Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Tiểu luận môn quản trị xuất nhập khẩu quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ UCP 600

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.8 KB, 36 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA THƯƠNG MẠI – DU LỊCH – MARKETING
 ******* 

QUY TẮC VÀ THỰC HÀNH THỐNG NHẤT VỀ
TÍN DỤNG CHỨNG TỪ ( UCP 600)

Môn: QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU
GV : ThS Ngô Thị Hải Xuân






NHÓM 5:
NGÔ VĂN LAM
NGUYỄN MINH TRÍ
HUỲNH THỊ HỒNG CHÂU
LÊ VĂN HẢI

TP. Hồ Chí Minh, 30 Tháng 04 năm 2016


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………………....2
Chương I: Tổng quan . ………………………………………..………………………………..3
Chương II: Lịch sử ra đời : …………………………………………………………..6
Chương III: So sánh sự khác biệt của UCP600 với UCP500:……………..……………..8
Chương IV: Vai trò của UCP600 :
1. UCP600 xác định quyền lợi và nghĩa vụ của ngân hàng trong khuôn khổ Thư tín dụng:…12


2. UCP600 là nguồn luật cơ sở để xây dựng các điều khoản chính cho Thư tín dụng chứng từ:
………………………………………………………………………………………...….12
3. UCP 600 là tiêu chí chung cho việc kiểm tra bộ chứng từ:………………………………....13
4. UCP 600 góp phần thúc đẩy hoạt động tín dụng chứng từ tại các ngân hàng ngày càng thuận
tiện và phát triển hơn:……………………………………………………………………….13
Chương V: Nội dung kết cấu của UCP 600 phân theo từng nhóm điều khoản:……..…….15
1.

Các qui định theo nhóm các điều khoản chung (Điều 1-6):……………………………..15

2.

Các quy định theo nhóm điều khoản trách nhiệm và nghĩa vụ các bên (điều 7-13):........19

3.

Nhóm điều khoản quy định về các tiêu chuẩn kiểm tra chứng từ nói chung (Điều 14-17):

…………………………………………………………………………………………..…21
4.

Nhóm điều khoản quy định về bộ chứng từ cụ thể (Điều 18-28):……………………….23

5.

Nhóm điều khoản khác (Điều 29-39):…………………………………………………...28

Chương VI: Một số vấn đề còn hạn chế …………………………………………..……….33
KẾT LUẬN:…………………………………………………………….………………….…..35
TÀI LIỆU THAM KHẢO:…………………………………………………………………......36


2


LỜI MỞ ĐẦU
Quy tắc và thực hành thống nhất Tín dụng chứng từ ( Tên tiếng Anh: The Uniform Customs and
Practice for Documentary Credits (viết tắt là UCP) là một bộ các quy định về việc ban hành và
sử dụng thư tín dụng (hay L/C). UCP được các ngân hàng và các bên tham gia thương mại áp
dụng ở trên 175 quốc gia. Khoảng 11-15% thương mại quốc tế sử dụng thư tín dụng với tổng giá
trị hơn 1.000 tỷ USD mỗi năm.
Về mặt lịch sử, các bên tham gia thương mại, đặc biệt là các ngân hàng, đã phát triển các kỹ
thuật nghiệp vụ và các phương pháp sử dụng thư tín dụng trong tài chính-thương mại quốc tế.
Các thông lệ này đã được Phòng thương mại quốc tế (ICC) tiêu chuẩn hóa thông qua việc xuất
bản UCP năm 1933 và tiếp theo đó là cập nhật nó qua các năm. ICC đã phát triển và đưa vào
khuôn khổ UCP bằng các bản sửa đổi thường xuyên, bản trước đây là UCP500. Kết quả là nỗ
lực quốc tế thành công nhất trong việc thống nhất các quy định từ trước đến nay, khi UCP đã có
hiệu lực thực tế trên toàn thế giới. Bản sửa đổi mới nhất đã được Ủy ban Ngân hàng của ICC
phê chuẩn tại cuộc họp ở Paris vào ngày 25 tháng 10 năm 2006. Bản sửa đổi mới này, gọi là
UCP600, đã chính thức bắt đầu hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2007.
Những thay đổi của UCP 600 giúp cho ngân hàng cũng như khách hàng ngày càng phân rõ trách
nhiệm của mình hơn, tránh sự nhầm lẫn và những tranh cải đáng tiếc xảy ra. Trong quá trình
nghiên cứu đề tài, nhóm còn những thiếu xót ngoài mong muốn, mong sự chỉ dẫn thêm của Cô
và sự góp ý của tất cả các bạn.

3


I.

Tổng quan về phương thức Tín dụng chứng từ:


1. Khái Niệm
Thư tín dụng là một văn bản thể hiện sự cam kết ngân hang mở thư tín dụng đối với nhà
xuất khẩu để thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo những điều khoản thanh toán của hợp
đồng mua bán ngoại thương.
L/C được mở dựa trên hợp đồng ngoại thương. Nhưng L/C do ngân hang mở nên hoàn
toàn độc lập với hợp đồng.
2. Phân loại Thư tín dụng
2.1 Phân loại theo loại hình:
- Thư tín dụng có thể hủy ngang/ có thể hủy bỏ (Revocabel L/C)
- Thư tín dụng không thể hủy ngang/ không thể hủy bỏ (Irrevocable L/C)
2.2 Phân loại theo thời gian thanh toán:
- Thư tín dụng trả ngay (L/C at sight)
- Thư tín dụng trả chậm.
2.3 Các loại Thư tín dụng thương mại:
- Thư tín dụng không thể hủy bỏ.
- Thư tín dụng xác nhận.
- Thư tín dụng miễn truy đòi.
- Thư tín dụng có thể chuyển nhượng
- Thư tín dụng tuần hoàn.
- Thư tín dụng giáp lưng.
- Thư tín dụng đối ứng.
- Thư tín dụng thanh toán dần về sau.
- Thư tín dụng điều khoản đỏ.
3. Nội dung chủ yếu của Thư tín dụng :
3.1 Ngân hàng phát hành L/C
- Ghi sau các chữ FM, FR… or recieived from trong L/C
3.2 Số hiệu, địa điểm và ngày phát hành thư tín dụng
- Số hiệu: tất cả các L/C đều có số hiệu riêng, dung để trao đổi thư từ, điện tín có lien quan
đến việc thực hiện L/C.

- Địa điểm mở L/C: Là nơi mà ngân hang mở L/C viết cam kết trả tiền cho người xuất
khẩu. Địa điểm có ý nghĩa quan trọng trong việc chọn luật áp dụng khi xảy ra tranh chấp
nếu có xung đột phát luật.
- Ngày mở L/C: ngày ngân hàng mở L/C chính thức chấp nhận giấy đề nghị mở L/C của
nhà nhập khẩu.
3.3 Tên, địa chỉ của người có liên quan đến thư tín dụng.
- Người liên quan thư tín dụng chia làm 2 loại: thương nhân và ngân hàng.
- Thương nhân: nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu
- Ngân hàng: Ngân hàng phát hành, ngân hàng thông báo…
3.4 Số tiền.
- Được ghi bằng số và bằng chữ. Không nên ghi số tiền dưới dạng một số tuyệt đối, để
tránh trường hợp nhà xuất khẩu giao hàng khó có thể đúng chính xác giá trị được ghi
trong L/C đẫn đến việc thanh toán gặp khó khăn.
3.4 Thời hạn, hiệu lực, thời hạn trả tiền và thời hạn giao hàng ghi trong Thư tín dụng.
4


- Thời hạn hiệu lực của thư tín dụng: là thời hạn mà ngân hàng phát hành cam kết trả
tiền cho người thụ hưởng nếu người thụ hưởng xuất trình bộ chứng từ trong thời hạn đó và
phù hợp với những quy định trong L/C.
Ngày giao hàng phải nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C và không được trùng với
ngày hết hạn hiệu lực của L/C.
Ngày mở L/C: phải trước ngày giao hàng trong một thời gian hợp lý. Không được
trùng ngày giao hàng.
Thời hạn trả tiền của L/C: Việc trả tiền ngay hay trả tiền sau phụ thuộc vào quy định
của hợp đồng.
Thời hạn giao hàng: được ghi nhận trong L/C là do hợp đồng mua bán quy định.
3.5 Những nội dung mô tả hàng hóa.
- Tên hàng hàng hóa, số lượng, trong lượng, giá cả, quy cách, bao bì, ký mã hiệu… cũng
được ghi vào L/C một cách ngắn gọn, đầy đủ, phù hợp với hợp đồng.

3.6 Những nội dung về giao nhận và vận tải hàng hóa.
- Điều kiện cơ sở giao hàng, nơi gửi hàng, nơi giao hàng, cách vận chuyển…
- Quy định về hàng hóa được giao một lần hay giao nhiều lần.
- Quy định hàng hóa được phép chuyển tải hay không.
3.7 Những chứng từ yêu cầu xuất trình.
- Các loại chứng từ nhà xuất khẩu phải xuất trình tùy vào yêu cầu của hợp đồng.
- Số lượng của mỗi loại chứng từ, yêu cầu về các loại chứng từ đó như thế nào? ….
3.8 Sự cam kết của Ngân hàng phát hành Thư tín dụng.
- Là nội dung cuối cùng của L/C và nó ràng buộc trách nhiệm của ngân hàng mở L/C đối
với L/C này.
3.9 Chữ ký của Ngân hàng phát hành Thư tín dụng.
- L/C thực chất là một khế ước dân sự, nên người mở L/C cũng phải có đủ năng lực hành
vi, năng lực pháp lý để tham gia và thực hiện một quan hệ dân luật, khi mở một L/C phải
có chữ ký ủy quyền của phía ngân hàng mở L/C.
4. Quy trình thanh toán L/C
4.1 Quy trình 1: Yêu cầu phát hành thư tín dụng:
- Nhà nhập khẩu làm giấy đề nghị mở L/C và nộp vào ngân hàng các giấy tờ cần thiết, thực
hiện ký quỹ theo yêu cầu để ngân hàng phát hành L/C cho người xuất khẩu hưởng lợi.
4.2 Quy trình 2: Phát hành thư tín dụng.
- Ngân hàng phát hành L/C theo đúng yêu cầu của giấy đề nghị mở L/C và chuyển đến ngân
hàng đại lý của mình ở nước xuất khẩu.
4.3 Thông báo Thư tín dụng
- Ngân hàng thông báo chuyển L/C bản gốc tới cho nhà xuất khẩu để người này đánh giá
khả năng thực hiện L/C của mình và để nghị tu chỉnh khi cần.
4.4 Quy trình 4: Giao hàng
- Nhà xuất khẩu giao hàng theo đúng quy định L/C và các văn bản tu chỉnh L/C (nếu có)
4.5 Quy trình 5: Xuất trình giấy tờ.
- Người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo đúng quy định của L/C và các văn bản tu chỉnh
(nếu có) xuất trình cho ngân hàng đúng thời hạn quy định.
4.6 Quy trình 6, 7, 8 : Thanh toán hoặc từ chối thanh toán.


5


-

-

Ngân hàng phát hành thông báo kết quả kierm tra chứng từ bằng văn bản cho Người yêu
cầu và quy định Người yêu cầu phải trả lời bằng văn bản trong vòng 2 ngày làm việc, nếu
quà thời hạn, coi như đồng ý với kết quả kiểm tra của Ngân hàng phát hành.
Người yêu cầu dựa vào các chứng từ bản sao để kiểm tra lại chứng từ, nếu thống nhất với
kết quả kiểm tra của ngân hàng thì trả lời hoặc từ chối hoặc chấp nhận.

II. Lịch sử ra đời của UCP:
UCP-DC (Uniform Customs Practice - Documentary Credit): Quy tắc và thực hành thống
nhất về tín dụng chứng từ - dùng cho thanh toán bằng L/C (Letter of Credit). UCP do phòng
Thương mại quốc tế ICC (International Commerce Chamber) phát hành. ICC được thành lập
6


vào năm 1919 có trụ sở tại Pa-ri (Pháp). Với mục tiêu ban đầu là thúc đẩy thương mại quốc tế
vào thời điểm mà chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa bảo hộ đe dọa nghiêm trọng hệ thống thương
mại thế giới. Trên tinh thần đó, UCP được ban hành lần đầu tiên vào năm 1933 (UCP số 82)
nhằm thống nhất những quan niệm trong thực hành Thư tín dụng (L/C), giảm thiểu sự xung đột
pháp luật giữa các giới thương nhân các quốc gia với nhau và giữa họ với ngân hàng trong vấn
đề thanh toán liên quan đến L/C. Đến nay đã có trên 180 nước trên thế giới và khu vực áp dụng
UCP cho thấy sự thành công của quy tắc này. UCP là quy tắc của một tổ chức quốc tế phi chính
phủ (ICC), chứ không phải là luật pháp quốc tế hay luật pháp quốc gia.
• UCP được sửa đổi lần thứ nhất vào năm 1951. (UCP số 151)

• UCP được sửa đổi lần thứ hai vào năm 1962. (UCP số 222)
• UCP được sửa đổi lần thứ ba vào năm 1974. (UCP số 290)
• UCP được sửa đổi lần thứ tư vào năm 1983. (UCP số 400)
• UCP được sửa đổi lần thứ năm vào năm 1993.
(UCP số 500) là kết quả của 5 năm nghiên cứu của các chuyên gia và uỷ ban quốc gia
của ICC. Lần sửa đổi này ngoài mục đích chính là để đáp ứng được sự phát triển mới trong công
nghiệp vận tải và những ứng dụng công nghệ mới, còn xuất phát từ bất cập phần lớn chứng từ
xuất trình bị từ chối do không phù hợp với thư tín dụng. UCP500 bắt đầu có hiệu lực từ ngày
01/01/1994. Để đáp ứng sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử, thanh toán quốc tế cũng
phải thay đổi để phù hợp với xu thế phát triển đó. Do đó, UCP được bổ sung thêm phần về thanh
toán điện tử hay gọi là eUCP và có hiệu lực từ ngày 01/04/2002. Tuy nhiên, ngay khi công việc
xem xét lại được tiến hành, thông qua một số kết quả điều tra toàn cầu, uỷ ban Kỹ thuật và
Nghiệp vụ ngân hàng nhận thấy có tới khoảng 70% chứng từ xuất trình theo tín dụng thư đã bị
từ chối ở lần xuất trình đầu tiên vì có sai sót. Điều này sẽ làm cho chi phí tăng lên do các trường
hợp phải chịu phí chứng từ bất hợp lệ gia tăng và quan trọng hơn là những sai sót chứng từ lại tỏ
ra không mấy rõ ràng, làm ảnh hưởng không tốt tới phương thức thanh toán tín dụng chứng từ,
vốn dĩ là phương thức thanh toán quốc tế có nhiều ưu điểm. Do đó, vào tháng 5 năm 2003,
phòng thương mại quốc tế (ICC) đã uỷ quyền cho uỷ ban Kỹ thuật và Nghiệp vụ ngân hàng
(ICC Commission on Banking Technique and Practice) bắt đầu xem xét lại UCP500 để có thể
có những sửa đổi cần thiết đáp ứng với tình hình thực tiễn mới.
Cũng như những lần sửa đổi trước đây, mục đích chính của lần sửa đổi lần này là để đáp ứng
được sự phát triển mới trong hoạt động ngân hàng, vận tải, bảo hiểm. UCP được sửa đổi lần thứ
sáu vào năm 2007. (UCP số 600) có hiệu lực từ ngày 01/07/2007.
7


(Số kèm theo UCP là số hiệu văn bản ấn hành, còn được viết tắt là UCP No...)

III. So sánh sự khác biệt của UCP600 với UCP500:
Cũng như những lần sửa đổi trước đây, mục đích chính của lần sửa đổi này là để đáp ứng

được sự phát triển trong hoạt động ngân hàng, vận tải và bảo hiểm. Hơn nữa, cũng cần thiết xem
xét lại ngôn ngữ và phong cách đã được sử dụng trong UCP để loại bỏ những cách diễn đạt có
8


thể gây ra sự hiểu nhầm và áp dụng không thống nhất. Có rất nhiều chứng từ đã bị từ chối ngay
lần xuất trình đầu tiên, dẫn đến chi phí tăng lên do các trường hợp phải chịu phí chứng từ bất
hợp lệ gia tăng (thông thường mỗi bộ chứng từ bất hợp lệ sẽ bị thu phí từ 50 - 100USD khi
thanh toán) và quan trọng hơn là những sai sót chứng từ đó lại tỏ ra không mấy rõ ràng. Do đó,
Ban soạn thảo gồm 9 thành viên đã ra đời để sửa đổi UCP 500, đồng thời, ủy ban Kỹ thuật và
Nghiệp vụ ngân hàng thành lập Ban cố vấn gồm 41 thành viên là các chuyên gia trong lĩnh vực
ngân hàng và vận tải đến từ 26 nước trên thế giới. Sau 3 năm soạn thảo và chỉnh lý, ngày 25
tháng 10 năm 2006, ICC đã thông qua Bản Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ
số 600 (UCP 600) thay cho UCP 500. UCP 600 sẽ có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2007.
UCP 600 có một số thay đổi cơ bản so với UCP 500 như sau:
Thứ nhất, về hình thức, UCP 600 được bố cục lại với 39 điều khoản (so với 49 điều
khoản của UCP 500), trong đó bổ sung nhiều định nghĩa và giải thích thuật ngữ mới để làm rõ
nghĩa của các thuật ngữ còn gây tranh cãi trong bản UCP 500. Chẳng hạn, điều 2 “Definitions”
(Định nghĩa) của UCP 600 đã nêu ra một loạt định nghĩa như: Advising bank, Applicant,
Beneficiary, Complying presentation, Confirmation, Confirming bank, Credit, Honour,
Negotiation, Presentation…
Thứ hai, UCP 600 đã quy định rõ thời gian cho việc từ chối hoặc chấp nhận các chứng từ
xuất trình là khoảng thời gian cố định “5 ngày làm việc ngân hàng” (five banking days). ở UCP
500, khoảng thời gian này được quy định không rõ ràng là “Thời gian hợp lý” (Reasonable
Time) và “Không chậm trễ” (Without delay) để kiểm tra chứng từ và thông báo chứng từ bất
hợp lệ. Cụ thể như sau:
UCP 600 Điều14(b) & 16 (d)

UCP 500 Điều 13(b) & 14(d)(i)


Ngân hàng được chỉ định, NH xác nhận, Ngân hàng phát hành, Ngân hàng xác
nếu có, và ngân hàng phát hành sẽ có tối nhận, nếu có, hoặc Ngân hàng được
đa mỗi Ngân hàng là 5 ngày làm việc tiếp chỉ định, mỗi Ngân hàng có một thời
theo ngày xuất trình chứng từ để xác định gian hợp lý, nhưng không quá 7 ngày
chứng từ xuất trình có hợp lệ hay không , làm việc tiếp theo ngày nhận chứng
Thông báo từ chối bộ chứng từ theo yêu từ, để kiểm tra chứng từ và quyết định
cầu ở điều 16c phải được gửi bằng viễn sẽ nhận hay từ chối chứng từ và thông
thông, hoặc nếu không thể được, thì bằng báo cho bên mà từ đó Ngân hàng này
phương tiện nhanh chóng khác không nhận chứng từ, biết quyết định của
muộn hơn ngày làm việc thứ 5 của ngân mình. Nếu Ngân hàng phát hành và/
9


hàng tiếp theo ngày xuất trình chứng từ.

hoặc Ngân hàng xác nhận, nếu có
hoặc Ngân hàng được chỉ định hành
động thay mặt ngân hàng này quyết
định từ chối chứng từ thì phải gửi
thông báo về quyết định này bằng viễn
thông hoặc nếu không thể được, thì
bằng phương tiện nhanh chóng khác,
không chậm trễ nhưng cũng không
muộn hơn ngày làm việc thứ 7 của
ngân hàng tiếp theo ngày nhận bộ
chứng từ.

Thứ ba, UCP 600 đã đưa ra quy định mới về địa chỉ của người yêu cầu mở và người
hưởng lợi thư tín dụng phải được thể hiện trên chứng từ xuất trình đúng như trong L/C
UCP 600 Điều 14(j)


UCP 500 Điều 37

Khi địa chỉ của người hưởng lợi và người Trừ khi qui định khác trong thư tín dụng, hoá
yêu cầu mở thư tín dụng thể hiện trên bất dơn thương mại, Phải thể hiện trên bề mặt là
kỳ chứng từ nào thì không nhất thiết phải được phát hành bởi người hưởng lợi ghi trong
giống như địa chỉ trong thư tín dụng hoặc thư tín dụng (trừ trường hợp ghi trong điều 48.
trong bất kỳ một chứng từ nào khác, tuy Phải được lập cho người yêu cầu mở thư tín
nhiên phải trong cùng nước với địa chỉ dụng (trừ trường hợp nêu trong điều 48(h).
tương ứng qui định trong thư tín dụng.
Các chi tiết liên lạc (số fax, điện thoại,
Email…) là một phần địa chỉ của người
hưởng và người yêu cầu mở thư tín dụng
sẽ bị bỏ qua. Tuy nhiên khi địa chỉ và các
chi tiết liên lạc của người yêu cầu mở thư
tín dụng xuất hiện như là một phần chi tiết
của người nhận hàng hay bên được thông
báo trong chứng từ vận tải theo điều 19,
20, 21, 22, 23, 24 hoặc 25 thì phải giống
như trong thư tín dụng.
10


Thứ tư, theo UCP 600, ngân hàng phát hành được phép từ chối chứng từ và giao bộ
chứng từ cho người yêu cầu mở thư tín dụng khi nhận được chấp nhận bộ chứng từ bất hợp lệ
của họ.
UCP 600 Điều 16(c)

UCP 500 Điều 14 (d) i.


Khi ngân hàng được chỉ định, Ngân Ngân hàng phát hành, Ngân hàng
hàng xác nhận, nếu có, hoặc Ngân xác nhận, nếu có hoặc Ngân hàng
hàng phát hành từ chối chấp nhận được chỉ định, mỗi Ngân hàng sẽ có
hoặc chiết khấu bộ chứng từ xuất một thời gian hợp lý, nhưng không
trình, thì phải gửi một thông báo duy quá 7 ngày làm việc ngân hàng tiếp
nhất cho người xuất trình. Thông báo theo ngày nhận chứng từ, để kiểm
phải nêu rõ.
i)

tra chứng từ và quyết định sẽ nhận

Ngân hàng từ chối chấp hay từ chối chứng từ và thông báo
nhận hoặc chiết khấu.

ii)

cho bên mà từ đó Ngân hàng này

Mỗi điểm bất hợp lệ theo nhận chứng từ, biết quyết định của
đó Ngân hàng từ chối chấp mình. Thông báo đó phải nêu tất cả
nhận hoặc chiết khấu.

iii)

những điểm bất hợp lệ mà theo đó

a) Ngân hàng đang giữ Ngân hàng từ chối các chứng từ và
chứng từ chờ các chỉ dẫn cũng ghi rõ Ngân hàng đang giữ bộ
tiếp theo từ người xuất chứng từ để tuỳ quyền định đoạt của
trình; hoặc


người xuất trình hay trả chứng lại

b) Ngân hàng phát hành cho người xuất trình.
đang giữ bộ chứng từ cho
tới khi nhận được chấp
nhận bộ chứng từ bất hợp
lệ của người yêu cầu mở
thư tín dụng và đồng ý với
việc chấp nhận đó, hoặc
nhận các chỉ dẫn tiếp theo
từ người xuất trình trước
khi đồng ý việc chấp nhận
bộ chứng từ của người mở
11


yêu cầu thư tín dụng, hoặc
c) Ngân hàng đang gửi trả
lại bộ chứng từ, hoặc
d) Ngân hàng đâng hành
động theo các chỉ dẫn từ
người xuất trình chứng từ
đã nhận từ trước.

IV. Vai trò của UCP600 trong việc điều chỉnh phương thức tín dụng
chứng từ:
1. UCP600 xác định quyền lợi và nghĩa vụ của ngân hàng trong khuôn khổ Thư tín
dụng:
Sự ra đời của UCP đã đánh dấu một bước đột phá mới trong nghiệp vụ thanh toán quốc

tế, bởi UCP là cơ sở pháp lý duy nhất quy định một cách cụ thể trách nhiệm của các bên tham
gia phương thức tín dụng chứng từ, mà chú trọng nhất là trách nhiệm của ngân hàng.
UCP600 khẳng định bản chất của thư tín dụng là một cam kết thanh toán có điều kiện của
Ngân hàng phát hành bằng việc quy định trách nhiệm của ngân hàng phát hành trong điều 7 như
12


đã phân tích ở trên. Điều đó cũng có nghĩa là ngân hàng phát hành có quyền từ chối trong
trường hợp bộ chứng từ xuất trình có sai sót. Mặt khác, ngân hàng xác nhận với tư cách là ngân
hàng thứ 3 đứng ra chịu trách nhiệm trả tiền thay cho ngân hàng phát hành nếu ngân hàng phát
hành không có khả năng thanh toán. UCP600 cũng quy định rõ trách nhiệm của các ngân hàng
có liên quan khác như ngân hàng thông báo, ngân hàng thương lượng thanh toán, ngân hàng
hoàn trả…Trách nhiệm của ngân hàng nói chung là làm thế nào để phương thức thanh toán tín
dụng chứng từ được vận hành an toàn và suôn sẽ. Ngân hàng làm việc chỉ dựa trên cơ sở bộ
chứng từ xuất trình mà không quan tâm tới hợp đồng nên đây cũng là căn cứ duy nhất để ngân
hàng xem xét đồng ý hay từ chối trả tiền cho người hưởng lợi hay là để người nhập khẩu đồng ý
hay từ chối trả tiền cho ngân hàng. Do đó, trong phương thức tín dụng chứng từ, bộ chứng từ
đóng vai trò vô cùng quan trọng vì nó tượng trưng cho giá trị hàng hoá.
Bằng việc quy định rõ quyền, nghĩa vụ của các ngân hàng tham gia vào quy trình tín dụng
chứng từ, UCP600 đã đảm bảo chắc chắn cam kết thanh toán của ngân hàng đối với người xuất
khẩu, tạo lòng tin cho người xuất khẩu trong giao dịch mua bán ngoại thương. Từ đó, thúc đẩy
góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế phát triển.
2. UCP600 là nguồn luật cơ sở để xây dựng các điều khoản chính cho Thư tín dụng
chứng từ:
UCP600 quy định cụ thể về tiêu chuẩn lập các loại chứng từ như chứng từ thương mại,
chứng từ vận tải, chứng từ bảo hiểm,…Nội dung của các loại chứng từ này thể hiện rõ trách
nhiệm của người xuất khẩu trong việc giao hàng đúng hạn và đúng địa điểm đã thoả thuận (Bill
of lading), đảm bảo cung cấp đúng loại hàng hoá (Invoice), bồi thường rủi ro (Insurance), theo
đúng chất lượng, số lượng đã thoả thuận (Certificate of Quality, Certificate of Quantity), đúng
nguồn gốc xuất xứ (Certificate of Origin) và các trách nhiệm khác. Nếu theo đúng các điều

khoản quy định trong UCP 600, các ngân hàng có thể tư vấn cho người nhập khẩu đưa vào nội
dung Thư tín dụng những điều khoản buộc người xuất khẩu phải tuân thủ miễn sao nó không
mâu thuẫn với các điều khoản của hợp đồng đã ký giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu.
3. UCP 600 là tiêu chí chung cho việc kiểm tra bộ chứng từ:
Trên cơ sở các quy định của UCP600, người nhập khẩu đã đưa vào nội dung L/C những
yêu cầu đối với hàng hoá và những yêu cầu bắt buộc người xuất khẩu phải thực hiện thông qua
việc xuất trình bộ chứng từ gồm những chứng từ và văn bản pháp lý nhất định. Người xuất khẩu,
để được ngân hàng thanh toán tiền hàng, sẽ phải lập các chứng từ với nội dung sao cho thể hiện
rõ mình đã hoàn thành mọi yêu cầu mà người nhập khẩu đưa ra. Chính vì vậy, khi kiểm tra
13


chứng từ xuất trình, ngân hàng không chỉ dựa trên L/C mà còn phải dựa trên UCP để xác định
chứng từ có tuân thủ đúng các quy định của UCP 600 hay không. Nếu bộ chứng từ người xuất
trình có sai sót thì ngân hàng phải lập tức thông báo và yêu cầu người xuất khẩu sửa đổi cho phù
hợp.
Trước khi UCP ra đời, các ngân hàng thuộc các nước khác nhau phải áp dụng luật thương
mại của nước mình để điều chỉnh các quan hệ trong thanh toán quốc tế nói chung và thanh toán
quốc tế nói riêng. Điều này đã dẫn đến các mâu thuẫn, tranh chấp, xung đột xảy ra trong thực
tiễn sử dụng phương thức tín dụng chứng từ mang tính quốc tế. Điều này dễ hiểu vì mỗi nước có
các nguồn pháp lý khác nhau theo cơ chế chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi nước. Hơn nữa,
phương thức tín dụng chứng từ là một quy trình phức tạp đòi hỏi phải tiến hành một cách chặt
chẽ. Vì vậy, chỉ từ khi UCP ra đời thì các vấn đề nêu trên mới được giải quyết. UCP ra đời với
mục đích chính là tinh lược thực tiễn ngân hàng quốc tế nhằm tiêu chuẩn hoá các thực tiễn
chung đang áp dụng.
4. UCP 600 góp phần thúc đẩy hoạt động tín dụng chứng từ tại các ngân hàng ngày
càng thuận tiện và phát triển hơn:
Hiện nay, tất cả các ngân hàng kiểm tra chứng từ xuất trình dựa trên các nguyên tắc của
UCP600, và đương nhiên mọi tranh chấp phát sinh cũng được điều chỉnh theo UCP 600. Hơn
nữa, là ấn bản mới nhất được sửa đổi dựa trên sự đồng thuận của các chuyên gia tài chính –

ngân hàng nên UCP600 giúp cho hoạt động ngân hàng được thuân tiện hơn, giúp cho hoạt động
thanh toán quốc tế nhanh gọn và chuyên nghiệp. Dưới sự điều chỉnh của UCP 600, hoạt động
ngân hàng được thống nhất trên phạm vi thế giới, cùng với sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật tiên
tiến, tốc độ xử lý giao dịch được đẩy nhanh, đáp ứng nhu cầu về đẩy nhanh hoạt động thương
mại (trong đó có thanh toán quốc tế).
Ngoài ra, chính UCP cũng hỗ trợ cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong
việc lập các chứng từ thương mại, góp phần thúc đẩy tốc độ hoạt động thương mại, tốc độ hội
nhập toàn cầu của bản thân từng doanh nghiệp và qua đó thúc đẩy hoạt động thương mại phát
triển thịnh vượng.

14


V. Nội dung kết cấu của UCP 600 phân theo từng nhóm điều khoản:
1.

Các qui định theo nhóm các điều khoản chung (Điều 1-6)

1.1 Điều 1- Phạm vi áp dụng của UCP 600:
UCP 600 đã đề cập rằng UCP là các “quy tắc áp dụng cho bất kỳ tín dụng chứng từ nào”
và đã thay đổi cụm từ “tất cả các Tín dụng chứng từ” (all Documentary Credits) bằng cụm từ
“bất cứ tín dụng chứng từ nào” (any Documentary Credit) hay thay đổi sử dụng thành cụm từ
“…nếu nội dung của thư Tín dụng chỉ ra một cách rõ ràng là có dẫn chiếu đến quy tắc này”.
Ví dụ: L/C chỉ áp dụng UCP 600 khi trong L/C ghi rõ tham chiếu L/C 600.
Việc thay đổi một số thuật ngữ như vậy làm cho dễ hiểu và súc tích hơn.
Hơn nữa, UCP 600 có nhấn mạnh rằng: “... các Quy tắc này ràng buộc tất cả các bên, trừ khi Tín
dụng loại trừ hoặc sửa đổi một cách rõ ràng” (They are binding on all parties thereto unless
15



expressly modified or excluded by the credit) thể hiện rõ trách nhiệm của các bên tham gia,
không đề cập mơ hồ như cụm từ “thỏa thuận khác” sẽ gây ra nhầm lẫn.
UCP sau ra đời thì UCP trước vẫn còn nguyên giá trị hiệu lực nếu các bên thỏa thuận áp dụng
UCP đó.
1.2 Điều 2- Các định nghĩa:
UCP 600 ngoài việc giữ lại một số định nghĩa của UCP 500 còn bổ sung thêm một số
định nghĩa mới, trong đó có một số thuật ngữ lưu ý sau:
Nêu ra các định nghĩa như ngân hàng phát hành, ngân hàng thông báo, ngân hàng xác
nhận, ngân hàng chỉ định, người yêu cầu, người thụ hưởng…
• Ngân hàng phát hành là ngân hàng phát hành Thư tín dụng theo yêu cầu của người xin mở
Thư tín dụng hoặc nhân danh chính mình.
• Ngân hàng thông báo là ngân hàng thông báo Thư tín dụng theo yêu cầu của ngân hàng phát
hành.
• Người xin mở Thư tín dụng là người yêu cầu phát hành Thư tín dụng.
• Ngày làm việc của ngân hàng là ngày mà ngân hàng thường mở cửa làm việc tại một nơi mà
hoạt động có liên quan đến các quy tắc này được thực hiện.
• Người thụ hưởng là bên mà vì quyền lợi của bên đó mà Thư tín dụng được phát hành.
• Xuất trình chứng từ hợp lệ nghĩa là việc xuất trình chứng từ phù hợp với các điều kiện và điều
khoản của Thư tín dụng, những quy định áp dụng cho bản quy tắc này và tập quán ngân hàng
theo tiêu chuẩn quốc tế (ISBP).
• Xác nhận là một cam kết chắc chắn của ngân hàng bổ sung vào xác nhận cam kết của ngân
hàng phát hành sẽ thanh toán (đúng hạn) hay chiết khấu bộ chứng từ hợp lệ.
• Ngân hàng xác nhận là ngân hàng thực hiện xác nhận của mình đối với một Thư tín dụng theo
yêu cầu hoặc theo sự ủy quyền của ngân hàng phát hành.
• Thư tín dụng là bất cứ thỏa thuận nào, dù cho được mô tả hoặc đặt tên như thế nào, nhưng
không thể hủy bỏ và do đó là một cam kết chắc chắn của ngân hàng phát hành về việc thanh
tóan cho một bộ chứng từ hợp lệ.
• Thanh toán (đúng hạn) có nghĩa là:
-Trả ngay khi xuất trình, nếu Thư tín dụng có giá trị thanh toán ngay.
16



-Cam kết trả sau và trả tiền khi đáo hạn, nếu Thư tín dụng có giá trị thanh toán về sau.
-Chấp nhận hối phiếu đòi nợ (“draft”) do người thụ hưởng ký phát và trả tiền khi đáo hạn, nếu
Thư tín dụng có giá trị thanh toán bằng chấp nhận.
Do đó có thể hiểu thanh toán: không đơn thuần là trả tiền ngay mà còn có thể là cam kết trả
tiền vào ngày đáo hạn hoặc chấp nhận hối phiếu trả chậm.
• Ngân hàng phát hành là ngân hàng phát hành Thư tín dụng theo yêu cầu của người xin mở
Thư tín dụng hoặc nhân danh chính mình.
• Chiết khấu nghĩa là việc mua lại hối phiếu của ngân hàng được chỉ định (hối phiếu này ký
phát cho một ngân hàng khác mà không phải là ngân hàng được chỉ định) và (hoặc) mua lại
Bộ chứng từ hợp lệ bằng cách thanh toán trước hay chấp nhận thanh toán trước cho người thụ
hưởng trước hoặc vào ngày ngân hàng được chỉ định phải thanh toán, ngày nay phải thanh
toán, ngày này phải là ngày làm việc của ngân hàng.
• Ngân hàng chỉ định là ngân hàng mà Thư tín dụng có giá trị thanh toán tại ngân hàng đó hoặc
bất cứ ngân hàng nào trong trường hợp Thư tín dụng có giá trị thanh toán đối với bất cứ ngân
hàng nào.
• Xuất trình chứng từ nghĩa là việc chuyển giao chứng từ theo một Thư Thư tín dụng cho ngân
hàng phát hành hoặc ngân hàng chỉ định hoặc các chứng từ được chuyển giao như thế.
• Người xuất trình chứng từ là người thụ hưởng, ngân hàng hoặc bất cứ bên nào khác thực hiện
việc xuất trình chứng từ.
1.3 Điều 3 - Các diễn giải:
UCP 600 đã loại bỏ quy định về tín dụng có thể huỷ ngang.
Một L/C không qui định là hủy ngang hay không hủy ngang thì luôn được xem như là
không thể hủy ngang. Đây là một sửa đổi hợp lý của UCP 600. Một mặt, nó loại bỏ những đối
tượng không thuộc áp dụng của UCP, mặt khác, tránh được những mâu thuẫn giữa các điều
khoản trong UCP.
Một chứng từ có thể được kí bằng nhiều hình thức như: bằng tay, bằng FAX, con dấu, đục lỗ…
Các chi nhánh của một ngân hàng ở các nước khác nhau được coi là các ngân hàng độc
lập.

Và giải thích một số từ ngữ hay dùng trong L/C:
17


Những cụm từ như “hạng nhất”, “nổi tiếng”, “đủ tư cách”, “độc lập”, “chính thức”, “có thẩm
quyền” hoặc “nội hạt” sử dụng để mô tả người phát hành chứng từ, cho phép bất cứ người phát
hành nào, trừ người thụ hưởng, phát hành chứng từ đó.
Ngoài ra, nếu như trước đây UCP500 chỉ đề cập quy định về từ “from” và “after” chỉ
trong mối liên hệ với thời hạn giao hàng thì UCP 600 đã tách bạch rõ ràng quy định này, tức là
khi các từ này được sử dụng để chỉ ngày đáo hạn thì sẽ không bao gồm ngày tính toán, tuy
nhiên, nếu được sử dụng để chỉ ngày giao hàng thì lại bao gồm cả ngày tính toán.
UCP 600 cũng đã quy định rõ thời gian cho việc từ chối hoặc chấp nhận chứng từ xuất
trình là khoảng thời gian cố định “tối đa là 5 ngày làm việc của ngân hàng” (maximum period of
five banking days) thay cho khoảng thời gian quy định không rõ ràng trong UCP 500 là “khoảng
thời gian hợp lý”(Resonable time) và “không chậm trễ” để ngân hàng kiểm tra chứng từ và
thông báo chứng từ bất hợp lệ. Quy định này sẽ giúp đẩy nhanh quá trình xử lý chứng từ của
ngân hàng, qua đó thúc đẩy nhanh hoạt động thương mại quốc tế thông qua phương thức tín
dụng chứng từ.
Có thể xem trường hợp sau:
• Ví dụ: Một L/C qui định “shipment to be made on or about July 15, 2013”
Nghĩa là: Ngày giao hàng bao gồm tất cả các ngày từ 10/ July đến 20/July kể cả ngày 10 và 20.
• Một L/C qui định “shipment to be made from July 10, 2013 to July 15, 2013”
Nghĩa là: Ngày giao hàng là các ngày từ 10 đến 15, July, 2013
Các định nghĩa và giải thích thuật ngữ như vậy nhằm giúp các bên tham gia trong quá trình
thanh toán tín dụng chứng từ hiểu rõ ràng, giao dịch trôi chảy hơn và tránh khỏi tranh chấp
không đáng có.
1.4 Điều 4: Thư tín dụng và hợp đồng:
Giải thích về bản chất Thư tín dụng và Hợp đồng
Thư tín dụng và Hợp đồng riêng biệt với nhau. Thư tín dụng (L/C) là cam kết của ngân hàng về
việc thanh toán với người thụ hưởng còn Hợp đồng là cam kết của hai bên giữa xuất khẩu và

nhập khẩu hàng hóa.
Ví dụ: Nhà nhập khẩu có thể làm đơn yêu cầu mở L/C có nội dung khác so với Hợp đồng mua
bán quốc tế còn việc chấp nhận hay không là quyền của ngân hàng phát hành.
18


Về cơ bản, điều 4 UCP 600 gần như không có gì thay đổi so với điều 3 UCP 500, chỉ bổ sung
thêm một điều khoản nữa ở điều 4(b) quy định mang tính khuyến nghị của ngân hàng phát hành
đối với người yêu cầu không nên đính kèm hay đưa các văn bản hợp đồng cơ sở như một phần
cấu thành của tín dụng. Vì nếu như theo quy định cũ, thì ngân hàng cần kiểm tra toàn bộ hợp
đồng chứ không chỉ phần mô tả có liên quan.
Vì với hệ thống thông tin điện tử ngày càng hiện đại đã tạo thuận lợi cho người yêu cầu mô tả
hàng hoá ngay trong thư tín dụng.
1.5 Điều 5- Chứng từ so với hàng hóa, dịch vụ hoặc giao dịch:
Các ngân hàng giao dịch trên cơ sở các chứng từ chứ không phải bằng hàng hóa dịch vụ hoặc
thực hiện khác mà các chứng từ có liên quan.
Ví dụ: một doanh nghiệp nhập khẩu đã thanh toán tiền cho ngân hàng phát hành và nhận bộ
chứng từ. Khi nhận hàng, nhà nhập khẩu phát hiện hàng không đúng chất lượng và qui cách như
đã nêu trên chứng từ. Nhà nhập khẩu không thể truy đòi tiền từ ngân hàng phát hành.
1.6 Điều 6: Có giá trị thực hiện, ngày hết hạn và nơi xuất trình:
Điều 6 UCP 600 là sự tổng hợp nội dung hai điều khoản (Điều 10 và Điều 42) của UCP 500.
UCP 600 có nhiều lựa chọn hơn cho người hưởng lợi. Cụ thể là UCP 500 chỉ cho phép tín dụng
chiết khấu tự do (free negotiable Credit) mới có thể được chấp nhận bởi bất cứ ngân hàng nào.
Nhưng theo điều 6 (a) UCP 600 cho phép người hưởng lợi được lựa chọn ngân hàng trả tiền nếu
tín dụng quy định hai ngân hàng trả tiền. Cụ thể là một tín dụng phải qui định nó có gía trị thanh
toán vơi một ngân hàng nào đó hoặc với bất kì ngân hàng nào và phải qui định hình thức thanh
toán. Bên cạnh đó, UCP quy định rõ ràng L/C “không được” quy định hối phiếu ký phát đòi tiền
người yêu cầu, và điều này được diễn giải cụ thể và chi tiết hơn trong ISBP 681 (p54) đã giải
thích: L/C có thể quy định như vậy (theo điều 1 UCP 600) nhưng tuyệt đối không được phát hành
L/C có giá trị thanh toán bằng hối phiếu ký phát đòi tiền người yêu cầu. Hơn nữa, “coi hối phiếu

như một chứng từ phụ” trong UCP 500 thể hiện tính mơ hồ về mặt ngôn từ.
Ngày hết hạn: ngày hết hạn thanh toán hoặc thương lượng thanh toán được coi như ngày hết
hạn xuất trình và được qui định trong L/C.
Nơi xuất trình: là địa điểm của ngân hàng mà tại đó tín dụng có giá trị thanh toán. Thực tế nhà
xuất khẩu không xuất trình đến ngân hàng phát hành vì không có quan hệ tốt và thường yêu cầu
ngân hàng phát hành chỉ định một ngân hàng khác thực hiện thanh toán.
19


2. Các quy định theo nhóm điều khoản trách nhiệm và nghĩa vụ các bên (điều 7-13):
2.1 Điều 7- Nghĩa vụ của Ngân hàng phát hành:
Điều 7(a) có quy định: chỉ có Ngân hàng chỉ định mới được Ngân hàng phát hành ủy quyền
thương lượng thanh toán chứ Ngân hàng phát hành không thương lượng thanh toán (vì nó là
Ngân hàng trả tiền cuối cùng – final drawee bank). Mặt khác, trong trường hợp ngân hàng chỉ
định không thương lượng thanh toán, thì ngân hàng phát hành phải thanh toán cho người thụ
hưởng nếu chứng từ xuất trình phù hợp.
Cho nên, khi đã phát hành tín dụng, ngân hàng phát hành phải thực hiện việc thanh toán với bất
kì điều kiện nào.
Ngân hàng phát hành hoàn trả tiền cho ngân hàng chỉ định vào thời điểm đáo hạn cho dù ngân
hàng chỉ định này đã thanh toán hoặc đã thương lượng thanh toán trước cho một xuất trình phù
hợp.
2.2 Điều 8- Nghĩa vụ của Ngân hàng xác nhận:
Trong trường hợp xuất khẩu vào những thị trường rủi ro thì nhà xuất khẩuyêu cầu thêm một
ngân hàng có uy tín xác nhận vào L/C như một công cụ bảo hiểm.
Ngân hàng xác nhận có vai trò tương tự như ngân hàng phát hành trong phương thức thanh
toán bằng L/C. Điều đó có nghĩa là 2 ngân hàng này độc lập chịu trách nhiệm thanh toán L/C:
nếu một trong 2 ngân hàng phá sản thì người hưởng lợi vẫn có thể đòi tiền ngân hàng còn lại,
nếu việc xuất trình là hợp lệ.
2.3 Điều 9: Thông báo Thư tín dụng và tu chỉnh:
Thư tín dụng và bất cứ sửa đổi nào có thể được thông báo cho người thụ hưởng thông qua

ngân hàng thông báo.
Cụ thể điều 9 UCP 600 quy định về việc thư tín dụng và các sửa đổi, theo đó “Bằng việc
thông báo thư tín dụng hoặc sửa đổi thư tín dụng, ngân hàng thông báo phải thể hiện là nó đã
kiểm tra tính chân thật của thư tín dụng hoặc sửa đổi nó và thông báo đó phải phản ánh chính
xác các điều khoản của thư tín dụng hoặc sửa đổi mà ngân hàng thông báo đó đã nhận được.
Nghĩa vụ của ngân hàng thông báo thứ hai cũng giống như ngân hàng thông báo”. Việc này là
để đảm bảo an toàn cho người thụ hưởng tránh nhận phải một L/C giả. Khi nhận được một L/C,
ngân hàng thông báo xác thực bằng văn bảng rõ ràng tính xác thực của L/C cho người thụ
hưởng. Nếu một ngân hàng được ngân hàng phát hành chỉ thị thông báo mà không làm việc đó
20


thì phải thông báo không chậm trễ cho Ngân hàng phát hành. Ngân hàng thông báo có thể sử
dụng dịch vụ của ngân hàng thông báo thứ 2. Lần đầu tiên vai trò của ngân hàng thông báo thứ
hai được nhắc đến trong UCP 600, ngân hàng thông báo thứ hai là khá quan trọng vì mối quan
hệ giữa các nước khác nhau sẽ bị hạn chế về nhiều mặt như không gian, tập quán và ngôn ngữ
nên một ngân hàng không thể có quan hệ đại lý với tất cả các ngân hàng trên toàn thế giới.
2.4 Điều 10- Các tu chỉnh thư tín dụng:
Trong điều 10 UCP 600 có một số điểm giống với điều 9(d) UCP 500. Ngoài việc quy định
một tín dụng không được sửa đổi nếu không có sự thoả thuận giữa ngân hàng phát hành, ngân
hàng xác nhận (nếu có) và người thụ hưởng. Điều 10a UCP 600 khẳng định lại tại mục mới (f)
về việc tín dụng không nên quy định người thụ hưởng phải đưa ra thông báo chấp nhận trong
một khoảng thời gian. Tức là, trong khoảng thời gian đó, tín dụng không thể được sửa đổi dù
người thụ hưởng chưa đưa ra ý kiến của mình. Nghĩa là, các ngân hàng phải tự xác định xem sửa
đổi đã được chấp nhận hay chưa từ các chứng từ xuất trình và lưu ý đối với người thụ hưởng là
họ cần phải chấp nhận sửa đổi trong thời gian trước ngày xuất trình.
Cho thấy UCP600 nhấn mạnh vị trí của người thụ hưởng bằng cách bổ sung thêm quy
định yêu cầu: “ngân hàng thông báo sửa đổi phải báo cho ngân hàng mà nó nhận được sửa đổi
từ ngân hàng này về mọi thông báo chấp nhận hay từ chối sửa đổi nào từ người thụ hưởng”.
2.5 Điều 11- Thư tín dụng và tu chỉnh được chuyển bằng điện được thông báo sơ bộ:

UCP600 đã quy định: “bất cứ xác nhận đến sau nào bằng thư gửi sau” sẽ không được
xem xét đến ngoại trừ trường hợp điện chuyển nêu rõ các chi tiết đầy đủ gửi sau.
Ngoài ra, nếu ngân hàng phát hành đã gửi thông báo sơ bộ thì phải phát hành không chậm trễ tín
dụng hoặc sửa đổi có giá trị thực hiện và không mâu thuẩn với thông báo sơ bộ. Đây chính là lời
khuyến nghị, cảnh báo một số lỗi có khả năng xảy ra trong quá trình giao dịch của ngân hàng.
2.6 Điều 12- Việc chỉ định ngân hàng:
Mục (a) UCP 600 quy định chi tiết liên quan tới tính độc lập của ngân hàng chỉ định.
Theo đó, nêu rõ giới hạn nghĩa vụ mà các ngân hàng sẵn sàng thực hiện sự uỷ quyền của ngân
hàng phát hành về việc thanh toán hoặc thương lượng thanh toán. Đồng thời cũng bổ sung thêm
nếu ngân hàng chỉ định muốn thực hiện các hoạt động nêu trên thì không chỉ là nhận, kiểm tra
và gửi chứng từ cho ngân hàng xác nhận hay ngân hàng phát hành mà cũng cần phải hoàn thành
các quy định về thanh toán và thương lượng thanh toán được định nghĩa ở điều 2 UCP600.
Mục (b) quy định: nếu một Thư tín dụng có giá trị thanh toán chấp nhận hoặc trả sau với
một ngân hàng chỉ định thì tín dụng đó đã bao gồm uỷ quyền cho ngân hàng chỉ định trả trước/
21


chiết khấu cho một hối phiếu đã được chấp nhận hoặc một cam kết trả tiền sau. Trong trường
hợp này đòi hỏi người nhập khẩu phải có sự hiểu biết rõ về người xuất khẩu hoặc hai bên đã có
mối quan hệ làm ăn lâu dài.
2.7 Điều 13: Thỏa thuận trả tiền giữa ngân hàng với ngân hàng:
Thoả thuận trả tiền giữa các ngân hàng được quy định ở điều 19 UCP 500 nhưng sau đó,
ICC đã có một nguồn luật riêng điều chỉnh thoả thuận hoàn trả giữa các ngân hàng là URR 525 ,
1995 (Quy tắc thống nhất hoàn trả tiền giữa các Ngân hàng theo thư Tín dụng – Uniform Rules
for Bank to Bank Reimbursements under Documentary Credits, ICC Publication No. 525, 1995.
Khi quy định điều này, UCP600 đã dựa trên nguyên tắc tự chọn: nếu áp dụng URR thì phải quy
định rõ ràng trong thư tín dụng còn nếu không, mặc nhiên hiểu như chấp nhận theo sự điều
chỉnh của điều 13 này của UCP600. Tuy nhiên, để quy định này phù hợp và không mâu thuẩn
với URR 525, điều 13 đã quy định uỷ quyền hoàn trả sẽ không phụ thuộc vào ngày hết hạn.
3. Nhóm điều khoản quy định tiêu chuẩn kiểm tra chứng từ nói chung (Điều 14-17):

3.1. Điều 14- Tiêu chuẩn kiểm tra chứng từ:
Ngân hàng chỉ định hành động theo sự chỉ định, ngân hàng xác nhận, nếu có và ngân hàng
phát hành phải kiểm tra việc xuất trình, chỉ dựa trên cơ sở chứng từ để giải quyết quyết định
chứng từ có phù hợp hay không, mỗi ngân hàng có 5 ngày làm việc, các chứng từ xuất trình phải
do người thụ hưởng hoặc người thay mặt thực hiện không muộn hơn 21 ngày theo lịch sau ngày
giao hàng, việc mô tả hàng hóa, các dịch vụ hoặc thực hiện, nếu quy định, có thể mô tả một cách
chung chung, miễn là không mâu thuẫn với mô tả hàng hóa trong Thư tín dụng.
Một chứng từ có thể ghi ngày trước ngày phát hành Thư tín dụng nhưng không được ghi sau
ngày xuất trình chứng từ, việc này nhằm đảm bảo tính hợp lệ của chứng từ.
Đối với doanh nghiệp xuất khẩu nên chú ý điều khoản này để tránh xảy ra rủi ro trong quá trình
xuất trình chứng từ và bị phạt.
3.2. Điều15- Xuất trình phù hợp:
Điều này muốn nhấn mạnh thêm về trách nhiệm của ngân hàng sau khi họ đã kiểm tra
và xác định bộ chứng từ phù hợp. UCP 600 yêu cầu các ngân hàng phải có trách nhiệm thanh
toán hoặc thương lượng thanh toán và đặc biệt họ phải chuyển giao chứng từ tới ngân hàng phát
hành hoặc ngân hàng xác nhận có liên quan trực tiếp đến việc thanh toán hoặc thương lượng
thanh toán.
3.3. Điều 16- Chứng từ có sai biệt, bỏ qua sai biệt và thông báo:
22


Điều khoản này quy định rõ ràng nghĩa vụ của ngân hàng trong vấn đề xử lý các chứng
từ có sai biệt, theo đó nhấn mạnh rằng các ngân hàng khi quyết định việc xuất trình là không
phù hợp thì có quyền thông báo từ chối thanh toán hoặc thương lượng thanh toán (refuse to
honor or negotiate). Ngân hàng phát hành vẫn có quyền tiếp cận với người yêu cầu để bỏ qua sai
biệt, tuy nhiên hành động này chỉ giới hạn trong năm ngày làm việc của ngân hàng mà thôi. Quy
định của điều 16 UCP 600 đã làm sáng tỏ các vấn đề một số Ngân hàng tự cho phép mình từ
chối thanh toán và chuyển giao bộ chứng từ có sai biệt cho người mở L/C mà không hề có thông
báo gì cho người hưởng lợi biết. Như vậy, quyền lợi của người hưởng lợi đã được đảm bảo hơn
bởi theo điều 16 (f) quy định rằng “nếu ngân hàng phát hành và ngân hàng hưởng lợi không

hành động phù hợp với các quy định của điều khoản này thì sẽ mất quyền khiếu nại về xuất trình
không phù hợp”. Tuy nhiên, người hưởng lợi cũng nên chú ý rằng nếu ngân hàng hành động
theo mục (c) (iii), (a), và (b) thì họ nên đưa ra các chỉ thị đối ứng để tránh trường hợp bị ngân
hàng hoàn trả lại bộ chứng từ và từ chối thanh toán.
3.4. Điều 17- Các chứng từ gốc và bản sao:
Từng mục của điều khoản này đưa ra những quy định cụ thể và ngắn gọn liên quan tới chứng
từ xuất trình. Theo đó, mục (a) nhấn mạnh rằng khi tín dụng không quy định số bản thì người
hưởng lợi phải xuất trình ít nhất một bản gốc. Ngược lại, mục (d) lại quy định là nếu người
hưởng lợi được yêu cầu xuất trình các bản sao của chứng từ thì xuất trình bản sao hoặc bản gốc
đều hợp lệ. Tiếp đến, mục (b) đưa ra những tiêu chí để xem xét chứng từ có phải là bản gốc
không, mục (c) đưa ra cách thức để tạo lập một chứng từ gốc. Việc này giúp nâng cao hiệu quả
giảm bớt tỷ lệ sai biệt liên quan tới chứng từ gốc và bản sao của bộ chứng từ đã giảm đi đáng kể.
4. Nhóm điều khoản quy định về bộ chứng từ cụ thể (Điều 18-28):
4.1 Điều 18- Hóa đơn thương mại quy định:
- Phải thể hiện do người thụ hưởng phát hành (trừ khi áp dụng Điều 38);
- Phải điền đúng tên người yêu cầu (trừ khi áp dụng Điều 38g);
- Ngoài ra cũng theo điều khoản này, cuối hóa đơn thương mại, người lập hóa đơn có thể
không cần ký tên trừ khi nó được quy định trong L/C.
Vì thế khi kiểm tra hóa đơn thương mại, Ngân hàng cần phải kiểm tra người lập có phải là
người thụ hưởng được quy định trong thư tín dụng hay không và kiểm tra các yếu tố liên quan
như tên công ty, địa chỉ, số điện thoại, số fax…Kể cả trong trường hợp có sai sót trong việc ghi
tên người và địa chỉ ở mục người hưởng lợi thể hiện trên L/C thì việc ghi tên và địa chỉ của

23


người lập Hóa đơn cũng phải bắt buộc theo đúng nội dung bị ghi sai đó vì nếu người lập ghi
đúng với thực tế thì có thể bị xem là bất hợp lệ.
Việc mô tả hàng hóa, dịch vụ hoặc thực hiện trong hóa đơn thương mại phải phù hợp với
mô tả hàng hóa trong tín dụng. Chỉ cần có sai biệt nhỏ về lỗi chính tả cũng có thể là nguyên

nhân để Ngân hàng nước ngoài trì hoãn việc thanh toán mặc dù sai sót này không làm ảnh
hưởng tới giá trị và chất lượng hàng hóa. Để tránh sai sót ở mục này, đơn vị xuất khẩu nên ghi
lại nội dung mô tả hàng hóa của L/C vào Hóa đơn, trừ đơn giá và điều kiện giao hàng sẽ được
ghi vào điều kiện thích hợp khác.
Trên hoá đơn thể hiện trị giá hàng hoá được giao theo hợp đồng mua bán đã thoả thuận
giữa các bên cùng một số chi phí khác (nếu có). Số tiền đòi theo thư tín dụng có thể là 100% trị
giá hoá đơn hoặc nhỏ hơn. Nếu số tiền đòi lớn hơn số tiền thư tín dụng cho phép thì các ngân
hàng có quyền từ chối thanh toán. Nhưng ngân hàng phát hành có thể chấp nhận thanh toán thì
quyết định này sẽ ràng buộc các bên liên quan. (Điều 18(b) UCP 600).
4.2. Điều 19- Chứng từ vận tải dùng cho ít nhất hai phương thức vận tải khác nhau:
Chứng từ vận tải là chứng từ quan trọng nhất vì nó xác nhận quyền sở hữu hàng hóa và
được dùng làm chứng từ chủ yếu để nhận hàng ở nơi đến. Do đó, chứng từ phải ghi rõ tên của
người chuyên chở và được kí bởi người chuyên chở hoặc đại lý được chỉ định cho hoặc thay mặt
người chuyên chở, hoặc thuyền trưởng hoặc đại lý được chỉ định hoặc thay mặt thuyền trưởng
và chữ kí của đại lý phải chỉ rõ là đại lý đã kí thay hoặc đại diện cho người chuyên chở hoặc đã
kí thay hoặc đại diện cho thuyền trưởng.
Bên cạnh do chứng từ phải thể hiện rõ ngày hàng hóa được gửi đi và đóng dấu in sẵn.
4.3. Điều 20-Vận đơn đường biển:
Vận đơn đường biển phải chỉ rõ tên của người chuyên chở và đã được ký bởi: Người chuyên
chở hoặc đại lý được chỉ định cho hoặc thay mặt người chuyên chở, hoặc thuyền trưởng hoặc
đại lý được chỉ định cho hoặc thay mặt thuyền trưởng.
Các chữ ký của đại lý phải ghi rõ hoặc là đại lý đã ký thay cho hoặc đại diện cho người chuyên
chở hoặc thay cho hoặc đại diện cho thuyền trưởng.
Vận đơn phải chỉ rõ cảng bốc hàng, cảng dỡ hàng, ngày tàu chạy, nếu vận đơn có ghi “con tàu
dự định” hoặc tương tự liên quan đến tên tàu, thì việc ghi chú hàng đã xếp lên tàu, ghi rõ ngày
giao hàng và tên của con tàu thực tế là cần thiết.
Và vận đơn phải là bản vận đơn gốc duy nhất hoặc nếu phát hành hơn một bản gốc là trọn bộ
bản gốc như thể hiện trên vận đơn. Chứa đựng các điều kiện và điều khoản chuyên chở hoặc có
24



dẫn chiếu các nguồn khác chứa đựng các điều kiện và điều khoản chuyên chở (Vận đơn rút gọn
hoặc trắng lưng). Nội dung các điều kiện và điều khoản chuyên chở sẽ không được xem xét.
Một vận đơn có thể ghi hàng hóa sẽ hoặc có thể chuyển tải miễn là toàn bộ hành trình vận
chuyển chỉ sử dụng một và cùng một vận đơn.
Một vận đơn ghi việc chuyển tải sẽ hoặc có thể xảy ra là có thể chấp nhận, ngay cả khi Thư tín
dụng cấm chuyển tải, nếu hàng hóa được giao bằng container, xe móoc, hoặc xà lan tàu LASH
ghi trên vận đơn.
4.4. Điều 21- Giấy gửi hàng đường biển không chuyển nhượng (NNSWB):
Vận đơn đường biển phải chỉ rõ tên của người chuyên chở và đã được ký bởi: Người chuyên
chở hoặc đại lý được chỉ định cho hoặc thay mặt người chuyên chở, hoặc thuyền trưởng hoặc
đại lý được chỉ định cho hoặc thay mặt thuyền trưởng.
Các chữ ký của đại lý phải ghi rõ hoặc là đại lý đã ký thay cho hoặc đại diện cho người chuyên
chở hoặc thay cho hoặc đại diện cho thuyền trưởng.
Vận đơn phải chỉ rõ cảng bốc hàng, cảng dỡ hàng, ngày tàu chạy, nếu vận đơn có ghi “con tàu
dự định” hoặc tương tự liên quan đến tên tàu, thì việc ghi chú hàng đã xếp lên tàu, ghi rõ ngày
giao hàng và tên của con tàu thực tế là cần thiết.
Và vận đơn phải là bản vận đơn gốc duy nhất hoặc nếu phát hành hơn một bản gốc là trọn bộ
bản gốc như thể hiện trên vận đơn. Chứa đựng các điều kiện và điều khoản chuyên chở hoặc có
dẫn chiếu các nguồn khác chứa đựng các điều kiện và điều khoản chuyên chở (Vận đơn rút gọn
hoặc trắng lưng). Nội dung các điều kiện và điều khoản chuyên chở sẽ không được xem xét.
Một vận đơn có thể ghi hàng hóa sẽ hoặc có thể chuyển tải miễn là toàn bộ hành trình vận
chuyển chỉ sử dụng một và cùng một vận đơn.
Một vận đơn ghi việc chuyển tải sẽ hoặc có thể xảy ra là có thể chấp nhận, ngay cả khi Thư tín
dụng cấm chuyển tải, nếu hàng hóa được giao bằng container, xe móoc, hoặc xà lan tàu LASH
ghi trên vận đơn.
4.5. Điều 22- Vận đơn theo hợp đồng thuê tàu:
Một vận đơn, dù được gọi tên như thế nào, có ghi là phụ thuộc vào hợp đồng thuê tàu (vận
đơn theo hợp đồng thuê tàu) phải được ký bởi thuyền trưởng hoặc một đại lý được chỉ định cho
hoặc thay mặt thuyền trưởng, hoặc chủ tàu hoặc đại lý được chỉ định cho hoặc thay mặt chủ tàu

người thuê tàu và đại lý được chỉ định cho hoặc thay mặt người thuê tàu.
Vận đơn phải chỉ rõ cảng bốc hàng, cảng dỡ hàng, ngày tàu chạy.
Vận đơn là một bản gốc vận đơn theo hợp đồng thuê tàu hoặc nếu phát hành nhiều hơn một bản
25


×