Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

An Toàn Bảo Mật nguy cơ mất an toàn trong giao dịch TMĐT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.37 KB, 33 trang )

ĐỀ TÀI: TRÌNH BÀY VÀ PHÂN TÍCH CÁC NGUY CƠ MẤT AN TOÀN TRONG GIAO
DỊCH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
MỤC LỤC:
Lời mở đầu.
Phần I : Lý thuyết.
1.1
1.2
1.3
1.4
1.5

. Khái niệm cơ bản về thương mại điện tử.
.Lợi ích của thương mại điện tử .
Các đặc trưng cơ bản của thương mại điện tử.
Các khía cạnh cơ bản trong giao dịch thương mại điện tử.
Một số điểm nổi bật trong Nghị định về TMĐT.

Phần II: PHÂN TÍCH CÁC NGUY CƠ MẤT AN TOÀN TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG
MẠI ĐIỆN TỬ.
2.1. Nguy cơ mất an toàn dữ liệu trong giao dịch Thương Mại Điện Tử
- Mất an toàn dữ liệu đối với người bán.
- Mất an toàn dữ liệu đối với người mua.
- Mất an toàn dữ liệu đối với chính phủ.
2.2. Nguy cơ mất an toàn liên quan đến công nghệ.
-Virus, WORRM, con ngựa thành tơ roa, Bad Applet.
- Tin tặc và các chương trình phá hoại.
-Gian lận thẻ tín dụng.
- Tấn công từ chối dịch vụ.
-Kẻ trộm trên mạng.
- Kẻ giả mạo.
2.3.Nguy cơ về thủ tục, quy trình giao dịch .


2.4. Tác động của những nguy cơ mất an toàn trong giao dịch thương mại
điện tử.
2.4.1.Đối với người tiêu dùng.
2.4.2. Đối với thương mại.
2.4.3. Đối với thương mại và nền kinh tế.


2.5. Ứng dụng an toàn dữ liệu và bảo mật thông tin trong giao dịch TMĐT.
2.6. Giải pháp ở góc độ của những chủ thể tham gia giao dich TMĐT.
2.6.1. Giải pháp ở góc độ quản lý nhà nước.
2.6.2. Giải pháp cho doanh nghiệp.
2.6.2. Giải pháp cho khách hàng.
KẾT LUẬN.

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, vấn đề an ninh cho thương mại điện tử đã không còn là vấn đề
mới mẻ .Các bằng chứng thu thập được từ hàng loạt các cuộc điều tra cho thấy
những vụ tấn công qua mạng hoặc tội phạm mạng trong thế giới thương mại điện
tử đang gia tăng nhanh từng ngày . Các chuyên gia đánh giá nguy cơ tiềm tàng
nguy hiểm nhất đối với mạng máy tính mở là đạo tặc tin học, xuất hiện từ phía
bọn tội phạm và giới tình báo. Nguy hiểm bởi: nó xuất phát từ phía những kẻ có


chuyên môn cao và sử dụng kỹ thuật tinh vi (như đoán mật khẩu, khai thác các
điểm yếu của hệ thống và các chương trình hệ thống, giả mạo địa chỉ IP, khai thác
nguồn trên gói IP, đón lõng các trạm đầu cuối hoặc truy cập đang hoạt động, cài
rệp điện tử, bơm virus máy tính phá hoại CSDL, sửa nội dung thông tin theo ý đồ
đen tối của chúng, thậm chí nếu cần còn có thể làm tắc nghẽn kênh truyền, v.v);
hoạt động của chúng là có chủ đích và trên phạm vi rộng (như không những đối
với từng cơ quan, doanh nghiệp mà còn đối với cả Chính phủ). Những tác hại mà

chúng gây ra ảnh hưởng tới không chỉ riêng trong lĩnh vực kinh tế mà cả đối với
lĩnh vực chính trị, an ninh-quốc phòng. Bởi vậy, Chúng ta cần phải sử dụng nhiều
biện pháp đồng thời để nâng cao khả năng phòng chống các vụ tấn công qua
mạng như bảo vệ an ninh, tường lửa, quản lý việc truy cập hệ thống .Đồng thời
TMĐT ngày càng được sử dụng rộng rãi ,vấn đề bảo mật/an toàn trong giao dịch
TMĐT phải là cả một kế hoạch tổng thể của Chính phủ, không đơn thuần chỉ có
một phần nhỏ trong cộng đồng.

I.
I.1.

LÝ THUYẾT
Khái niệm cơ bản về TMĐT
Thương mại điện tử là hình thức mua bán hàng hóa và dịch vụ thông qua

mạng máy tính toàn cầu.
Giao dịch trong TMĐT là một hệ thống bao gồm không chỉ các giao dịch liên
quan đến mua bán hàng hóa và dịch vụ, tạo thu nhập, mà còn là các giao dịch có
khả năng trợ giúp quá trình tạo ra thu nhập: kích thích nhu cầu đối với hàng hóa
và dịch vụ, cung cấp dịch vụ trợ giúp quá trình bán hàng, trợ giúp người tiêu dùng,
hoặc trợ giúp thay đổi thông tin giữa các doanh nghiệp.


Giao dịch thương mại điện tử qua mạng Internet chủ yếu sử dụng giao
thức TCP/IP. TCP/IP cho phép các thông tin được gửi từ 1 máy tính này đến 1 máy
tính khác mà đi qua 1 loạt các máy tính trung gian và mạng riêng biệt trước khi nó
có thể đi tới được đích. Chính vì điểm này giao thức TCP/IP đã tạo cơ hội cho “bên
thứ ba” có thể thực hiện các hành động có thể gây mất an toàn thông tin trong
giao dịch.
I.2.


Lợi ích từ TMĐT
- Giúp khách hàng dễ dàng hơn trong việc chọn lựa khi mua hàng
-Mở ra các loại hình trung gian mới về môi giới.
VD: Sẽ xuất hiện trung gian môi giới về: Tìm các thị trường đặc biệt, thông

báo cho khách hàng các cơ hội kinh doanh tốt, thay đổi điều kiện thị trường, các
mặt hàng thực sự khó tìm, thậm trí tổ chức các điều tra nghiên cứu định kì về mặt
hàng cụ thể cho các doanh nghiệp.
-Cơ hội giảm chi phí: Giao dịch thương mại trên cơ sở dùng Internet cho
EDI và các giao dịch ngân hàng ít tốn kém hơn dùng các mạng nội bộ chuyên
dùng.Nó không chỉ tiết kiệm chi phí tiềm ẩn cho các doanh nghiệp lớn, mà còn tạo
ra cơ hội doanh nghiệp nhỏ có thể dùng các tiến trình điện tử và qua đó cắt giám
bớt các khoản chi phí lớn không đáng có như trong quá khứ.
Mặt khác, thời gian giao dịch trên Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch
qua Fax, 0.05% thời gian giao dịch qua bưu điện. Chi Phí giao dịch qua Internet chỉ
bằng khoảng 5% chi phí giao dịch qua Fax hay qua bưu điện hay chuyển phát
nhanh, bằng 10%-20% chi phí thanh toán thông thường.


TMĐT giúp giảm chi phí bán hàng và tiếp thị.
Chi phí văn phòng cấu thành trong chi phí sản phẩm, việc giảm chi phí văn
phòng theo nghĩa giảm thiểu các khâu internet ấn giấy tờ, giảm thiểu số nhân viên
văn phòng...cũng có ý nghĩa là giảm chi phí sản phẩm.
-Nắm được thông tin phong phú
-Tạo điều kiện sớm tiếp cận kinh tế số: Đối với một quốc gia, TMĐT được
xem là động lực kích thích phát triển công nghiệp công nghệ thông tin, một ngành
mũi nhọn và được xem là đóng góp chủ yếu vào hình thành nền tảng cơ bản của
nền kinh tế thế giới mới. Đây là cơ hội cho việc hội nhập kinh tế toàn cầu
I.3.


Các đặc trưng cơ bản trong giao dịch TMĐT
So với các hoạt động Thương mại truyền thống, thương mại điện tử có một

số điểm khác biệt cơ bản sau:
-

Các bên tiến hành giao dịch trong thương mại điện tử không tiếp xúc trực

-

tiếp với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước.
Các giao dịch thương mại truyền thống được thực hiện với sự tồn tại của
khái niệm biên giới quốc gia, còn thương mại điện tử được thực hiện trong
một thị trường không có biên giới (thị trường thống nhất toàn cầu). Thương

-

mại điện tử trực tiếp tác động tới môi trường cạnh tranh toàn cầu…
Trong hoạt động giao dịch thương mại điện tử đều có sự tham ra của ít
nhất ba chủ thể, trong đó có một bên không thể thiếu được là người cung

-

cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực.
Đối với thương mại truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ là phương tiện
để trao đổi dữ liệu, còn đối với thương mại điện tử thì mạng lưới thông tin
chính là thị trường:



Các trang Web khá nổi tiếng như Yahoo! America Online hay Google đóng
vai trò quan trọng cung cấp thông tin trên mạng .Các trang Web này đã trở thành
các “khu chợ” khổng lồ trên Internet .Với mỗi lần nhấn chuột, khách hàng có khả
năng truy cập vào hàng ngàn cửa hàng ảo khác nhau và tỷ lệ khách hàng vào hàng
ngàn các cửa hàng ảo khác nhau và tỷ lệ khách hàng vào thăm rồi mua hàng là rất
cao .Người tiêu dùng đã bắt đầu mua trên mạng một số các loại hàng trước đây
được coi là khó bán trên mạng. Nhiều người sẵn sàng trả thêm một chút tiền còn
hơn là phải đi tới tận cửa hàng. Một số công ty đã mời khách may đo quần áo trên
mạng, tức là khách hàng chọn kiểu, gửi số đo theo hướng dẫn tới cửa hàng (qua
Internet) rồi sau một thời gian nhất định nhận được bộ quần áo theo đúng yêu
cầu của mìn .Điều tưởng như không thể thực hiện được này cũng có rất nhiều
người hưởng ứng.
Các chủ cửa hàng thông thường ngày nay cũng đang đua nhau đưa thông
tin lên Web để tiến tới khai thác mảng thị trường rộng lớn trên Web bằng cách
mở cửa hàng ảo.
Chính từ những đặc điểm này của giao dịch TMĐT đã dẫn đến những nguy
cơ mất an toàn sau:
-

Nguy cơ về dữ liệu.
Nguy cơ liên quan đến công nghệ.
Nguy cơ thủ tục quy trình giao dịch cuả doanh nghiệp.
Một số nguy cơ khác.
I.4.
Các khía cạnh trong an toàn thương mại điện tử:
Tính toàn vẹn (thông tin không bị thay đổi trong quá trình truyền và nhận
tin).
- Chống phủ định (các bên tham gia không phủ định hành động trực tuyến
mà họ đã thực hiện). Chống phủ định liên quan đến khả năng đảm bảo rằng
các bên tham gia thương mại điện tử không phủ định các hành động trực



tuyến mà họ đã thực hiện. Chẳng hạn như một người có thể dễ dàng tạo
lập một hộp thư điện tử qua một dịch vụ miễn phí, từ đó gửi đi những lời
phê bính, chỉ trích hoặc các thông điệp và sau đó lại từ chối những việc làm
này. Thậm chí, một khách hàng với tên và địa chỉ thư điện tử có thể dễ
dàng đặt hàng trực tuyến và sau đó từ chối hành động mà mình đã thực
hiện. Trong hầu hết các trường hợp như vậy, thông thường người phát
hành thẻ tín dụng sẽ đứng về phía khách hàng vì người bán hàng không có
trong tay bản sao chữ ký của khách hàng cũng như không có bất cứ bằng
chứng hợp pháp nào chứng tỏ khách hàng đã đặt hàng mình. Và tất nhiên,
rủi ro sẽ thuộc về người bán hàng.
- Tính xác thực (có thể khiếu nại được..) Tính xác thực liên quan đến khả
năng nhận biết các đối tác tham gia giao dịch trực tuyến trên Internet, như
làm thế nào để khách hàng chắc chắn rằng, các doanh nghiệp bán hàng trực
tuyến là những người có thể khiếu nại được; hay những gì khách hàng nói
là sự thật ; làm thế nào để biết được một người khi khiếu nại có nói đúng
sự thật, có mô tả đúng sự việc hay không?..
- Tính tin cậy Tính tin cậy liên quan đến khả năng đảm bảo rằng, ngoài
những người có quyền, không ai có thể xem các thông điệp và truy cập
những dữ liệu có giá trị. Trong một số trường hợp, người ta có thể dễ nhầm
lẫn giữa tính tin cậy và tính riêng tư. Thực chất, đây là hai vấn đề hoàn toàn
khác nhau.
- Tính riêng tư (thông tin không bị cung cấp cho bên thứ ba sử dụng trái
phép). Tính riêng tư liên quan đến khả năng kiểm soát việc sử dụng các
thông tin cá nhân mà khách hàng cung cấp về chính bản thân họ. Có hai vấn
đề mà người bán hàng phải chú ý đối với tính riêng tư. Người bán hàng cần
thiết lập các chính sách nôi bộ để có thể quản lý việc sử dụng các thông tin
về khách hàng. Họ cần bảo vệ các thông tin đó tránh sử dụng vào những
mục đích không chính đáng hoặc tránh sử dụng trái phép các thông tin này.

Ví dụ, khi tin tặc tấn công vào các website thương mại điện tử, truy nhập
các thông tin về thẻ tín dụng và các thông tin khác của khách hàng, trong
trường hợp đó, không chỉ xâm phạm đến tính tin cậy của dữ liệu mà còn vi
phạm riêng tư của các cá nhân, những người đã cung cấp các thông tin đó.


- Tính lợi ích Tính ích lợi liên quan đến khả năng đảm bảo các chức năng của
một website thương mại điện tử được thực hiện đúng như mong đợi. Đây
cũng là vấn đề mà các website hay gặp phải và là trở ngại không nhỏ đối với
việc thực hiện các giao dịch trực tuyến trên Internet.
 Tóm lại, vấn đề an toàn trong thương mại điện tử đựơc xây dựng trên cơ
sở bảo vệ sáu khía cạnh trên, khi nào một trong số các khía cạnh này chưa
được đảm bảo, sự an toàn trong tThương mại điện tử vẫn coi như chưa
được thực hiện triệt để. Như vậy, an toàn trong thương mại điện tử, trong
một môi trường kinh doanh chứa đựng nhiều rủi ro, luôn là một vấn đề
quan trọng và xuyên suốt trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp
thương mại điện tử nhất là khi thương mại điện tử đang phát triển mạnh
mẽ
1.5. Một số điểm nổi bật trong Nghị định về TMĐT
- Thứ nhất: về trách nhiệm đăng ký, theo Thông tư 47, người bán trên mạng
xã hội không phải đăng ký với Bộ Công Thương.
- Thứ hai: về nghĩa vụ nộp thuế, cần phân biệt hai nhóm cá nhân:
• Nhóm thứ nhất là các cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập,
thường xuyên và có đăng ký kinh doanh .Theo Luật Thương mại, họ là thương
nhân và phải tuân thủ Luật này cũng như pháp luật về thuế.
• Nhóm thứ hai là các cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập,
thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh, họ cũng phải tuân thủ pháp luật về
thuế. Theo khoản 3 Điều 2 của Luật Thương mại, Chính phủ quy định cụ thể việc
áp dụng Luật thương mại đối với các cá nhân này. Theo quy định tại khoản 3 Điều
6 Thông tư số 47: “Người bán trên các mạng xã hội quy định tại Khoản 1 Điều 6

phải tuân thủ những quy định tại Điều 37 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP”. Theo đó,
người bán trên các mạng xã hội phải thực hiện trách nhiệm của người bán trên
sàn giao dịch thương mại điện tử, bao gồm cả quy định về việc thực hiện đầy đủ


nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật .Các cơ quan quản lý nhà nước về
thương mại và thuế cần thông báo kịp thời và đầy đủ các thủ tục liên quan. Nhằm
tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi cho các cá nhân thuộc nhóm thứ hai này, các
hoạt động khai báo, nộp thuế và kiểm tra giám sát nên được thực hiện trực tuyến.
- Thứ ba: về trách nhiệm của các chủ sàn TMĐT đối với việc chất lượng của
sản phẩm được bán trên sàn, Khoản 4 Điều 4 Thông tư 47 có quy định về trách
nhiệm của thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử trong việc
loại bỏ khỏi website những thông tin bán hàng giả, hàng nhái, hàng nhập lậu,
hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và các hàng hóa, dịch vụ vi phạm pháp luật
khác khi phát hiện hoặc nhận được phản ánh có căn cứ xác thực về những thông
tin này.
Như vậy, trách nhiệm trước hết thuộc về người bán, nhưng chủ sàn cũng
phải chủ động phát hiện và chịu một phần trách nhiệm khi trên sàn bán các loại
hàng hóa vi phạm pháp luật.
Quy định này sẽ tạo ra môi trường kinh doanh trực tuyến lành mạnh hơn và
bảo vệ tốt hơn quyền lợi của khách hàng.
Rõ ràng là đã tới thời điểm chủ sở hữu sàn giao dịch thương mại điện tử
hay cá nhân kinh doanh trên mạng xã hội phải tìm hiểu các quy định của pháp luật
nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của mình cũng như của khách hàng trong môi
trường trực tuyến.
II. PHÂN TÍCH CÁC NGUY CƠ MẤT AN TOÀN TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI
ĐIỆN TỬ
Với sự phát triển cuả CNTT thì giúp chúng ta nắm bắt được các thông tin nhanh
chóng, trao đổi dữ liệu dễ dàng, môi trường mạng đưa tất cả mọi thứ lên bàn làm



việc cuả doanh nghiệp cũng như mỗi cá nhân. Bên cạnh đó, tiềm ẩn nhiều nguy cơ
mất an toàn, các vấn đề an toàn dữ liệu ngày càng nhiều và phức tạp.
2.1. Nguy cơ mất an toàn dữ liệu trong giao dịch Thương Mại Điện Tử
Số vụ tấn công vào Internet ngày càng tăng, kể cả vào những mạng được
bảo vệ nghiêm ngặt (cuối năm 1996, trang web của Bộ Tư pháp Mỹ và của CIA bị
truy cập và thay đổi ).
Mất an toàn dữ liệu đối với người bán:
Thay đổi địa chỉ nhận đối với chuyển khoản ngân hàng và do vậy chuyển
khoản này sẽ được chuyển tới một tài khoản khác của người xâm nhập bất chính.
Nhận được những đơn đặt hàng giả mạo. Trong trường hợp một khách
hàng quốc tế đặt hàng và sau đó từ chối hành động này, người bán hàng trực
tuyến thường không có cách nào để xác định rằng thực chất hàng hóa đã được
giao đến tay khách hàng hay chưa và chủ thẻ tín dụng có thức sự là người đã thực
hiện đơn đặt hàng hay không.
Mất an toàn dữ liệu đối với người mua:
Thông tin bí mật về tài khoản bị đánh cắp khi tham gia giao dịch thương
mại điện tử. Thông tin cá nhân của họ có thể bị chặn và đánh cắp khi họ gửi đi
một đơn đặt hàng hay chấp nhận chào hàng
Hiện tượng các trang web giả mạo, giả mạo địa chỉ Internet (IP Spoofing),
phong tỏa dịch vụ (DOS – denial of service), và thư điện tử giả mạo của các tổ
chức tài chính ngân hàng


Tin tặc tấn công và các website thương mại điện tử, truy cập các thông tin
về thẻ tín dụng đã không chỉ xâm phạm đến tính tin cậy của dữ liệu mà còn vi
phạm quyền riêng tư đối với các thông tin cá nhân của khách hàng.
Theo tạp chí bưu chính viễn thông tháng 4 năm 2000, ở Mỹ hiện có đến
60% số người chưa nối mạng Internet tỏ ý muốn nối mạng nếu như các bí mật
riêng của họ được bảo vệ . Trên 50% số người nối mạng, song chưa mua hàng

trên Internet là do họ lo ngại về sự xâm phạm đến các dữ liệu về họ.
Mất an toàn dữ liệu đối với chính phủ
Các hacker có nhiều kỹ thuật tấn công các trang web này nhằm làm lệch lạc
thông tin, đánh mất dữ liệu thậm chí là đánh “sập” khiến các trang web này
ngừng hoạt động.
Đặc biệt một số tổ chức tội phạm đã sử dụng các tin tặc để phát động các
cuộc tấn công mang tính chất chính trị hoặc tương tự như vậy .Điển hình là vụ tấn
công của tin tặc Hàn Quốc vào các website của Bộ giáo dục Nhật Bản (tháng 4 –
2001) nhằm phản đối những cuốn sách giáo khoa phản ánh sai lịch sử do Nhật
Bản xuất bản.
=> Nguy cơ này là nguy cơ đặc biệt nghiêm trọng vì nó liên quan trực tiếp
đến chính trị quốc gia và an ninh của quốc gia.Nếu thông tin bảo mật của 1 quốc
gia liên tục bị tấn công, lấy cắp thông tin thì sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến các
hoạt động của quốc gia đó, ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế và rối loạn an ninh
quốc gia .Vậy nên vấn đề an toàn dữ liệu quốc gia phải được đặt lên hàng đầu.
2.2. Nguy cơ mất an toàn liên quan đến công nghệ.


Trong thương mại điện tử, ngoài những rủi ro về phần cứng do bị mất cắp
hay bị phá hủy các thiết bị (máy tính, máy chủ, thiết bị mạng…), các chủ thể tham
gia giao dịch thương mại điện tử có thể phải chịu những nguy cơ mất an toàn về
mặt công nghệ phổ biến như sau:
– Virus
Là một chương trình máy tính, nó có khả năng nhân bản hoặc tự tạo các
bản sao của chính mình và lây lan sang cac chương trình, các tệp dữ liệu
khác nhau trên máy tính nhằm thực hiện một mưu đồ nào đó.
Virus tấn công vào thương mại điện tử thường gồm 3 loại chính: virus ảnh
hưởng tới các tệp (file) chương trình (gắn liền với những file chương trình,
thường là .COM hoặc .EXE), virus ảnh hưởng tới hệ thống (đĩa cứng hoặc
đĩa khởi động), và virus macro.

+> Virus macro là loại virus phổ biến nhất, chiếm từ 75% đến 80% trong
tổng số các virus được phát hiện. Đây là loại virus đặc biệt chỉ nhiễm vào
các tệp ứng dụng soạn thảo, chẳng hạn như các tệp ứng dụng của MS
Word, Excel và Power Point .Khi người sử dụng mở các tài liệu bị nhiễm
virus trong các chương trình ứng dụng, virus này sẽ tự tạo ra các bản sao và
nhiễm vào các tệp chứa đựng các khuôn mẫu của ứng dụng, để từ đó lây
sang các tài liệu khác.
+> Virus tệp là những virus lây nhiễm vào các tệp tin có thực thể thực thi
như: *.exe, *.com, *.dll… Nó hoạt động khi cúng thực thi các tệp tin bị lây
nhiễm bằng cách tự tạo các bản sao của chính mình ở trong các tệp tin khác
đang được thực hiện tại thời điểm đó trên hệ thống.
+> Virus Scriot là một tập các chỉ lệnh trong các ngôn gnuwx lập trình như
VBScript hay JavaScpript .Nó sẽ hoạt động khi ta chạy những tệp chương
trình dạng *.vbs, hay *.js .Ví dụ như : virus I LOVE YOU
Các loại virus có thể gây ra những tác hại nghiêm trọng, đe doạ tính toàn
vẹn và khả năng hoạt động liên tục, thay đổi các chức năng, thay đổi các nội
dung dữ liệu hoặc đôi khi làm ngưng trệ toàn bộ hoạt động của nhiều hệ
thống trong đó có các website thương mại điện tử. Nó được đánh giá là
mối đe doạ lớn nhất đối với an toàn của các giao dịch thương mại điện tử
hiện nay.Trên thực tế các loại virus này thường kết nối với các Worrm


WORRM:
Là một loại virus chuyên tìm kiếm mọi dữ liệu trong bộ nhớ hoặc trong đĩa
làm thay đổi nội dung bất kì dữ liệu nào mà nó gặp phải.
Ví dụ: chuyển ký tự  số hoặc tráo ddoooir các byte được lưu trữ trong bộ
nhớ.
- Con ngựa thành tơ roa:
Bản thân nó không có khả năng nhân bản, nhưng nó tạo cơ hội cho các
virus khác xâm nhập vào máy tính.

- Bad Applet :
Là một chương trình ứng dụng nhỏ được nhúng trong một phần mềm thực
hiện một nhiệm vụ cụ thể làm tăng khả năng tương tác của website.
Các Bad Applet là đoạn mã di động nguy hiểm .Người sử dụng tìm kiếm
thông tin hoặc tải các chương trình từ website sử dụng…
-

– Tin tặc (hacker) và các chương trình phá hoại (cybervandalism):
+ Tin tặc (hacker): là người có thể viết hay chỉnh sửa phần mềm, phần cứng máy
tính bao gồm lập trình, quản trị và bảo mật. Những người này hiểu rõ hoạt động
của hệ thống máy tính, mạng náy tính và dung kiếm thức bản thân để làm thay
đổi, chỉnh sửa nó với nhiều mục đích tốt xấu khác nhau.
+ Chương trình phá hại:
Ngày 1-4-2001, tin tặc đã sử dụng chương trình phá hoại tấn công vào các

máy

chủ có sử dụng phần mềm Internet Information Server (IIS) của Microsoft nhằm làm
giảm uy tín của phần mềm này và rất nhiều nạn nhân như hãng hoạt hình Walt Disney,
Nhật báo phố Wall …đã phải gánh chịu hậu quả cả về tài chính và uy tín.
4/2001 vụ tấn công của tin tặc hàn quốc vào website của bộ giáo dục Nhật bản.
–Gian lận thẻ tín dụng
Trong thương mại điện tử, các hành vi gian lận thẻ tín dụng xảy ra đa dạng
và phức tạp hơn nhiều so với thương mại truyền thống. Nếu như trong thương
mại truyền thống, việc mất thẻ hoặc thẻ bị đánh cắp là mối đe doạ lớn nhất đối


với khách hàng thì trong thương mại điện tử mối đe doạ lớn nhất là bị “mất” (hay
bị lộ) các thông tin liên quan đến thẻ tín dụng hoặc các thông tin giao dịch sử
dụng thẻ tín dụng trong quá trình thực hiện các giao dịch mua sắm qua mạng và

các thiết bị điện tử .Các tệp chứa dữ liệu thẻ tín dụng của khách hàng thường là
những mục tiêu hấp dẫn đối với tin tặc khi tấn công vào website thương mại điện
tử. Hơn thế, những tên tội phạm có thể đột nhập vào các cơ sở dữ liệu
của website thương mại điện tử để lấy cắp các thông tin của khách hàng như tên,
địa chỉ, điện thoại… với những thông tin này chúng có thể mạo danh khách hàng
thiết lập các khoản tín dụng mới nhằm phục vụ những mục đích phi pháp.
– Tấn công từ chối dịch vụ
Tấn công từ chối dịch vụ (DOS – Denial Of Service attack, DDOS –
Distributed DOS hay DR DOS) là kiểu tấn công khiến một hệ thống máy tính hoặc
một mạng bị quá tải, dẫn tới không thể cung cấp dịch vụ hoặc phải dừng hoạt
động. Sơ khai nhất là hình thức DoS (Denial of Service), lợi dụng sự yếu kém của
giao thức TCP, tiếp đến là DDoS (Distributed Denial of Service) – tấn công từ chối
dịch vụ phân tán, và gần đây là DRDoS – tấn công theo phương pháp phản xạ
phân tán (Distributed Reflection Denial of Service).
Những cuộc tấn công DoS có thể là nguyên nhân khiến cho mạng máy tính
ngừng hoạt động và trong thời gian đó, người sử dụng sẽ không thể truy cập vào
các website thương mại điện tử .Những tấn công này cũng đồng nghĩa với những
khoản chi phí rất lớn vì trong thời gian website ngừng hoạt động, khách hàng
không thể thực hiện các giao dịch mua bán .Đồng thời, sự gián đoạn hoạt động
này sẽ ảnh hưởng đến uy tín và tiếng tăm của doanh nghiệp, những điều không
dễ dàng gì lấy lại được .Mặc dù những cuộc tấn công này không phá huỷ thông tin
hay truy cập vào những vùng cấm của máy chủ nhưng tạo ra phiền toái, gây trở


ngại cho hoạt động của nhiều doanh nghiệp .Vụ tấn công DOS điển hình đầu tiên
xảy ra vào tháng 2-2000, các hoạt động tấn công liên tục khiến hàng loạt website
trên thế giới ngừng hoạt động trong nhiều giờ, trong đó có những website hàng
đầu như: eBay ngừng hoạt động trong 5 giờ, Amazon gần 4 giờ, CNN gần 3.5 giờ,
E-Trade gần 3 giờ, Yahoo và Buy.com và ZDNet cũng ngừng hoạt động từ 3 đến 4
giờ .Ngay cả người khổng lồ Microsoft cũng đã từng phải gánh chịu hậu quả của

những cuộc tấn công này .Ở Việt Nam cũng đã có rất nhiều doanh nghiệp bị tấn
công dưới hình thức này.
– Kẻ trộm trên mạng (sniffer)
Kẻ trộm trên mạng (sniffer) là một dạng của chương trình theo dõi, nghe
trộm, giám sát sự di chuyển của thông tin trên mạng. Khi sử dụng vào những mục
đích hợp pháp, nó có thể giúp phát hiện ra những yếu điểm của mạng, nhưng
ngược lại, nếu sử dụng vào các mục đích phi pháp, các phần mềm ứng dụng này
sẽ trở thành các mối hiểm hoạ lớn và rất khó có thể phát hiện. Kẻ trộm sử dụng
các phần mềm này nhằm lấy cắp các thông tin có giá trị như thư điện tử, dữ liệu
kinh doanh của các doanh nghiệp, các báo cáo mật…từ bất cứ nơi nào trên mạng.
Xem lén thư điện tử là một dạng mới của hành vi trộm cắp trên mạng. Kỹ
thuật xem lén thư điện tử là sử dụng một đoạn mã (ẩn) bí mật gắn vào thông điệp
thư điện tử, cho phép người nào đó có thể giám sát toàn bộ các thông điệp
chuyển tiếp được gửi đi cùng với thông điệp ban đầu .Chẳng hạn một nhân viên
phát hiện thấy lỗi kỹ thuật trong khâu sản xuất, anh ta lập tức gửi một báo cáo
thông báo cho cấp trên về phát hiện của mình .Người này sau đó sẽ tiếp tục gửi
thông báo đến tất cả các bộ phận có liên quan trong doanh nghiệp. Một kẻ nào đó
sử dụng kỹ thuật xem lén thư điện tử có thể theo dõi và biết được toàn bộ thông
tin trong bức thư điện tử gửi tiếp sau đó bàn về vấn đề này.


Kẻ giả mạo ( Phishing)
Phishing là một loại tội phạm công nghệ cao sử dụng email, tin nhắn pop-up hay
trang web để lừa người dùng cung cấp các thông tin cá nhân nhạy cảm như thẻ
tín dụng, mật khẩu, số tài khoản ngân hàng .Thông thường các tin tặc thường giả
mạo là các công ty nổi tiếng yêu cầu khách hàng cung cấp những thông tin nhạy
cảm này. Các website thường xuyên bị giả mạo đó là Paypal, Ebay, MSN, Yahoo,
BestBuy, American Online….Kẻ giả mạo thường hướng tới phishing những khách
hàng của ngân hàng và người tiêu dùng thường mua sắm trực tuyến. Những
thông tin ăn cắp đươc sẽ được kẻ giả mạo dùng để truy cập với mục đích xấu, nếu

là thông tin về tài khoản thanh toán thì sẽ dùng vào mục đích mua hàng hoặc rút
tiền .Bất cứ ai cũng có thể phishing được vì phần mềm phishing là có nhiều trên
mạng với hướng dẫn chi tiết cùng với danh sách địa chỉ email .Công nghệ phishing
là đã có từ những năm 1987, tuy nhiên nó chỉ thực sự biết đến rộng rãi vào năm
1996 .AOL là công ty đầu tiên đã bị kẻ giả mạo tấn công ăn cắp thông tin của
khách hàng. Hay Vào 17/12/2003 một số khách hàng của eBay nhận đuơc email
với thông báo rằng hiện tại tài khoản của họ tạm ngừng hoạt động cho tới khi họ
kích vào đường link được cung cấp trong email và cập nhật thông tin về thẻ tín
dụng, cùng với các thông tin cá nhân khác như ngày sinh, tên thời con gái của mẹ,
số Pin của thẻ ATM. Đường link trong địa chỉ email kết nối tới trang web của ebay
nhưng đây không phải là trang web thật của ebay mà chỉ là một trang web giả
mạo có logo và hình thức giống với trang web ebay thật .PayPal một trang web
giải pháp thanh toán cũng là đối tượng thường xuyên bị giả mạo .Kẻ giả mạo
Paypal đã xây đường URL cải trang giống URL của Paypal bằng cách sử dụng ký
hiệu @ (http:///fl/login.html) .Thường thì các server
bỏ qua các ký tự trước @ và chỉ sử dụng những ký tự sau nó. Như vậy là khách
hàng chỉ có thể nhìn thấy đường link trong mail như Chính vì
vậy mà khách hàng đã không nhận ra được là mình đang bị tấn công từ các tin tặc
và đã cung cấp nhưng thông tin cá nhân và tài khoản.
+ Giả mạo người mua
-

Bên cạnh những người thực sự có nhu cầu muốn mua hàng, cũng có một số
người lướt net lập nickname để tham gia mua bán với ý định trêu đùa .Họ làm
nhiễu thông tin của những khách hàng khác và là mối lo ngại của các trang web
bán hàng trực tuyến.
+ Giả mạo các thông tin nhận dạng của khách hàng:


Thông tin thẻ tín dụng có thể bị lấy trộm bằng nhiều cách khác nhau, không phải

tất cả đều được thực hiện trực tuyến .Trớ trêu thay, một nguồn thông tin phổ
biến bị lấy trộm là qua những giấy biên nhận thẻ tín dụng được bỏ đi .Những giấy
biên nhận này thường bao gồm số thẻ tín dụng cùng với ngày giá hạn thẻ, thông
tin của hầu hết các giao dịch thẻ tín dụng qua điện thoại và trực tuyến .Các tên tội
phạm còn sử dụng sự trợ giúp của các “skimmer” để quyết dưới dạng kỹ thuật số
các số thẻ tín dụng trong vài giây để tách ra khỏi các thẻ tín dụng. Cuối cùng, các
tên tội phạm có thể có được thông tin thẻ tín dụng ảo bằng cách xâm nhập vào
trong cơ sở dữ liệu của khách hàng thông qua các web cấu hình sai hay những lỗ
hỏng khác của hệ thống, shopping cart hay nhà cung cấp máy chủ .Các tên tội
phạm máy tính còn biết cách sử dụng các công nghệ phụ trợ. Nhưng chương trình
mã hóa tự động được gọi là “spiders” hay “port scans” cho phép các tên tội phạm
nhận ra được những điểm yếu trong hệ thống của bạn.Với thông tin thẻ tín dụng
đánh cắp được, tội phạm có thể dùng nó để mua hàng hóa, dịch vụ. Hành vi đó
được gọi là “product thieft – ăn trộm hàng hóa”. Thông tin thẻ tín dụng còn có thể
được kết nối với các thông tin về địa chỉ và số phúc lợi xã hội có giá trị để mở các
thẻ tín dụng mới với tên và địa chỉ của tội phạm .Hành vi này được gọi là
“consumer identity theft – ăn trộm thông tin nhận dạng người dùng” và có thể
phá hỏng nghiêm trọng hồ sơ thẻ tín dụng của người tiêu dùng.
+ Giả mạo thông tin nhận dạng người bán
Cũng giống như các tội phạm ngoại tuyến xâm nhập vào một két tiền, các tên tội
phạm trực tuyến cũng xâm nhập vào két tiền ảo của bạn bằng cách ăn trộm thông
tin truy cập của bạn để mạo danh bạn .Hành vi đó được gọi là “merchant
indentity theft – ăn trộm thông tin nhận dạng người bán” .Tương tự với hành vi


ăn trộm thông tin của người tiêu dùng, các tên tội phạm cũng có thể có được
thông tin của người bằng nhiều nguồn, ngoại tuyến cũng như trực tuyến .Kẻ trộm
có thể là người trong nội bộ, người làm công hay các khách truy cập rất đơn giản
chỉ việc sao chép các thông tin truy cập và mật khẩu từ những tờ giấy nhắn gắn
trên các bàn máy tính .Các tên tội phạm cũng có thể lẻn vảo trụ sở hay những nơi

để giấy tờ để ăn trộm những thông tin này. Ăn trộm thông tin người bán trực
tuyến liên quan đến việc tấn công vào cơ sỏ dữ liệu của bạn hay các hệ thống back
– end để lấy trộm thông tin người sử dụng của tài khoản payment gateway .Thông
tin này được sử dụng trái phép để truy cập vào tài khoàn payment gateway của
bạn, còn được gọi là “merchant account takeover – sự tiếp quản merchant
account” hay”hijacking – vụ cướp bóc”. Việc tiếp quản tài khoản cho phép bọn tội
phạm lấy trộm tiền trực tuyến từ công ty bạn bằng cách phát hành các thẻ tín
dụng hay các giấy tờ thanh toán khác cho chúng.
- Ngoài ra, tội phạm TMĐT được thực hiện dưới nhiều hình thức sau: phát triển
các mạng máy tính ma (bots network) để tấn công DOS, gửi thư rác, gửi thư rác
với quy mô lớn (dịch vu thư rác), thuê hacker phá hoại website của đối thủ cạnh
tranh, thu thập thông tin người sử dụng bằng spyware.
2.3. Phân tích nguy cơ về thủ tục, quy trình giao dịch
Nhiều website vẫn tiến hành bán hàng theo các yêu cầu mà không có bất kỳ
sự xác thực cần thiết và cẩn trọng nào về thông tin của người mua .Họ đưa ra các
đơn chào hàng và tiến hành giao hàng nếu nhận được đơn chấp nhận chào hàng
từ phía người mua.
Hợp đồng thương mại qua hệ thống điện tử, hợp đồng đó sẽ có thể được
thiết lập bằng cách một bên đưa ra lời chào hàng và bên kia chấp nhận lời chào


hàng .Sự tồn tại của một hợp đồng có thể gây do không có những biện pháp đảm
bảo chống phủ định của người mua trong quy trình giao dịch trên các website nên
không thể buộc người mua phải nhận hàng hay thanh toán khi đơn đặt hàng đã
được thực hiện và hàng đã giao.
Hay những đơn đặt hàng không được nhà cung cấp thực hiện trong khi
khách hàng đã tiến hành trả tiền mà không nhận được hàng, nhà cung cấp từ chối
đã nhận đơn đặt hàng.
Khi các bên thảo luận có tranh cãi nếu bạn không có bằng chứng về sự hình
thành hợp đồng .Tác nhân tham gia sử dụng một phương tiện điện tử (như email) trong quá trình thiết lập một hợp đồng thì rủi ro do không lường trước

được.
=>Nguy cơ về thủ tục, quy trình giao dịch đối với 1 doanh nghiệp là 1 vấn đề
quan trọng hàng đầu, nó ảnh hưởng trực tiếp đến tài chính cũng như uy tín của
doanh nghiệp trên thị trường .Một doanh nghiệp muốn phát triển tốt thì phải có
hệ thống an toàn bảo mật thông tin vững mạnh.
2.4 Tác động của những nguy cơ mất an toàn trong giao dịch thương mại điện
tử:
2.4.1.Đối với người tiêu dùng
- Thiệt hại vật chất: Như đã phân tích ở trên, các nguy cơ mất an toàn trong
giao dịch TMĐT là khá nhiều, đặc biệt khả năng xảy ra các nguy cơ mất an
toàn này càng cao hơn đối với những người tiêu dùng ít kinh nghiệm và
hiểu biết .Việc mỗi ngày có hàng ngàn mã PIN thẻ tín dụng bị đánh cắp và
sử dụng trái phép đã làm nhiều người ngần ngại tham gia mua bán trên
mạng. Chưa có con số chính xác và cụ thể về thiệt hại đối với những thẻ tín
dụng bị đánh cắp vì không thể thống kê được những mã thẻ bị xâm nhập
trái phép mà chính chủ không biết .Tuy nhiên ước tính lên tới hàng triệu
USD/ngày. Ngoài việc bị mất tiền trong tài khoản, người tiêu dùng còn bị


thiệt hại đối với phần cứng khi bị các virus xâm nhập; tiền cước phải trả
thêm đối với các dịch vụ viễn thông, Internet do bị ăn cắp tài khoản hay trả
tiền khống cho các hàng hóa, dịch vụ không có thực hoặc kém chất lượng.
Tệ hơn nữa có khi phải chịu những chi phí kiện tụng phát sinh khi có tranh
chấp trong TMĐT dù có hay không tham gia. Điều rõ ràng nhận thấy nhất là
quyền lợi của người tiêu dùng tham gia các giao dịch mua bán trên mạng
chưa thực sự được bảo vệ. Chưa có một tổ chức hay một văn bản pháp lý
chính thức nào bảo vệ các cá nhân khi tham gia vào TMĐT .Điều này hạn
chế rất nhiều đến sự tiếp cận của đông đảo người dùng với TMĐT.
- Thiệt hại phi vật chất trong giao dịchTMĐT đôi khi còn nghiêm trọng hơn
thiệt hại vật chất .Những thiệt hại này gồm có bị lộ thông tin cá nhân, bị

thay đổi thông tin cá nhân, bị giả danh ảnh hưởng đến uy tín và bị kiện
tụng. Khi mua hàng trên một website hoặc ngay cả khi chỉ lướt web thông
thường, các thông tin của người dùng đều bị lưu giữ lại nhiều bởi các trang
web đó. Các thông tin bị lưu giữ có thể chỉ đơn giản là tên tuổi, địa chỉ, hòm
thư điện tử cho đến thói quen, sở thích thậm chí những thông tin mang
tính riêng tư hay bí mật .Mục đích của việc lấy thông tin cá nhân của người
dùng cũng khác nhau .Mục đích tốt thường là để đơn giản hóa thao tác cho
người sử dụng khi truy cập, để cung cấp thông tin .Còn lại thường nhằm
mục đích quảng cáo .Các thông tin được tập hợp lại thành một cơ sở dữ
liệu nhằm để bán cho các công ty có nhu cầu .Thông tin cũng có thể sử
dụng với mục đích xấu như tống tiền, khủng bố .Một số tin tặc còn có thể
thay đổi thông tin cá nhân khiến cho người sử dụng gặp nhiều rắc rối không
chỉ trong giao dịch trên mạng mà còn trong cuộc sống bên ngoài .Các
hacker còn có thể giả danh người dùng tham gia vào các giao dịch không chỉ
gây thiệt hại vật chất mà còn làm ảnh hưởng tới uy tín của họ .Trong các
trường hợp nghiêm trọng khi trị giá và mức độ vụ việc lớn, người sử dụng
có thể bị kiện tụng vô cớ.
Tóm lại đối với người tiêu dùng khi tham gia vào các giao dịch thì rủi ro
không phải là nhỏ và gây nhiều hậu quả nghiêm trọng không chỉ về vật chất
mà còn cả về tinh thần.
2.4.2.Đối với doanh nghiệp


-Hạn chế hiệu quả kinh doanh: Các nguy cơ mất an toàn khi xảy ra làm tăng
chi phí rất nhiều như các chi phí phụ thêm để phục vụ cho việc điều hành
website của nhà cung cấp thay thế, chi phí sửa chữa website đã bị tấn công
bởi hacker hoặc các lỗi thiết bị, và chi phí để phục hồi lại những thông tin bị
mất. Mặt khác kết quả hoạt động cũng bị giảm sút do kinh doanh bị gián
đoạn .Doanh thu, lợi nhuận giảm đi đôi với các chi phí tăng có nghĩa là hiệu
quả kinh doanh giảm

- Mất an toàn có thể gây ra thiệt hại về vật chất hay tài sản hữu hình:
Sự mất mát tài sản hữu hình xảy ra đối với bản thân những tài sản thuộc
quyền sở hữu của doanh nghiệp cũng như những tài sản mà doanh nghiệp
phải có trách nhiệm .Đó có thể là sự mất mát, hoặc thất thoát đối với nhà
xưởng hoặc các tài sản khác của doanh nghiệp, bao gồm cả thiết bị máy
tính .Hơn nữa, doanh nghiệp còn có thể bị lừa đảo bởi các công ty ma trên
mạng .Rủi ro có thể làm mất đi cơ hội trong kinh doanh của của doanh
nghiệp .Tiêu biểu cho loại tác hại này là thiệt hại của các cuộc tấn công từ
chối phục vụ DoS (Denial of service) gây ra nghẽn mạng giao dịch như
trường hợp của các trang Web thương mại điện tử .Theo ước tính mỗi ngày
Amazon.com có tới hàng nghìn đơn đặt hàng lớn nhỏ với doanh thu trung
bình xấp 500.000 USD/ ngày thì việc hệ thống máy tính tê liệt trong vòng 16
giờ đồng hồ sẽ làm hãng mất rất nhiều đơn đặt hàng, đó còn chưa kể
những thiệt hại về mặt uy tín của hãng đối với khách hàng. Rủi ro gây ảnh
hưởng tới uy tín kinh doanh của doanh nghiệp: Uy tín của doanh nghiệp là
một yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp
.Hơn nữa, một khi uy tín của doanh nghiệp được đặt cược trên mạng
Internet toàn cầu thì bất kì một sự suy giảm uy tín nào cũng là đáng kể và
gây ra hậu quả lớn. Microsoft là một ví dụ điển hình, người khổng lồ này
không những phải gánh chịu những đợt tấn công của các hacker mà còn bị
chính các hacker khai thác các lỗ hổng của các hệ điều hành như
Windows2000, Windows Server 2000 và các bộ Office nổi tiếng của hãng để
tạo ra các virus có sức công phá và mức độ lây lan kinh khủng. Vì các phần
mềm của hãng Microsoft được sử dụng rộng rãi nên hậu quả đối với các
mạng máy tính trên toán thế giới là rất lớn. Rủi ro trong thương mại điện tử
quả thật là những tai họa có tính thường trực đối với các doanh nghiệp


thương mại điện tử. Những thiệt hại do chúng gây ra cũng khó có thể dự
đoán trước được, do vậy các doanh nghiệp cần phải có các biện pháp ngăn

ngừa, hạn chế các loại rủi ro này. Rủi ro trong Thương mại điện tử quả thật
là những tai họa có tính thường trực đối với các doanh nghiệp Thương mại
điện tử. Những thiệt hại do chúng gây ra cũng khó có thể dự đoán trước
được, do vậy các doanh nghiệp cần phải có các biện pháp ngăn ngừa, hạn
chế các loại rủi ro này.
2.4.3.Đối với thương mại và nền kinh tế.
- Những nguy cơ mất an toàntrong giao dịch TMĐT cản trở rất nhiều sự
phát triển của TMĐT nói riêng và nền kinh tế nói chung. Trước tiên đó là hậu quả
của các ảnh hưởng đã phân tích ở trên. Một khi gây ngần ngại cho người tiêu
dùng và các doanh nghiệp thì TMĐT sẽ bị hạn chế. Số lượng người sử dụng ít, rủi
ro cao, thiệt hại nhiều tất yếu TMĐT không thể biến đổi nhiều về lượng để dẫn
đến có thể thay đổi về chất tức hàm ý nói đến sự phát triển. Thương mại điện tử
cũng có xu hướng làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia. Trong
hoạt động TMĐT quốc tế, các nước phát triển sẽ có lợi thế hơn rất nhiều so với
các nước đang phát triển do kết cấu hạ tầng cơ sở CNTT, khuôn khổ pháp lý, môi
trường kinh tế xã hội và hệ thống tài chính tại các nước đang phát triển thường
yếu kém hơn nhiều. Các nước đang phát triển tiếp tục đứng trước cuộc cạnh
tranh kinh tế không cân sức, nên càng dễ chịu nhiều thua thiệt và bất bình đẳng.
Trong một thế giới “số hóa”, nhiều vấn đề nghiêm trọng đối với các nước đang
phát triển như: địa vị quốc gia, sự lũng đoạn của các nước phát triển, sự phân tán
quyền lực của các ngành, chủ quyền quốc gia, quyền tri thức và quyền riêng tư cá
nhân v.v.. cần được các nước đang phát triển tiếp tục nghiên cứu, chủ động tiếp
thu mặt tích cực, phòng ngừa các tiêu cực xảy ra. Do vậy, nếu không có những đối
sách hữu hiệu, các nước đang phát triển không chỉ bị tụt hậu xa về mức sống mà
cả về trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra, nguy cơ lệ thuộc công nghệ


đang lớn dần khiến các nước phải quan tâm. Không thể không thừa nhận rằng các
nước phát triển, mà hàng đầu là nước Mỹ, đang khống chế toàn bộ công nghệ
thông tin quốc tế, cả phần cứng cũng như phần mềm (phần mềm hệ thống và

phần mềm ứng dụng). Có thể nhận xét rằng trong khi đa số các nước còn đang vật
lộn trong nền "kinh tế vật thể", thì Mỹ đã vượt lên và tiến nhanh trong nền "kinh
tế ảo", lấy "kinh tế tri thức", "sở hữu trí tuệ", "giá trị chất xám" làm nền móng. Sự
khác biệt ấy bộc lộ ngày càng rõ theo tiến trình nền kinh tế toàn cầu chuyển sang
"kỷ nguyên số hoá" như một xu hướng tất yếu khách quan. Một khi thương mại
nói riêng với các hoạt động kinh tế nói chung được số hoá thì toàn thế giới sẽ nằm
trong tầm khống chế công nghệ của Mỹ. Mỹ sẽ giữ vai trò người bán công nghệ
thông tin cho toàn thế giới, với công nghệ được đổi mới hàng ngày và thuần tuý
"kinh tế tri thức", trong khi các nước khác tiếp tục sản xuất các "của cải vật thể"
phục vụ cho nước Mỹ. Bức tranh ấy nay đã khá rõ nét và để thay đổi nó chắc chắn
phải cần đến những nỗ lực chiến lược lớn lao từ phía các đối thủ của Mỹ trong
những quãng thời gian lịch sử, mà trong những quãng thời gian ấy bản thân nước
Mỹ cũng không lùi lại hay đứng yên. Những nước đang phát triển hơn, đã chậm
chân, rất có thể mãi mãi phải ở một tầm thấp dưới và bị phụ thuộc hoàn toàn về
công nghệ vì điều kiện thực tế vĩnh viễn không cho phép họ đuổi kịp nữa. Sự phụ
thuộc ấy không chỉ thể hiện ở những thiệt thòi về kinh tế, mà ở tầm cao hơn: Mỹ
và các nước tiên tiến gần với Mỹ về công nghệ thông tin có thể nắm được thông
tin của các nước thuộc đẳng cấp công nghệ thấp hơn. Đây có thể sẽ là một trong
những nét đặc trưng cơ bản của trật tự thế giới mới trong thế kỷ XXI. Tóm lại,
những hậu quả mà các nguy cơ mất an toàn trong giao dịch TMĐT đem lại cần
được nhận thức một cách nghiêm túc không chỉ trên phương diện một người tiêu


dùng, một doanh nghiệp mà trên phương diện cả một nền kinh tế để từ đó đưa ra
những biện pháp hiệu quả nhất.
2.5 Ứng dụng an toàn dữ liệu và bảo mật thông tin trong giao dịch TMĐT
Chữ ký điện tử (hay chữ ký số) được tạo lập dưới dạng từ, chữ, số, ký
hiệu, âm thanh hoặc các hình thức khác bằng phương tiện điện tử, gắn liền hoặc
kết hợp một cách logic với thông điệp dữ liệu, có khả năng xác nhận người ký
thông điệp dữ liệu và xác nhận sự chấp thuận của người đó đối với nội dung

thông điệp dữ liệu được ký.
Chữ ký điện tử được sử dụng để xác nhận tính hợp pháp của một văn bản
hay hợp đồng trong các giao dịch điện tử .Nó có khả năng kiểm tra được người ký
và thời gian ký, có khả năng xác thực các nội dung tại thời điểm ký, các thành viên
thứ ba có thể kiểm tra chữ ký để giải quyết các tranh chấp (nếu có).
Chữ ký điện tử hoạt động dựa trên hệ mã hóa công khai trong đó mỗi
người tham gia truyền thông có một cặp khóa (một khóa công khai và một khóa bí
mật ) .Khóa công khai được công bố rộng rãi, khóa bí mật chỉ cá nhân người sở
hữu biết. Thông tin được mã hóa bằng khóa công khai có thể dùng khóa bí mật để
giải mã và ngược lại .Chữ ký điện tử đảm bảo tính không thể chối cãi .Có thể sử
dụng chữ ký điện tử để thiết lập một kênh truyền tin có xác nhận giữa bên gửi và
bên nhận.
Chứng thực số là một hoạt động chứng thực danh tính của những người
tham gia vào việc gửi và nhận thông tin qua kênh truyền, cung cấp cho họ các
công cụ, dịch vụ cần thiết để thực hiện việc bảo mật thông tin, chứng thực nguồn
gốc và nội dung thông tin .Chứng thực điện tử được cấp bởi một cơ quan chứng


thực có uy tín trên thế giới. Một chứng thực điện tử bao gồm: khóa công khai của
người sở hữu chứng thực điện tử này, các thông tin riêng của người sở hữu chứng
thực, hạn sử dụng tên cơ quan cấp chứng thực điện tử, số hiệu của chứng thực và
chữ ký của nhà cung cấp. Một số chứng thực điện tử đang sử dụng như: chứng
thực cho máy chủ Web, chứng thực cho các phần mềm, chứng thực cá nhân.
An toàn dữ liệu thanh toán điện tử là một hệ thống cho phép các bên
tham gia mua và bán tiến hành thanh toán với nhau .Các khâu xử lý trong thanh
toán điện tử được thực hiện hoàn toàn trên các máy tính.
Hệ thống thanh toán điển tử mang tính độc lập vật lý đảm bảo an toàn
của tiền điện tử không phụ thuộc vào bất kỳ điều kiện vật lý nào .An toàn vì khả
năng ngăn chặn gian lận giả tạo .Có thể thanh toán ngoại tuyến, chuyển nhượng
và phân chia.

Website là một hình thức trao đổi thông tin mang tính công cộng, có số
lượng người truy cập vào hàng ngày là rất lớn, do đó việc xác định danh tính của
các khách hàng là hết sức khó khan. Công tác bảo đảm an toàn cho trang web vừa
phải đồng thời với việc tạo cho web hoạt đong liên tục và không hạn chế người
truy cập. Mỗi một trang web đều được dung để quảng bá hình ảnh của doanh
nghiệp, do đó nếu trang web bị tấn công thì việc quảng bá sản phẩm bị thất bại,
và hình ảnh doanh nghiệp cũng suy giảm nhanh chóng. Hiện nay mỗi trang web
đều có nguy cơ bị tấn công từ nhiều phía bởi nó có chứa cơ sở dữ liệu là các thông
tin nhạy cảm của doanh nghiệp, của đối tác doanh nghiệp cũng như thông tin của
khách hàng.
Bảo mật web là hình thức bảo vệ các thông tin và tài nguyên của hệ
thống máy tính . Hacker sẽ tấn công vào máy tính của người dung để lấy cắp


×