lịch sử rất gây hứng thú cho
học sinh trong việc tiếp thu bài. Từ kinh nghiệm này, tôi đã mạnh dạn đưa thơ, văn
vào trong bài giảng nhằm minh họa cho một số sự kiện Lịch sử trong bài dạy. Những
tiết học như vậy trở nên sinh động hẳn. Khi cô giáo đọc thơ minh hoạ, cả lớp chăm
chú lắng nghe và tỏ ra rất thích thú, sau tiết học, nhiều em còn nhờ cô giáo đọc để
chép vào sổ tay. Những tiết học như thế đã để lại trong lòng các em những ấn tượng
lâu bền. Chắc chắn những sự kiện trong bài học Lịch sử sẽ lưu lại trong ký ức các em
sâu hơn, lâu hơn. Tôi đã thể nghiệm nhiều lần dạy hai cách ở 1 tiết học: một là “giảng
chay”- nghĩa là không vận dụng kiến thức thơ văn, hai là có vận dụng kiến thức thơ
văn vào trong tiết dạy thì thấy chất lượng hai tiết dạy hoàn toàn khác nhau, kể cả tâm
lý, hứng thú của người dạy cũng hoàn toàn khác nhau.
Có thể nói, nền văn học nước ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, sứ mệnh của
SKKN
GV: Phan Thị Mùi
6
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu
nó: phản ánh hiện thực, đặc biệt là Văn học hiện đại. Cách mạng tháng Tám năm
1945 đã đổi đời cho không biết bao nhiêu nhân tài văn học. Hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ vĩ đại lại đem tới cho họ nguồn cảm hứng vô tận để họ kịp
thời đưa những sự kiện Lịch sử hào hùng của dân tộc lên trang giấy. Trong số đó phải
kể đến hai cây đại thụ. Đó là lãnh tụ Hồ Chí Minh kính yêu và nhà thơ lớn Tố Hữu.
Tôi xin phép không liệt kê ra đây những tác phẩm, công trình đồ sộ của họ.
2 . Cơ sở thực tiễn.
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh khối 12 Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu.
2.2. Thực trạng trước khi thực hiện đề tài:
2.2.1 Thuận lợi:
Lịch sử chính là cuộc sống. không có gì đẹp hơn khi cuộc sống được xây dựng
bằng lao động và đấu tranh. Trong lịch sử chúng ta thấy gương mặt của quá khứ, hình
ảnh của hiện tại và bước phát triển của tương lai. Các em tìm thấy trong lịch sử
những tấm gương sáng chói về lao động và đấu tranh. Những bài học quý giá cho
cuộc sống hôm nay và ngày mai.
Bộ môn lịch sử có nhiều ưu thế trong việc giáo dục thế hệ trẻ, gây cho các em sự
hứng thú thực sự. các em tìm thấy trong quá khứ nhiều câu trả lời xác đáng thú vị cho
ngày nay.
2.2.2 Khó khăn:
Do quan niệm của một số người cho rằng: học sử chỉ cần nhớ, chứ không cần suy
nghĩ, chính quan niệm sai lầm này đã làm tê liệt sự sáng tạo và hứng thú học tập bộ
môn lịch sử của học sinh.
Xã hội còn xem nhẹ các môn khoa học xã hội trong đó có môn lịch sử.
2.2.3. Số liệu thống kê:
Lớp
12A1
12A2
12A3
Tỉ lệ học sinh đạt điểm
26/35
24/34
22/34
TBM từ 5.0 trở lên
năm học 2010 - 2011
74 %
70%
64%
2.3. Nguyên nhân:
Do chương trình và nội dung kiến thức lịch sử quá dài. Số tiết quá ít so với
chương trình.
Giáo viên dạy ôm đồm kiến thức vì áp lực thi cử.
Đa số học sinh không thích học lịch sử vì đó không phải là nghề theo đuổi
trong tương lai. Các em chỉ thích học các môn tự nhiên, ngoại ngữ để thuận lợi
trong việc chọn nghề. Đây cũng là một thực tế mà chúng ta phải chấp nhận: có rất
ít học sinh sẽ đi theo ngành nghề liên quan đến lịch sử, nên chúng ta cần giúp các
em lĩnh hội và nắm chắc kiến thức một cách cơ bản nhất để các em có đủ kiến
thức buớc vào cuộc sống mai sau.
Tác động bởi mặt trái của nền kinh tế thị trường dẫn đến đa phần học sinh rất
lười, không chịu khó trong việc học tập xem nhẹ bộ môn lịch sử.
2.4. Vấn đề đặt ra:
SKKN
GV: Phan Thị Mùi
7
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu
Thầy phải cố gắng đầu tư, phải biết cô đọng kiến thức. Phải làm sao cho môn
học của mình có sức thu hút ( ít nhất là trong các giờ lên lớp). Phải làm sao cho
học sinh ý thức được tầm quan trọng của môn học, thấy nó thú vị và không thể
không học. Điều này quả không dễ dàng chút nào, nhưng tôi biết không ít thầy cô
đã làm được và làm rất tốt.
Thầy phải có những biện pháp thích hợp để hướng dẫn học sinh làm sao có thể
nắm được kiến thức cơ bản một cách cô đọng nhất, trong một thời gian ngắn nhất
(đừng để học sinh có cảm giác nhắc đến lịch sử là “dài”) vừa đáp ứng được hiệu
quả bài học vừa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn bài học.
2.5. Phạm vi nghiên cứu đề tài:
Như đã nói ở trên, nguồn thơ, văn… của chúng ta (liên quan đến Lịch sử) rất
phong phú. Trong điều kiện chủ quan và khách quan cho phép, chúng tôi chỉ giới
hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài là: Bước đầu khai thác và vận dụng một số kiến
thức thơ ,văn (chủ yếu là thơ) vào việc giảng dạy một số bài trong chương trình
Lịch sử Lớp 12.
Nghiên cứu và ứng dụng cho học sinh khối 12 trong dạy học bộ môn Lịch sử
của Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:
1. Phương pháp nghiên cứu.
1.1 Như đã xác định, đối tượng, phạm vi vận dụng của đề tài là chương trình Lịch
sử lớp 12. Vì vậy, trước hết cần phải nghiên cứu kỹ chương trình này. Đặc biệt là các
bài có thể khai thác, vận dụng được. Trong khi thực hiện công đoạn này, cần phải liên
hệ, so sánh và đặt nó trong mối quan hệ liên quan với chương môn Văn học Lớp10,
11, 12 - bậc PTTH.
Đây là một thao tác rất quan trọng, góp phần xác định được đúng mức độ vận
dụng của đối tượng là học sinh lớp 12, tránh sa đà, ôm đồm.
1.2. Tiến hành sưu tầm các bài thơ, văn… có quan hệ sát với nội dung các bài
Lịch sử thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài. Cần lưu ý rằng, không phải trong một
bài thơ liên quan ta có thể khai thác được hết cả bài mà nên lựa chọn những đoạn thơ
sát nhất, “đắt” nhất để sử dụng.
1.3. Chọn lựa, phân loại các kiến thức thơ, văn phù hợp với yêu cầu, phương pháp
giảng dạy Lịch sử theo từng mảng: thơ về tiểu sử, cuộc đời nhân vật Lịch sử; thơ văn
về diễn biến trận đánh hay biến cố Lịch sư, thơ văn trần thuật về tội ác của giai cấp
thống trị, của bọn xâm lược… Sau khi phân loại, chúng ta tiến hành sắp xếp nguồn tư
liệu đó thành từng chủ đề.
1.4. Khai thác, vận dụng các kiến thức đó vào từng bài lịch sử đã giới hạn.
1.5. Góp ý với các đồng nghiệp khai thác và vận dụng kiến thức thơ, văn vào việc
giảng dạy trong khi bản thân mình trực tiếp dự giờ để có điều kiện kiểm chứng và so
sánh.
1.6. Đi thực tế ở một số trường phổ thông trung học nếu điều kiện cho phép.
SKKN
GV: Phan Thị Mùi
8
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu
2. Phần nội dung:
SỬ DỤNG MỘT SỐ KIẾN THỨC THƠ VĂN VẬN DỤNG VÀO VIỆC
GIẢNG DẠY MỘT SỐ BÀI LỊCH SỬ(LỚP 12) CỤ THỂ
Ví dụ 1: Khi dạy bài 12: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1919 –
1925. (SGK Lịch sử lớp 12). Tôi ứng dụng thực tiễn như sau:
1/ Sau khi ghi đề bài lên bảng xong và tiến hành giảng cho học về phần một là
chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp với các nôi dung cơ bản
sau.
1. Chính sách khai thác thuộc địa lần hai của thực dân Pháp.
- Thời gian: từ 1919 – 1929.
- Tăng cường đầu tư với tốc độ nhanh, quy mô lớn. vốn đầu tư tăng từ (1924 – 1929),
lên đến 4 tỉ Phơ- răng:
Nông nghiệp: Thu hút vốn nhiều nhất, chủ yếu đầu tư vào đồn điền cao su. Diện tích
các đồn điền cao su được mở rộng.
Công nghiệp: Tập trung khai mỏ nhất là mỏ than. Mở rộng các ngành chế biến như
muối, xay xát, dệt…
Thương nghiệp: Ngoại thương tăng, buôn bán nội địa được đẩy mạnh.
Giao thông vận tải: đường sắt, đường bộ đầu tư phát triển.
Ngân Hàng: Pháp nắm trọn quyền chỉ huy kinh tế Đông Dương, tăng thuế, phát hành
tiền giấy và cho vay lãi.
a)Để làm sáng tỏ tội ác của thực dân Pháp xâm lược cũng như nỗi thống khổ của
nhân dân ta do chính sách bóc lột bằng cách mở đồn điền hết sức tàn bạo. Tôi khai
thác văn học để khắc sâu kiến thức cho học sinh bằng hai câu ca dao sau:
“Cao su đi dễ, khó về
Khi đi trai tráng, khi về bủng beo”
(Ca dao chống Pháp)
hoặc:
“Cha trốn ra Hòn Gai cuốc mỏ
Anh chạy vào Đất Đỏ làm phu
Bán thân đổi mấy đồng xu
Thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng”
(Tố Hữu – SĐD)
b)Làm sáng tỏ: “Thuế khoá trong bất cứ thời gian nào cũng là nguồn bóc lột chủ
yếu của thực dân đế quốc nói chung và thực dân Pháp đối với nhân dân Đông Dương
nói riêng” tôi liên hệ
“… Thuế đến cả bản thôn, phường phố
Thuế môn bài, thuế đuốc, thuế đèn
SKKN
GV: Phan Thị Mùi
9
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu
Thuế nhà cửa, thuế chùa chiền
Thuế rừng tre gỗ, thuế tiền bán buôn
…
Trăm thứ thuế, thuế gì cũng ngặt
Thắt chặt dân như thắt chỉ xe”
Hoặc liện hệ tác phẩm văn học “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố các em đa học trong tác
phẩm có nhân vật chị Dậu phải “bán con” và “chó” vẫn chưa đủ tiền để đóng sưu
thuế (thuế thân) cho chồng và em chồng.
2/ Trong phần hai nói về phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1919 – 1925
để làm sáng tỏ gương hy sinh anh dũng quên mình của liệt sĩ Phạm Hồng Thái trong
vụ ám sát toàn quyền Méc-lanh:
Sau khi kể tóm tắt về tiểu sử và quá trình hoạt động cách mạng của Phạm Hồng
Thái và tường thuật cụ thể chi tiết vụ ám sát tên toàn quyền Méc-lanh tại Sa Diện –
Trung Quốc, tôi sự dụng đoạn thơ sau để khắc họa nhân vật lịch sử nói trên
“Một tấm lôi đình kinh vũ trụ
Tấm gan trung nghĩa động thần minh
Chiếc thân đã gửi cho dòng nước
Trang sử còn ghi mãi tính danh”
(Trần Huy Liệu-Từ điển nhân vật lịch sử)
hoặc:
“Sống làm quả bom nổ
Chết làm dòng nước xanh”
(Tố Hữu-SĐD)
Tuy nhiên giáo viên cũng nên lưu ý, sau khi đọc thơ phải cắt nghĩa cho các em
hiểu một số từ, khái niệm mang tính tượng trưng như: “Một tiếng lôi đình kinh vũ
trụ”, “Chiếc thân đã gửi cho dòng nước”
Ví dụ 2: khi dạy bài 14: “Phong trào cách mạng 1930-1935”
Sau khi trình bày cho học sinh diễn biến của phong trào Cách mạng 1930-1931
và Xô Viết Nghệ – Tĩnh, tôi sử dụng đoạn thơ sau để minh hoạ thêm để học sinh thấy
được tinh thần và khí thế cách mạng trong phong trào 1930 – 1931:
“Kìa Bến Thủy đứng đầu dậy trước
SKKN
GV: Phan Thị Mùi
10
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu
Nọ Thanh Chương tiếp bước đứng lên
Nam Đàn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên
Anh Sơn, Hà Tĩnh bốn bên dậy rồi
Không có lẽ ta ngồi chịu chết
Phải cùng nhau kiên quyết một phen
Tổng này, xã nọ kết liên
Ta hò, ta hét, thét lên thử nào”
(Tố Hữu-SĐD)
Ví dụ 3 : Khi dạy bài 16 – « Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi tháng
Tám .... » (SGK Lịch sử lớp 12).
a) Khi tiến hành giảng về mục 3 : Nguyễn Ái quốc về nước trực tiếp lãnh đạo
cách mạng. Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương (5 – 1941). Sau khi cung cấp sự kiện ngày 28 – 1 – 1941 Nguyễn Ái Quốc về
nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Người chủ trì Hội nghị lần 8 tại Pắc bó – Cao
Bằng từ ngày 10 - > 19 – 5 – 1941. Nhằm khắc họa hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh và
tình cảm của Người khi trở về quê hương sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, tôi
thể khai thác sử dụng đoạn thơ
“Ôi sáng xuân nay, xuân bốn mốt
Sáng rừng Việt Bắc trắng hoa mơ
Người về. Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ”
(Tố Hữu-SĐD)
b) Mở rộng thêm về Mặt trận Việt Minh, để khắc hoạ hình ảnh của Mặt Trận Việt
Minh thực hiện chính sách của mình trong một “nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
thu nhỏ” đầy tính ưu việt, tôi thể sử dụng thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“… Có mười chính sách bày ra
Một là ích nước, hai là lợi dân
Bao nhiên thuế ruộng, thuế thân
Đều đem bỏ hết cho dân khỏi phiền
Hội hè, tín ngưỡng, báo chương
SKKN
GV: Phan Thị Mùi
11
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu
Họp hành, đi lại có quyền tự do
Nông dân có ruộng, có bò,
Đủ ăn, đủ mặc, khỏi lo cơ hàn.
Công nhân làm lụng gian nan
Tiền lương phải đủ, mỗi ban tám giờ.
Gặp khi tai nạn bất ngờ
Thuốc thang Chính phủ bây giờ giúp cho.
Thương nhân buôn bán nhỏ to
Môn bài thuế ấy bỏ cho phỉ nguyền
Nào là những kẻ chức viên
Cả lương đãi ngộ cho yên tấm lòng
Binh lính giữ nước có công
Được dân trọng đãi, hết lòng kính yêu
Thanh niên có trường học nhiều
Chính phủ trợ cấp trò nghèo, bần nho
Đàn bà cũng được tự do
Bất phân nam nữ đều cho bình quyền
Người tàn tật, kẻ lão niên
Đều do Chính phủ cấp tiền ăn cho
Trẻ em bố mẹ khỏi lo
Dạy nuôi, chính phủ giúp cho đủ đầy”
(Hồ Chí Minh - Lịch sử nước ta – Tập 3, Tr 152, 153)
Ví dụ 4: Khi dạy bài 20: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết
thúc (1953 – 1954).
a)Sau khi trình bày xong phần diễn biến của chiến dịch Điện Biên Phủ. Để khắc
sâu hơn về tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ đã anh dũng hy sinh trong chiến dịch
tôi đọc đoạn thơ
“ Vượt lỗ châu mai nhớ Phan Đình Giót
SKKN
GV: Phan Thị Mùi
12
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu
Đạn thiếu tầm cao nhớ Bế Văn Đàn.
Đưa pháo lên đồi nửa chừng dây kéo đứt
Phút hiểm nghèo Tô Vĩnh Diện nằm ngang”
(Hồng Nguyệt Cầm – Trước cửa rừng Điện Biên – trích trường ca âm vang Điện
Biên, trong tuyển tập thơ văn Điện Biên Phủ)
hoặc:
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt.
Máu trộn bùn non.
Gan không núng, chí không mòn.
Những đồng chí thân chôn làm giá súng.
Đầu bịt lỗ châu mai.
Băng rừng qua núi thép gai.
Ào ào vũ bão
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân nhắm mắt còn ôm
Những bàn tay xẻ núi lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện
Và những chị những anh ngày đên ra tiền tuyến
Mấy tầng mây gió lớn mưa to
Dốc Pha Đin chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô anh hò chị hát
Dù bom đạn xương tan thịt nát
Không sơn lòng không tiếc tuổi xanh
Hỡi các chị các anh trên chiến trường ngả xuống
Máu của các chị các anh không uổng
Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam
Mường Thanh Hồng Cúm Him Lam
Hoa mơ lại nở vườn cam lại vàng...
(Tố Hữu – Hoan hô chiến sĩ Điện Biên - trong tuyển tập thơ văn Điện Biên Phủ)
b) Hay khi nói về tinh thần tiếp viện của dân công tôi minh họa ca dao:
“Đèo cao thì mặc đèo cao
Tinh thần tiếp vận còn cao hơn đèo
Điện Biên xa lắc ngàn trùng
Gạo không tới đích quyết không trở về”.
c) Hoặc khi nói về chiến thắng Điện Biên Phủ, để nhấn mạnh cho các em dễ
nhớ ngày tháng tôi minh họa đoạn thơ sau.
Một chiều hè lịch sử
SKKN
GV: Phan Thị Mùi
13
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu
Bố kể chuyện Điện Biên
Bộ đội mình chiến thắng
Lũ tây bị bắt sống
Ta giải đi từng đàn
Cờ quyết chiến quyết thắng
Tung bay trên nóc hầm
Chiều mùng bảy tháng năm
Một chiều hè lịch sử ...
(Trong tuyển tập thơ văn Điện Biên Phủ)
3. Kết luận.
1/ Việc vận dụng kiến thức thơ văn vào giảng dạy lịch sử, theo kinh nghiệm của
bản thân tôi cùng nhiều đồng nghiệp khác đã được tham khảo ý kiến là một việc làm
rất có hiệu quả nhằm gây hứng thú cho học sinh, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi
việc học lịch sử, tìm hiểu lịch sử, nhận thức lịch sử đang có nhiều hướng giảm sút,
xuống cấp. Ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, lối suy nghĩ, cách sống thực dụng
đang tác động mạnh mẽ đến từng học sinh cùng với sự thiếu thốn phương tiện, đồ
dùng dạy học cũng như thái độ dạy học đối phó, qua loa, đại khái của không ít giáo
viên đã và đang là những trở ngại không nhỏ đối với việc giảng dạy nói chung và dạy
bộ môn lịch sử nói riêng.
2/ Thơ văn nói chung với ưu thế của nó: dễ thuộc, dễ đi vào lòng người… sẽ là
một thế mạnh trong việc hỗ trợ đắc lực cho việc truyền thụ kiến thức lịch sử thông
qua đó góp phần giáo dục đạo đức, lòng biết ơn đối với truyền thống, lãnh tụ cũng
như những anh hùng liệt sĩ đã hi sinh, đã đóng góp xương máu của mình để làm rạng
rỡ thêm lịch sử nước nhà.
IV. NHỮNG THÀNH CÔNG VÀ LƯU Ý CẦN KHẮC PHỤC:
1. Thành công:
Qua việc khai thác một số kiến thức thơ văn vận dụng vào việc giàng dạy một số
bài lịch sử lớp 12 tôi thấy:
- Hầu hết học sinh hiểu, nắm chắc, khắc sâu nhớ lâu được kiến thức về hoàn cảnh
lịch sử, nội dung sự kiện.
- Học sinh hứng thú trong cách tìm hiểu về các giai đoạn lịch sử và bản chất lịch
sử.
- Thu hút sự tập trung chú ý của học sinh khi học tập lịch sử.
TRẮC NGHIỆM KIỂM CHỨNG ĐỀ TÀI Năm học 2011 - 2012:
Lớp
SKKN
HS học hứng thú
HS hiểu bài
GV: Phan Thị Mùi
14
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu
12A1
33/34 HS = 97 %
34/34 HS = 100 %
12A2
33/35 HS = 94 %
35/35 HS = 100 %
12A2
34/35 HS = 97 %
34/35 HS = 97 %
2. Những bài học có thể áp dụng:
Với phương pháp khai thác một số kiến thức thơ văn vận dụng vào việc giảng
dạy một số bài lịch sử lớp 12 có thể áp dụng cho rất nhiều bài trong chương trình lịch
sử 12, kể cả chương trình lớp 10 và 11. Vì văn học và lịch sử có mối quan hệ mật
thiết “ văn sử bất phân” Tuy nhiên không nên và không thể đồng nhất giữa văn học
và lịch sử
3. Một số lưu ý khi khai thác và vận dụng kiến thức thơ văn.
1/ Trước hết, giáo viên phải hiểu cặn kẽ và thật tâm đắc với những tư liệu mình
đã lựa chọn.
2/ Không nên ôm đồm, quá tải trong việc vận dụng kiến thức thơ văn.
3/ Luôn luôn đảm bảo tính vừa sức của học sinh (đối tượng vận dụng là học sinh
lớp 12).
4/ Các kiến thức thơ văn vận dụng cần phải có nguồn gốc xuất xứ chính xác, rõ
ràng.
V. ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ.
1. Đối với bộ giáo dục:
Bộ cần thay đổi sách giáo khoa giảm tải kiến thức cho phù hợp với thời gian
của tiết học.
Giới hạn kiến thức thi tốt nghiệp để không gây áp lực cho giáo viên và học
sinh khi dạy – học.
2. Đối với Sở giáo dục và nhà trường:
Tăng tiết ngay từ đầu năm cho khối 12 để tránh việc nhồi nhét kiến thức. Đây
không chỉ là môn thi tốt nghiệp mà còn là môn thi đại học của các em theo nghành
khoa học xã hội.
Cải thiện nâng cấp, đầu tư cơ sở vật chất để tạo điều kiện cho giáo viên và học
sinh được dạy và học trong ngôi trường tốt hơn đáp ứng với sự phát triển của xã hội.
Đầu tư thiết bị, tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy học lịch sử như tranh ảnh, bản
đồ …
Lời cảm ơn.
SKKN
GV: Phan Thị Mùi
15
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu
Với điều kiện thời gian ngắn ngủi, trình độ bản thân còn ít kinh nghiệm, chắc
chắn đề tài còn nhiều hạn chế. Với tâm huyết và tấm lòng của mình tôi muốn đóng
góp cho công việc dạy học một đề tài nhỏ để nâng cao hiệu quả dạy học. Rất mong
được sự chỉ dẫn, góp ý chân thành của các thầy, cô: Ban giám hiệu, tổ bộ môn và hội
đồng giám khảo.
Xin chân thành cảm ơn.
NGƯỜI THỰC HIỆN
(Ký tên và ghi rõ họ tên)
SKKN
GV: Phan Thị Mùi
16
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa lịch sử 12 – nhà xuất bản giáo dục.
2. Sách giáo viên lịch sử 12 - nhà xuất bản giáo dục.
3. Tuyển tập thơ văn Điện Biên Phủ - nhà xuất bản văn học.
4. Khai thác mạng Internet
SKKN
GV: Phan Thị Mùi
17