Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Cải Cách Tư Pháp Nhằm Đảm Bảo Quyền Con Người Là Vấn Đề Ưu Tiên Hàng Đầu Của Đảng Cộng Sản Và Nhà Nước Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (868.22 KB, 120 trang )

LUẬN VĂN:
Cải cách tư pháp nhằm đảm bảo quyền con
người là vấn đề ưu tiên hàng đầu của Đảng
Cộng sản và Nhà nước Việt Nam


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Cải cách tư pháp nhằm đảm bảo quyền con người là vấn đề ưu tiên hàng
đầu của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam.
Tư pháp là nhánh quyền lực quan trong trong hệ thống tổ chức quyền lực nhà nước.
Tư pháp là lĩnh vực hoạt động nhằm đảm bảo nền an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
đảm bảo quyền tự do của con người, do đó vấn đề CCTP luôn là ưu tiên hàng đầu trong
quá trình hoàn thiện bộ máy nhà nước theo hướng dân chủ, minh bạch và hiệu lực.
CCTP là một yêu cầu hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ
máy nhà nước hiện nay. Không phải đến bây giờ chúng ta mới có chủ trương CCTP, tư
pháp luôn được xem như là một bộ phận trọng tâm cần phải cải cách để hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả nhằm đảm bảo các quyền tự do của công dân. Nhận thức được vấn đề này,
trong quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước, Đảng và Nhà nước luôn giành sự
quan tâm đặc biệt đến công tác CCTP. Ngay từ khi giành được độc lập, chúng ta đã bắt tay
vào xây dựng bộ máy tư pháp với tiêu biến bộ máy đó thành “một cơ quan trọng yếu của
chính quyền” (Hồ Chí Minh), và chỉ sau một thời gian ngắn, bộ máy tư pháp đã được thiết lập
trên phạm vi cả nước. Tư pháp đã giữ một vị trí quan trọng đối với thắng lợi của cách mạng
Việt Nam, là công cụ đảm bảo trật tự, công bằng xã hội, bảo vệ quyền con người.
Bước vào thời kỳ đổi mới, trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường, đảm
bảo các quyền tự do, dân chủ của công dân, đòi hỏi bộ máy tư pháp phải cải cách một cách
triệt để và đồng bộ. Nhận thực được yêu cầu này, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng
vấn đề CCTP, trong các văn kiện đại hội Đảng, vấn đề xây dựng bộ máy nhà nước, trong
đó có CCTP được xem là một nhiệm vụ quan trọng. Hơn thế nữa, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã cụ thể hoá các chủ trương này thành các nghị quyết chuyên đề về hoàn thiện hệ


thống pháp luật, cải cách tư pháp; đó là, Nghị quyết số 48-NQ/TW; ngày 24/5/2005 Về
chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Về


một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 49NQ/TW; ngày 02/6/2005 Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Nghị quyết số 49-NQ/TW Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đặt ra
nhiệm vụ CCTP, theo đó làm cho “các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân
dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người”1. Đây là một yêu cầu nhiệm vụ quan
trọng trong xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước theo hướng NNPQ của Đảng; chính
vì vậy việc nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng CCTP để đề ra phương hướng, giải
pháp đẩy mạnh CCTP nhằm đảm bảo các quyền con người ở nước ta trong giai đoạn từ nay
đến năm 2020 là hết sức cần thiết cả về lý luận và thực tiễn. Việc nghiên cứu này, một mặt là
sự tổng kết, đánh giá một cách khách quan quá trình thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW, Nghị
quyết 49-NQ/TW, mặt khác nó cung cấp luận cứ khoa học cho việc tiếp tục đẩy mạnh CCTP,
bổ sung cương lĩnh của Đảng về xây dựng bộ máy tư pháp trong sạch, vững mạnh, nghiêm
minh, dân chủ, bảo vệ các quyền con người.
1.2. Cải cách tư pháp nhằm đảm bảo các quyền con người là yêu cầu quan trọng
trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta
Nhà nước pháp quyền (NNPQ) là một mô hình tổ chức nhà nước chống lại sự lạm
quyền, đề cao, bảo vệ và tôn trọng các quyền con người. Quá trình xây dựng NNPQ đòi
hỏi chính quyền phải chịu sự kiểm soát của pháp luật. NNPQ yêu cầu chính quyền phải
chịu sự ràng buộc bởi pháp luật để bảo vệ con người, tư pháp là lĩnh vực có chức năng
đảm bảo cho pháp luật được thực hiện và bảo vệ con người. Do đó, việc xây dựng NNPQ
không thể tách rời với quá trình xây dựng, cải cách nền tư pháp, hướng tới một nền tư pháp
công minh, độc lập, hiệu quả, bảo vệ các quyền con người. Chính vì vậy, để xây dựng thành
công NNPQ ở Việt Nam, chúng ta cần phải đẩy mạnh CCTP nhằm đảm bảo tốt hơn các quyền
con người- một giá trị không thể thiếu của NNPQ.
Công cuộc CCTP trong bối cảnh xây dựng NNPQ đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải
giải quyết trên phương diện chính trị - pháp lý. Quá trình này đòi hỏi phải tôn trọng và bảo


1

Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết của Bộ Chính trị "Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020",

(Nghị quyết số 49-NQ/TW), xem tại: www.cpv.org.vn/tulieu/vankien/adj/%123.


vệ các quyền tự do của con người với tính chất là các giá trị xã hội cao quí, được thừa nhận
chung của nền văn minh nhân loại, nếu như không được bảo vệ bằng hệ thống toà án công
minh, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thì khó có thể xây dựng thành công NNPQ.
Chính hoạt động CCTP sẽ góp phần làm cho: (1) cơ sở của quyền lực nhà nước thực sự là
ý chí của nhân dân; (2) đảm bảo tính tối thượng của Hiến pháp và pháp luật trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy công quyền; (3) các quyền tự do của con người được đảm bảo
thông qua những cơ chế pháp lý và hệ thống pháp luật.
Xuất phát từ những bình diện đã phân tích trên cho thấy rằng việc CCTP nhằm đảm
bảo các quyền con người ở Việt Nam là vấn đề cần được nghiên cứu một cách kỹ càng cả
về lý luận và thực tiễn.
1.3. Xuất phát từ hoạt động của các cơ quan tư pháp, vấn đề cải cách tư pháp
nhằm đảm bảo các quyền con người là yêu cầu bức thiết hiện nay.
Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, ngày 02/6/2005 Về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 đã chỉ ra những hạn chế của công tác CCTP: “Chính sách hình sự, chế
định pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa
đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp
còn bất hợp lý… Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử”1.
Những bất cập, hạn chế đó thể hiện cụ thể trong tổ chức và hoạt động tư pháp trên các mặt sau:
- Sự tổ chức bất hợp lý của Toà án đã dẫn tới tình trạng quá tải trong việc xét xử các
vụ án dân sự, hình sự, kinh tế, lao động ở các thành phố lớn. Qua các số liệu thống kê về
thực tiễn xét xử của TAND các cấp cho thấy ở một số quận thuộc các thành phố lớn hàng
năm số lượng các vụ án cần xét xử bao gồm: hình sự, kinh tế, dân sự, lao động, hành chính

nhiều hơn số lượng các vụ án tương ứng ở một số tỉnh. Ở các quận này, trung bình một
Thẩm phán một năm phải xét xử tới cả trăm vụ án, trong khi ở một số Tòa án thuộc các
tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, mỗi năm mỗi Thẩm phán chỉ xét xử dăm bảy vụ án.
Cũng với cách tổ chức tòa án như hiện nay, các Tòa chuyên trách được tổ chức ở
1

Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết của Bộ Chính trị "Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020", (Nghị quyết số 49-NQ/TW), xem tại: www.cpv.org.vn/tulieu/vankien/adj/%123


TAND tối cao và tất cả các TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nhằm mục
đích là chuyên môn hóa công việc của các Thẩm phán. Tuy nhiên, điều này lại đang làm
nảy sinh một số bất hợp lý: Thứ nhất, vì ở nước ta, các vụ án hình sự (VAHS) vẫn chiếm
một tỷ lệ cao so với các loại án khác nên các Thẩm phán của Tòa hình sự luôn luôn phải
làm việc với cường độ cao hơn nhiều so với các Thẩm phán khác và để khắc phục tình
trạng này, các TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lẫn Toàn phúc thẩm,
TAND tối cao trên thực tế đều phải tăng cường Thẩm phán ở các Tòa khác sang xét xử các
vụ án hình sự, vì vậy, mục đích chuyên môn hóa công tác xét xử của các Thẩm phán đã
không thực hiện được; Thứ hai, việc tổ chức ra các tòa chuyên trách không được tiến hành
đồng bộ với việc phân định thẩm quyền thụ lý hồ sơ vụ việc giữa các tòa, nên có tình trạng
khi người dân đến nộp hồ sơ khởi kiện thì họ không biết nộp ở tòa nào vì có những trường
hợp các tòa đều cho rằng vụ việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình. Điều này có
nghĩa là việc tồn tại các tòa chuyên trách như cách hiện nay đang gây những khó khăn cho
người dân khi tham gia vào các quan hệ tố tụng, đây là một hiện tượng không mang tính
pháp quyền đang diễn ra trong thực tiễn xét xử.
Với cách tổ chức toà án như hiện nay thì nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” còn đang có nhiều vướng mắc. Mặc dù
được coi là một ngành dọc nhưng sự tồn tại và hoạt động của các tòa phải diễn ra và bị
quản lý về mặt lãnh thổ của một cấp chính quyền nên luôn bị ảnh hưởng ít nhiều bởi cấp
chính quyền tương đương.

- Việc đổi mới hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) đối với nhiệm vụ
kiểm sát tư pháp vẫn còn khá nhiều vấn đề chưa rõ. Nếu tính từ thời điểm tiến hành cải cách
tổ chức và hoạt động của hệ thống VKSND theo các quy định của Hiến pháp năm 1992 sửa
đổi và luật Tổ chức VKSND năm 2002 thì vẫn nhận thấy sự chưa rõ ràng về vị trí, thẩm quyền
của VKSND trong các hoạt động kiểm sát, đặc biệt là về hình thức thực hiện và giới hạn của
hoạt động kiểm sát trong lĩnh vực tư pháp về kinh tế, dân sự, lao động.
- Những bất cập của hệ thống cơ quan tư pháp cũng bộc lộ rất rõ ở tình trạng chưa
rõ ràng trong quan hệ trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan điều tra; ở tính phức


tạp, chồng chéo, nhiều đầu mối và không hiệu quả của hệ thống cơ quan thi hành án; ở cơ chế
không mấy thuận lợi cho việc thực hiện chế độ tranh tụng và phát huy vai trò của Luật sư; ở
những hạn chế trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý tư pháp và các cơ quan bổ
trợ tư pháp…
- Đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu về số lượng, hạn chế về trình độ và năng lực
nghiệp vụ, một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, sa sút về phẩm chất. Đó
cũng là tình trạng cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng
được yêu cầu công tác, nhất là ở cấp huyện nhiều nơi trụ sở còn rất chật chội, phương tiện
làm việc vừa thiếu vừa lạc hậu, chính sách đối với cán bộ tư pháp chưa tương xứng với
nhiệm vụ và chức trách được giao.
Thực trạng trên cho thấy, mặc dù đã có những nỗ lực rất lớn nhưng mô hình tổ chức
và hoạt động hiện nay vẫn đang hạn chế đáng kể hiệu quả của hoạt động tư pháp. Trong
bối cảnh xây dựng NNPQ XHCN đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh CCTP nhằm
mục tiêu đảm bảo một cách tốt nhất các quyền con người.
Từ những luận giải trên cho thấy, CCTP nhằm đảm bảo các quyền con người cần
phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý luận lẫn hoạt động thực tiễn.
Đây là một việc làm hết sức cấp bách và cần thiết, đòi hỏi chúng ta phải có sự nghiên cứu
đầy đủ về vấn đề này, qua đó cung cấp luận cứ khoa học cho việc đẩy mạnh cải cách tư pháp,
đưa ra những phương hướng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động CCTP nhằm đảm bảo quyền
con người trong giai đoạn hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Kể từ khi xuất hiện xã hội giai cấp, ý tưởng và mong muốn về một xã hội tự do,
bình đẳng, được bảo vệ và tôn trọng các quyền con người luôn là ước mơ cháy bỏng của
nhân loại. Những ý tưởng này, thoạt nhiên ban đầu chưa được thể chế hoá thành luật pháp,
nó chỉ tồn tại trong văn học thành văn và truyền miệng, hay trong các triết lý tôn giáo.
Khởi đầu của sự phân chia giai cấp là sự ra đời của xã hội chiếm hữu nô lệ và Nhà nước
chiếm hữu nô lệ, với bản chất giai cấp là công cụ duy trì sự thống trị, đàn áp của giai cấp


chủ nô đối với nô lệ. Nô lệ, khi ấy hoàn toàn không được coi là con người, chỉ là “công cụ
lao động biết nói”, vì vậy cũng không thể nói có quyền con người. Và nói như V.I. Lenin:
“Nhà nước chủ nô bao giờ cũng là một bộ máy đem lại cho chủ nô quyền lực và khả năng
cai trị tất cả những người nô lệ… là một bộ máy để duy trì những người nô lệ trong địa vị
phụ thuộc và cho phép một bộ phận này của xã hội (giai cấp chủ nô) cưỡng bức và đàn áp
bộ phận kia (giai cấp nô lệ)”1, còn nói theo Jean Jacques Rousseau thì: “quyền nô lệ là con
số không, chẳng những nó không chính đáng, mà còn mơ hồ, vô nghĩa lý. Chữ nô lệ và
chữ quyền là hai chữ mâu thuẫn nhau, bài trừ lẫn nhau. Nói quyền nô lệ của một người đối
với một người hay của một người đối với một dân tộc đều là nói điều vớ vẩn”2.
So với xã hội nô lệ, địa vị của người nông dân trong xã hội phong kiến có khác hơn,
nhưng “trên thực tế địa vị của người nông dân chỉ khác rất ít địa vị của nô lệ trong xã hội
chiếm hữu nô lệ”, bởi lẽ “ở đâu người nông dân đều bị đối xử như là một đồ vật, như là một
súc vật thô hoặc còn tồi tệ hơn nữa”, và cũng như nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong
kiến với các thiết chế tổ chức và pháp luật phải bảo vệ chế độ sở hữu của địa chủ phong kiến,
duy trì các hình thức bóc lột phong kiến, trấn áp nông dân và các tầng lớp lao động khác.
Cùng với nhà nước là nhà thờ với các thiết chế tôn giáo hà khắc đã vi phạm các
quyền con người một cách nghiêm trọng, điều này đã dẫn tới sự phản kháng của các tầng
lớp bị áp bức, song những sự phản kháng này cũng nhanh chóng bị dẹp tan. Ý tưởng đề
cao các giá trị nhân văn, nhân bản, các quyền tự do chỉ phát triển một cách mạnh mẽ ở thời
kỳ Khai sáng. Đây là thời kỳ xuất hiện các trào lưu tư tưởng đề cao tính pháp quyền,

quyền tự do của công dân phát triển một cách hết sức mạnh mẽ, nó trở thành ngọn cờ của
giai cấp tư sản kêu gọi đông đảo những người bị áp bức chống lại các giai cấp tầng lớp đối
lập với lợi ích của giai cấp tư sản.
Trong thời kỳ này, đã xuất hiện nhiều tác phẩm cổ vũ quyền tư do cá nhân, đòi nhà
nước phải pháp lý hoá các quyền con người và đảm bảo thực hiện trên thực tế. Ở giai đoạn
này có thể kể đến các công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Những thành tố của pháp luật

1
2

V.I. Lenin (1905), Toàn tập, tiếng Việt, Nxb. Tiến bộ, Mat-cơ-va, 1978, tr. 85.
Jean Jacques Rousseau (1762), Bàn về khế ước xã hội, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005, tr. 39.


tự nhiên và chính trị (The Elements of Law Natural and Politic, 1649), Công dân (The
Citizent, 1651), của T. Hobber; Chuyên luận thứ hai về chính quyền dân sự (The Second
Treatise of Civil Government, 1690), Lá thư về sự khoan dung (The Letter on Toleration,
1692)… của J. Locke; Những lá thư Ba Tư (Lettres Persanes, 1721), Tinh thần pháp luật
(The Spirit of the Laws, 1748),.. của C.L. Mongtesquier; Khế ước xã hội (The Social
Contract, 1762), của J.J. Rousseau…
Theo các nhà tư tưởng thời kỳ Khai sáng, con người đã trải nghiệm để tìm các
phương thức và các thiết chế để đảm bảo, quyền lợi của mình. Trong xã hội phong kiến,
khi mọi quyền hành nằm trọn vẹn trong tay một người - nhà vua, vua nắm quyền lực tối
cao trong việc ban hành pháp luật, thi hành luật pháp và thực hiện việc xét xử, thì mọi biểu
hiện của tự do, công lý và bình đẳng đều trở nên xa lạ. Quyền con người là những quyền tự
nhiên, không thể bị tước đoạt bởi giai cấp thống trị, Locke đã chỉ ra rằng: “trong “trạng
thái tự nhiên” con người có các quyền tự do, bình đẳng và tư hữu. Các quyền này bắt
nguồn từ bản chất muôn đời và bất biến của con người và bởi vậy không ai có thể làm thay
đổi được chúng”1. Montesquieu trong Tinh thần của pháp luật đã phát triển thêm tư tưởng
của Locke về quyền tự nhiên và cho rằng “trong trạng thái tự nhiên, mọi người sinh ra bình

đẳng”2 và sau này trong Bàn về khế ước xã hội, Jean-Jacques Rousseau nhà tư tưởng vĩ đại
trong thời Khai sáng cũng đã viết: Người ta sinh ra tự do, nhưng rồi đâu đâu con người cũng
sống trong xiềng xích3, vậy tự do và quyền con người là cơ sở tự nhiên, nhưng sự mất tự do,
quyền con người chính là do chế độ nhà nước, chế độ xã hội.
Sự xuất hiện khái niệm quyền con người trong thời kỳ cách mạng tư sản với nội
dung ban đầu là quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng và quyền tư hữu; tiếp đến chế
định quốc tịch, quyền bầu cử của công dân được thiết lập và khẳng định, đó là các quyền tự
nhiên, gắn với mỗi cá nhân. Các quyền tự nhiên đó của con người từ chỗ chỉ là yêu sách đến
1

Locke (1690), Chuyên luận thứ hai về chính quyền dân sự (The Second Treatise of Civil Government), bản
dịch của Trần Tiễn Cao Đăng, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2003, tr.80.
2
C.L. Mongtesquier (1748), Tinh thần pháp luật (The Spirit of the Laws), bản dịch của Hoàng Thanh
Đạm, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005, tr.87.
3
J.J. Rousseau (1762), Khế ước xã hội (The Social Contract), bản dịch của Hoàng Thanh Đạm, Nxb. Lý
luận chính trị, Hà Nội, 2005, tr.34.


sự ghi nhận, bảo đảm bằng pháp luật của nhà nước do Nghị viện ban hành, và lúc đó sẽ nảy
sinh việc phán xét các vi phạm quyền con người cũng như các thiết chế quyền lực để bảo vệ
quyền con người, đó là các thiết chế tư pháp. Và chỉ đến lúc này mới xuất hiện yêu cầu cải
cách, cải tổ các thiết chế quyền lực nhà nước để đảm bảo thực hiện tốt các quyền con người,
trong đó có cải cách trên lĩnh vực tư pháp.
Cải cách bộ máy nhà nước để quản lý xã hội một cách hiệu quả, đảm bảo việc thực
hiện các quyền con người là yêu cầu đặt ra đối với sự phát triển dân chủ ở mỗi quốc gia.
Cùng với đó, vào giữa thế kỷ XX, vấn đề quyền con người trở thành vấn đề mang tính toàn
cầu, thu hút được sự quan tâm của nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế. Các công trình
nghiên cứu về quyền con người ở giai đoạn này tập trung vào nhiều vấn đề như quyền dân

sự, chính trị, văn hoá; quyền của các nhóm dễ bị tổn thương… Chúng ta thấy, có sự kết
hợp chặt chẽ, sự giao thoa của hai vấn đề nghiên cứu, đó là cải cải tư pháp và quyền con
người. Trong hoạt động thực tiễn, quyền con người chỉ được đảm bảo thực hiện nghiêm
túc khi có sự đảm bảo bởi một nền tư pháp nghiêm minh, hiệu lực.
Trong khuôn khổ nghiên cứu này, chúng tôi chỉ liệt kê, mô tả các công trình nghiên
cứu cải cách tư pháp có liên quan đến việc đảm bảo quyền con người. Hoạt động tư pháp là
hoạt động có tác động mạnh mẽ đến việc thực hiện quyền tự do, quyền dân chủ, quyền sống
của con người, nó biểu hiện qua các hoạt động tư pháp như: khởi tố, điều tra, tạm giam, tạm
giữ, xét xử, thi hành án… Các công trình nghiên cứu này thường được chia làm hai loại: (1)
các công trình nghiên cứu của cá nhân; (2) các báo cáo, văn kiện của các tổ chức quốc tế.
- Danh mục các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài có liên quan
đến đề tài:
1. Locke (1690), Chuyên luận thứ hai về chính quyền dân sự (The Second Treatise
of Civil Government), bản dịch của Trần Tiễn Cao Đăng, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2003,
tr.80.
2. Mongtesquier (1748), Tinh thần pháp luật (The Spirit of the Laws), bản dịch của
Hoàng Thanh Đạm, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005;
3. J.J. Rousseau (1762), Khế ước xã hội (The Social Contract), bản dịch của Hoàng


Thanh Đạm, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005;
4. Locke (1690), Chuyên luận thứ hai về chính quyền dân sự (The Second Treatise of
Civil Government), bản dịch của Trần Tiễn Cao Đăng, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2003;
5. S. Ogourtsov (1985), Sự tham gia của RSS ở Biélorussie vào cuộc đấu tranh cho
quyền con người Minsk : Ed. Belarus;
6. F.A. Hayek and Raymond plant / Joãn Carlos Espada (1996), Quyền dân sự xã hội
MacMillan press Ltd St. Martin''s press, Inc;
7. Liên hiệp quốc (1992), Những quyết định được lựa chọn bởi Uỷ ban nhân quyền
dưới dạng nghị định thư mang tính lựa chọn: Hội nghị quốc tế về quyền công dân và
quyền chính New York Geneva : Vol.5 IV, 194p.;

8. Liên hiệp quốc (2004), Nghị định thư Istanbul: Ghi nhận về những điều tra và
những bằng chứng dùng nhục hình và những sự hành hạ khác trong việc đối xử và trừng
phạt con người Geneva New York: X, 75p:fing; 28cm (Professional traning series; No.8 /
rev.1);
9. Liên hiệp quốc (2005) Quyền con người và tù nhân: Những ghi nhận về thực thi
quyền con người của các giám thị nhà tù New York Geneva : United Nations, 2005-IX,
221p;
2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Nghiên cứu về CCTP, đảm bảo quyền con người là vấn đề được Đảng, Nhà nước
cùng các nhà khoa học hết sức quan tâm, đặc biệt kể từ khi chúng ta thực hiện công cuộc
đổi mới. Đã có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề này, các công trình tiếp cận vấn đề
dưới nhiều góc độ, mục tiêu, phương pháp nghiên cứu khác nhau; thể hiện công trình dưới
nhiều dạng khác nhau như: luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ; đề tài nghiên cứu khoa học;
sách chuyên khảo, các bài đăng tạp chí chuyên ngành… Để khảo sát tình hình nghiên cứu
của vấn đề, chúng tôi đã phân loại các cách tiếp cận như sau:
- Tiếp cận trên góc độ nghiên cứu lý luận chung về quyền con người, gồm có các
công trình nghiên cứu: (1) Chương trình KX-07 (do GS.TS Phạm Minh Hạc làm chủ


nhiệm) : Con người, mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội; mã số 07-16;
chủ nhiệm GS, TS Hoàng Văn Hảo; công trình nghiên cứu đã được Trung tâm Nghiên cứu
Quyền con người biên tập hai tập chuyên khảo Quyền con người, quyền công dân, xuất
bản năm 1995; (2) Quyền con người trong thế giới hiện đại do PGS. Phạm Khiêm Ích và
GS.TS Hoàng Văn Hảo đồng chủ biên, Viện Thông tin khoa học xã hội xuất bản năm
1995…
- Tiếp cận trên góc độ xây dựng, hoàn thiện pháp luật, gồm có: Luận án tiến sỹ luật
học của tác giả Nguyễn Văn Mạnh; luận văn thạc sỹ của tác giả Hoàng Hùng Hải; Mai Thị
Chung,Vũ thị Thu Quyên…
- Tiếp cận trên góc độ tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước (trong đó có cơ
quan tư pháp) trong việc bảo đảm quyền con người có các công trình:

Luận án tiến sỹ của tác giả: Đinh Xuân Nam, Nguyễn Văn Tuân, Tường Duy Kiên,
Nguyễn Huy Hoàn,…luận văn thạc sỹ của Nguyễn Tiến Long, Lê Minh Thắng;
Đề tài KX-05-07 (thuộc chương trình KX.05) về Nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của bộ máy lập pháp, hành pháp, tư pháp nước ta với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; chủ nhiệm Nguyễn Văn Thảo, nghiệm thu 2005;
Đề tài KX-07-16: Về các điều kiện đảm bảo quyền con người, quyền công dân
trong sự nghiêp đổi mới đất nước năm 1995”do GS.TS Hoàng Văn Hảo làm chủ nhiệm;
Sách chuyên khảo của các tác giả: Vũ Ngọc Bình (2000); Đào Trí Úc, Trần Thị
Tuyết, Nguyễn Việt Hương (2003); Lê Cảm, Nguyễn Ngọc Chí (2004); Viện nghiên cứu
Khoa học pháp lý (Tổng hợp các kiến nghị khoa học góp phần đổi mới tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp);
Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả khác đã được đăng tải trên
tạp chí chuyên ngành như tạp chí Nhà nước và pháp luật, tạp chí Dân chủ và pháp luật, tạp
chí Tòa án nhân dân, tạp chí Nghiên cứu Lập pháp…
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng công tác CCTP, qua đó xác định


phương hướng, giải pháp đẩy mạnh hoạt động CCTP đảm bảo quyền con người ở nước ta
hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, đề tài sử dụng phương pháp
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khác như:
- Phương pháp phân tích, so sánh;
- Phương pháp tổng hợp;
- Phương pháp lô-gic và lịch sử;
- Phương pháp khảo cứu tài liệu;
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Đề tài là một trong những công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống và

tương đối toàn diện về vấn đề CCTP với việc đảm bảo quyền con người ở nước ta;
- Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ góp phần làm phong phú hơn lý luận về quyền con
người, về CCTP nói chung và cải cách tư pháp nhằm đảm bảo quyền con người nói riêng;
- Đề tài đề xuất phương hướng và những giải pháp cải cách tư pháp nhằm đảm bảo
các quyền con người trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân và vì dân ở
nước ta hiện nay.
6. Kết cấu Báo cáo tổng hợp nghiên cứu
Báo cáo kết quả tổng hợp nghiên cứu gồm 3 chương, 9 tiết với các nội dung sau:


Chương 1:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH TƯ PHÁP

1.1. CƠ QUAN TƯ PHÁP- MỘT TRONG NHỮNG THIẾT CHẾ QUYỀN LỰC
NHÀ NƯỚC ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI HIỆN NAY
1.1.1. Quan niệm về quyền con người và đảm bảo quyền con người trong quá
trình cải cách tư pháp
1.1.1.1. Quan niệm chung về quyền con người.
Quyền con người là phạm trù chính trị - pháp lý, sự ra đời của khái niệm quyền con
người gắn liền với các cuộc cách mạng dân chủ tư sản lật đổ chế độ phong kiến, xã hội
thần dân thế kỷ XVII, XVIII. Ở Anh, khái niệm đó nằm trong Luật về các quyền (1689); ở
Mỹ, nằm trong Tuyên ngôn độc lập (1776) và Hiến pháp (bổ sung, 1789); ở Pháp, nằm
trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền (1789); và về sau khái niệm này được ghi
nhận trong các văn kiện quốc tế do Liên hiệp quốc khởi xướng.
Theo quan điểm của các nhà triết học, chính trị học thời kỳ Khai sáng (thế kỷ XVIIXVII) thì quyền con người là các quyền không thể tước bỏ được; đây là các quyền tự nhiên
(natural right) do tạo hóa ban cho họ. Tiêu biểu cho quan điểm này là Thomas Hobbes
(1588-1679), Jonh Locke (1632-1704) và Thomas Paine (1731-1809) Đây là những quyền
mang tính bẩm sinh, vốn có của các cá nhân, khi sinh ra đã được thừa hưởng, bởi vì họ là

thành viên của nhân loại. Các quyền này không không một xã hội hay một chính phủ nào
có thể ban phát, xóa bỏ hoặc “chuyển nhượng” và nó không phụ thuộc vào các phong tục,
tập quán, truyền thống văn hóa,… đây là các quyền vốn có của các cá nhân. Các quyền đó
bao gồm: quyền tự do ngôn luận, quyền tự do tín ngưỡng và nhận thức, quyền tự do lập
hội và quyền được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên, đây chưa phải là bản liệt
kê đầy đủ các quyền của công dân trong một nền chính trị dân chủ. Theo quan niệm


phương Tây thì các xã hội dân chủ phải thừa nhận các quyền con người mà bất kỳ chính
phủ dân chủ nào cũng phải duy trì, vì các quyền này tồn tại không phụ thuộc vào chính
phủ, do đó chúng không thể bị luật pháp bãi bỏ cũng như không phụ thuộc vào ý muốn
nhất thời của đa số cử tri nào đó.
Trong các tác phẩm như: An Easy Concerning Human Understanding (1690),
Second Tract Government (1662), Questions Concerning the Law of Nature (1664)… J.
Locke cho rằng chính phủ được lập ra nhằm để bảo vệ các “quyền tự nhiên” của cá nhân
con người trước sự xâm phạm của cộng đồng; nhà nước không phải thế lực ban phát các
quyền con người và J. Locke đi đến kết luận: nhà nước chỉ tồn tại hợp pháp (và cũng là lý
do mà nhân dân cần đến nhà nước) khi nó thừa nhận, tôn trọng, thúc đẩy các quyền con
người - những quyền vốn có do “tự nhiên” ban tặng. Trong tác phẩm Right of Man (1791)
T. Pain cho rằng, các quyền không phải do chính phủ ban phát, bởi lẽ điều đó đồng thời
cho phép các chính phủ được rút lại các quyền ấy theo ấy theo ý chí của họ1.
Ngược lại với các quan điểm cho rằng quyền con người là quyền tự nhiên là học
thuyết cho rằng quyền con người là quyền pháp lý (legal right). Các học giả tiêu biểu cho
quan điểm này là: Edmund Burke (1727-1797) và Jeremy Bentham (1748-1832). Theo đó,
các quyền con người không phải tự nhiên mà có mà nó phải được thừa nhận và luật hoá.
Các quyền này phụ thuộc vào ý chí của nhà nước (tức giai cấp thống trị) và truyền thống
văn hóa, các phong tục tập quán.
Những quan điểm gắn các quyền con người với luật pháp đã được thừa nhận từ lâu.
Trong lịch sử phát triển của quyền con người, nhân loại đã chứng kiến sự tồn tại của các
hình thức pháp lý nay. Khởi đầu là Bộ luật cải cách, của Urukagina, đây là bộ luật được

biết đến sớm nhất (khoảng năm 2350 TCN), trong bộ luật này đã nói đến những khái niệm
về quyền con người, tuy nhiên văn bản chính thức bộ luật đó hiện vẫn chưa được tìm thấy.
Một trong những bộ luật cổ hiện còn ngày nay là Luật Ur-Nammu (khoảng năm
2050 TCN) và Bộ luật Hammurabi (khoảng 1780 TCN) đây là những bộ luật xa xưa nhất
1

Xem: Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng - đồng chủ biên (2009), Giáo trình lý luận và
pháp luật về quyền con người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 45.


ghi nhận về các quyền con người, kể cả nữ quyền, quyền trẻ em, và quyền của nô lệ. Mặt
khác, quyền con người vẫn còn được ghi nhận trong các tài liệu tôn giáo, dĩ nhiên không
nhiều lắm. Kinh Vệ đà, Kinh Thánh, Kinh Koran và sách văn tuyển Luận Ngữ của Khổng
Tử cũng nằm trong số những tài liệu ra đời sớm đã nêu ra những vấn đề về nghĩa vụ,
quyền, và bổn phận của con người.
Hiện nay trụ Cyrus (hay Cyrus Cylinder) được cho là hiến chương đầu tiên của
nhân quyền thế giới, “ra đời trước hiến chương Magna Carta hơn một ngàn năm”. Trụ này
có từ thời hoàng đế Cyrus Đại đế (559-530 TCN), người sáng lập ra nước Iran, đã có một
bản mẫu của trụ được Iran tặng cho Liên hiệp Quốc vào năm 1971.
Hiến chương Magna Carta của người Anh lần đầu tiên được công bố năm 1215.
Hiến chương này có ảnh hưởng đến sự phát triển của thông luật (common law) và nhiều
văn kiện, tài liệu liên quan đến quyền con người như Hiến pháp Hoa Kỳ, đặc biệt là Đạo
luật Nhân quyền (Bill of Rights)… Hiến chương Magna Carta còn là một trong những tài
liệu pháp lý đầu tiên tiết chế quyền lực của nhà nước để bảo vệ các quyền của công dân
nước đó. Hiện nay, giá trị còn tồn tại lớn nhất của nó là luật bảo thân (habeas corpus - thân
xác thuộc về người). Quyền này phát sinh từ các điều 36, 38, 39 và 40 của Hiến chương
Magna Carta năm 1215; nó cũng bao gồm due process of law (luật tôn trọng tất cả các
quyền hợp pháp của công dân)1.
Hai luồng tư tưởng bàn về nguồn gốc của quyền con người hiện vẫn còn gây nên
nhiều tranh cãi, và nhận thức của nhân loại hiện vẫn đang bị chia rẽ bởi vấn đề này. Việc

phân định tính đúng sai của hai quan điểm này là vấn đề hết sức khó khăn, bỏi vì quyền
con người là phạm trù phức tạp, nó liên quan đến nhiều ngành khoa học như luật học, triết
học, xã hội học, chính trị học, đạo đức học… Mặc dù thừa nhận quyền con người có nguồn
gốc tự nhiên hay nguồn gốc pháp lý thì có một thực tế rằng các quyền này vẫn phải được
ghi nhận và đảm bảo thực hiện dưới những hình thức pháp lý cụ thể. Và chỉ thông qua sự
thể chế này các quyền con người mới có cơ chế đảm bảo thực hiện. Theo nghĩa đó, pháp
luật là công cụ quan trọng để pháp lý hóa, pháp điển hóa các quyền tự nhiên của con

1

Xem: wikipedia


người, đồng thời nó cũng là phương tiện quan trọng để đảm bảo thực hiện các quyền đó.
Khái niệm về quyền con người hiện đại chủ yếu bắt nguồn từ châu Âu, tuy nhiên
cần khẳng định rằng, khái niệm tự do và công bằng xã hội - những khái niệm cơ bản của
quyền con người, nằm trong tất cả mọi nền văn hóa. Các nội dung đầu tiên của quyền con
người quốc tế thực sự có thể được tìm thấy trong các Hiệp định về Quyền tự do tôn giáo,
Công ước Westphalia năm 1648 và việc cấm chế độ chiếm hữu nô lệ như tuyên ngôn về
việc buôn bán nô lệ của Quốc hội Vienna vào năm 1815, việc sáng lập Xã hội chống chế
độ chiếm hữu nô lệ Mỹ vào năm 1833 và Công ước quốc tế về chống chế độ chiếm hữu nô
lệ năm 1926.
Khái niệm quyền con người phổ biến cho tất cả loài người mới được các nước chấp
nhận sau chiến tranh thế giới lần II. Vào những năm 1940-1950, dưới sự lãnh đạo của
Roosevelt, René Cassin và Joseph Malik, Liên hiệp quốc đã soạn thảo nên bản Tuyên ngôn
thế giới về quyền con người, kể từ đó, quyền con người đã trở thành một khái niệm rộng
khắp thế giới có ảnh hưởng lớn đến nhiều quốc gia, đó là khái niệm về các quyền văn hóa,
kinh tế và xã hội, quyền tự quyết và quyền phát triển, quyền tự do không bị phân biệt
chủng tộc, quyền bình đẳng về tư pháp...
Theo một thống kê của Liên hiệp quốc thì hiện nay đã có khoảng hơn 50 định nghĩa

khác nhau về quyền con người đã được công bố. Theo cách tiếp cận của Liên hiệp quốc thì
quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác
dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (action) hoặc sự bỏ mặc
(omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con
người.
Bên cạnh đó, người ta vẫn tiếp cận quyền con người dưới khía cạnh là những sự
được phép (entitlement) mà tất cả các thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt
giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội…; đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì
họ là con người (cách tiếp cận này mang dấu ấn của học thuyết về các quyền tự nhiên)1.
1

Xem: Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng - đồng chủ biên (2009), Giáo trình lý luận và
pháp luật về quyền con người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 41-42.


Khi được thông qua Tuyên ngôn thế giới về quyền con người trở thành một phần
không thể thiếu của hệ thống Liên hiệp quốc. Mặc dù, Liên hiệp quốc đã lên tới 191 thành
viên nhưng không một quốc gia nào thực sự nghi ngờ tuyên ngôn này, nhờ đó đến nay
phần lớn nội dung của tuyên ngôn đã trở thành tập quán luật quốc tế về quyền con người,
dựa trên sự chia sẻ các giá trị chung đã được nhất trí theo khuôn khổ của Liên hiệp quốc,
trong đó bao gồm các yếu tố hình thành nên đạo đức toàn cầu.
Theo quan điểm được đông đảo cộng đồng quốc tế thừa nhận thì quyền con người
mang các thuộc tính cơ bản là: tính phổ biến, tính không thể chuyển nhượng, tính không
thể phân chia, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau.
Ở Việt Nam, đã có nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu đưa ra những định nghĩa, cách
tiếp cận khác nhau về vấn đề quyền con người. Mặc dù còn có những điểm khác nhau, song
phần lớn họ đều thống nhất quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và
khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa
thuận pháp lý quốc tế1.
Quyền con người là những chuẩn mực mang tính toàn cầu, đây là vấn đề chính trị pháp lý vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù. Tính phổ biến thể hiện ở chỗ

quyền con người bao hàm những nguyên tắc, những quyền được thừa nhận và áp dụng ở
mọi nơi, nó là sự kết tinh những giá trị nhân văn của nhân loại mà loài người phải bảo vệ.
Tính đặc thù thể hiện ở chỗ, tùy theo điều kiện kinh tế - chính trị, xã hội mà sẽ có những
mức độ riêng để qui định đảm bảo thực hiện phù hợp với những đặc điểm riêng của quốc
gia. Trong quá trình nghiên cứu, giải quyết vấn đề quyền con người cần phải chú ý những
điểm chung và những nét đặc thù, đảm bảo sự cân bằng, hòa hợp giữa những giá trị phổ
biên và đặc thù.
1.1.1.2. Quan niệm về tư pháp và cải cách tư pháp
Trong các tác phẩm kinh điển về chính trị - pháp lý, đã có nhiều nhà nghiên cứu,
luật gia đã tiếp cận ý nghĩa đích thực của cơ quan tư pháp theo nghĩa hẹp. C.L.
1

Xem: Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng - đồng chủ biên (2009), Giáo trình lý luận và
pháp luật về quyền con người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 41-42.


Montesquieu người được coi là “cha đẻ” của học thuyết “tam quyền phân lập”, trong tác
phẩm Tinh thần pháp luật (1748) ông đã chỉ ra: “với quyền lực thứ ba, nhà vua hay pháp
quan trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp giữa các cá nhân. Người ta gọi đây là quyền tư
pháp”1. Theo ông, “Quyền phán xét không nên giao cho một Viện Nguyên lão thường trực
mà phải do những người trong đoàn thể dân chúng được cử ra từng thời gian trong một
năm, do luật quy định thành toà án, làm việc kéo dài bao lâu tuỳ theo sự cần thiết”2. Như
vậy, theo Montesquieu, cơ quan tư pháp là toà án, là cơ quan xét xử, cơ quan thực hiện
nhánh quyền lực tư pháp.
Nối tiếp những tư tưởng của Mongtesquie, mười bốn năm sau, trong tác phẩm Bàn
về khế ước xã hội (1762), J.J. Rousseau đã viết: “Khi người ta không thể định rõ một tỷ lệ
chính xác giữa các bộ phận cấu thành của nhà nước, hoặc khi mà những nguyên nhân
khách quan làm suy yếu không ngừng mối quan hệ giữa các bộ phận ấy, thì người ta phải
đặt một cơ quan đặc biệt, không tham dự vào bất cứ một bộ phận nào. Cơ quan này đặt
mỗi bộ phận vào đúng vị trí của nó, làm mối dây liên lạc và yếu tố trung gian giữa Chính

phủ với nhân dân, hoặc giữa Chính phủ với cơ quan quyền lực tối cao, hoặc giữa cả ba vế
ấy khi cần. Cơ quan này tôi gọi là cơ quan tư pháp (tribunal)”3. Với quan niệm như thế này
của Rousseau về cơ quan tư pháp thì không có gì khác biệt với Montesquieu, theo đó nói
đến cơ quan tư pháp phải hiểu đó là toà án, là hoạt động xét xử.
Chịu ảnh hưởng tư tưởng của các luật gia thời Khai sáng, khi làm bản Hiến pháp
năm 1787, các nhà lập hiến Hoa Kỳ đã quy định ở Điều III, khoản 1 như sau: “Quyền lực
tư pháp Hoa Kỳ sẽ được trao cho Toà án tối cao và những toà án cấp dưới mà Quốc hội có
thể thiết lập trong một số trường hợp”. Và hầu hết các hiến pháp của các nước tư bản như
Nhật, Pháp, Đức, Thuỵ Điển… sau này khi quy định về cơ quan tư pháp đều coi đó là các
toà án. Như vậy, quan niệm có tính chung nhất theo nghĩa hẹp về về cơ quan tư pháp từ
học thuyết đến xây dựng hiến pháp thành văn của các nước có lịch sử lập hiến lâu năm
1

Montesquieu (1748), Tinh thần pháp luật, Nxb. Giáo dục, Trường đại học Khoa học xã hội và nhân vănKhoa Luật, Hà Nội, 1996, tr. 100.
2
Montesquieu (1748), Tinh thần pháp luật, Nxb. Giáo dục, Trường đại học Khoa học xã hội và nhân vănKhoa Luật, Hà Nội, 1996, tr. 100
3
Jean-Jacques Rousseau (1762), Bàn về khế ước xã hội, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004, tr 218


được hiểu là các toà án.
Như vậy có thể nói rằng, trên phương diện lý thuyết cũng như trong thực tiễn tổ
chức hệ thống bộ máy ở nhiều quốc gia người ta thường xem tư pháp là một trong những
nhánh quan trọng của hệ thống quyền lực nhà nước, thường đồng nhất tư pháp với hoạt
động xét xử của tòa án.
Theo Từ điển tiếng Việt thì “tư pháp” có nghĩa là “việc xét xử các hành vi phạm
pháp và các vụ kiện tụng trong nhân dân ”1. Còn theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học
pháp lý (Bộ Tư pháp) thì:
“Với nghĩa chung nhất, tư pháp được quan niệm như là một ý tưởng về một
nền công lý, đòi hỏi việc giải quyết những tranh chấp xảy ra trong xã hội phải đúng

pháp luật, phù hợp với lẽ công bằng, bảo đảm lòng tin của nhân dân và xã hội vào
pháp luật, góp phần duy trì trật tự pháp luật, bảo đảm sự an toàn pháp lý cho cá nhân,
sự ổn định và phát triển của xã hội”2.
Tư pháp với nghĩa là phán xử, trông coi, bảo vệ pháp luật đã xuất hiện từ rất sớm,
và nó trở thành một nhu cầu hết sức quan trọng trong đời sống của xã hội. Trong xã hội tồn
tại nhiều quan hệ đa dạng giữa con người với nhau, quá trình giao tiếp sẽ không tránh khỏi
những tranh chấp cần có sự giải quyết công bằng giữa các bên, từ đó xuất hiện nhu cầu cần
phải hình thành những định chế bảo vệ lợi ích, tính mạng của các cá nhân trong xã hội, giữ
cho xã hội phát triển một cách hài hòa. Khi xảy ra các xung đột, trong trường hợp không tự
hoà giải được, không tự bảo vệ được quyền lợi, tính mạng của mình, họ cần phải nhờ đến
những định chế khác, mà họ cho là vô tư, công tâm để giải quyết. Định chế đóng vai trò có
thể phán xử tính đúng đắn trong hành vi xử sự của một cá nhân, tổ chức nào đó là toà án.
Vì vậy, thông thường khi nói đến tư pháp là nói tới công tác xét xử và những hoạt động
phục vụ hoặc liên quan trực tiếp tới hoạt động xét xử được thực hiện trên cơ sở các qui
định của Hiến pháp và pháp luật.

1

Hoàng Phê- chủ biên (1997), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học, tr. 1034.
Viện Khoa học pháp lý- Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển bách khoa và Nxb. Tư pháp;
Hà Nội, tr. 828.
2


Một trong những nguyên tắc quan trọng không thể thiếu của hoạt động tư pháp đó
là tính khách quan, vô tư giữa các chủ thể tham gia tố tụng; vi phạm nguyên tắc này thì
phán quyết của cơ quan tư pháp sẽ không đảm bảo được tính công bằng, khi đó các bên
tranh chấp sẽ không cần đến các cơ quan tư pháp nữa. Chính vì vậy, những người tham gia
vào các hoạt động tư pháp phải được coi là những người đại diện cho nhà nước, nhân danh
và bảo vệ công lý, ở họ nguyên tắc công bằng, bình đẳng, khách quan là những phẩm chất

quan trọng cần phải có.
Trong nhà NNPQ, tư pháp giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo tính
thượng tôn của pháp luật và thực hiện quyền làm chủ, quyền giám sát tối cao của nhân dân
đối với bộ máy nhà nước. Quá trình xây dựng NNPQ đòi hỏi tư pháp phải đáp ứng được
các yêu cầu sau:
- Quyền tư pháp phải là một quyền độc lập. Một trong những nguyên tắc quan trọng
của tư pháp là tính độc lập trong hoạt động, chỉ khi nào tư pháp độc lập thì tính tối cao của
Hiến pháp và pháp luật mới được đảm bảo, mới có khả năng kiểm soát được quyền lực của
các cơ quan nhà nước khác và cũng là điều kiện quan trọng để đảm bảo thực hiện các quyền
con người. Có thể nói rằng, phần lớn các cuộc CCTP của các quốc gia đều tập trung vào
việc đảm bảo và nâng cao tính độc lập của tư pháp trong cơ cấu bộ máy nhà nước.
- Tính tối cao của pháp luật được tôn trọng, tư pháp phải trở thành biểu tượng của
công lý để giải quyết các tranh chấp trong xã hội. Trong NNPQ, tính tối cao của pháp luật
đóng vai trò quan trọng; vì vậy, các tranh chấp xảy ra trong xã hội cần thiết được xem xét
tại Toà án, và Toà án được coi là nơi có kết luận cuối cùng đối với các tranh chấp phát sinh
và phán quyết này có tính chất bắt buộc thi hành đối với các chủ thể. Ở góc độ là một thiết
chế quan trọng cấu thành bộ máy nhà nước, quyền tư pháp phải được xem như một biểu
tượng của công lý, là nơi gửi gắm niềm tin của nhân dân qua việc xét xử các tranh chấp
trong đời sống hàng ngày. Mặt khác, thông qua cơ chế và hoạt động xét xử, quyền con
người mới được bảo đảm về mặt pháp lý.
Có thể hiểu tư pháp theo nghĩa chung, đó là ý tưởng về một nền công lý, những
nguyên tắc trong việc giải quyết những tranh chấp xảy ra theo đúng pháp luật, phù hợp với


lẽ công bằng, bảo đảm lòng tin của nhân dân và xã hội vào pháp luật, vào các cơ quan nhà
nước; tạo ra và duy trì tính tối cao của pháp luật, bảo đảm sự an toàn pháp lý cho cá nhân,
sự ổn định và phát triển của xã hội. Trọng tâm của các cơ quan tư pháp là Tòa án, hoạt
động xét xử là hoạt động tư pháp chủ yếu nhất.
Thuật ngữ cải cách được xem xét trên nhiều góc độ khác nhau. Theo quan niệm của
Tổ chức an ninh và hợp tác châu Âu thì (OECD):

“Cải cách tư pháp được sử dụng trong công trình của OECD đề cập tới
những sự thay đổi nhằm cải thiện chất lượng của các qui định, đó là, thúc đẩy sự
thực hiện, giảm chi phí, hoặc chất lượng pháp lý của các qui định và các thủ tục liên
quan của chính quyền. Cải cách có thể có nghĩa sửa đổi một qui định đơn lẻ, loại bỏ
và xây dựng lại toàn bộ một chế độ pháp luật và các chế định của nó, hoặc cải thiện
qui trình làm luật và quản lý cải cách”1.
Quan niệm CCTP theo cách hiểu này có nghĩa rất rộng, nó không chỉ bao hàm việc
“sửa đổi các qui định đơn lẻ, loại bỏ và xây dựng lại toàn bộ một chế độ pháp luật” mà nó
còn bao hàm nhiều vấn đề như “giảm chi phí” và “các thủ tục liên quan đến chính quyền”.
Vì vậy, CCTP xét đến cùng được hiểu là sự sửa đổi, xây dựng pháp luật theo một chế độ
mới, đối tượng của CCTP có thể là các qui định pháp luật, mà chưa nói tới các định chế thực
hiện.
Trong nghiên cứu này nhóm tác giả tiếp cận CCTP với ý nghĩa là quá trình đổi mới
toàn diện hệ thống tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử với mục tiêu làm cho tổ chức
và hoạt động của hệ thống tư pháp đảm bảo tính công bằng, dân chủ, minh bạch đáp ứng yêu
cầu bảo vệ công lý, bảo đảm các quyền của con người trong điều kiện xây dựng NNPQ
XHCN.
Ở nước ta, CCTP nằm trong tổng thể việc thực hiện quyền lực nhà nước và đảm bảo
các quyền con người của công dân. Chúng ta xây dựng NNPQ, vì vậy, việc tôn trọng pháp
luật được chú trọng và đề cao. Do đó, tư pháp với tư cách là người bảo vệ pháp luật cũng
1

Ngô Huy Cương (2006), Góp phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Tư pháp, Hà
Nội, trang 6.


phải được đề cao, có vị trí xứng đáng trong cơ cấu quyền lực nhà nước. Xét trong một
quan hệ nhất định, tư pháp sẽ thực hiện chức năng kiểm soát cần thiết đối với lập pháp và
hành pháp trong trường hợp hoạt động của lập pháp và hành pháp làm tổn hại tới các
quyền tự do, dân chủ của công dân, hoặc Hiến pháp và pháp luật; do đó, CCTP sẽ đụng

chạm đến quyền hành pháp và lập pháp. Việc CCTP cần hướng tới việc đề cao vai trò của
tư pháp, tính độc lập trong xét xử của Tòa án; tạo ra khả năng, cơ chế để thực hiện những
quyền năng vốn có của tư pháp, làm cho quyền lực nhà nước có hiệu lực và hiệu quả. Vì
vậy, CCTP cần hướng tới đối tượng và mục tiêu sau:
Về đối tượng của CCTP. Theo nghĩa hẹp, đối tượng của CCTP ở Việt Nam hiện
nay đó là toàn bộ hệ thống và hoạt động thực tiễn của Toà án, của đội ngũ thẩm phán và
các qui định của pháp luật có liên quan mà CCTP tác động đến để đạt được kết quả cuối
cùng với tính chất là các chế định pháp lý và các giá trị tinh thần. Theo nghĩa rộng thì đối
tựơng của CCTP là toàn bộ hệ thống toà án, hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ
quan bổ trợ tư pháp cùng những hoạt động thực tiễn và đội ngũ cán bộ của các cơ quan này,
cũng như các qui định mà CCTP tác động đến để đạt hiệu quả cuối cùng. Trong phạm vi
nghiên cứu này chúng tôi tiếp cận nghiên cứu vấn đề theo nghĩa rộng, bởi vì việc đảm bảo
thực hiện quyền con người trong quá trình CCTP không chỉ nằm trong giới hạn hoạt động
xét xử của tòa án, mà nó còn liên quan đến các hoạt động khác như điều tra, truy tố… cũng
như việc đảm bảo các nguyên tắc dân chủ, minh bạch trong quá trình xét xử. Việc CCTP
hiện nay có rất nhiều nội dung, song nghiên cứu này chỉ tiếp cận dưới góc độ cải cách bộ
máy và các nguyên tắc hoạt động tư pháp có liên quan trực tiếp đến các vấn đề đảm bảo các
quyền tự do của con người.
Về mục tiêu của CCTP hiện nay, tức là kết quả cuối cùng với tính chất là các giá trị
cuối cùng mà chúng ta hướng tới trong cải cách tư pháp là: (1) Góp phần nâng cao ý thức
pháp luật về vai trò, chức năng của các cơ quan tư pháp trong xây dựng NNPQ; (2) Làm
cho nhánh quyền lực tư pháp được tổ chức một cách khoa học, độc lập, hoạt động có hiệu
quả và hiệu lực; (3) Làm cho cơ sở của quyền lực Nhà nước thực sự là ý chí của nhân dân;
(4) Góp phần đổi mới và làm cho hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng hoàn thiện, phát
huy hiệu quả trong cuộc sống.


1.1.2. Vị trí, vai trò của các cơ quan tư pháp trong việc đảm bảo quyền con người
1.1.2.1. Toà án nhân dân
Xét xử là hoạt động nòng cốt của tư pháp, đây là bộ phận không thể thiếu trong tổ

chức và vận hành của bộ máy nhà nước. Việc xét xử đã hình thành từ lâu trong tiến trình
phát triển của lịch sử; nó xuất hiện và phát triển cùng với sự phát triển của Nhà nước.
Ngay từ thời chiếm hữu nô lệ, hoạt động xét xử cũng đã diễn ra, song nó chỉ chủ yếu phục
vụ lợi ích của giai cấp chủ nô và những người tự do. Dưới chế độ phong kiến, nhà vua là
người ban hành pháp luật, và cũng là người có quyền xét xử cao nhất, hệ thống cơ quan tư
pháp tập trung trong tay giai cấp quí tộc phong kiến. Chỉ đến thế kỷ XVII-XVIII, khi giai
cấp tư sản phát triển mạnh mẽ cùng với sự ra đời của Nhà nước tư sản thì mô hình tư pháp
độc lập mới thực sự hình thành. Dưới ảnh hưởng của trào lưu tự do với các đại biểu như T.
Hobber, J. Locke, C.L. Mongtesquier, J.J. Rousseau… đã xuất hiện yêu cầu hoạt động tư
pháp phải có tính độc lập, nó là một trong ba nhánh quyền lực căn bản cấu thành quyền lực
nhà nước.
Theo qui định tại Điều 103 và Điều 106 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10
ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội Khóa X, Kỳ họp thứ 10) và Luật Tổ chức
TAND đã được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam Khóa X, kỳ họp thứ 11 thông
qua ngày 02 tháng 4 năm 2002 thì hệ thống TAND của nước ta gồm có:
(1). Tòa án nhân dân tối cao. Theo qui định từ các Điều 18 đến Điều 26 của Luật
Tổ chức TAND thì TAND tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam. Cơ cấu tổ chức của TAND tối cao gồm:
- Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao;
- Tòa án quân sự Trung ương, Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động,
Tòa hành chính và các Tòa phúc thẩm TAND; trong trường hợp cần thiết, ủy ban Thường
vụ Quốc hội quyết định thành lập các Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án
TAND tối cao;


- Bộ máy giúp việc.
Theo qui định tại Điều 19, Luật Tổ chức TAND thì TAND tối cao có những nhiệm
vụ và quyền hạn sau đây:
- Hướng dẫn các tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử;

- Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp
luật bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng;
- Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật
của tòa án cấp dưới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng.
(2). TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Theo qui định của Điều 27, Luật
Tổ chức TAND thì cơ cấu tổ chức của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm có:
- Ủy ban Thẩm phán;
- Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hành chính; trong trường
hợp cần thiết Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các Tòa chuyên trách khác
theo đề nghị của Chánh án TAND tối cao.
- Bộ máy giúp việc.
TAND, thành phố trực thuộc Trung ương có Chánh án, các Phó Chánh án, Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án.
Cũng theo qui định tại Điều 28 của luật trên thì TAND tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương có thẩm quyền:
- Sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng;
- Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật
của Tòa án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng;
- Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án cấp dưới bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng;
- Giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật.


- Tổng kết kinh nghiệm xét xử.
(3). TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Theo qui định, cơ cấu của
TAND cấp này gồm có Chánh án, một hoặc hai Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân, Thư ký Tòa án. TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền sơ
thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng.
(4). Tòa án quân sự. Theo qui định tại Điều 34, Luật Tổ chức TAND thì các tòa án
quân sự được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam để xét xử những vụ án mà bị cáo

là quân nhân tại ngũ và những vụ án khác theo quy định của pháp luật. Các tòa án quân sự
gồm có:
- Tòa án quân sự Trung ương;
- Các tòa án quân sự quân khu và tương đương;
- Các tòa án quân sự khu vực.
Tòa án quân sự Trung ương có Chánh án, các Phó Chánh án, Thẩm phán, Thư ký
tòa án. Chánh án tòa án quân sự Trung ương là Phó Chánh án TAND tối cao, Thẩm phán
Tòa án quân sự Trung ương là Thẩm phán TAND tối cao. Tòa án quân sự quân khu và
tương đương có Chánh án, các Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm quân nhân, Thư ký tòa
án. Tòa án quân sự khu vực có Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm quân nhân,
Thư ký tòa án.
Tòa án xét xử những VAHS, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành
chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật. Trong phạm vi chức năng
của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN; bảo vệ chế độ XHCN và quyền
làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản,
tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể
quyết định thành lập Tòa án đặc biệt.
Thẩm phán là những người chuyên thực hiện chức năng xét xử, họ được cử ra hoặc
được nhân dân bầu lên. Trong quá trình thực hiện chức năng xét xử, Thẩm phán là những
người giữ vai trò trọng yếu, họ là những người nhân danh công lý và tự do để đưa ra các


×