Tải bản đầy đủ (.doc) (136 trang)

Thực trạng quản lý tài chính tại đại học kinh tế và quản trị kinh doanh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.89 KB, 136 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA LUẬN VĂN
Đất nước đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi nguồn
nhân lực trí tuệ cao, quá trình hội nhập khu vực và quốc tế với xu thế
toàn cầu hóa đang là một thách thức với nước ta, đòi hỏi nhà nước và
ngành giáo dục phải có một chiến lược phát triển nhân tài. Trong quá
trình hội nhập và phát triển, Việt Nam buộc phải có những bước
chuyển mình, nhanh chóng hoà nhập cùng thời đại, tránh tụt hậu so với
thế giới. Tại quyết định số 13/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9 năm 2001
của Thủ tướng chính phủ, chương trình tổng thể cải cách hành chính
Nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 được phê duyêt với bốn nội dung lớn,
trong đó cải cách tài chính công là một trong bốn nội dung quan trọng
đó. Để thực hiện được nội dung quan trọng này Chính Phủ đã ban hành
quyết định số 192/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 12 năm 2001 về chế độ
tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu. Mặc dù vậy quản lý tài
chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu luôn bộc lộ những bất cập lớn
như về trình độ năng lực cán bộ quản lý, cơ cấu tổ chức bộ máy quản
lý, trình độ thanh kiểm tra trong đơn vị, quyết toán thu chi ngân sách,
chi trả tiền lương, tiền công và thu nhập tăng thêm… Trước những bất
cập đó tác giả đã chọn đề tài nghiên cứu luận văn là “Hoàn thiện quản
lý tài chính tại Đại học Kinh tế và quản trị kinh doanh - Thái Nguyên”

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

1


- Nghiên cứu nội dung cơ bản về quản lý tài chính đối với các
đơn vị sự nghiệp có thu.
- Phân tích và đánh giá thực trạng của quản lý tài chính tại Đại


học Kinh tế và quản trị kinh doanh - Thái Nguyên nhằm xác định
những kết quả đạt được và những điểm còn hạn chế.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính tại Đại học Kinh
tế và quản trị kinh doanh - Thái Nguyên.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: quản lý tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp có thu thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo.
- Phạm vi nghiên cứu: quản lý tài chính tại Đại học Kinh tế và
quản trị kinh doanh - Thái Nguyên trong thời gian từ năm 2007 đến
năm 2010.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tác giả đã sử dụng các phương pháp dựa trên cơ sở phương pháp
luận chủ nghĩa Duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp tổng
hợp, phân tích thực tiễn gắn với phương pháp thống kê, phương pháp
phân tích, so sánh, điều tra khảo sát...
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Hệ thống hoá và làm rõ thêm những vấn đề lý luận cơ bản về
quản lý lý tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu thuộc lĩnh vực
giáo dục, đào tạo.
- Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý tài chính tại Đại học
2


Kinh tế và quản trị kinh doanh - Thái Nguyên từ năm 2007 đến 2010
nhằm rút ra những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân dẫn tới
quản lý tài chính của trường chưa hoàn thiện.
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị góp phần hoàn thiện
quản lý tài chính tại Đại học Kinh tế và quản trị kinh doanh - Thái
Nguyên.
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, kết luận,danh mục và tài liệu tham
khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý tài chính trong đơn vị sự
nghiệp có thu thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo
Chương 2: Thực trạng quản lý tài chính tại Đại học Kinh tế và
quản trị kinh doanh - Thái Nguyên
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính tại Đại học
Kinh tế và quản trị kinh doanh - Thái Nguyên

3


Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
TRONG ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÓ THU THUỘC LĨNH VỰC
GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO
1.1. Tổng quan về đơn vị sự nghiệp có thu thuộc lĩnh vực giáo dục,
đào tạo
1.1.1 Khái niệm
4


Đơn vị sự nghiệp là đơn vị, cơ sở thuộc lĩnh vực phi sản xuất vật
chất bao gồm các cơ quan quản lý hành chính, quản lý kinh tế, các đơn
vị sự nghiệp (văn hoá nghệ thuật, y tế, giáo dục…), các cơ quan đoàn
thể, các tổ chức xã hội, các đơn vị lực lượng vũ trang … hoạt động
bằng nguồn kinh phí do ngân sách nhà nước (NSNN) cấp hay do cấp
trên cấp bằng các nguồn khác như học phí, viện phí, các khoản thu từ
hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các khoản thu khác.
Nói cách khác, đơn vị sự nghiệp là những đơn vị do cơ quan Nhà

nước có thẩm quyền cho phép thành lập, có tư cách pháp nhân, có tài
khoản, con dấu riêng, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước hoặc
cung cấp sản phẩm, dịch vụ công trong các ngành, lĩnh vực theo quy
định của pháp luật phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội
hoặc bảo đảm an ninh quốc phòng.
Đơn vị sự nghiệp có thu thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo là lĩnh
vực sự nghiệp tạo ra những sản phẩm đặc biệt vừa mang tính phục vụ
chính trị - xã hội, vừa mang tính hàng hoá đòi hỏi phải bù đắp chi phí.
Với chức năng phục vụ xã hội, sản phẩm của hoạt động sự nghiệp có
giá trị tinh thần vô hạn không thể đo bằng giá trị tiền tệ hữu hình.
Những đơn vị tạo ra sản phẩm đó không thể và càng không hạch toán
được lãi, lỗ đơn thuần bởi sản phẩm của nó thuộc chức năng phục vụ
nhân dân, phục vụ xã hội. Để bù đắp phần hao phí đó, các đơn vị sự
nghiệp phải thu lại của người hưởng thụ một phần chi phí. Chi phí cho
lĩnh vực sự nghiệp không được trả lại trực tiếp bằng hiệu quả kinh tế
nào đó mà được thể hiện bằng hiệu quả xã hội đạt được các mục tiêu

5


đặt ra của kinh tế vĩ mô như: Chi giáo dục đào tạo nhằm nâng cao dân
trí của một quốc gia, chi cho công tác văn hoá xã hội…vv…
1.1.2 Đặc điểm các hoạt động của đơn vị sự nghiệp có thu thuộc
lĩnh vực giáo dục, đào tạo
Các hoạt động của đơn vị sự nghiệp có thu thộc lĩnh vực giáo
dục, đào tạo là những hoạt động thực hiện những công việc có lợi ích
chung và lâu dài cho cộng đồng xã hội. Các hoạt động này không trực
tiếp sản xuất ra của cải vật chất, nhưng nó tác động đến lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, kết quả của hoạt động ảnh hưởng trực tiếp
đến năng suất lao động xã hội. Các hoạt động của đơn vị sự nghiệp

chủ yếu cung cấp các dịch vụ thoả mãn nhu cầu chung, vì lợi ích cộng
đồng của toàn xã hội. Các hoạt động của đơn vị sự nghiệp có các đặc
trưng cơ bản sau:
* Gắn bó hữu cơ với quá trình tạo ra của cải vật chất và giá trị
tinh thần
Kết quả các hoạt động của đơn vị sự nghiệp chủ yếu tạo ra các “
hàng hoá công cộng” ở dạng vật chất và phi vật chất, phục vụ trực tiếp
hoặc gián tiếp quá trình tái sản xuất xã hội. Hàng hoá công cộng thuần
tuý với hai đặc điểm “ không loại trừ” và “ không tranh giành”. Nói
cách khác, đó là những hàng hoá mà không ai có thể loại trừ những
người tiêu dùng khác ra khỏi việc sử dụng nó và tiêu dùng của người
này không loại trừ việc tiêu dùng của người khác. Hàng hoá công
cộng không thuần tuý là những loại hàng hoá dễ loại trừ và muốn loại
trừ hoặc chỉ có một trong hai khả năng trên. Nhờ sử dụng những hàng
hoá công cộng do các hoạt động của đơn vị sự nghiệp tạo ra mà quá
6


trình sản xuất của cải vật chất được thuận lợi và ngày càng đạt hiệu
quả cao. Vì vậy hoạt động của đơn vị sự nghiệp luôn gắn bó hữu cơ và
tác động tích cực đến quá trình tái sản xuất xã hội.
* Các hoạt động của đơn vị sự nghiệp nói chung không nhằm
mục đích lợi nhuận trực tiếp
Trong nền kinh tế thị trường, các sản phẩm, dịch vụ do các hoạt
động của đơn vị sự nghiệp tạo ra đều có thể trở thành hàng hoá cung
ứng cho mọi thành phần trong xã hội. Nhưng việc cung ứng những
hàng hoá này cho thị trường chủ yếu không vì mục đích lợi nhuận như
hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước duy trì và tài trợ cho hoạt
động sự nghiệp để cung cấp những sản phẩm, dịch vụ cho thị trường
trước hết nhằm thực hiện vai trò của Nhà nước trong việc phân phối

lại thu nhập và thực hiện các chính sách phúc lợi công cộng khi can
thiệp vào thị trường. Nhờ đó sẽ hỗ trợ cho các ngành kinh tế hoạt
động bình thường, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đảm bảo nhân
lực, thúc đẩy hoạt động kinh tế phát triển và ngày càng đạt những hiệu
quả cao hơn, không ngừng nâng cao đời sống, sức khoẻ, văn hoá, tinh
thần của nhân dân.
* Các hoạt động của đơn vị sự nghiệp luôn gắn liền và bị chi
phối bởi các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước
Trong kinh tế thị trường, Chính phủ tổ chức, duy trì và đảm bảo
các hoạt động của đơn vị sự nghiệp để thực hiện các nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội. Để thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội nhất
định, Chính phủ tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia
như: Chương trình xoá đói - giảm nghèo, chương trình chăm sóc sức
7


khoẻ cộng đồng, chương trình xoá mù chữ, chương trình dân số kế
hoạch hoá gia đình… Những chương trình mục tiêu quốc gia này chỉ
có Nhà nước với vai trò của mình mới có thể thực hiện một cách triệt
để và có hiệu quả. Nếu như để tư nhân thực hiện thì với mục đích lợi
ích kinh tế của riêng mình sẽ hạn chế đến tiêu dùng xã hội và dẫn đến
xã hội không phát triển cân đối được.
* Sản phẩm các hoạt động của đơn vị sự nghiệp là sản phẩm
mang lợi ích chung và có tính lâu dài
Sản phẩm, dịch vụ do các hoạt động của đơn vị sự nghiệp tạo ra
chủ yếu là những giá trị về tri thức, văn hoá, phát minh, sức khoẻ, đạo
đức, các giá trị về xã hội… là những sản phẩm vô hình và có thể dùng
chung cho nhiều người, cho nhiều đối tượng trên phạm vi rộng. Nhìn
chung đại bộ phận các sản phẩm do hoạt động của đơn vị sự nghiệp
tạo ra là sản phẩm có tính phục vụ không chỉ bó hẹp trong một ngành

hoặc một lĩnh vực nhất định, mà những sản phẩm đó khi tiêu dùng
thường có tác dụng lan toả.
1.2. Cơ chế quản lý tài chính trong đơn vị sự nghiệp có thu thuộc
lĩnh vực giáo dục, đào tạo
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm
1.2.1.1 Khái niệm
Từ “ cơ chế” được dùng rộng rãi trong lĩnh vực quản lý tư
khoảng cuối những năm 1970, khi chúng ta bắt đầu chú ý đến vấn đề
nghiên cứu đến quản lý và cải tiến quản lý kinh tế, với nghĩa như là

8


những quy định về quản lý. Vậy, cơ chế là hệ thống các cách thức và
công cụ qua đó người ta thực hiện quá trình hoạt động của mình.
Cơ chế quản lý là một hệ thống các cách thức, phương thức và
công cụ quản lý mà người ta áp dụng trong những giai đoạn phát triển
khác nhau của nền sản xuất xã hội nhằm đạt được mục tiêu trong
những giai đoạn đó.
Cơ chế quản lý tài chính trong đơn vị sự nghiệp có thu thuộc lĩnh
vực đào tạo là một hệ thống các cách thức, phương thức và công cụ
quản lý tài chính thông qua việc vận dụng các chính sách, chế độ; sử
dụng hệ thống các công cụ quản lý tài chính và phương pháp thích
hợp, tác động đến các hoạt động tài chính của đơn vị trong những điều
kiện cụ thể nhằm đạt được những mục tiêu trong từng giai đoạn nhất
định và nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị đó về mặt tài
chính.
1.2.1.2 Đặc điểm cơ chế quản lý tài chính trong đơn vị sự nghiệp
có thu thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo
* Đặc điểm về mục tiêu quản lý

Mục tiêu của cơ chế quản lý tài chính trong đơn vị sự nghiệp có
thu thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo hay mục tiêu cơ chế quản lý của tài
chính tư nhân đều nhằm thu được lợi ích cao nhất với chi phí thấp nhất.
Tuy nhiên mục tiêu của cơ chế quản lý tài chính trong đơn vị sự nghiệp
có thu thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo cần hướng tới lại khác so với
mục tiêu cơ chế quản lý tài chính tư nhân, đối với tư nhân điều quan
tâm chủ yếu là lợi ích kinh tế của riêng mình, nhưng đối với đơn vị sự
nghiệp có thu thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo lợi ích mà đơn vị quan
9


tâm chính là những giá trị về tri thức, văn hoá, các giá trị về đạo đức xã
hội…để từ đó hoà nhập chung vào lợi ích tổng thể của nền kinh tế - xã
hội ở tầm vĩ mô.
* Đặc điểm về phạm vi quản lý
Mỗi chủ thể trong xã hội đều có tài chính riêng của mình. Các
doanh nghiệp được coi là những tế bào có khả năng tái tạo và sản sinh
mới ra các nguồn tài chính. Các hộ gia đình và tổ chức xã hội cũng là
những tụ điểm vốn quan trọng. Vậy cơ chế tài chính trong đơn vị sự
nghiệp có thu thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo có phạm vi quản lý của
riêng mình, và làm thế nào các đơn vị sự nghiệp có thu thuộc lĩnh vực
giáo dục, đào tạo kiểm soát được toàn bộ các khoản thu một cách hợp
lý và chi tiêu sao cho có hiệu quả để phục vụ lợi ích của đơn vị cũng
như toàn xã hội.
* Đặc điểm về sử dụng các công cụ quản lý
Cơ chế quản lý tài chính trong đơn vị sự nghiệp có thu thuộc lĩnh
vực giáo dục, đào tạo đều phải dựa vào pháp luật, kế hoạch, hạch toán
v.v…Việc sử dụng các công cụ quản lý đó đóng vai trò như một cán
cân công lý, đảm bảo tính công bằng hợp lý trong việc phân phối sử
dụng các nguồn lực tài chính giữa các loại hình đơn vị sự nghiệp nói

chung, nhằm tạo môi trường bình đẳng, cũng như sự phát triển hài hoà
giữa các ngành, các lĩnh vực khác nhau trong khu vực sự nghiệp
Cơ chế quản lý tài chính trong đơn vị sự nghiệp có thu thuộc lĩnh
vực giáo dục đào tạo góp phần tạo hành lang pháp lý cho quá trình tạo
lập và sử dụng nguồn tài chính trong các đơn vị sự nghiệp có thu
thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo. Nó được xây dựng trên quan điểm
10


thống nhất và hợp lý từ việc xây dựng các định mức, tiêu chuẩn chi
tiêu đến quy định về cấp phát, kiểm tra kiểm soát quá trình chi tiêu
nhằm phát huy vai trò của cơ chế quản lý, đạt được những mục tiêu vĩ
mô của nền kinh tế. Mặt khác, có chế quản lý tài chính trong đơn vị sự
nghiệp có thu thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo quy định khung pháp lý
về mô hình tổ chức hoạt động của đơn vị. Chính vì vậy việc sử dụng
các công cụ quản lý đòi các cán bộ làm công tác quản lý phải thường
xuyên cập nhật các chính sách mới của Nhà nước, cũng như các văn
bản có liên quan, để vận dụng đúng chính sách, và thống nhất trong
quá trình chỉ huy hoạt động của đơn vị.
1.2.2 Nội dung cơ chế quản lý tài chính trong đơn vị sự nghiệp có
thu thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo
Quản lý tài chính là một bộ phận, một khâu của quản lý kinh tế
xã hội và là khâu quản lý mang tính tổng hợp. Quản lý tài chính được
coi là hợp lý, có hiệu quả nếu nó tạo ra được một cơ chế quản lý thích
hợp, có tác động tích cực tới các quá trình kinh tế xã hội theo các
phương hướng phát triển đã được hoạch định. Việc quản lý, sử dụng
nguồn tài chính ở các đơn vị sự nghiệp có liên quan trực tiếp đến hiệu
quả kinh tế xã hội do đó phải có sự quản lý, giám sát, kiểm tra nhằm
hạn chế, ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong khai
thác và sử dụng nguồn lực tài chính đồng thời nâng cao hiệu quả việc

sử dụng các nguồn tài chính.
Nội dung cơ chế quản lý tài chính trong đơn vị sự nghiệp có thu
thuộc lĩnh vực giáo dục đào tạo là hoạt động quản lý thu, chi của quỹ
tài chính. Vì vậy nội dung cơ bản của quá trình quản lý tài chính trong
11


đơn vị sự nghiệp có thu thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo là quá trình
quản lý thu, chi của đơn vị.
* Lập dự toán thu chi ngân sách
Lập dự toán ngân sách là quá trình phân tích, đánh giá giữa khả
năng và nhu cầu các nguồn tài chính để xây dựng các chỉ tiêu thu - chi
ngân sách hàng năm một cách đúng đắn, có căn cứ khoa học và thực
tiễn. Có hai phương pháp lập dự toán thường được sử dụng là phương
pháp lập dự toán trên cơ sở quá khứ và phương pháp lập dự toán cấp
không. Mỗi phương pháp lập dự toán trên có những đặc điểm riêng
cùng những ưu, nhược điểm và điều kiện vận dụng khác nhau.
Phương pháp lập dự toán trên cơ sở quá khứ là phương pháp xác
định các chỉ tiêu trong dự toán dựa vào kết quả hoạt động thực tế của
kỳ liền trước và điều chỉnh theo tỷ lệ tăng trưởng và tỷ lệ lạm phát dự
kiến. Như vậy phương pháp này rất rõ ràng, dễ hiểu và dễ sử dụng,
được xây dựng tương đối ổn định, tạo điều kiện, cơ sở bền vững giúp
cho nhà quản lý trong đơn vị thực hiện việc điều hành mọi hoạt động.
Phương pháp lập dự toán cấp không là phương pháp xác định các chỉ
tiêu trong dự toán dựa vào nhiệm vụ, mục tiêu hoạt động trong năm kế
hoạch, phù hợp với điều kiện cụ thể hiện có của đơn vị chứ không dựa
trên kết quả hoạt động thực tế của năm trước. Như vậy, đây là phương
pháp lập dự toán phức tạp hơn do không dựa trên số liệu, kinh nghiệm
có sẵn. Tuy nhiên, nếu đơn vị sử dụng phương pháp này sẽ đánh giá
được một cách chi tiết hiệu quả chi phí hoạt động của đơn vị, chấm

dứt tình trạng mất cân đối giữa khối lượng công việc và chi phí thực

12


hiện, đồng thời giúp đơn vị lựa chọn được cách thức tối ưu nhất để đạt
được mục tiêu đề ra.
Phương pháp lập dự toán trên cơ sở quá khứ là phương pháp
truyền thống, đơn giản, dễ thực hiện và phù hợp cho những hoạt động
tương đối ổn định của đơn vị. Trong khi đó, phương pháp lập dự toán
cấp không phức tạp hơn, đòi hỏi trình độ cao trong đánh giá, phân
tích, so sánh giữa nhiệm vụ và điều kiện cụ thể của đơn vị nên chỉ
thích hợp với những hoạt động không thường xuyên, hạch toán riêng
được chi phí và lợi ích.
* Tổ chức chấp hành dự toán thu chi
Chấp hành dự toán là quá trình sử dụng tổng hợp các biện pháp
kinh tế tài chính, hành chính nhằm biến các chỉ tiêu thu chi ghi trong
dự toán ngân sách của đơn vị thành hiện thực. Trên cơ sở dự toán
ngân sách được giao, các đơn vị sự nghiệp tổ chức triển khai thực
hiện, đưa ra các biện pháp cần thiết đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ
thu chi được giao đồng thời phải có kế hoạch sử dụng kinh phí ngân
sách theo đúng mục đích, chế độ, tiết kiệm và có hiệu quả. Để theo dõi
quá trình chấp hành dự toán thu chi, các đơn vị sự nghiệp cần tiến
hành theo dõi chi tiết, cụ thể từng nguồn thu, từng khoản chi trong kỳ
của đơn vị.
Thực tế cho thấy trong các đơn vị sự nghiệp, nguồn thu thường
được hình thành từ 2 nguồn đượnc thể hiện qua sơ đồ sau:
* Nguồn NSNN cấp
Nguồn kinh phí cấp phát từ NSNN để thực hiện nhiệm vụ chính
trị, chuyên môn được giao. Đây là nguồn thu mang tính truyền thống

13


và có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo nguồn tài chính cho hoạt
động của các đơn vị sự nghiệp. Tuy nhiên, với chủ trương đổi mới
tăng cường tính tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp, tỷ trọng
nguồn thu này trong các đơn vị sẽ có xu hướng giảm dần nhằm làm
giảm bớt gánh nặng đối với NSNN.
* Nguồn ngoài NSNN
Nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp: gồm các khoản thu phí, lệ phí
thuộc NSNN theo quy định của pháp luật, theo chế độ được phép để lại
đơn vị. Ví dụ: Trong sự nghiệp giáo dục đại học, các khoản thu sự
nghiệp gồm thu học phí, thu phí đào tạo chứng chỉ, thu lệ phí tuyển sinh
vừa làm, vừa học … Cùng với việc chuyển đổi sang cơ chế tự chủ tài
chính, tỷ trọng nguồn thu này trong các đơn vị sự nghiệp có xu hướng
ngày càng tăng. Điều này đòi hỏi các đơn vị phải tổ chức khai thác các
nguồn thu hợp pháp này nhằm tăng cường năng lực tài chính của đơn vị.
Các khoản thu từ nhận viện trợ, biếu tặng, các khoản thu khác
không phải nộp ngân sách theo chế độ. Đây là những khoản thu không
thường xuyên, không dự tính trước được chính xác nhưng có tác dụng
hỗ trợ đơn vị trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Các nguồn khác như nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng,
vốn huy động của cán bộ, viên chức trong đơn vị; nguồn vốn liên
doanh, liên kết của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy
định của pháp luật.
Với các nguồn thu như trên, đơn vị sự nghiệp có thu được tự chủ
thực hiện nhiệm vụ thu đúng, thu đủ theo mức thu và đối tượng thu do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. Trường hợp cơ quan nhà
14



nước có thẩm quyền quy định khung mức thu, đơn vị căn cứ nhu cầu
chi phục vụ cho hoạt động, khả năng đóng góp của xã hội để quyết
định mức thu cụ thể cho phù hợp với từng loại hoạt động, từng đối
tượng, nhưng không được vượt quá khung mức thu do cơ quan có
thẩm quyền quy định. Đối với những hoạt động dịch vụ theo hợp đồng
với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, các hoạt động liên
doanh, liên kết, đơn vị được quyết định các khoản thu, mức thu cụ thể
theo nguyên tắc bảo đảm đủ bù đắp chi phí và có tích luỹ.
* Quản lý quá trình thu
- Thu do Ngân sách Nhà nước cấp
Ngân sách nhà nước cấp chi thường xuyên cho công tác đào tạo:
Đây là nguồn kinh phí đảm bảo hoạt động thường xuyên thực hiện
chức năng nhiệm vụ đối với đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo một phần
chi phí hoạt động (sau khi đã cân đối với nguồn thu sự nghiệp), được
cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp giao, trong phạm vi dự toán được
cấp có thẩm quyền giao.
Ngân sách Nhà nước chi không thường xuyên cho công tác
nghiên cứu khoa học: Đây là nguồn kinh phí thực hiện các nhiệm vụ
không thường xuyên như: Nghiên cứu khoa học và chuyển giao công
nghệ, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, các nhiệm vụ do cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền đặt hàng như: điều tra, khảo sát, quy hoạch vv…, các
chương trình mục tiêu quốc gia, đầu tư xây dựng, mua sắm, sửa chữa
và hợp tác quốc tế.
- Nguồn thu từ sự nghiệp gồm:

15


Phần được để lại từ số thu phí, lệ phí cho đơn vị sử dụng theo

quy định của Nhà nước;
Thu từ hoạt động dịch vụ phù hợp với lĩnh vực chuyên môn và
khả năng của đơn vị, cụ thể như: Thu về tư vấn, thiết kế quy hoạch,
dịch vụ nông lâm, thuỷ sản, giao thông, công nghiệp…vv…các khoản
thu khác theo quy định của pháp luật.
Lãi từ hoạt động liên doanh, liên kết, lãi tiền gửi ngân hàng từ
các hoạt động dịch vụ.
Nguồn viện trợ, quà biếu, tặng, cho theo quy định của pháp luật
- Nguồn khác gồm: Nguồn vay của các tổ chức tín dụng và vốn
huy động của cán bộ, viên chức trong đơn vị và nguồn vốn tham gia
liên doanh, liên kết của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo
quy định của pháp luật.
* Quản lý quá trình chi
Chi thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm
quyền giao. Chi hoạt động thường xuyên phục vụ cho công tác thu
phí, lệ phí và chi cho các hoạt động dịch vụ.
Chi không thường xuyên là quá trình chi thực hiện các nhiệm vụ
không thường xuyên như: Khoa học và công nghệ, đào tạo bồi dưỡng
cán bộ, đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản, hợp tác quốc tế…
* Quyết toán thu - chi
Quyết toán thu chi là công việc cuối cùng của chu trình quản lý
tài chính. Đây là quá trình kiểm tra, tổng hợp số liệu về tình hình chấp
hành dự toán trong kỳ và là cơ sở để phân tích, đánh giá kết quả chấp
hành dự toán từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho các kỳ tiếp
16


theo. Để có thể tiến hành quyết toán thu chi, các đơn vị phải hoàn tất
hệ thống báo cáo tài chính và báo cáo quyết toán ngân sách.
1.2.3 Sự cần thiết hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính trong đơn vị

sự nghiệp có thu thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo
Bước vào thiên niên kỷ mới, sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại
hoá, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế toàn cầu đang tạo ra thời cơ
nhưng cũng không ít thách thức đối với các đơn vị sự nghiệp có thu
thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo. Để vượt qua được những thách thức
ấy, mỗi lĩnh vực khác nhau đều phải khắc phục những yếu kém, những
bất cập của mình. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần nghiên cứu và vận
dụng kinh nghiệm của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới
trong phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo, đổi mới cơ chế quản lý tài
chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo là
một nội dung quan trọng, tạo điều kiện cho lĩnh vực giáo dục, đào tạo
phát huy được vai trò đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng được nhu cầu
phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Thứ nhất, đổi mới cơ chế tổ chức, quản lý nói chung và cơ chế
quản lý tài chính nói riêng trong các đơn vị sự nghiệp có thu thuộc
lĩnh vực giáo dục, đào tạo cùng với quá trình xã hội hoá giáo dục, đào
tạo hiện nay. Huy động mọi nguồn lực đầu tư và tham gia vào hoạt
động cung ứng dịch vụ này. Qua đó, tạo môi trường cạnh tranh để các
trường buộc phải tự cải tiến cơ chế quản lý, tổ chức hoạt động cho
riêng mình, phải nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động
để có thể tồn tại trong cơ chế mới.
Thứ hai là, trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính
17


hơn nữa cho các đơn vị sự nghiệp có thu thuộc lĩnh vực giáo dục, đào
tạo đi đôi với tăng cường giám sát, kiểm tra và đánh giá hoạt động của
các đơn vị dựa vào kết quả, chất lượng công việc đầu ra hơn là kiểm
soát đầu vào và can thiệp vào hoạt động tác nghiệp của các đơn vị.
Thứ ba là, đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với đơn vị sự

nghiệp có thu thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo cần được thực hiện
đồng bộ với tăng cường nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và đẩy mạnh
năng lực về quan hệ hợp tác quốc tế của các đơn vị trong toàn ngành.
Thứ tư là, Nhà nước thực hiện cơ chế phân bổ ngân sách theo
đầu ra (theo lượng người tốt nghiệp, theo công trình nghiên cứu khoa
học v.v).
Thứ năm là, trong hoàn cảnh ngân sách Nhà nước hạn hẹp, xu
hướng trong tương lai là Nhà nước sẽ đầu tư nhiều hơn cho giáo dục
phổ thông, và tăng nguồn thu sự nghiệp đối với giáo dục đại học buộc
những nhà quản lý phải tìm ra những biện pháp quản lý đúng đắn nhất
cho đơn vị mình.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế quản lý tài chính trong
đơn vị sự nghiệp có thu thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo
1.3.1 Nhóm nhân tố chủ quan
1.3.1.1 Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý tài chính
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý tài chính trong bất kỳ một đơn vị
đều rất quan trọng, nó như một thứ dầu mỡ làm bôi trơn mọi hoạt
động của đơn vị, và nó cũng giống như một cái cân làm thước đo sức
khoẻ của từng đon vị. Thông thường trong từng đơn vị thì bộ phận tài
18


vụ - kế toán là nơi lưu trữ, nắm bắt mọi hoạt động về tài chính trong
toàn đơn vị và bộ phận này được tổ chức thành một phòng riêng biệt
trực thuộc trực tiếp vào Ban Giám đốc hoặc Ban Giám hiệu. Tuy
nhiên, hiện nay một số đơn vị bộ phận tài vụ - kế toán vẫn thuộc
phòng Tổng hợp hoặc phòng Tổ chức hành chính. Cơ cấu tổ chức bộ
máy quản lý tài chính sẽ ảnh hưởng rất lớn và trực tiếp tới cơ chế quản
lý tài chính như: Nếu bộ phận tài vụ - kế toán trong đơn vị trực thuộc
trực tiếp và Ban Giám đốc hoặc Ban Giám hiệu và được tổ chức riêng

biệt thì mọi hoạt động tài chính của đơn vị sẽ hoạt động hiệu quả hơn,
bộ phận kế toán sẽ nhận được sự chỉ đạo trực tiếp từ chủ tài khoản và
trực thuộc trực tiếp như vậy thì bộ phận tài vụ - kế toán sẽ có điều
kiện để tham mưu, tư vấn cho chủ tài khoản trong việc quản lý chi tiêu
và điều hành mọi hoạt động của đơn vị phát huy được tính chủ động
trong quản lý. Ngoài ra còn giảm được rất nhiều thủ tục rườm rà trong
quản lý, tránh được tình trạng phân cấp, phân quyền nguồn tài chính
không tập chung, tính sáng tạo trong công việc giảm dẫn đến việc cơ
chế quản lý trong tài chính trong đơn vị bị ảnh hưởng.
1.3.1.2 Trình độ, năng lực cán bộ quản lý
Con người là nhân tố trung tâm của bộ máy quản lý, là khâu
trọng yếu trong việc xử lý các thông tin để đề ra quyết định quản lý.
Trình độ cán bộ quản lý là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến tính kịp
thời, chính xác của các quyết định quản lý, do đó, nó có ảnh hưởng
đến chất lượng hoạt động của bộ máy quản lý, quyết định sự thành bại
của công tác quản lý nói chung và công tác quản lý tài chính nói riêng.

19


Đối với cơ quan quản lý cấp trên, đội ngũ cán bộ quản lý có kinh
nghiệm và trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có phẩm chất tốt, sẽ có
những chiến lược quản lý tài chính tốt, hệ thống biện pháp quản lý tài
chính hữu hiệu, xử lý thông tin nhanh nhạy, kịp thời, linh hoạt, hiệu
quả…
Đối với các đơn vị cơ sở, đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác
tài chính kế toán cũng đòi hỏi phải có năng lực và trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm công tác để đưa công tác quản lý tài
chính kế toán của đơn vị cơ sở ngày càng đi vào nề nếp, tuân thủ các
chế độ quy định về tài chính, kế toán của Nhà nước, góp phần vào

hiệu quả hoạt động của đơn vị.
Ngược lại, đội ngũ cán bộ quản lý thiếu kinh nghiệm quản lý,
hạn chế về chuyên môn sẽ dẫn đến công tác quản lý tài chính lỏng lẻo,
dễ thất thoát, lãng phí, làm cản trở đến các hoạt động khác của đơn vị.
Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý tài chính trong
đơn vị sự nghiệp có thu thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo về cơ bản đã
đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, song vẫn còn nhiều bất cập:
- Nhìn chung đội ngũ cán bộ quản lý tài chính trong đơn vị sự
nghiệp có thu thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo đáp ứng được yêu cầu
quản lý; tuy nhiên, khả năng sử dụng ngoại ngữ và ứng dụng công
nghệ thông tin trong công tác quản lý còn rất hạn chế. Đa số chưa
được đào tạo bài bản và có hệ thống về công tác quản lý, trình độ và
năng lực điều hành quản lý còn bất cập, tính chuyên nghiệp thấp, chưa
chủ động trong công việc, không có tính sáng tạo trong công việc, làm

20


việc chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cá nhân nên chất lượng, hiệu quả
công tác còn nhiều hạn chế.
- Về cơ bản đội ngũ cán bộ quản lý tài chính trong đơn vị sự
nghiệp có thu thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo có ý thức chính trị,
phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn sư phạm cao (do hầu
hết là những nhà giáo được bổ nhiệm, điều động sang làm công tác
quản lý hoặc kiêm nhiệm trong công tác), có kinh nghiệm trong công
tác quản lý giáo dục. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận cán bộ quản lý
có biểu hiện chạy theo những tiêu cực của kinh tế thị trường, chưa tích
cực, chủ động học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ cho bản thân mình.
Công tác sử dụng và quản lý đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục

cũng còn nhiều khó khăn, bất cập như: chưa giải quyết thoả đáng chế
độ chính sách đối với những nhà giáo được điều động sang làm công
tác quản lý; thu nhập của cán bộ quản lý giáo dục ở các trường công
lập và ngoài công lập có khác biệt lớn; đời sống của phần đông cán bộ
quản lý giáo dục gặp khó khăn, điều kiện làm việc còn hạn chế nên
nhiều người chưa thực sự yên tâm công tác.
1.3.1.3 Chế độ kiểm tra, kiểm soát
Chế độ kiểm tra, kiểm soát là một hoạt động không thể
thiếu trong quá trình quản lý nói chung và quản lý tài chính nói riêng.
Vì, thông qua kiểm tra - kiểm soát, đơn vị quản lý tài chính thu được
những thông tin phản hồi về đối tượng quản lý, giúp cơ quan quản lý
nắm bắt kịp thời và chính xác tình hình quản lý tài chính của đối
tượng quản lý, giúp cho đối tượng quản lý sửa chữa những thiếu sót,
21


tăng cường việc thực hiện có hiệu quả các quyết định quản lý tài
chính, kịp thời ngăn ngừa những việc làm sai trái, chưa đúng, chưa
chuẩn hoặc vi phạm pháp luật, chính sách, chế độ tài chính, kế toán
của đơn vị, tổ chức và công dân. Từ đó, góp phần tăng cường pháp
chế tài chính và giúp cơ quan quản lý xem xét tính đúng đắn của các
quyết định quản lý, thấy được những thiếu sót, khuyết điểm trong tổ
chức điều hành, những sơ hở trong quản lý để nghiên cứu sửa đổi cho
phù hợp với mục tiêu tăng cường hiệu lực quản lý nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng nguồn vốn do Ngân sách Nhà nước đầu tư cho các hoạt
động sự nghiệp giáo dục - đào tạo nói riêng và nền tài chính quốc gia
nói chung.
Hệ thống kiểm soát nội bộ là các quy định và các thủ tục kiểm soát
do một đơn vị xây dựng và áp dụng nhằm đảm bảo cho đơn vị tuân thủ
pháp luật và các quy định, để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và phát

hiện gian lận, sai sót, nhằm bảo vệ, quản lý và sử dụng có hiệu quả
nguồn lực, nguồn tài chính trong toàn đơn vị.
Hệ thống kiểm soát nội bộ của một đơn vị bao gồm môi trường
kiểm soát, hệ thống kế toán và các thủ tục kiểm soát.
Trong đó, môi trường kiểm soát là những nhận thức, quan điểm,
sự quan tâm và hoạt động của lãnh đạo đơn vị đối với hệ thống kiểm
soát nội bộ trong đơn vị. Hệ thống kế toán là các quy định về kế toán
và các thủ tục kế toán mà đơn vị áp dụng để thực hiện ghi chép kế
toán và lập báo cáo tài chính. Thủ tục kiểm soát là các quy chế và thủ
tục do Ban lãnh đạo đơn vị thiết lập và chỉ đạo thực hiện trong đơn vị.

22


Trong một đơn vị sự nghiệp có hệ thống kiểm soát nội bộ chặt
chẽ, hữu hiệu sẽ giúp cho công tác quản lý tài chính được thuận lợi rất
nhiều. Nó đảm bảo cho công tác tài chính được đặt đúng vị trí, được
quan tâm đúng mức, hệ thống kế toán được vận hành có hiệu quả,
đúng chế độ quy định, các thủ tục kiểm tra, kiểm soát được thiết lập
đầy đủ, đồng bộ, chặt chẽ, giúp đơn vị phát hiện kịp thời mọi sai sót,
ngăn chặn hữu hiệu hành vi gian lận trong công tác tài chính.
Hệ thống kiểm soát nội bộ không thể đảm bảo phát huy được
toàn diện tác dụng của nó vì một hệ thống kiểm soát nội bộ dù hữu
hiệu tới đâu vẫn có những hạn chế tiềm tàng.
1.3.2. Nhóm nhân tố khách quan
1.3.2.1 Đặc điểm, đặc thù của ngành
Đặc điểm hoạt động của ngành là một trong những nhân tố có
ảnh hưởng lớn đến cơ chế quản lý tài chính của đơn vị sự nghiệp. Vì,
giáo dục đào tạo là một ngành rất đặc thù nên các khoản thu, các
khoản chi cũng có tính chất riêng biệt. Do đặc điểm hoạt động của các

đơn vị sự nghiệp khác nhau, dẫn đến cơ chế quản lý tài chính của các
đơn vị khác nhau. Ngoài ra, do đặc điểm hoạt động của từng ngành
khác nhau dẫn đến cách thức và nội dung thu, chi của các đơn vị cũng
không đồng nhất giống nhau. Điều này đòi hỏi trên cơ sở nguyên tắc
quản lý chung của từng ngành, từng đơn vị phải đưa ra những cách
thức quản lý và các biện pháp cụ thể sao cho phù hợp với đơn vị mình,
đảm bảo cho các đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao, sử
dụng các nguồn kinh phí chủ động, có hiệu quả và thống nhất trong
công tác quản lý
23


1.3.2.2 Hệ thống cơ chế, chính sách quản lý tài chính của Nhà
nước
* Cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước
Hệ thống cơ chế, chính sách quản lý tài chính của Nhà nước là
nhân tố tạo nên sự thống nhất trong quản lý, hình thành nên một
nguyên tắc không thể bỏ qua trong quản lý tài chính công. Hệ thống
cơ chế, chính sách quản lý tài chính của Nhà nước tạo nên một hành
lang pháp lý hay một lộ trình thống nhất, giúp cho cơ chế quản lý tài
chính của các cơ quan Nhà nước nói chung và Đơn vị hành chính sự
nghiệp có thu thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo nói riêng thực hiện
được các mục tiêu, kế hoạch đề ra. Một cơ chế, chính sách tài chính
đúng đắn, phù hợp sẽ tạo điều kiện cho công tác quản lý đạt được hiệu
quả cao, đáp ứng được các yêu cầu nhiệm vụ.
Cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước phải tạo ra được môi
trường pháp lý cho việc tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài chính
nhằm đáp ứng các yêu cầu hoạt động của đơn vị. Nó được xây dựng
dựa trên quan điểm định hướng về chính sách quản lý đơn vị sự
nghiệp trong từng giai đoạn cụ thể của Nhà nước nhằm cụ thể hoá các

chính sách đó. Cơ chế này sẽ vạch ra các khung pháp lý về mô hình
quản lý tài chính của đơn vị sự nghiệp, từ việc xây dựng các tiêu
chuẩn, định mức, các quy định về lập dự toán, điều chỉnh dự toán, cấp
phát kinh phí, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động trọng đơn vị, nhằm
phát huy tối đa hiệu quả quản lý vĩ mô gắn với tinh thần tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của đơn vị. Do đó, nếu cơ chế tài chính phù hợp sẽ
tạo điều kiện tăng cường và tập trung nguồn lực tài chính, đảm bảo sự
24


linh hoạt, năng động và hữu hiệu của các nguồn lực tài chính, giúp
cho đơn vị sự nghiệp thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn được giao.
Cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước đối với đơn vị sự nghiệp
có thu có tác động đến chương trình chi tiêu ngân sách quốc gia, ảnh
hưởng lớn đến việc thực hiện các chương trình, mục tiêu quốc gia về
hoạt động sự nghiệp. Vì vậy, cơ chế tài chính đó nếu được thiết lập
phù hợp, hiệu quả sẽ đảm bảo cung ứng đủ nguồn kinh phí cho hoạt
động chuyên môn, tránh được thất thoát, lãng phí các nguồn lực tài
chính, đảm bảo phát huy tối đa hiệu quả, tiền đề vật chất cho việc thực
hiện tốt các chương trình quốc gia về hoạt động sự nghiệp.
Thêm vào đó, cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước còn có vai
trò như một cán cân công lý, đảm bảo sự công bằng, hợp lý trong việc
tạo lập và phân phối sử dụng các nguồn lực tài chính giữa các lĩnh vực
hoạt động sự nghiệp khác nhau cũng như giữa các đơn vị sự nghiệp
trong cùng một lĩnh vực. Nhờ đó, các đơn vị sự nghiệp dù hoạt động ở
đâu, lĩnh vực nào cũng được quan tâm, tạo môi trường bình đẳng, tạo
điều kiện phát triển tương xứng với yêu cầu của xã hội đối với lĩnh
vực đó và tiềm lực kinh tế của quốc gia.
Bên cạnh đó, cơ chế quản lý tài chính cũng có những tác động
tiêu cực đối với hoạt động của các đơn vị sự nghiệp:

Cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước vạch ra hành lang pháp lý
cho đơn vị sự nghiệp nhưng nếu các cơ chế này không phù hợp sẽ trở
thành hàng rào trói buộc, cản trở đến quá trình tạo lập và sử dụng các
nguồn lực tài chính của các đơn vị sự nghiệp, ảnh hưởng xấu đến kết
quả hoạt động chuyên môn của đơn vị. Nếu cơ chế quản lý tài chính
25


×