Tải bản đầy đủ (.pdf) (200 trang)

Tiểu luận về nâng cao nguồn thu nhập của nông dân thành phố hải phòng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 200 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thu nhập của người lao động nói chung, của nông dân nói riêng là một trong
những phạm trù mà khoa học kinh tế chính trị luôn quan tâm. Bởi lẽ việc nâng cao
thu nhập cho người lao động không những phản ánh sự phát triển của lực lượng sản
xuất mà còn đảm bảo hoàn thiện quan hệ phân phối, một khâu của quan hệ sản xuất
xã hội.
Là phạm trù kinh tế, thu nhập mang tính lịch sử, nó luôn biến đổi theo sự phát
triển của lịch sử phát triển kinh tế xã hội. Trong điều kiện hiện nay, khi mà sự phát
triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa (CNH, HĐH) trở thành xu hướng tất yếu của các nước đang phát triển như
Việt Nam, thu nhập của người lao động nói chung, của nông dân nói riêng cũng có
sự biến đổi. Các lý thuyết thu nhập đã chỉ ra cơ cấu thu nhập của nông dân đa dạng
hơn, các nguồn hình thành thu nhập của nông dân cũng có sự biến đổi theo hướng
tăng thu nhập từ lĩnh vực dịch vụ và công nghiệp, giảm tỷ lệ thu nhập từ nông
nghiệp; đồng thời thu nhập của nông hộ từ nguồn chuyển khoản do người thân tham
gia vào thị trường lao động trong nước và quốc tế gửi về cũng như từ sự trợ giúp
của chính phủ cũng tăng lên. Chính sự biến đổi cơ cấu nguồn thu nhập này đã tác
động đến sự thay đổi thu nhập của nông dân rất mạnh mẽ.
Sự biến đổi thu nhập của nông dân như trên cũng đúng với thực tiễn nước ta,
trong đó có nông dân Hải Phòng. Trong những năm vừa qua, Hải Phòng có tốc độ
tăng trưởng kinh tế khá cao, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ,
đời sống vật chất và tinh thần của dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, trong khi
khu vực công nghiệp, dịch vụ phát triển nhanh thì khu vực nông nghiệp, nông thôn
và nông dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Mặc dù là một thành phố phát triển khá
sớm, có lợi thế cảng biển, nhưng việc làm, thu nhập và đời sống của người nông dân
Hải Phòng vẫn nằm trong tình trạng khó khăn chung của người nông dân cả nước.
Năm 2010, mức thu nhập bình quân của người dân Hải Phòng là 1,694 ngàn đồng
/người/tháng. Nông dân Hải Phòng chủ yếu ở nhóm 20% thu nhập thấp nhất với số



1

tiền là 510 ngàn đồng/người tháng [7]. Đó là mức thu nhập khá thấp so với một
thành phố có lợi thế cảng biển và có ngành công nghiệp phát triển sớm như Hải
Phòng. Điều này là bất cập để thực hiện quyết tâm của Thành phố đưa Hải Phòng
trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
Mặc dù những năm qua, thành phố Hải Phòng đã có nhiều biện pháp phát triển
nông nghiệp, nông thôn, nông dân nhằm cải thiện thu nhập và đời sống nông dân,
song những thành tựu mạng lại còn rất chậm. Nông dân vẫn còn trong tình trạng
khó khăn do tình trạng thiếu vốn sản xuất, do tiến bộ kỹ thuật chưa được áp dụng
rộng rãi, việc đa dạng hóa sinh kế, đa dạng hóa phát triển ngành nghề trong thôn
thôn còn chưa mạnh, các chính sách khuyến nông phát huy chưa mạnh, công tác tổ
chức và quản lý sản xuất nông nghiệp, phối hợp thực hiện của các ban ngành còn
nhiều hạn chế, chưa hỗ trợ tốt cho sự phát triển sản xuất kinh doanh của nông dân.
Về phía nông dân, tình trạng tiếp cận giáo dục, đào tạo thấp, nguồn vật lực, tài lực
còn nhiều khó khăn. Tất cả những điều đó hạn chế đến tốc độ tăng thu nhập cũng
như đa dạng hóa nguồn thu của nông dân. Chính vì thế việc nghiên cứu Nâng cao
thu nhập của nông dân Hải Phòng hiện nay là có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận
và thực tiễn.

2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Làm rõ nội hàm của phạm trù thu nhập của nông dân, những nhân tố tác
động đến thu nhập của nông dân; những tiêu chí được sử dụng để đánh giá thu
nhập của nông dân.
- Khái quát kinh nghiệm một số nước trên thế giới và một số tỉnh thành phố
nước ta trong việc nâng cao thu nhập của nông dân, rút ra những khuyến nghị cho
thành phố Hải Phòng.
- Phân tích, đánh giá tình hình thu nhập của nông dân thành phố Hải Phòng,
chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế về thu nhập của nông dân
hiện nay.

- Khuyến nghị phương hướng và các giải pháp nâng cao thu nhập đối với
nông dân trên địa bàn Hải Phòng những năm tới.


2

3. Giả định nghiên cứu:
Luận án này dựa trên hai giả định:
Thứ nhất, trong bối cảnh hiện nay, khi mà CNH, HĐH ngày càng mạnh,
phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng tăng thì thu
nhập của nông dân ngày càng được đa dạng với các bộ phận cấu thành như i) thu
nhập từ hoạt động sản xuất nông nghiệp; ii) thu nhập phi sản xuất nông nghiệp
trong nông thôn; iii) thu nhập từ phục vụ các khu công nghiệp và xuất khẩu lao
động; iv) các khoản thu nhập từ trợ giúp của chính phủ và cộng đồng; v) các
khoản thu nhập khác; quy mô thu nhập sẽ tăng lên, tỷ trọng thu nhập sẽ biến đổi
theo hướng thu từ sản xuất nông nghiệp giảm xuống, thu nhập từ phi sản xuất
nông nghiệp, phục vụ các khu công nghiệp và xuất khẩu lao động tăng lên.
Thứ hai, trong bối cảnh đó, việc nâng cao thu nhập của hộ nông dân sẽ thực
hiện được khi nông dân biết đa dạng hóa việc làm, đa dang hóa sinh kế gắn với
sự phát triển của công nghiệp, dịch vụ; tăng cường năng lực các yếu tố sản xuất
của nông dân, trong một môi trường luật pháp, cơ chế chính sách, tổ chức quản
lý của nhà nước ngày càng hoàn thiện.
Toàn bộ nghiên cứu của các chương của luận án kể từ nghiên cứu lý thuyết, đến
phân tích thực trạng và khuyến nghị quan điểm, phương hướng và giải pháp nâng cao thu
nhập đối với các hộ nông dân đều dựa trên hai giả định này.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Là thu nhập của nông dân trong bối cảnh hiện nay dưới tác
động của các nhân tố khách quan và chủ quan đến thu nhập.


4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi về nội dung: Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu về hệ thống lý luận cũng
như thực tiễn về vấn đề thu nhập đối với hộ nông dân. Cụ thể như: Khái niệm, đặc
điểm và nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ nông dân trong bối cảnh hiện nay;
Tiêu chí đánh giá về thu nhập của nông dân trong bối cảnh hiện nay; Thực trạng thu
nhập và những nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông dân ở Hải Phòng hiện
nay; Những giải pháp chủ yếu tăng thu nhập đối với nông dân ở Hải Phòng trong
những năm tới.


3

Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về thu
nhập của nông dân trong bối cảnh hiện nay và lấy số liệu minh chứng từ khảo sát tại
thành phố Hải Phòng.
Phạm vi về thời gian: Dữ liệu nghiên cứu của đề tài là các số liệu sơ cấp và
thứ cấp liên quan thu nhập của người nông dân Hải Phòng giai đoạn 2006-2013.

5. Kết cấu luận án
Luận án gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo các bảng
phụ lục và 4 chương.


4

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về thu nhập của nông dân
1.1.1. Những nghiên cứu về bản chất phạm trù thu nhập của người lao
động trong lý thuyết cổ điển và C. Mác.

Trong lịch sử tư tưởng kinh tế, các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển, các nhà
kinh tế chính trị tiểu tư sản, xã hội chủ nghĩa không tưởng và C.Mác đã đặt nền
móng và từng bước tiến sâu vào vạch rõ nguồn gốc và bản chất của các khoản thu
nhập. Ở đây chúng ta chỉ tập trung nghiên cứu lý thuyết thu nhập của người lao
động làm thuê.

1.1.1.1.Tư tưởng thu nhập của người lao động của các nhà kinh tế học cổ điển
Các nhà kinh tế học Cổ điển mà đại biểu như: Adam Smith (1723-1790),
David Ricardo (1772-1823), Jean Charles Leonard Simonde de Sismondi (1773 –
1842) có chung một quan điểm là trong điều kiện của xã hội tư bản, người lao động
là người làm thuê, họ nhận được một số tiền từ phía chủ sau khi đã làm việc cho chủ
với một thời gian nhất định. Số tiền đó được gọi là tiền lương. Họ xác định cơ sở
của lượng tiền lương là giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người
công nhân làm thuê và giáo dục, nuôi dưỡng con cái anh ta để có thể đưa ra thay thế
trên thị trường lao động.
Nhìn chung, tư tưởng về tiền lương (thu nhập) của người công nhân là tiền
công của lao động, hay nói cách khác, thu nhập của công nhân có nguồn gốc là từ
việc làm. Đó là tiền công của người lao động làm việc cho chủ.[ 9]

1.1.1.2 Tư tưởng tiền lương của Các Mác (1818 - 1883).
Trong tác phẩm Tư bản C.Mác chỉ rõ, công nhân làm việc cho các nhà tư bản
trong một thời gian nào đó, sản xuất ra một lượng hàng hoá nào đó, thì nhận được
một số tiền trả công nhất định. Tiền công đó chính là tiền lương. Tiền lương không
phải là giá trị hay là giá cả của lao động. Vì lao động không phải là hàng hoá và


5

không phải là đối tượng mua bán. Cái mà công nhân bán cho nhà tư bản chính là
sức lao động. Do đó tiền lương mà nhà tư bản trả cho công nhân là giá cả của sức

lao động. Từ việc giải thích đó C.Mác khẳng định bản chất của tiền lương dưới chủ
nghĩa tư bản là giá trị hay giá cả sức lao động, nhưng lại biểu hiện ra bên ngoài
thành giá trị hay giá cả lao động.
Mác cũng chỉ rõ giá trị sức lao động là giá trị những tư liệu sinh hoạt nuôi
sống người công nhân và gia đình anh ta. Nó bao gồm cả những yếu tố vật chất và
yếu tố tinh thần lịch sử. Vì vậy khi xác định tiền lương phải xác định các yếu tố sau:
giá trị tư liệu sinh hoạt nuôi sống người công nhân và gia đình anh ta; nhu cầu về
tinh thần, lịch sử, dân tộc; chi phí học tập, nâng cao trình độ; chi phí nuôi sống
người công nhân khi về hưu.

1.1.2. Các lý thuyết hiện đại về thu nhập
1.1.2.1. Những vấn đề bản chất của thu nhập và phân phối thu nhập trong các
lý thuyết kinh tế học hiện đại.
Khác với các nhà kinh tế học cổ điển và C. Mác, các nhà kinh tế học hiện đại
không đi vào giải thích bản chất của thu nhập mà họ quan tâm đến chính sách thu
nhập. Họ coi chính sách thu nhập như là một công cụ chủ yếu của kinh tế vĩ mô,
nhà nước điều tiết thu nhập và giải quyết vấn đề công bằng xã hội, một trong những
mục tiêu mà bất cứ một nền kinh tế nào cũng phải đạt tới. Chính vì thế, nội dung cốt
lõi của chính sách thu nhập là vấn đề phân phối thu nhập. Các vấn đề xung quanh
việc phân phối thu nhập thuộc loại gây nhiều tranh cãi nhất trong tất cả các loại hình
kinh tế học. Có ý kiến cho rằng thu nhập cao là kết quả của sức mạnh độc quyền
của các doanh nghiệp lớn. Một số khác cho rằng tiền công và lợi nhuận chỉ là kết
quả hoạt động của thị trường có tính cạnh tranh. Hoặc dù thế nào đi chăng nữa,
chính phủ nên sử dụng quyền lực của mình để phân phối lại thu nhập từ người giàu
sang người nghèo bằng công cụ thuế và chuyển khoản. Những tư tưởng này có thể
tìm thấy ở trong các tác phẩm của John Bates Clark, Alfred Monshall, Pigou,
P.A.Samuelson [ 9].


6


1.1.2.2. Những nghiên cứu về xu thế đa dạng hóa việc làm của nông dân trong
bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế.
Thứ nhất, nghiên cứu ngoài nước về xu thế đa dạng hóa việc làm của nông dân.
Thực tiễn cho thấy tác phát triển kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã làm biến đổi cơ cấu lao động và cơ cấu ngành
nghề trong nền kinh tế nói chung, đối với khu vực nông thôn và đối tượng nông dân
nói riêng. Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đã chỉ ra xu hướng này dưới các
cách tiếp cận khác nhau.
Trong “Lý thuyết tăng trưởng kinh tế ở các nước Châu Á gió mùa”, Harry T.
Oshima chỉ ra rằng khu vực nông nghiệp làm việc theo mùa vụ, thời gian nông nhàn
lớn. Trong điều kiện đó, con đường tăng trưởng kinh tế, do đó cũng để tăng thu
nhập cho nông dân ở các nước này là cần tạo thêm việc làm cho khu vực nông thôn.
Việc tạo ra việc làm tại chỗ là phù hợp với nhu cầu lao động nông nghiệp biến đổi
theo mùa vụ, vừa tăng thêm thu nhập cho nông dân là con đường tăng trưởng bền
vững của các nước Châu Á gió mùa [23].
Lewis W.A. (1955) lại tiếp cận theo hướng khác. Trong “Lý thuyết tăng
trưởng kinh tế” ông đã nghiên cứu tình trạng lao động, việc làm và thu nhập ở các
nước đang phát triển. Ông chỉ ra rằng lao động khu vực nông nghiệp có thu nhập
nhấp, ở khu vực công nghiệp có thu nhập cao hơn. Do đó với một mức tiền lương
cao hơn thì dễ thu hút sự dịch chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang làm
việc. Từ đó, chuyển việc làm từ nông nghiệp sang việc làm trong khu vực công
nghiệp, theo ông là một xu hướng biến đổi tấy yếu đối với khu vực nông thôn dưới
tác động của phát triển công nghiệp [91].
Torado M.P. đã phân tích lý do người lao động thực hiện di cư tìm việc làm
với thu nhập cao hơn trong quá trình phát triển kinh tế. Nói cách khác, theo phân
tích của Torado M.P. trong quá trình phát triển kinh tế, nhiều người sẽ rời bỏ việc
làm nông nghiệp với thu nhập thấp trước đây để chuyển sang làm ở những ngành
nghề có thu nhập cao hơn nơi đô thị [114].



7

Thứ hai, những nghiên cứu trong nước về xu thế đa dạng hóa việc làm của
nông dân.
Nghiên cứu về đa dạng hóa việc làm trong khu vực nông thôn do tác động của
CNH, HĐH, sự phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế cũng được
nhiều tác giả trong nước chú ý.
Triệu Đức Hạnh trong phần thực hiện lý do nghiên cứu của đề tài luận án
khẳng định, khu vực nông thôn tập trung đại bộ phận lao động của đất nước, tuy
nhiên lao động ở khu vực này lại đang ở trong tình trạng thiếu việc làm bởi những
năm 2004-2006 khi mà tốc độ tăng trưởng bình quân ngành nông nghiệp là 5,4%
nhưng hệ số co giãn việc làm so với 1% tăng trưởng kinh tế của nông thôn chỉ là
0,43, nghĩa là mỗi năm khu vực nông nghiệp chỉ tạo thêm được số việc làm mới
bằng 2,3% lực lượng lao động. Nói cách khác, theo nhận định của Triệu Đức Hạnh
thì mỗi năm trong khu vực nông thôn có gần 1 triệu lao động tăng thêm không tìm
được việc làm từ ngành nông nghiệp. Dó đó vấn đề tạo thêm việc làm cho nông dân
là một yêu cầu bức xúc [22].
Nguyễn Văn Đại nhấn mạnh trong nghiên cứu của mình là khu vực nông thôn
Việt Nam có nguồn lao động dồi dào về số lượng nhưng kém về chất lượng, tính
đến năm 2012 Đảng và Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều chủ trương, chính
sách nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực này. Trong giai đoạn tới, để đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa khu vực nông thôn thì các biện pháp
thúc đẩy hiệu quả hoạt động đào tạo nghề cho lao động ở khu vực này là điều có ý
nghĩa cấp thiết [15].
Phạm Lan Hương đã chỉ ra trong quá trình CNH, HĐH cơ cấu kinh tế nông
thôn đang dịch chuyển theo hướng giảm tỷ trọng các ngành sản xuất nông nghiệp,
tăng tỷ trọng ngành sản xuất công nghiệp và thương mại dịch vụ. Trong nội bộ
ngành nông nghiệp, cơ cấu sản xuất cũng chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng các

ngành sản xuất trồng trọt, tăng giá trị sản xuất các ngành chăn nuôi và thủy sản,
chuyển dịch từ phương thức sản xuất phân tán sang sản xuất tập trung và sản xuất
hàng hóa. Sự chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất tất yếu ảnh hưởng đến cơ cấu ngành


8

nghề của lao động. Nhiều lao động làm nông nghiệp trước đây phải thực hiện
chuyển đổi nghề, hoặc phải làm nhiều nghề để đảm bảo thu nhập là điều tất yếu
[29]. Nghiên cứu này có nhiều điểm tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Đình
Phan và các cộng sự khi đề cập đến xu hướng tất yếu của chuyển đổi ngành nghề
trong khu vực nông thôn Việt Nam [37].
Bạch Thị Lan Anh [1] và Nguyễn Thị Thu Hường [30] đã chỉ ra phát triển các
làng nghề sẽ tạo thêm việc làm, tăng thu nhập ở nông thôn, góp phần xoá đói giảm
nghèo, thực hiện chiến lược kinh tế hướng ngoại cũng như thực hiện mục tiêu ly
nông bất ly hương ở nông thôn. Làng nghề ở Việt Nam trong đó một bộ phận quan
trọng là làng nghề thủ công truyền thống với sản phẩm đặc trưng là hàng thủ công
mỹ nghệ tinh xảo. Các sản phẩm này vừa mang giá trị kinh tế vừa hàm chứa nghệ
thuật văn hóa dân tộc. Phát triển làng nghề nói chung và làng nghề truyền thống nói
riêng không những có vai trò quan trọng trong đa dạng hóa việc làm và thu nhập,
mà còn mang ý nghĩa là giữ gìn, quảng bá bản sắc văn hoá dân tộc trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
Mai Ngọc Cường, Lê Quốc Hội, Mai Ngọc Anh đã chỉ ra nguyên nhân của
việc lao động nông thôn di cư ra 4 thành phố lớn (Hà Nội, Đồng Nai, TP Hồ Chí
Minh và Đà Nẵng) để tìm việc làm với mức thu nhập cao hơn. Đó là việc lao động
di cư ra thành phố tìm việc làm không chỉ góp phần cải thiện thu nhập và đời sống
của gia đình có lao động di cư làm việc nơi đô thị mà còn tác động tích cực đến sự
phát triển của nền kinh tế Việt Nam [10].
Việc di cư tìm việc làm cũng rất đa dạng đối với lao động trước đây làm nông
nghiệp ở khu vực nông thôn, Lưu Bích Ngọc trong nghiên cứu của mình đã cho

thấy xu hướng ngày càng gia tăng của nhóm lao động di cư làm việc trong khu vực
phi chính thức ở hai thành phố lớn của Việt Nam. Bùi Sỹ Tuấn chỉ ra rằng, mặc dù
có sự gia tăng về tỷ lệ xuất khẩu lao động trong thời gian qua [47]. Tuy nhiên, theo
Lưu Bích Ngọc, phần lớn lực lượng lao động đi xuất khẩu lao động của Việt Nam
xuất thân từ nông dân – những lao động "3 không” (không nghề, không ngoại ngữ,
không tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động), nên dẫn đến tình trạng vi phạm


9

kỷ luật và phải về nước trước thời hạn tương đối cao của lao động xuất khẩu người
Việt Nam [35].

1.1.2.3.Nghiên cứu về nguồn hình thành thu nhập của nông dân trong bối
cảnh phát triển kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Thứ nhất, những nghiên cứu ngoài nước về nguồn hình thành thu nhập của
nông hộ.
Do đa dạng hóa việc làm đối với khu vực nông thôn nên thu nhập của nông
dân cũng được hình thành từ nhiều nguồn. Trong thập niên 70 của thế kỷ 20, Saul
H. Harold và T. Shapiro đã chỉ ra tiền công lao động, tiền lương, trợ cấp từ chính
phủ hình thành nên tổng thu nhập của người dân Hoa Kỳ [108]. Pantazis cho rằng
ngoài những khoản tiền có được từ sự tham gia vào thị trường lao động, những
khoản tiền từ cho thuê tài sản, chuyển khoản (trợ giúp) của chính phủ, thu nhập của
người dân còn bao gồm các khoản hỗ trợ từ gia đình, người thân… Nói cách khác,
theo quan điểm của Pantazis, thu nhập của hộ gia đình được xác định bởi các khoản
thu từ lương, từ việc làm tự tạo, từ cho thuê tài sản, đến các khoản chuyển khoản
mà họ là đối tượng thụ hưởng [100].
Theo Davis-Brown, K và Salamon, trước sức ép từ sự biến đổi xã hội trong
điều kiện CNH, HĐH đất nước, để có thêm thu nhập, nông dân không chỉ thực hiện

các hoạt động sản xuất nông nghiệp mà còn tiến hành các hoạt động kinh tế phi
nông nghiệp [66]. Thực tế chứng minh các hoạt động phi nông nghiệp đóng góp từ
20-70% thu nhập của nông hộ đối với các gia đình nông dân ở các quốc gia có nền
kinh tế chuyển đổi [54], [59], [67], [68], [116], [119]. Nói cách khác, để có được
thu nhập đảm bảo chi tiêu cho đời sống thì nông dân ngoài thời gian làm nông
nghiệp, còn tham gia vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, và dịch vụ
khác[60];[90]. Một cách tổng quát, các nghiên cứu đã chỉ ra thu nhập của nông dân
được hình thành từ các nguồn chủ yếu sau:
1) Thu từ hoạt động nông nghiệp: Thu nhập từ hoạt động nông nghiệp của
nông dân phụ thuộc vào khả năng tham gia làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp của


10

họ. Việc tham gia các hoạt động nông nghiệp của nông dân phụ thuộc vào điều kiện
tự nhiên, thời tiết [64], vào tình trạng sức khỏe [77], vào trình độ công nghệ mà
nông dân sử dụng trong quá trình tiến hành các hoạt động kinh tế [76], các chính
sách mà chính quyền trung ương, chính quyền địa phương thực hiện để giúp người
dân tiếp cận tốt hơn tới thị trường lao động [89]. Khi những điều kiện này thuận lợi,
thu nhập của nông dân sẽ cao. Còn nếu một trong những yếu tố này chịu tác động
xấu thì thu nhập của nông dân sẽ bị tác động tiêu cực.
2) Thu từ việc làm phi nông nghiệp: hoạt động kinh tế phi nông nghiệp giữ
một vai trò quan trọng trong đảm bảo thu nhập cho các gia đình sống ở khu vực
nông thôn ở các nước đang phát triển, đặc biệt là với những nông hộ ít đất hoặc mất
đất do quá trình công nghiệp hóa [82], [111]. Việc làm phi nông nghiệp trong nông
thôn rất đa dạng và khác nhau giữa các vùng, các quốc gia. Ngành nghề phi nông
nghiệp trong nông thôn liên quan đến các hoạt động kinh tế phi mùa vụ thông qua
các hoạt động sản xuất ngành nghề thủ công truyền thống, hoạt động sản xuất dịch
vụ, vận tải, thương mại,...Steven và Peter chỉ ra rằng những lao động thực hiện các
hoạt động kinh tế phi nông nghiệp với vốn đầu tư lớn thường có thu nhập cao hơn

hơn so với những lao động thực hiện các hoạt động phi nông nghiệp với vốn đầu tư
nhỏ hơn [110].
3) Thu từ các khoản trợ giúp của người thân: Các khoản tiền trợ giúp của
người thân có thể được hình thành từ việc thành viên trong gia đình thực hiện di cư
gửi tiền về cho người thân ở quê nhà. Mathias và Hein đã sử dụng lý thuyết kinh tế
mới của lao động di cư (NELM) để nghiên cứu về lý do di cư tìm việc làm của
người lao động. Nghiên cứu này khẳng định những người lao động có trình độ tay
nghề tốt nhưng đang làm việc ở những nơi có mức thu nhập thấp có xu hướng di cư
đến những nơi mà họ có thể có được mức nhu nhập cao hơn. Những cá nhân hoặc
hộ gia đình thực hiện di cư không chỉ có được thêm thu nhập mà còn kích thích tăng
thu nhập cho những hộ gia đình khác [93]. Priya cho rằng di cư trong nước cần
được thúc đẩy để thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo, góp phần tăng trưởng
kinh tế của các quốc gia đang phát triển bởi so với di cư quốc tế, di cư trong nước


11

không đòi hỏi cao về kỹ năng lao động, mọi lao động đều có thể di cư tìm việc làm
với thu nhập tốt hơn, và dành dụm một khoản tiền để gửi về tạo điều kiện nâng cao
thu nhập của gia đình [102]. Dean Yang và Hwajung Choi, Thomas, Richard,
Adams and Page đều cho rằng, di cư quốc tế và nguồn tiền gửi về nước xuất cư
ngày càng gia tăng vào cuối thể kỷ 20 đầu thế kỷ 21 [70], [113], [105]. Ioana và
Nikolaus khẳng định lao động di cư có trình độ càng cao thì khoản tiền gửi về gia
đình càng nhiều [83].
4) Thu từ các khoản trợ giúp từ chính phủ và các tổ chức: Armando và các
cộng sự khẳng định trợ giúp xã hội là những khoản tiền chuyển cho đối tượng thụ
hưởng mà không dựa trên sự đóng góp của họ nhằm thực hiện mục tiêu cải thiện thu
nhập cho những đối tượng yếu thế này [58]. Các khoản trợ giúp này có thể tồn tại
dưới hình thức trợ giúp có điều kiện hoặc trợ giúp không điều kiện [107]. Khoản
tiền trợ giúp này góp phần ổn định thu nhập của người dân trước những cú sốc kinh

tế, nâng cao tình trạng sức khỏe, học vấn tạo điều kiện nâng cao năng suất và thu
nhập cho nhóm đối tượng này.
Thứ hai, những nghiên cứu trong nước về các nguồn hình thành thu nhập nông dân.
Dưới sự tác động của quá trình công nghiệp hóa, các nguồn hình thành thu
nhập của nông hộ trở nên đa dạng hơn và tổng thu nhập của gia đình nông dân do
đó cũng cao lên [11].
Dựa trên quan điểm quốc tế khi xác định các nguồn hình thành thu nhập, các
học giả trong nước khi xác định thu nhập của nông dân cũng dựa trên hai nguồn
hình thành cơ bản: (i) nội sinh và (ii) ngoại sinh [4], [27], [44], [48]. Những nghiên
cứu này thể hiện sự đồng thuận về quan điểm, đó là trong tổng thu nhập của nông
hộ thì nguồn ngoại sinh chiếm tỷ trọng thấp, nguồn nội sinh chiếm tỷ trọng cao.
Khi so sánh đóng góp từ các nguồn vào tổng thu nhập của nông hộ, Bạch Thị
Lan Anh và Mai Ngọc Anh đều chung nhận định hoạt động kinh tế phi nông nghiệp
có đóng góp cao hơn so với hoạt động kinh tế nông nghiệp vào tổng thu nhập của
nông hộ. Các khoản trợ giúp của người thân trong tổng thu nhập của nông hộ chủ
yếu đến từ việc thành viên trong gia đình di cư tìm việc làm gửi về [1], [4].


12

Những trợ giúp còn đến từ các nguồn còn lại khác mang ý nghĩa tinh thần
nhiều hơn [2], [4], 49]. Các tác giả đều nhất trí, rằng việc mở rộng mạng lưới bao
phủ của trợ giúp xã hội cũng như nâng cao chất lượng các khoản trợ giúp là điều
cần được Đảng và Chính phủ Việt Nam ưu tiên thực hiện trong giai đoạn tới để đảm
bảo mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống cho những đối tượng yếu thế. Nhận
định này một lần nữa được khẳng định trong nghiên cứu của Phan Thị Kim Oanh và
cộng sự [36]. Nghiên cứu này chỉ ra trong giai đoạn 2007-2009 khi thực hiện nghị
định 67/2007/NĐ-CP, mức chuẩn mà đối tượng của trợ giúp thường xuyên nhận
được hàng tháng là 120.000 đồng/người/tháng. Mức hỗ trợ này mới bằng 17,14%
thu nhập bình quân chung cả nước, 84,21% thu nhập bình quân của 20% hộ có thu

nhập ở mức thấp nhất và tương đương với 70,6% chi tiêu của nhóm hộ có thu nhập
thấp nhất. Từ năm 2010 việc sử dụng nghị định 13/2010/NĐ-CP để chi trả mức trợ
giúp hàng tháng cho đối tượng của trợ giúp thường xuyên. Theo nghị định này mức
chuẩn hàng tháng mà mỗi đối tượng thuộc diện này được hưởng là 180.000
đồng/người/tháng. Nếu mang so sánh với các chỉ số trên thì mặc dù có cải thiện
nhưng trên thực tế, các đối tượng của chương trình chưa đạt được mức sống tối
thiểu với nguồn tiền mà họ nhận được [36].

1.1.2.4. Nghiên cứu về sự biến đổi thu nhập của nông dân trong bối cảnh phát
triển kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Đã có nhiều nghiên cứu về quá trình CNH, HĐH và tác động của nó đến biến
đổi thu nhập của nông dân. Purma C. Samanta nghiên cứu về công nghiệp hóa và
chỉ ra rằng đây là một thuật ngữ liên quan đến quá trình phát triển của các quốc gia
ở Tây Âu và Bắc Mỹ trong suốt thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 [103]. Nói đến công
nghiệp hóa là nói đến sự chuyển đổi từ một nền kinh tế nông nghiệp hoạt động theo
hình thức tự cung tự cấp sang một nền kinh tế sản xuất dựa trên máy móc công nghệ
[84]. Công nghiệp hóa theo quan điểm của Mumo Nzau liên quan đến sự tham gia
của các nhà máy công nghiệp trong các hoạt động sản xuất tư liệu sản xuất cũng
như chế biến nguyên liệu thô thành thành phẩm [98]. Weiss J. cho rằng đây là một
quá trình mà các hoạt động sản xuất sử dụng công nghệ trong tổng số hoạt động


13

kinh tế tăng lên [117]. Theo Goode công nghiệp hóa phải gắn liền với những cải
tiến của công nghệ trong công nghiệp [79].
Anand Venkatesh và Chandan Jain chỉ ra quá trình công nghiệp hóa nông thôn
thúc đẩy: (i) sự phát triển của các ngành công nghiệp trong khu vực nông thôn và
(ii) sự liên kết của các ngành công nghiệp với các làng nghề. Tác động của quá trình
công nghiệp hóa nông thôn làm tăng thu nhập bình quân đầu người và giảm nghèo ở

khu vực nông thôn [57]. Theo Raphael Barel công nghiệp hóa nông thôn là một
công cụ cho việc tạo ra công ăn việc làm mới cho lực lượng lao động thất nghiệp và
cho người lao động thiếu việc làm trong ngành nông nghiệp [104].
Ảnh hưởng của công nghiệp hóa đến biến đổi việc làm nông thôn có tác động
trực tiếp đến các nguồn hình thành thu nhập của nông dân được lý giải ở nhiều khía
cạnh khác nhau:
(i) Thu nhập từ hoạt động nông nghiệp trong tổng thu nhập của nông hộ sẽ gia
tăng dưới tác động của công nghiệp hóa, bởi quá trình này tạo điều kiện để nông
dân áp dụng những thành tựu từ công nghệ sinh học và máy móc hiện đại vào sản
xuất, làm tăng sản lượng và thu nhập [115], [72].
(ii) Thu nhập từ hoạt động kinh tế phi nông nghiệp của nông dân trở nên đa
dạng hơn, bởi mối quan hệ tương hỗ giữa hai hình thức nghề nghiệp này trong quá
trình công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn. Steven và Peter cho rằng khi nông
nghiệp phát triển, tạo ra nhiều sản phẩm với chất lượng cao sẽ thúc đẩy sự hình
thành và phát triển của các nhà máy sản xuất chế biến hàng nông sản. Ngược lại, sự
phát triển của các cơ sở sản xuất công nghiệp không chỉ khuyến khích sự phát triển
của ngành nông nghiệp mà còn tạo điều kiện phát triển các hoạt động kinh tế phi
nông nghiệp ở khu vực nông thôn. Các hình thức sản xuất tiểu thủ công nghiệp,
ngành nghề truyền thống trong nông thôn phát triển mạnh dưới tác động của CNH,
HĐH cũng tạo cơ hội mạnh mẽ cho tăng thu nhập của nông dân [110].
(iii) Sự phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp (KCN, CCN) làm
giảm quỹ đất cho sản xuất nông nghiệp, tác động đến việc chuyển đổi nghề của lao
động nông nghiệp. Cùng với quá trình chuyển đổi nghề thì tình trạng di cư tìm việc


14

làm cũng gia tăng, theo quan điểm của Ioana Schiopu và Nikolaus Siegfried, việc di
cư tìm việc làm tạo điều kiện nâng cao thu nhập của gia đình ở quê nhà thông qua
các khoản tiền gửi từ nhóm đối tượng di cư tìm việc làm [83].

(iv) Cùng với những rủi ro do tự nhiên, thời tiết, biến đổi khí hậu, sự phát
triển công nghiệp, của kinh tế thị trường gắn với tình trạng khủng hoảng, thất
nghiệp, phân hóa giàu nghèo cũng ảnh hưởng đến thu nhập của nông dân. Điều đó
đòi hỏi sự trợ giúp từ Ngân sách nhà nước (NSNN) cũng tăng lên. Những khoản trợ
giúp này ở nhiều nước, như các nước trong khối liên minh Châu Âu hiện nay trở
thành công cụ chính bảo trợ cho sự phát triển nông nghiệp và tài trợ cho nông dân.
Vì vậy, thu nhập từ các khoản trợ giúp trực tiếp bằng tiền mà nông dân nhận được
do đó cũng tăng lên trong cơ cấu thu nhập của nông hộ [74].

1.1.2.5. Những cong trình nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập
của nông hộ trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ nhất, những nghiên cứu ngoài nước về các yếu tố ảnh hưởng đến thu
nhập của nông hộ:
1) Nghiên cứu về môi trường luật pháp và cơ chế chính sách: Các học giả quốc
tế, trong những nghiên cứu của mình dù không trực tiếp cũng gián tiếp khẳng định
môi trường luật pháp và cơ chế chính sách đều tác động đến biến đổi thu nhập của
nông dân. Nhiều nghiên cứu thể hiện ý tưởng NSNN là cần thiết để hỗ trợ những đối
tượng yếu thế gia tăng thu nhập cũng như đạt được một cuộc sống tốt hơn. UNIDO
chỉ ra chính sách phát triển nông nghiệp là cần thiết để nâng cao thu nhập cho nông
dân nhằm thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo cho nhóm đối tượng này [115].
2) Nghiên cứu về mức độ dồi dào của các yếu tố sản xuất: Alfonso Peter và
các cộng sự, Jean-Jacques và Alexandra đã chỉ ra rằng các yếu tố đầu vào của sản
xuất như quy mô quỹ đất, vốn và công nghệ được sử dụng có mối quan hệ tích cực
với thu nhập mà nông dân có được [56], [82]. Alain và các cộng sự cho rằng thu
nhập còn chịu tác động bởi trình độ, kỹ năng của người lao động [55].


15


3) Quy mô hộ: Nghiên cứu Mohsin và các cộng sự đã chỉ ra mối quan hệ
ngược chiều giữa hộ có đông nhân khẩu ăn theo với khả năng tích lũy [96].
Thứ hai, những nghiên cứu trong nước về các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập
của nông hộ:
Nguyễn Thị Nhung đã chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến đói nghèo, thu nhập
thấp của người dân ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam thành hai nhóm. (i) Nhóm nguyên
nhân chủ quan, đó là sự yếu kém về trình độ dân trí, hạn chế về kinh nghiệm làm
ăn, không biết cách sản xuất, đông con, thiếu khả năng lao động, thiếu vốn và hạn
chế về công nghệ ... liên quan đến bản thân người nghèo. Ngoài ra, trình độ và năng
lực hạn chế của đội ngũ cán bộ quản lý cũng là những yếu tố chủ quan tác động đến
sự biến đổi thu nhập của người dân ở khu vực này. (ii) Nhóm nguyên nhân khách
quan, liên quan đến điều kiện khí hậu thời tiết, sự hạn chế về hạ tầng kỹ thuật phục
vụ sản xuất nông nghiệp, khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm... đã tác động đến tình
trạng nghèo đói của người dân [31]. Những nghiên cứu này có nhiều điểm tương
đồng như nghiên cứu của Mai Ngọc Anh mặc dù cách phân chia yếu tố tác động
đến thu nhập của nông hộ là khác nhau giữa hai tác giả này [4]. Trong quyển sách
Tách biệt xã hội về kinh tế đối với nông dân Việt Nam, Mai Ngọc Anh đã đã chỉ ra
các yếu tố tác động đến thu nhập của nông dân ở nước ta, đó là (i) năng lực nội tại
của lao động nông dân, (ii) sự hỗ trợ của các tổ chức, hiệp hội, (iii) chính sách của
Đảng và Nhà nước về xóa đói giảm nghèo và tạo việc làm cho nông dân và (iv) từ
sự hỗ trợ của chính phủ, các tổ chức NGOs, NPOs, (v) từ sự trợ giúp của bạn bè,
người thân [4]. Quan điểm về các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ của
Nguyễn Thị Nhung và Mai Ngọc Anh do đó có vẻ đầy đủ hơn quan điểm của Trần
Quốc Nghi và các cộng sự bởi nghiên cứu của Trần Quốc Nghi chỉ xét những yếu tố
có ảnh hưởng đến thu nhập của hộ như: (i) Số nhân khẩu, (ii) Kinh nghiệm của chủ
hộ, (iii) Trình độ học vấn của chủ hộ, (iv) Các hoạt động kinh tế tạo ra thu nhập của
hộ và (v) Độ tuổi trung bình của các lao động trong hộ [4], [31], [33].
Nguyễn Thị Lệ Thúy và các cộng sự (2013) khi đưa ra các khuyến nghị nhằm
nâng cao thu nhập của nông hộ đã nhấn mạnh đến việc nhà nước cần tiếp tục các



16

chính sách nhằm hỗ trợ giáo dục và đào tạo nghề đối với những vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số; hoàn thiện hỗ trợ tiếp cận vốn đầu tư; hỗ trợ công
nghệ; chính sách đất đai... [44]. Đây cũng là những khuyến nghị có nhiều điểm
tương đồng với Đồng Văn Tuấn, Đỗ Thị Hải Hà [48], [19].
Trần Thọ Đạt đã chỉ ra các khó khăn trong đảm bảo việc làm của người dân
vùng ven biển trước những rủi ro của tự nhiên từ biến đổi khí hậu. Từ đó tác giả đưa
ra các giải pháp về hỗ trợ sinh kế để thích ứng với biến đổi khí hậu ở Việt Nam
trong những năm tiếp theo. Trong công bố này, tác giả chú trọng đến nhóm các giải
pháp mà chính quyền trung ương, địa phương cần thực thiện nhằm hỗ trợ (i) cải
thiện nguồn lực sinh kế như nguồn lực tự nhiên, nguồn lực vật chất, nguồn lực tài
chính và nguồn lực con người, (ii) tạo dựng môi trường thuận lợi về thể chế, chính
sách để tạo điều kiện phát triển [17].

1.1.3. Những vấn đề chưa được nghiên cứu hay khoảng trống của chủ đề
1.1.3.1. Về các nguồn hình thành thu nhập.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về thu nhập của nông hộ trên thế giới
và trong nước thời gian qua đã phân tích các khía cạnh của thu nhập cũng như các
yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, chưa có
một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện các nguồn hình thành thu nhập
của nông hộ, bởi trong nghiên cứu công bố gần đây nhất của Mai Ngọc Cường, Mai
Ngọc Anh [63] thì cũng mới chỉ chỉ ra thu nhập của nông hộ được hình thành từ (i)
hoạt động nông nghiệp, (ii) hoạt động dịch vụ trong thời gian nông nhàn, (iii) thu từ
sản xuất và thương mại trong lúc nông nhàn, (iv) tiền gửi từ lao động di cư, và (v)
trợ giúp từ chính phủ. Cách phân chia này, nhìn một cách tổng thể thì đã xác định
đầy đủ các nguồn hình thành nên thu nhập của nông hộ, tuy nhiên, khi so sánh với
phần tổng quan ta dễ nhận thấy rằng, chưa có sự thống nhất giữa các nghiên cứu và
chưa có một nghiên cứu toàn diện và đẩy đủ về các nguồn hình thành thu nhập của

nông hộ, cũng như nghiên tác động của CNH, HĐH, sự phát triển kinh tế thị trường
và hội nhập kinh tế quốc tế đến biến đổi thu nhập của nông dân. Cụ thể là:


17

Thứ nhất, thu từ hoạt động nông nghiệp. Trong những nghiên cứu trước đây
về thu nhập của nông hộ, có những công trình tách ra thu từ nông nghiệp của nông
hộ bao gồm hai khoản là trồng trọt và chăn nuôi [4], nhưng cũng có những nghiên
cứu lại gộp hai khoản này vào thành một [11], cũng có những nhà khoa học lại tính
thu từ nông nghiệp của nông hộ bao gồm tất cả các khoản thu từ nông-lâm-ngư
nghiệp mà nông hộ thực hiện.
Thứ hai, thu từ hoạt động phi nông nghiệp. Trong khi thu nhập từ hoạt động
phi nông nghiệp của nông dân rất đa dạng, những nghiên cứu về nguồn hình thành
này lúc thì đi quá chung vào nguồn thu nhập này khi chỉ xác định tổng nguồn thu từ
hoạt động kinh tế phi nông nghiệp, hay chỉ ra thu nhập phi nông nghiệp của nông hộ
được hình thành từ hai hợp phần, (i) từ hoạt động ngành nghề, dịch vụ và (ii) từ
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, thu từ hỗ trợ của người thân. Thành viên trong gia đình thực hiện
di cư tìm việc làm với thu nhập cao hơn và gửi tiền về cho gia đình là một hợp
phần không thể thiếu được khi xét đến hỗ trợ từ người thân. Tuy nhiên, các
nghiên cứu trước đây mới chỉ nghiên cứu một cách khái quát tỷ lệ đóng góp của
loại lao động này vào thu nhập mà chưa phân tích được trrong điều kiện CNH,
HĐH, sự phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, thì những lao
động có trình độ văn hóa, được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ hoặc người
lao động di cư có đóng góp như thế nào vào thu nhập của nông hộ?.
Thứ tư, thu từ trợ giúp của nhà nước. Tất cả các khoản tiền mà nông hộ
nhận được từ các hoạt động trợ giúp có điều kiện hoặc trợ giúp không có điều
kiện đều phải tính vào nguồn thu của nông hộ từ trợ giúp của nhà nước. Tuy
nhiên, các nghiên cứu về hợp phần này trong thời gian qua chưa tình toán được

đầy đủ những hợp phần này mà chỉ hướng nghiên cứu vào các khoản trợ giúp
mà người dân nhận được từ nghị định 13/2010/NĐ-CP (điều chỉnh của nghị
định 67/2007). Có thể kể đến các công trình như Mai Ngọc Anh; Nguyễn Ngọc
Toàn [2], [4], [49].


18

1.1.3.2. Về sự biến đổi cơ cấu thu nhập của hộ nông dân.
Nhìn chung, các nghiên cứu đã đề cập được xu hướng tất yếu của chuyển đổi
việc làm, chuyển đổi ngành nghề, chuyển đổi cơ cấu lao động, chuyển đổi cơ cấu
thu nhập cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông dân trong bối cảnh
hiện nay. Tuy vậy các nghiên cứu chưa đánh giá được một cách thấu đáo, có sức
thuyết phục những vẫn đề sau:
Thứ nhất, tác động của việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất làm tăng
năng suất lao động và hiệu quả sản xuất sản phẩm nông nghiệp của nông dân hiện
nay như thế nào? Vì sao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất của nông dân đến
nay vẫn còn thấp ?.
Thứ hai, tác động của sự phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp
(KCN, CCN) đến việc chuyển đổi việc làm, ngành nghề sản xuất phi nông nghiệp
và thu nhập của nông hộ (như lao động chuyển sang làm việc tại các KCN, CCN,
hoạt động thương mại dịch vụ phục vụ công nghiệp và dân cư, di cư ra thành phố,
ra nước ngoài làm việc...) hiện nay như thế nào? Tỷ phần đóng góp và xu hướng
biến đổi của các nguồn thu nhập này ra sao ?.
Thứ ba, vai trò chính phủ trong việc tăng thu nhập của nông dân nên đặt ra như
thế nào đối với nước ta hiện nay? Sự đóng góp của nguồn thu nhập từ NSNN đến thu
nhập của nông dân là bao nhiêu? Quan điểm về nguồn thu nhập này như thế nào ?.

1.1.4. Câu hỏi nghiên cứu
Thứ nhất, trong bối cảnh hiện nay thu nhập của nông dân bao gồm những

nguồn nào? Xu hướng biến đổi của các nguồn thu nhập này như thế nào? Những
nhân tố nào ảnh hưởng đến thu nhập của nông dân? Nhà nước có vai trò như thế nào
đến việc nâng cao thu nhập của nông dân ?.
Thứ hai, thực trạng thu nhập và biến đổi thu nhập của nông dân Hải Phòng
hiện nay như thế nào? Cơ chế chính sách, các yếu tố lao động, đất đai, vốn, khoa
học công nghệ, sự phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp, sự phát triển thị
trường lao động, sự phát triển các KCN, CCN, công tác quản lý nhà nước có ảnh
hưởng như thế nào (tăng, giảm) đến thu nhập của nông dân ?.
Thứ ba, làm thế nào để nâng cao thu nhập của nông dân Hải Phòng những năm tới ?.


19

1.2. Phương pháp nghiên cứu
1.2.1. Về phương pháp tiếp cận.
Kết hợp tiếp cận theo nhóm hộ chuyên ngành với nhóm hộ theo tiêu chí thu
nhập. Việc nghiên cứu hộ nông dân có thể được tiếp cận dưới nhiều góc độ: Tiếp
cận hộ theo tiêu chí thu nhập, ở đây việc phân tích thu nhập của hộ theo tiêu chí: hộ
giàu, hộ khá, hộ trung bình, hộ cận nghèo và hộ nghèo; Tiếp cận theo nhóm ngành
sản xuất, tức là phân tích theo nhóm hộ thuần nông và hộ kinh doanh hỗn hợp; Tiếp
cận theo tiêu chí sử dụng các nhân tố sản xuất như hộ theo nhân khẩu, lao động, đất
đai, vốn, trình độ công nghệ...; Tiếp cận hộ theo vùng tức là vùng trung du, miền
núi, vùng đồng bằng và vùng ven biển.
Trong luận án này tác giả tiếp cận thu nhập của hộ theo nhóm hộ chuyên
ngành tức là hộ thuần nông và hộ hỗn hợp; đồng thời phối hợp với các cách tiếp cận
khác để tìm ra những mặt mạnh, mặt yếu và nguyên nhân yếu của các nhóm hộ này
để có những kiến nghị giải pháp cho phù hợp với từng loại hộ.
Tiếp cận thực nghiệm: Để nghiên cứu thu nhập của nông dân Hải Phòng, đề tài
tiến hành nghiên cứu lý thuyết về những nguồn cơ bản trong việc hình thành thu nhập
của người nông dân, các yếu tố tác động và tiêu chí đánh giá. Trên cơ sở đó, đề tài

phân tích thực trạng thu nhập của nông dân một số nước trên thế giới và một số tỉnh,
thành phố nước ta cũng như của Hải phòng để phân tích đánh giá thực trạng thu nhập
của người nông dân, sự biến động trong cơ cấu thu nhập của nông dân, những nhân tố
tác động đến biến đổi thu nhập và kiến nghị các chính sách hỗ trợ của chính quyền
trung ương, địa phương trong việc tăng thu nhập của nông dân trên địa bàn.
Tiếp cận hệ thống: Theo cách tiếp cận này, đề tài trước tiên sẽ làm rõ môi
trường kinh tế xã hội của đối tượng nông dân ở Hải Phòng; xác định yếu tố tác động
đến việc đảm bảo việc làm, tăng thu nhập của người nông dân Hải Phòng; các giải
pháp tăng thu nhập đối với người nông dân Hải Phòng; các hành vi, động lực của
các bên tham gia cũng như cơ chế hoạt động, phối hợp để thực hiện những mục tiêu
đảm bảo nâng cao thu nhập đối với người nông dân ở Hải Phòng là những yếu tố
phân tích không thể thiếu trong cách tiếp cận hệ thống.


20

Tiếp cận liên ngành: trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường, đẩy mạnh
CNH, HĐH, cơ cấu thu nhập của nông dân không chỉ được hình thành từ sản xuất
nông nghiệp mà còn từ các ngành nghề kinh doanh, dịch vụ. Mục tiêu nâng cao thu
nhập đối với nông dân không chỉ phụ thuộc vào trách nhiệm và năng lực của Sở chủ
quản, trách nhiệm của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn mà còn là trách
nhiệm của Sở Công thương, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, Sở Kế hoạch và
Đầu tư, Sở Tài chính, cũng như các quận huyện…và các đơn vị chức năng trực
thuộc sự quản lý của các phòng ban ở các Sở này. Xuất phát từ đó, việc nghiên cứu
thu nhập của nông dân phải được tiếp cận theo hướng liên ngành, phân tích sự phối
kết hợp trong tổ chức triển khai hoạt động của các cơ quan quản lý của chính quyền
địa phương trên địa bàn nghiên cứu. Cách tiếp cận này do đó giúp đề tài có cái nhìn
tổng quát đối với vấn đề đảm bảo nâng cao thu nhập đối với nông dân ở Hải Phòng
hiện nay.


1.2.2. Khung nghiên cứu, phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu.
1.2.2.1 Khung phân tích của luận án
Thứ nhất, các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ được nhìn nhận
như là các yếu tố đầu vào của thu nhập. Các nhân tố này bao gồm môi trường luật
pháp, cơ chế chính sách, mức độ dồi dào của các yếu tố sản xuất, sự phát triển của
nền kinh tế nói chung, công nghiệp nói riêng và thị trường và tổ chức quản lý của
nhà nước.
Thứ hai, kết quả thu nhập với tư cách là kết quả đầu ra, được thể hiện trên
phương diện số lượng như quy mô thu nhập, tốc độ tăng thu nhập và cơ cấu thu nhập
của nông hộ và trên phương diện chất lượng thu nhập như tỷ lệ tích lũy trong thu
nhập, chất lượng cuộc sống, giảm đói nghèo, khả năng thanh toán các dịch vụ xã hội.
Thứ ba, các giải pháp tăng thu nhập của nông dân liên quan đến hoàn thiện
môi trường chính sách, tổ chức quản lý, nâng cao mức độ dồi dào của các yếu tố sản
xuất và phát triển công nghiệp, phát triển thị trường, phát triển các ngành nghề, các
khu kinh tế, khu công nghiệp trên địa bàn.


21

Khung phân tích được thể hiện ở sơ đồ 1.1.

Nhân tố ảnh hưởng

Thu nhập

- Môi trường luật pháp, cơ
chế chính sách
- Mức độ dồi dào của các
yếu tố sản xuất
- Tổ chức quản lý của nhà

nước
- Sự phát triển của nền
kinh tế và thị trường lao
động

- Các chỉ tiêu về lượng
như quy mô, cơ cấu, tốc
độ tăng thu nhập
- Các chỉ tiêu về chất
như tỷ lệ tích lũy, bất
bình đẳng, chất lượng
cuộc sống, khả năng
thanh toán các dịch vụ
xã hội

Chỉ tiêu
nghiên cứu
- Các chỉ tiêu
phản ánh kết
quả đầu ra
- Các chỉ tiêu
phân tích nguồn
lực đầu vào

Giải pháp tăng thu nhập
Sơ đồ 1.1: Khung phân tích thu nhập của nông hộ

1.2.2.2 Xây dựng bảng hỏi
Luận án thiết kế hai loại bảng hỏi: Bảng hỏi đối với nông hộ và bảng hỏi đối
với cán bộ quản lý và các nhà nghiên cứu.

Đối với nông hộ, để đơn giản và không gây nhiễu cho quá trình điều tra,
nghiên cứu này thiết kế bộ phiếu điều tra thu thập dữ liệu về tổng thu nhập của nông
hộ dựa trên 8 nguồn hình thành: (1) Từ trồng trọt chăn nuôi, (2) Từ nuôi trồng thủy
sản, (3)Từ sản xuất ngành nghề phi nông nghiệp, (4) Từ làm công làm thuê, (5) Từ
bán hàng, vận chuyển hàng hóa cho các doanh nghiệp, các khu công nghiệp, (6) Từ
người thân gửi về, (7) Từ trợ giúp trợ cấp chuyển giao của chính phủ và cộng đồng,
(8) Từ các khoản thu khác.
Để đảm bảo tính chính xác cho quá trình điều tra, ngoài việc để đối tượng
phỏng vấn tự điền số thực vào từng hợp phần hình thành thu nhập, nghiên cứu sử
dụng thang đo danh nghĩa (còn gọi là thang đo định danh hoặc thang đo phân loại)
nhằm thực hiện kiểm tra chéo giữa tổng thu nhập thực tế của từng hộ với ví trí mà
chủ hộ xác định theo 5 nhóm phân vị.


22

Đối tượng được điều tra các gia đình nông dân sống ở các huyện An Lão (Xã
An Thắng, Tân Viên, An Tiến), huyện Vĩnh Bảo (Xã Cộng Hiền, An Hòa, Trung
Lập), Huyện Kiến An (phường Tràng Minh, Nam Sơn, Văn Đầu).
Vì thu nhập của nông hộ được tính toán dựa trên hàm sản xuất, chính vì thế,
đề tài tiến hành thiết kế những câu hỏi để lấy được những thông tin về liên quan
đến lao động, đất đai, vốn và công nghệ. Ngoài ra, để nghiên cứu thu nhập trong
điều kiện tác động của CNH, HĐH, các câu hỏi còn chú ý đến tình trạng các hộ
có và không có người di cư ra thành phố làm việc, có và không có hoạt động
dịch vụ các KCN.
Cụ thể như sau, để có được thông tin: (i) về lao động, đề tài thiết kế các câu
hỏi để biết về tình hình nhân khẩu của gia đình, gia đình có bao nhiêu lao động và
bao nhiêu đối tượng ăn theo cũng như có bao nhiêu lao động đang cùng làm việc
với gia đình ở quê nhà và bao nhiêu lao động rời gia đình đến nơi khác làm việc; (ii)
về đất đai, việc trả lời câu hỏi điều tra sẽ cho biết diện tích các loại đất dùng cho sản

xuất nông nghiệp, phi nông nghiệp của hộ; (iii) về vốn, các câu hỏi phỏng vấn sẽ
giúp tác giả có được tổng giá trị tài sản tính ra tiền thông qua tư liệu sản xuất mà
nông hộ sở hữu, vốn lưu động của hộ, số tiền mà nông hộ có khả năng huy động
thông qua người thân, hoặc ngân hàng để phục vụ sản xuất; (iv) về trình độ công
nghệ, các câu hỏi phỏng vấn hướng đến trình độ văn hóa của chủ hộ, đến việc chủ
hộ đã được tham gia các lớp đào tạo hay chưa và ngành nghề hiện tại mà nông hộ
đang theo đuổi là gì? Đây là những tiêu chí đơn giản và hiệu quả để đánh giá trình
độ công nghệ của nông dân bởi có được học vấn tốt (từ trung học phổ thông trở lên)
sẽ giúp cho người dân dễ dàng tiếp thu và ứng dụng thành quả khoa học kỹ thuật
vào sản xuất; việc tham gia các khóa đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cũng giúp ích rất
lớn trong việc nâng cao phương thức sản xuất của gia đình, từ đó gia tăng thu nhập;
và các ngành nghề ít đòi hỏi kỹ năng với những ngành nghề đòi hỏi kỹ năng cũng
ảnh hưởng khác nhau đến thu nhập của nông hộ; (v) Sự tác động của CNH, HĐH
đến thu nhập của nông hộ có được từ việc phân tích các loại thu nhập từ thứ 3 đến
thứ 6 trong 8 loại thu nhập như đã trình bày trên đây.


23

Để đánh giá tác động của việc biến đổi thu nhập, các câu hỏi được thiết kế
trong bảng hỏi không chỉ giúp tác giả có được các nguồn hình thành và tổng thu
nhập trong ba năm liên tiếp từ 2010-2012 mà những câu hỏi còn giúp tác giả thu
thập được các chi tiêu của nông hộ trong 3 năm từ 2010 đến 2012. Các hợp phần
của chi tiêu được cụ thể hóa thông qua 5 khoản chi lớn đó là: (i) Chi lương thực
thực phẩm, quần áo, đồ uống; (ii) Chi học tập cho gia đình; (iii) Chi y tế, chăm sóc
sức khỏe; (iv) Chi sửa chữa, mua sắm đồ dùng phục vụ sinh hoạt và (v) chi khác.
Thông qua các khoản chi này, tác giả tiến hành phần tích các gia đình nông hộ khác
nhau sẽ ưu tiên cho các mức chi tiêu ra sao? Cũng chính từ mức độ chi tiêu của các
nông hộ tác giả sẽ biết được mức sống và chất lượng cuộc sống thông qua thống kê
về tài sản và nhà ở mà nông hộ sở hữu ở năm 2012.

Thu nhập của nông hộ được hình thành từ sự tham gia của người dân vào thị
trường lao động và các nguồn trợ giúp từ phía chính quyền trung ương và địa
phương. Bộ phiếu điều tra do đó đưa ra các câu hỏi để xem xét nhận định của người
dân về môi trường luật pháp, cơ chế chính sách hỗ trợ người dân gia tăng thu nhập
thông qua các biện pháp hỗ trợ thúc đẩy thị trường lao động trong khu vực nông
thôn ở Hải Phòng thời gian qua như thế nào? Đâu là những khó khăn, hạn chế mà
người dân đang phải đối mặt trong vấn đề gia tăng thu nhập của nông hộ.
Đối với bộ phiếu dành cho cán bộ địa phương, đề tài hướng đến nhóm đối
tượng đang đảm nhiệm các chức vụ quản lý tại các phường, xã, những cán bộ làm
tại các phòng ban chức năng (thống kê, lao động, nông nghiệp,..) ở một số địa bàn
có nông dân tham được điều tra. Các bảng hỏi này nhằm thu thập được đánh giá
cảm nhận của các đối tượng có liên quan về môi trường luật pháp, cơ chế chính
sách của nhà nước, về tổ chức quản lý, năng lực đội ngũ cán bộ quản lý các cấp và
khả năng của nông dân trong việc nâng cao thu nhập nhằm giúp đề tài có cái nhìn
đa chiều đối với những vấn đề về tình trạng thu nhập và biến đổi về đời sống của
người dân trên địa bàn các huyện, xã của Hải Phòng mà đề tài tiến hành điều tra,
phỏng vấn nông dân.
Để thực hiện đánh giá mức độ cảm nhận, luận án sử dụng thang đo Likert 5
điểm. Việc nhận xét khi sử dụng giá trị trung bình (Mean) đánh giá đối với từng yếu
tố tác giả quy ước:


24

- Mean < 2,50:

Mức thấp

- Mean = 2,50 – 3.24: Mức trung bình
- Mean = 3.25 – 3.49: Mức trung bình khá

- Mean = 3.50 – 3.99: Mức khá
- Mean = 4.00 trở lên: Mức cao
Qua bộ điều tra đối với nhóm đối tượng là cán bộ quản lý, đề tài hướng tới việc
có được đánh giá từ đối tượng quản lý về mức độ hợp lý của các (i) chính sách hiện
hành liên quan đến việc phát triển thị trường lao động trong khu vực nông thôn; (ii)
thực trạng việc làm của nông dân trên địa bàn điều tra; (iii) các yếu tố từ môi trường
pháp lý của địa phương có tác động như thế nào đến tình trạng việc làm và thu nhập
của nông dân Hải Phòng. Từ đó tiến hành so sánh mức độ chênh lệch giữa nhận xét,
đánh giá của nhóm đối tượng thụ hưởng và nhóm đối tượng thực thi những chính sách
này. Đây là cơ sở khoa học nhằm giúp đề tài đề xuất những chính sách nhằm giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn giai đoạn tới.
Ảnh hưởng của thực thi chính sách hiện hành của chính quyền địa phương đến
thu nhập của hộ nông dân được đánh giá dựa trên nhận định của những đối tượng này
về việc tác động của việc thực thi các chính sách hiện hành. Theo phiếu được thiết kế,
nếu đánh giá bình quân của những đối tượng nông dân được phỏng vấn ở gần 5,
điều đó có nghĩa là việc thực thi các chính sách tác động lên thị trường lao động của
chính quyền trung ương và địa phương có ảnh hưởng tích cực đến nâng cao thu
nhập, cải thiện chất lượng cuốc sống của họ; ngược lại khi đánh giá bình quân từ
những đối tượng nông dân được phỏng vấn ở gần 1 thì các tác động từ chính sách
của chính quyền trung ương và địa phương lên thị trường lao động ít có ảnh hưởng
đến nâng cao thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống của những đối tượng này.

1.2.2.3 Kỹ thuật thiết kế bảng hỏi
- Căn cứ vào giáo trình Điều tra xã hội học của Trần Thị Kim Thu (2012) khi
thiết kế bảng hỏi này tác giả xây dựng trình tự câu hỏi đi theo từng nhóm câu hỏi:
Nhóm thứ nhất: câu hỏi lọc nhằm giúp tác giả xác định được nhóm đối
tượng điều tra theo quy mô nhân khẩu (lao động), vốn (giá trị tài sản chi sản
xuất) và trình độ công nghệ (khả năng áp dụng kiến thức vào các ngành nghề mà
nông hộ tham gia).



×