Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên các trường cao đẳng, đại học ở thành phố Hải Phòng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (928.6 KB, 83 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ





HOÀNG BÍCH THỦY






NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT
CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC
Ở THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG HIỆN NAY






LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC










HÀ NỘI - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




HOÀNG BÍCH THỦY





NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT
CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC
Ở THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC




Chuyên ngành: Triết học

Mã số: 60 22 80



Người hướng dẫn khoa học học: TS. PHẠM CÔNG NHẤT






HÀ NỘI - 2009

MỤC LỤC
Mở đầu 1
Chương 1. Ý thức pháp luật và vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cho sinh
viên các trường đại học cao đẳng ở nước ta hiện nay 5
1.1. Khái niệm, đặc điểm, kết cấu và vai trò của ý thức pháp luật 5
1.1.1. Khái niệm ý thức pháp luật 5
1.1.2. Đặc điểm, kết cấu và vai trò của ý thức pháp luật 7
1.2. Vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên ở các trường cao đẳng,
đại học ở nước ta hiện nay 20
1.2.1. Vai trò của việc nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên ở các trường
cao đẳng, đại học ở nước ta hiện nay. 20
1.2.2. Thực chất của việc nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên các trường
cao đẳng, đại học hiện nay 26
Chương 2. Thực trạng nâng cao ý thức pháp luật của sinh viên các
trường đại học, cao đẳng ở Thành phố Hải Phòng hiện nay 34
2.1. Khái quát đặc điểm về tự nhiên kinh tế - xã hội của Hải Phòng 34
2.2. Thực trạng của việc nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên các trường

đại học, cao đẳng ở thành phố Hải Phòng hiện nay 38
2.2.1. Thực trạng những thành tựu 38
2.2.2. Thực trạng những hạn chế 40
2.2.3. Một số vấn đề đặt ra 43
2.3. Về ý thức pháp luật của sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Thành
phố Hải Phòng hiện nay - Thực trạng và nguyên nhân 47
2.3.1. Thực trạng ý thức pháp luật của sinh viên các trường đại học, cao đẳng
ở Thành phố Hải Phòng hiện nay 47
2.3.2. Nguyên nhân ý thức pháp luật của sinh viên các trường đại học, cao
đẳng ở thành phố Hải Phòng hiện nay 52
Chương 3. Một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp
luật cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Thành phố Hải
Phòng hiện nay 57
3.1. Một số quan điểm 57
3.1.1. Nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở
Thành phố Hải Phòng hiện nay phải gắn với việc nâng cao về ý thức
đạo đức, ý thức chính trị nói chung cho sinh viên ở các trường đại học,
cao đẳng 57
3.1.2. Nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở
Thành phố Hải Phòng hiện nay phải gắn với việc nâng cao chất lượng
giáo dục và đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng nói chung 59
3.1.3. Nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở
Thành phố Hải Phòng hiện nay phải đảm bảo tính liên tục, đồng bộ và
lâu dài 59
3.2. Một số giải pháp cơ bản 60
3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của chính quyền đối với
công tác nâng cao ý thức pháp luật 60
3.2.2. Kết hợp nâng cao ý thức pháp luật với giáo dục tư tưởng, chính trị đạo
đức, lối sống cho sinh viên 62
3.2.3. Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục, tuyên truyền ý thức pháp luật

cho sinh viên trong các trường đại học và cao đẳng ở thành phố Hải
Phòng hiện nay 64
3.2.4. Tăng cường các nguồn lực hỗ trợ cho công tác giáo dục tuyên truyền ý
thức pháp luật cho sinh viên trong các trường cao đẳng, đại học ở thành
phố Hải Phòng hiện nay 68
Kết luận 71
Danh mục tài liệu tham khảo 73
Phụ lục 77

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nước ta đang ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh thế
giới có những biến động sâu sắc, xu thế toàn cầu hóa tác động đến tất cả các
quốc gia đem lại nhiều thuận lợi đồng thời cũng đặt ra những thách thức to
lớn đối với mọi mặt của đời sống xã hội. Đặc biệt, khi nước ta thực hiện quá
trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ đó đã và đang đặt ra
nhiều yêu cầu cấp bách, trong đó có yêu cầu tăng cường hơn nữa công tác
quản lý nhà nước bằng pháp luật đồng thời từng bước nâng cao nhận thức và
ý thức chấp hành pháp luật của người dân.
Sinh viên là đối tượng tiếp cận và chịu ảnh hưởng lớn nhất đối với sự
biến động của cơ chế thị trường và xu thế hội nhập của đất nước. Họ thuộc
lứa tuổi đang hình thành và phát triển nhân cách dễ bị chi phối và tác động
bởi những yếu tố bên ngoài, bởi vậy việc nâng cao ý thức pháp luật cho sinh
viên là rất cần thiết và góp phần tác động to lớn đến việc chấp hành nghiêm
chỉnh pháp luật và sự phát triển của đất nước.
Hải Phòng là một thành phố lớn, là nơi có thiên nhiên ưu đãi vừa có
cảng biển, vừa có giao thông thuận lợi cho việc phát triển kinh tế. Hải Phòng
cũng là một trong những trung tâm văn hóa lớn của cả nước, là nơi hội tụ

nhiều trường cao đẳng, đại học và có nhiều sinh viên từ các tỉnh khác đến học
tập và sinh sống. Tuy nhiên, trước sự mở rộng hội nhập của đất nước nói
chung và thành phố nói riêng đã tác động rất nhiều đến lối sống, suy nghĩ của
sinh viên ở Hải Phòng. Tình trạng vi phạm pháp luật, lối sống buông thả, thực
dụng, hưởng thụ đã xuất hiện ở một bộ phận không nhỏ trong sinh viên.
Do đó, việc nhanh chóng nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên các
trường cao đẳng và đại học ở Hải Phòng giúp cho các em có tri thức cần thiết
và hành trang vững bước vào cuộc sống để xây dựng một thành phố lành

2
mạnh, trật tự, kỷ cương, góp phần xây dựng thành công sự nghiệp công
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu cần thiết trong tình hình hiện nay.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, tôi chọn: "Nâng cao ý thức pháp
luật cho sinh viên các trường cao đẳng, đại học ở thành phố Hải Phòng hiện
nay" làm đề tài luận văn thạc sỹ triết học, chuyên ngành triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc nâng cao ý thức pháp luật cho người dân nói chung và sinh viên
nói riêng có ý nghĩa to lớn, tạo nên nội lực cho việc xây dựng thành công sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy, chủ đề này đã được
nhiều công trình khoa học nghiên cứu.
Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như: "Thực trạng phạm tội
của học sinh, sinh viên trong mấy năm gần đây và vấn đề giáo dục pháp luật
trong nhà trường" - Tổng luận của Vương Thanh Hương và Nguyễn Minh
Đức, Viện Nghiên cứu phát triển Giáo dục Hà Nội, năm 1995; "Xây dựng ý
thức và lối sống theo pháp luật" của Đào Trí Úc - Chương trình khoa học
Công nghệ cấp nhà nước KX-07; đề tài KX-07-17.5; "Logic khách quan của
quá trình hình thành và phát triển nâng cao ý thức pháp luật ở Việt Nam" -
Luận án tiến sĩ khoa học triết học của Nguyễn Thị Thuý Vân, Hà Nội, 2001;
"Những đặc điểm của quá trình hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam hiện

nay" - Luận án Tiến sĩ triết học của Đào Duy Tấn, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh Hà Nội, 2001 ngoài ra còn rất nhiều bài báo, bài viết về
vấn đề này được đăng trên các tạp chí sách báo. Nhìn chung, các công trình
nghiên cứu đã làm rõ tính cấp thiết và đề xuất những giải pháp quan trọng của
việc nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân trong giai đoạn hiện nay. Tuy
nhiên, các công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này chưa nhiều và thời
gian thực hiện cách đây đã lâu nên chưa đáp ứng kịp thời với tình hình thực
tiễn của đất nước. Đối với vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên thì

3
vẫn là một khoảng trống để ngỏ rất ít công trình nghiên cứu, đề cập đến. Đặc
biệt, đối với Thành phố Hải Phòng những năm gần đây, tình hình kinh tế - xã
hội có nhiều biến đổi, phát triển, đời sống nhân dân không ngừng nâng cao.
Bên cạnh mặt tích cực đó thì trên địa bàn Thành phố cũng xuất hiện nhiều vấn
đề về trật tự, an ninh, xã hội. Đặc biệt, tình trạng phạm tội trong nhân dân
không ngừng gia tăng, trong đó xuất hiện ngày càng nhiều đối tượng phạm tội
là sinh viên. Trước thực trạng đó đòi hỏi nhu cầu bức thiết được giải đáp, định
hướng về mặt lý luận nhưng vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu về
vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân trên địa bàn thành phố nói
chung và cho sinh viên các trường cao đẳng, đại học trên địa bàn Thành phố
Hải Phòng nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn: phân tích rõ thực trạng và đề xuất một số
giải pháp góp phần nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên các trường cao
đẳng, đại học ở thành phố Hải Phòng hiện nay.
- Nhiệm vụ của luận văn:
+ Phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận có liên quan đến ý thức
pháp luật và vai trò của việc nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên hiện nay.
+ Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc nâng cao ý
thức pháp luật của sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Thành phố Hải

Phòng hiện nay.
+ Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao ý thức pháp luật của
sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Thành phố Hải Phòng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực
tiễn có liên quan đến việc nâng cao ý thức pháp luật của sinh viên các trường
đại học, cao đẳng ở thành phố Hải Phòng.

4
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: chủ yếu nhằm vào thực trạng nâng
cao ý thức pháp luật cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở thành phố
Hải Phòng hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về các vấn
đề có liên quan trong đề tài.
- Trên cơ sở phương pháp biện chứng duy vật và các phương pháp khác
như: phân tích, tổng hợp, điều tra, thống kê, khảo sát.
6. Đóng góp của luận văn
- Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm rõ về vai trò của ý thức pháp
luật và vai trò của việc nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên trong giai
đoạn hiện nay.
- Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng
làm cơ sở hình thành nên các chính sách nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho
sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Hải Phòng hiện nay hoặc được dùng
làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy của các giảng viên môn
Luật trong các trường đại học, cao đẳng ở Hải Phòng hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.


5
Chương 1
Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ VẤN ĐỀ NÂNG CAO Ý THỨC
PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Khái niệm, đặc điểm, kết cấu và vai trò của ý thức pháp luật
1.1.1. Khái niệm ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật (hay ý thức pháp quyền) là một trong những hình thái
ý thức xã hội thuộc đời sống tinh thần xã hội của con người. Trong lịch sử tư
tưởng của loài người do có sự khác biệt về nhận thức giữa các thời đại cũng
như có sự khác biệt trong quan niệm về lợi ích giai cấp và tầng lớp xã hội nên
quan niêm về nội dung ý thức pháp luật không phải lúc nào cũng có sự thống
nhất, giống nhau.
Theo nghĩa hẹp, ý thức pháp luật là ý thức chấp hành những quy định
pháp luật của con người.Vì thế khi đánh giá ý thức pháp luật của một tập thể
hay một cá nhân nào đó người ta so sánh giữa ý thức chấp hành của những đối
tượng đó với yêu cầu của những quy định trong văn bản pháp luật để đánh giá
ý thức pháp luật cao hay thấp, tốt hay xấu của họ. Quan niệm này đồng nhất ý
thức pháp luật với một hình thức biểu hiện của nó, đó là ý thức chấp hành
những quy định của pháp luật. Cách hiểu về ý thức pháp luật theo nghĩa này
bộc lộ sự hạn chế, thiếu toàn diện vì đây mới chỉ là sự nhìn nhận đánh giá bên
ngoài, mang tính hình thức và dễ rơi vào chủ quan, phiến diện chưa đủ để thể
hiện rõ bản chất, vai trò năng động và sáng tạo của ý thức pháp luật.
Có quan niệm cho rằng: “Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã
hội biểu thị mối quan hệ của con người đối với pháp luật" [12, tr.147]. Đây là
quan niệm mang tính khái quát cao nhưng lại qúa chung chung chưa phản ánh
được kết cấu, nội dung và nguồn gốc của ý thức pháp luật.

6

Có quan niệm lại chỉ tập trung nhấn mạnh cơ cấu của ý thức pháp luật:
"Ý thức pháp luật là tổng hợp những tư tưởng, quan điểm pháp luật và tâm lý
pháp luật. Hay cụ thể hơn, là tổng hợp những nhận thức, những hiểu biết quan
điểm pháp lý, những tình cảm pháp luật cùng với sự tôn trọng và thói quen
chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật" [33, tr.235].
Ý thức pháp luật được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau, trong đó
có ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa, xét về mặt bản chất giai cấp: "ý thức
pháp luật XHCN là tổng hòa những quan điểm, quan niệm, tình cảm về mặt
pháp luật thể hiện thái độ của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động do
giai cấp công nhân lãnh đạo, đối với những yêu cầu khác của pháp luật đối
với các quyền và nghĩa vụ của công dân" [22, tr.196].
Một số ý kiến khác lại thu hẹp cơ cấu của ý thức pháp luật, chỉ nhấn
mạnh phần tri thức của pháp luật như: "Ý thức pháp luật là tổng thể những
học thuyết, tư tưởng, quan điểm và quan niệm thịnh hành trong xã hội thể
hiện mối quan hệ thông qua hiểu biết của con người đối với pháp luật hiện
hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần phải có, thể hiện sự đánh giá về tính
hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người cũng như
trong hoạt động của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội" [4, tr.229].
Từ điển Bách khoa toàn thư của Việt Nam, định nghĩa về ý thức pháp
luật được đề cập như sau: Ý thức pháp luật là tổng hợp những quan điểm, tư
tưởng học thuyết thể hiện thái độ của con người, các nhóm xã hội, giai cấp
đối với pháp luật, pháp chế cũng như quan điểm của họ về sự hợp pháp hay
không hợp pháp trong những hành vi của những cá nhân, tổ chức, xã hội; Ý
thức pháp luật có nội dung chủ yếu: 1. Sự hiểu biết về pháp luật; 2. Thái độ
đối với pháp luật; 3. Khả năng thực hiện, áp dụng pháp luật.
Triết học mác-xít cho rằng ý thức pháp luật là một trong những hình
thái ý thức xã hội trong xã hội có giai cấp, nó cùng tồn tại khách quan với các
hình thái ý thức xã hội khác như đạo đức, chính trị, tôn giáo, nghệ thuật, khoa

7

học. Ý thức pháp luật tồn tại phổ biến trong ý thức của mọi cá nhân và toàn xã
hội, bản chất của nó là phản ánh đời sống pháp luật của xã hội. Xuất phát từ
nhu cầu cần phải điều chỉnh những hành vi có tính lặp đi, lặp lại thường
xuyên, phổ biến của con người trong đời sống xã hội nhằm bảo vệ lợi ích của
giai cấp nắm quyền lực và duy trì sự ổn định của cộng đồng mà hình thành ý
thức pháp luật.
Như vậy, qua tìm hiểu ta thấy rằng: Các khái niệm về ý thức pháp luật
nêu trên mặc dù phạm vi đề cập và cách thức đề cập có khác nhau nhưng nói
chung về nội dung được đề cập là tương đối thống nhất. Trên cơ sở tổng hợp
các yếu tố hợp lý của các quan niệm nói trên, có thể rút ra cách hiểu đầy đủ và
bao quát nhất về ý thức pháp luật như sau: Ý thức pháp luật là một hình thái ý
thức xã hội phản ánh một cách trực tiếp đời sống pháp luật, bao gồm tổng thể
những học thuyết, tư tưởng, tình cảm của con người đối với pháp luật, thể
hiện sự hiểu biết, thái độ của họ đối với pháp luật hiện hành, pháp luật trong
qúa khứ và pháp luật cần có trong tương lai, về quyền và nghĩa vụ của chủ thể
pháp luật, về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi của các cá
nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội.
Với cách hiểu bao quát như trên, đã chỉ rõ bản chất của pháp luật là một
hình thái ý thức xã hội, có nguồn gốc xuất phát từ đời sống pháp luật của xã
hội, có tính độc lập tương đối và đồng thời cũng làm rõ nét hơn về cơ cấu và
nội dung của ý thức pháp luật. Nhận thức đúng về ý thức pháp luật có ý nghĩa
thực tiễn rất quan trọng giúp cho chúng ta hiểu được bản chất, vai trò to lớn
của ý thức pháp luật trong đời sống xã hội để có thái độ xử sự đúng đắn với
sự tồn tại của nó.
1.1.2. Đặc điểm, kết cấu và vai trò của ý thức pháp luật
* Đặc điểm
Ý thức pháp luật là một trong những hình thái ý thức xã hội nên theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, ý thức pháp luật cũng tuân thủ những

8

quy luật, đặc điểm chung của ý thức pháp luật. Phản ánh của ý thức pháp luật
là phản ánh có nhận thức, phản ánh sáng tạo. Con người nhận thức, đánh giá
và thể hiện thái độ của mình trước các hiện tượng pháp lý vì vậy trình độ phản
ánh của ý thức pháp luật phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người. Các
đặc điểm của ý thức pháp được thể hiện như sau:
Thứ nhất, với tính cách là một hình thái ý thức xã hội - ý thức pháp luật
chịu sự qui định của tồn tại xã hội nhưng đồng thời nó cũng có tính độc lập
tương đối.
Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định.
Công lao to lớn của những nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác là đã phát triển chủ
nghĩa duy vật lên đến đỉnh cao, xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử và lần
đầu tiên giải quyết một cách khoa học vấn đề sự hình thành và phát triển của
ý thức xã hội. C.Mác và Ph. Ăngghen đã chứng minh rằng, đời sống tinh thần
của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở đời sống vật chất, rằng không
thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó nghĩa là
không thể tìm trong đầu óc của con người mà phải tìm trong hiện thực vật
chất. Các ông cũng chỉ rõ, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã
hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội, những quan
điểm về chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật sớm
muộn cũng biến đổi theo.
Ý thức pháp luật là một bộ phận của ý thức xã hội, là sự phản ánh tồn
tại xã hội từ góc độ pháp luật, thể hiện trình độ hiểu biết pháp luật và thái độ
đối với pháp luật của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân trong xã hội có giai
cấp. Theo đó, ý thức pháp luật và pháp luật là những bộ phận của kiến trúc
thượng tầng, chịu sự quy định và bị chi phối bởi các yếu tố trong cơ sở hạ
tầng mà quan trọng nhất là các điều kiện kinh tế. Vì thế, những nội dung của
ý thức pháp luật và những quy định của pháp luật, xét đến cùng, chính là sự
phản ánh đời sống hiện thực khách quan, phản ánh sự vận động, biến đổi và

9

phát triển của đời sống mà trong đó, ý thức pháp luật và pháp luật thể hiện ra.
Chính vì vậy, các nhà lập pháp không thể tuỳ tiện sáng tạo ra pháp luật, mà
phải chịu sự chi phối của các yêu cầu khách quan phát sinh trong các quan hệ
xã hội. Về điều này, C.Mác đã khẳng định: “Nhà lập pháp phải coi mình như
là nhà khoa học tự nhiên. Ông ta không làm ra pháp luật, ông ta không phát
minh ra chúng mà chỉ nêu chúng lên; ông ta biểu hiện những quy luật nội tại
của những mối quan hệ tinh thần thành những đạo luật thành văn có ý thức.
Chúng ta sẽ phải chê trách nhà lập pháp là vô cùng tuỳ tiện, nếu như ông ta
thay thế bản chất của sự việc bằng những điều bịa đặt của mình” [20, tr.232].
Như vậy, trong mối quan hệ với đời sống xã hội, ý thức pháp luật và
pháp luật là cái bị quy định. Mọi sự vận động, biến đổi và phát triển của ý
thức pháp luật và pháp luật đều có căn nguyên từ những thay đổi, vận động và
phát triển của đời sống xã hội. Và, mặc dù là cái ổn định hơn so với sự biến
động của đời sống xã hội, nhưng cuối cùng, sớm hay muộn, ý thức pháp luật
và pháp luật cũng phải thay đổi theo sự biến đổi của đời sống xã hội. “Nếu
những thay đổi xã hội được thực hiện ở phạm vi rộng lớn thông qua những
bước nhảy vọt (cách mạng), tức là xã hội có sự biến đổi về chất, bao giờ cũng
kèm theo sự ra đời của một kiểu pháp luật mới về chất, tương ứng với những
biến đổi cách mạng của xã hội… Nói một cách ngắn gọn, mọi sự biến đổi xã
hội bao giờ cũng kéo theo những biến đổi tương ứng trong đời sống pháp luật
của mỗi quốc gia. Luật pháp chỉ có ý nghĩa và giá trị trên mọi phương diện
của đời sống, khi nó không đứng ngoài các quá trình biến đổi của xã hội” [37,
tr.31].
Ý thức xã hội trong đó đặc biệt là ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn
so với tồn tại xã hội, thực tế đã chứng minh: tồn tại xã hội đã mất đi nhưng ý
thức xã hội trong đó có ý thức pháp luật vẫn còn tồn tại dai dẳng trong một
thời gian dài. Những tàn dư của quá khứ được giữ lại đặc biệt ngoan cố trong
lĩnh vực tâm lý pháp luật,nơi mà các thói quen truyền thống đóng vai trò to

10

lớn. Ví dụ: những biểu hiện tâm lý của pháp luật phong kiến như sự thờ ơ,
phủ nhận pháp luật vẫn phổ biến trong xã hội ta.
Tuy nhiên, trong những điều kiện nhất định, nhiều tư tưởng pháp luật
đặc biệt là tư tưởng pháp luật khoa học có thể vượt lên trên sự quy định của
tồn tại xã hội. Nếu đó là tư tưởng pháp luật của giai cấp cầm quyền thì nó sẽ
có cơ hội thuận lợi thể hiện pháp luật và tạo ra những sự tiến bộ trong đời
sống xã hội.
Ý thức pháp luật phản ánh tồn tại xã hội của một thời đại nào đó nhưng
nó cũng có tính kế thừa những yếu tố của ý thức pháp luật của thời đại trước
đó.Tất nhiên những yếu tố kế thừa có thể là tiến bộ hoặc không tiến bộ.
Thứ hai, ý thức pháp luật có mối quan hệ tác động qua lại với các hình
thái ý thức xã hội khác, nhất là đối với ý thức chính trị, đạo đức, tôn giáo,
nghệ thuật.
Tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội thể hiện ở chỗ: Trong
mỗi thời đại lịch sử khác nhau, tùy thuộc vào bản chất của giai cấp cầm quyền
mà vai trò của các hình thái ý thức pháp luật trong đó có ý thức pháp luật
khác nhau. Ý thức pháp luật có thể chịu sự chi phối của các hình thái ý thức
xã hội khác hoặc tác động chi phối ngược lại đối với các hình thái ý thức xã
hội khác. Chẳng hạn, trong xã hội phong kiến ý thức pháp luật đóng vai trò
chịu sự chi phối, trong xã hội tư sản ý thức pháp luật đóng vai trò chi phối các
hình thái ý thức xã hội khác.
Ý thức pháp luật và ý thức chính trị cùng ra đời và tồn tại trong những
xã hội có giai cấp, ý thức pháp luật vừa có tính độc lập tương đối vừa chịu sự
chi phối của ý thức chính trị. Nếu ý thức chính trị phản ánh những nguyên tắc
trong mối quan hệ giữa các tập đoàn người trong xã hội đối với quyền lực nhà
nước thì ý thức pháp luật phản ánh mối quan hệ của các cá nhân đối với nhà
nước với tư cách là những chủ thể mang quyền lợi và nghĩa vụ. Tuy ý thức

11
pháp luật và ý thức chính trị khác nhau nhưng chúng lại có mối liên hệ mật

thiết, ảnh hưởng và gắn bó lẫn nhau trong đó ý thức pháp luật chịu sự tác
động trực tiếp của ý thức chính trị, bởi vì bản chất của pháp luật là ý chí của
giai cấp cầm quyền. Mặc dù trong xã hội còn có những giai cấp và tầng lớp
khác nhau, có ý chí, quan điểm và lợi ích riêng khác nhau nhưng đều bị chi
phối bởi ý chí của giai cấp cầm quyền. Như vậy, trong mối quan hệ với ý thức
chính trị, ý thức pháp luật bị chi phối, định hướng bởi ý thức chính trị và điều
đó quy định tính giai cấp của ý thức pháp luật.
Trong mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và ý thức đạo đức, sự giống
nhau là cả hai loại ý thức này đều phản ánh tồn tại xã hội nhưng sự khác nhau
thể hiện ở phương thức và kết quả phản ánh. Ý thức pháp luật phản ánh đời
sống pháp luật của xã hội mà kết quả phản ảnh sẽ thể hiện ở quyền và nghĩa
vụ mang tính bắt buộc chung để điều chỉnh hành vi của con người. Ý thức đạo
đức phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng các quy tắc điều chỉnh hành vi của con
người bằng lương tâm và sự tự điều chỉnh, tự hoàn thiện, tự đánh giá mang
tính tự nguyện của bản thân. Mặt khác, nội dung ý thức đạo đức không bao
hàm quyền mà chỉ có nghĩa vụ, nghĩa vụ ở đây thể hiện khác với nghĩa vụ
trong ý thức pháp luật, đó là nghĩa vụ mang nhân tố chủ quan và sự tự giác
của mỗi người. Ý thức pháp luật và ý thức đạo đức cùng chịu sự tác động của
tồn tại xã hội và cùng tác động trở lại đối với tồn tại xã hội, chúng đều có vai
trò tham gia điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội. Do đó, chúng có
mối liên hệ, tác động qua lại với nhau, hỗ trợ và làm tiền đề cho nhau trong sự
hình thành và phát triển của nhau. Trong đó, ý thức đạo đức có vai trò đặc biệt
quan trọng trong sự hình thành và nâng cao ý thức pháp luật, nhất là đối với ý
thức pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Sự khác nhau giữa ý thức pháp luật và ý thức tôn giáo thể hiện ở chỗ: Ý
thức tôn giáo là sự phản ánh hoang đường hư ảo về thế giới khách quan và
gắn cho những hiện tượng tự nhiên, xã hội trở nên thần bí, không phải do bị

12
cưỡng chế hay ép buộc và ý thức tôn giáo thường mang tính chủ quan của

từng cá nhân trong xã hội. Bản chất của ý thức pháp luật là sự nhận thức,
đánh giá có sự điều chỉnh, có sự cưỡng chế, ép buộc của các quy định chung
mang tính khách quan trong xã hội mà bắt buộc mọi cá nhân đều phải tuân
thủ. Các Mác đã viết: "tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự cảm giác của con
người chưa tìm được bản thân mình hoặc đã để lại đánh mất mình một lần
nữa". Khác với tôn giáo, ý thức pháp luật lại là sản phẩm của sự sàng lọc của
con người về những điều được coi là cần thiết, bắt buộc phải tuân theo trong
mọi hoạt động, mọi ứng xử để đảm bảo lợi ích của toàn xã hội, mà trước hết
là lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Ý thức pháp luật khác với ý thức thẩm mỹ ở chỗ, ý thức thẩm mỹ là ý
thức thỏa mãn trước cái đẹp và điều này không mang tính bắt buộc chung đối
với tất cả mọi người. Trong xã hội, khó có một tiêu chuẩn chung về cái đẹp
cho mọi người và nó không mang tính cưỡng chế như ý thức pháp luật. Vì
thế, ý thức thẩm mỹ cho phép các cá nhân có sự lựa chọn rộng rãi - điều này
khác với ý thức pháp luật. Nhà nước và giai cấp cầm quyền luôn thông qua
việc đặt ra quy phạm pháp luật làm chuẩn mực xử sự cho hành vi của mỗi
người trong xã hội, tức là áp đặt ý thức pháp luật cho xã hôi. Việc không thừa
nhận ý thức này có nghĩa là chống lại ý chí của Nhà nước và sẽ bị cưỡng chế
bằng các chế tài của pháp luật.
Thứ ba, ý thức pháp luật mang tính giai cấp
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội mang tính giai cấp sâu
sắc, phản ánh đời sống pháp luật của xã hội, thông qua quan điểm, tư tưởng
về pháp luật của giai cấp cầm quyền. Nhà nước đại diện cho giai cấp cầm
quyền, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, ban hành những quy phạm pháp
luật phù hợp với ý chí của giai cấp cầm quyền, nhằm giữ gìn trật tự xã hội và
bảo vệ hài hòa giữa lợi ích giai cấp và xã hội. Về nguyên tắc ý thức pháp luật
của giai cấp thống trị mới được phản ánh vào trong pháp luật, ý thức pháp luật

13
của giai cấp thống trị mâu thuẫn với ý thức pháp luật của giai cấp bị trị. Đối

với đất nước ta giữa giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân
lao động khác trong xã hội có lợi ích thống nhất với nhau về cơ bản, do đó ý
thức pháp luật mang tính thống nhất cao, nó phản ánh sự thống nhất về chính
trị, tư tưởng của các giai cấp tầng lớp xã hội ở nước ta.
* Kết cấu ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là một hiện tượng tinh thần khá phức tạp của đời sống
xã hội, theo những cách tiếp cận khác nhau thì có những cách chia ý thức
pháp luật khác nhau.Căn cứ vào tính chất nội dung của ý thức pháp luật chia
thành: Hệ tư tưởng và tâm lý pháp luật; căn cứ vào mức độ và phạm vi nhận
thức có ý thức pháp luật thông thường và lý luận pháp luật; căn cứ vào chủ
thể mang ý thức pháp luật chia thành: ý thức pháp luật xã hội, ý thức pháp
luật nhóm và ý thức pháp luật cá nhân
Trước hết, nói đến hệ tư tưởng pháp luật là tổng hợp những quan điểm,
ý niệm, tư tưởng của con người về đời sống pháp luật hợp thành hệ thống,
thống nhất phản ánh một cách sâu sắc đời sống pháp luật trên lập trường của
một giai cấp nhất định. Hệ tu tưởng pháp luật không phải là sản phẩm phản
ánh trực tiếp đời sống pháp luật xã hội ở mức cảm giác, trực giác của con
người mà nó là kết quả của sự phản ánh tự giác, có mục đích rõ ràng có tính
tổ chức cao của các hoạt động tư duy lý luận. Vì thế những tư tưởng, quan
điểm được đưa ra trong xã hội thường là sản phẩm lao động trí óc của những
nhà chuyên môn pháp lý, các nhà nghiên cứu khoa học xã hội hay các người
làm công tác lãnh đạo, quản lý nhà nước. Những tư tưởng quan điểm pháp
luật của các cá nhân trong xã hội thường rất đa dạng, phong phú trong khi hệ
tư tưởng pháp luật của xã hội chỉ có một, đó là hệ thống thống nhất những tư
tưởng quan điểm được giai cấp thống trị xã hội thừa nhận và được phổ biến
rộng rãi, truyền bá công khai thông qua các hoạt động của toàn bộ hệ thống
chính trị và các ấn phẩm được phép ban hành. Hệ tư tưởng pháp luật luôn

14
luôn có xu hướng biến đổi mạnh mẽ thành ý thức pháp luật đầy đủ của toàn

xã hội.
Tâm lý pháp luật là trình độ nhận thức trực giác, cảm tính dưới sự tác
động mạnh mẽ của yếu tố nhu cầu, lợi ích của cá nhân, tập thể hay của cộng
đồng xã hội. Nó mang nhiều tính chủ quan tự phát, trong hoạt động giao tiếp
hàng ngày trước các sự kiện, hiện tượng pháp luật lớn nhỏ xảy ra trong con
người thường biểu hiện trạng thái tâm lý có tác động ảnh hưởng đến hành vi
của họ. Những trạng thái đó bao gồm tình cảm, tâm trạng, truyền thống, thói
quen, niềm tin, thành kiến, sự bắt chước, phụ họa theo một mô hình có sẵn
hoặc tin theo những lời khuyên nào đó Tình cảm, tâm trạng là những yếu tố
rất năng động trong tâm lý pháp luật. Trong thực tế một qui định mới ra đời,
nếu người có trách nhiệm thực hiện thấy rằng: qui định đó phù hợp với
nguyện vọng, đáp ứng được lợi ích, nhu cầu của mình thì xuất hiện trong họ
tình cảm tích cực, trạng thái phấn khởi thôi thúc hành động muốn thực hiện
qui định đó nhanh chóng. Ngược lại nếu họ cho rằng qui định đó là không phù
hợp, không đem lại lợi ích cho mình thì xuất hiện tâm trạng tiêu cực, buồn bã
miễn cưỡng chấp hành, thậm chí không chấp hành. Tình cảm phát triển cao là
động cơ thôi thúc con người suy nghĩ hành động một cách tích cực, sáng tạo.
Như vậy, tình cảm pháp luật ảnh hưởng rất lớn tới thái độ tích cực hoặc tiêu
cực của con người đối với pháp luật.
Truyền thống, thói quen, niềm tin, thành kiến là những nhân tố tương
đối ổn định và mang tính bảo thủ cao trong tâm lý pháp luật. Nó được hình
thành trong một thời gian dài và trải qua thử thách, giúp cho con người hoạt
động một cách tự tin và kiên định. Vì vậy nó là yếu tố quan trọng trong việc
hình thành ý thức pháp luật. Trong mọi lĩnh vực cũng phải cân nhắc cẩn thận
việc tiếp thu kế thửatuyền thống, thói quen có cả mặt tích cực và tiêu cực.
Chẳng hạn, do điều kiện lịch sử, nhân dân ta nhìn chung chưa có thói quen
sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, do vậy trong quá trình xây

15
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chúng ta phải khắc phục hạn chế

này. Là một bộ phận của ý thức xã hội luôn gắn với truyền thống, tập quán,
thói quen của con người, tâm lý pháp luật ít biến đổi, biến đổi chậm chạp do
đó nó bền vững, bảo thủ hơn so với tư tưởng pháp luật. Cho nên muốn xóa bỏ
ý thức pháp luật lạc hậu, xây dựng ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa thì cần
phải có quá trình lâu dài, phức tạp.
Qua phân tích, ta thấy rằng: Tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng pháp luật
là hai bộ phận cấu thành nên ý thức pháp luật có mối quan hệ biện chứng, tác
động qua lại chặt chẽ với nhau. Tâm lý pháp luật ra đời một cách tự phát
nhưng chịu sự chi phối của hệ tư tưởng pháp luật, mức độ xúc cảm, tình cảm
pháp luật của cá nhân phụ thuộc vào đặc điểm và trình độ nhận thức của cá
nhân đó. Ngược lại, sự phát triển của hệ tư tưởng pháp luật cũng chịu ảnh
hưởng của tâm lý pháp luật, nó là điều kiện, tiền đề kích thích tư duy sáng tạo
của con người, hướng họ vươn lên trình độ tư tưởng pháp luật.
Ý thức pháp luật thông thường là những tri thức, những quan niệm của
con người hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày,
chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa. Ý thức pháp luật thông thường,
thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt cuộc sống hàng ngày của con
người, thường xuyên chi phối cuộc sống đó. Ý thức pháp luật thông thường
tuy là trình độ thấp so với ý thức lý luận, nhưng những tri thức kinh nghiệm
phong phú đó có thể trở thành tiền đề quan trọng cho sự hình thành các lý
thuyết xã hội. Hàng ngày con người sống và thường xuyên có mối liên hệ, tác
động với nhau và va chạm với các sự kiện pháp lý, tham gia trực tiếp vào
nhiều quan hệ pháp luật về dân sự, hành chính, giao thông, hình sự tham gia
vào các hoạt động chính trị, pháp lý như bầu cử, khiếu nại, tố cáo, đóng góp ý
kiến vào các dự án luật Trong lao động sản xuất, con người giao tiếp, học
tập, ảnh hưởng lẫn nhau và cùng chịu tác động của các hình thức, phương
pháp giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật của nhà nước, của các tổ chức xã

16
hội thông qua các phương tiện truyền thông như: đài, báo, truyền hình, các

hình thức nghệ thuật Sự tác động ảnh hưởng qua lại của nhiều hình thức nêu
trên giúp cho con người có những hiểu biết nhất định về pháp luật chủ yếu là
ở mức độ kinh nghiệm thông thường. Những hiểu biết thông thường phổ biến
về pháp luật giúp cho con người xử lý nhanh nhạy, kịp thời có hành vi phù
hợp với những đòi hỏi ở mức chung nhất những quy phạm pháp luật khi gặp
những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày. Mỗi cá nhân tùy theo vị trí
xã hội và điều kiện sống, có những hiểu biết pháp luật ở mức thông thường
khác nhau và trong lĩnh vực pháp luật này có thể có hiểu biết pháp luật mức
độ lý luận nhưng ở lĩnh vực khác lại có mức độ hiểu biết pháp luật thông
thường. Không phải ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào mọi hoạt động xã hội cũng
cần đến ý thức pháp luật lý luận. Không phải ai cũng có mức độ hiểu biết lý
luận về pháp luật ở tất cả các khâu, các lĩnh vực của pháp luật, ý thức pháp
luật thông thường làm phong phú ý thức pháp luật lý luận, là điều kiện, môi
trường cho việc hình thành ý thức pháp luật lý luận.
Ý thức pháp luật lý luận là mức độ nhận thức sâu sắc, nhất quán có hệ
thống vạch ra được bản chất các hiện tượng pháp luật. Nhận thức lý luận pháp
luật thể hiện ở trình độ nhận thức cao, đó là những tư tưởng, quan điểm, quan
niệm có cơ sở lý luận và thực tiễn, nó thường nằm trong các học thuyết các
giáo trình, các công trình nghiên cứu liên quan đến các lĩnh vực pháp luật. Có
được mức độ nhận thức lý luận, ngoài những điều kiện giáo dục pháp luật
chung như đã nêu trên đối với ý thức pháp luật thông thường, đòi hỏi con
người phải qua học tập, đào tạo có hệ thống, phải có quá trình hoạt động lý
luận (hoạt động tư duy với phương pháp khoa học). Ý thức pháp luật lý luận
là yếu tố năng động sáng tạo của ý thức pháp luật, nó quyết định tốc độ,
phương hướng phát triển của ý thức pháp luật thông thường cũng như của ý
thức pháp luật. Ý thức pháp luật lý luận giúp con người điều chỉnh các hành

17
vi pháp lý một cách chủ động, tự tin, nó có vai trò rất quan trọng trong đời
sống xã hội.

* Vai trò của ý thức pháp luật đối với sự phát triển của đời sống xã hội
Ý thức pháp luật là một bộ phận của hình thái ý thức xã hội nên ra đời
và bị qui định bởi tồn tại xã hội. Tuy nhiên nó có sự tác động trở lại và có vai
trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của đời sống xã hội nói chung và
với đời sống pháp luật nói riêng. Điều này thể hiện ở một số khía cạnh sau:
Thứ nhất: Vai trò của ý thức pháp luật đối với sự phát triển kinh tế
Trong quá trình phát triển của đời sống xã hội thì kinh tế luôn giữ vai
trò quyết định, đời sống kinh tế phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của đời
sống xã hội nói chung. Mặc dù đời sống kinh tế quyết định đến việc hình
thành và phát triển ý thức pháp luật nhưng ý thức pháp luật cũng có tính độc
lập tương đối thể hiện ở chỗ: Ý thức pháp luật có thể phát huy yếu tố tích cực
và hạn chế đến mức tối đa các yếu tố tiêu cực trong sự vận hành của cơ chế
kinh tế. Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang thực hiện nền kinh tế
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Với đặc trưng này, bên cạnh những tích cực trong việc nâng cao tính cạnh
tranh và năng suất lao động thì cũng tồn tại những hạn chế tiêu cực đó là việc
chạy theo lợi nhuận, bất chấp mọi thủ đoạn như làm hàng giả, hàng lậu, tham
ô, tham nhũng, đầu cơ, tích trữ để nâng giá gây rối loạn thị trường, ảnh hưởng
đến sự phát triển kinh tế. Do vậy, muốn có sự cạnh tranh lành mạnh trên thị
trưòng thì cần phải có các đạo luật phù hợp. Chẳng hạn như luật chống độc
quyền, luật bảo vệ người tiêu dùng, luật doanh nghiệp, luật cạnh tranh, luật
phá sản sẽ phát huy được tính tích cực của cơ chế kinh tế này và cũng phát
huy tích cực vai trò quản lý kinh tế của nhà nước nhằm đem lại hiệu quả cho
sự phát triển kinh tế. Để có được các đạo luật phù hợp này thì hệ tư tưởng
pháp luật đóng vai trò quan trọng.

18
Do ảnh hưởng của trình độ, tâm lý, thói quen, tập quán và cả những
điều kiện kinh tế làm cho ý thức pháp luật của người dân nước ta chưa cao,
điều này có tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế như tự do cạnh tranh,

bất chấp các thủ đoạn như gian lận trong sản xuất kinh doanh làm cho gây tổn
thất kinh tế của xã hội như làm hàng giả, hàng kém chất lương, trốn thuế
Như vậy, việc nâng cao ý thức pháp luật cho người dân sẽ hạn chế được
những tiêu cực của nền kinh tế và phát huy những tích cực của cơ chế kinh tế
ở nước ta hiện nay, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
Như vậy, muốn kinh tế phát triển, thúc đẩy đời sống xã hội đi lên thì ý
thức pháp luật phải là nhân tố quan trọng trong quá trình ổn định, điều chỉnh
mọi quan hệ xã hội. Điều đó chỉ được thực hiện khi có tác động tích cực của
hệ tư tưởng pháp luật, bởi vì nó giữ vai trò định hướng cho kinh tế và đời
sống xã hội. Trên thực tế, ngày càng xuất hiện nhiều người có thái độ thờ ơ
xem thường pháp luật. Hơn nữa một số đối tượng rất am hiểu pháp luật nhưng
vẫn tìm mọi cách để lách luật, vi phạm pháp luật những hành vi này đã cản
trở không nhỏ tới sự vận động chung của nền kinh tế. Chỉ khi mỗi công dân
có thái độ tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật thì đời sống xã
hội sẽ phát triển thuận lợi, như vậy khi ý thức pháp luật tích cực sẽ có vai trò
thúc đẩy kinh tế phát triển nhưng ngược lại nếu ý thức pháp luật kém thì sẽ
hạn chế sự phát triển của kinh tế.
Thứ hai, vai trò của ý thức pháp luật với sự ổn định của xã hội
Muốn đời sống xã hội phát triển bền vững, trước hết phải có trật tự,kỷ
cương xã hội ổn định, trong đó ý thức pháp luật thể hiện qua hệ thống pháp
luật là nhân tố quan trọng trong việc duy trì trật tự xã hội, quản lý xã hội để
ổn định và phát triển.
Sự ổn định của xã hội trước hết nhờ việc ban hành những đạo luật phù
hợp với sự phát triển của xã hội hay nói cách khác là nhờ sự phát triển của

19
khoa học pháp lý. Ý thức pháp luật càng cao thì những văn bản quy phạm
pháp luật càng hoàn thiện, đầy đủ hơn, chặt chẽ hơn và nhờ đó việc đưa
những quy định của pháp luật vào thực thi trong cuộc sống sẽ nhanh chóng và
có chiều hướng tích cực hơn, góp phần quan trọng trong việc giữ gìn ổn định

trật tự xã hội.
Ý thức pháp luật có vai trò góp phần nâng cao việc thi hành pháp luật,
thúc đẩy trật tự xã hội. Ý thức pháp luật càng cao thì việc áp dụng pháp luật
trong hoạt động quản lý nhà nước, cũng như các cá nhân, tổ chức xã hội và cơ
quan nhà nước sẽ tuân thủ pháp luật càng nghiêm minh hơn. Bên cạnh đó, ý
thức pháp luật cũng góp phần to lớn trong việc giữ gìn an ninh quốc gia và
giữ gìn trật tự xã hội.
Thứ ba, vai trò của ý thức pháp luật trong việc phát triển văn hóa
Chúng ta thấy rằng ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, nó
có quan hệ và tác động qua lại với các hình thái ý thức xã hội khác trong đó
có cả văn hóa. Sự tác động này diễn ra theo hai chiều hướng, có thể là tích
cực hoặc là tiêu cực. Chẳng hạn, ý thức pháp luật của một cá nhân tốt họ sẽ
tiếp nhận những luồng văn hóa tích cực, trình độ văn hóa sẽ nâng cao, tạo ra
những hành động tích cực trong cuộc sống. Ngược lại nếu ý thức pháp luật
kém, cá nhân đó sẽ tiếp cận với những luồng tư tưởng xấu, nhiễm những thói
hư tật xấu dẫn đến tư tưởng lệch lạc và có những suy thoái về đạo đức, lối
sống điều này sẽ gây ra những tác hại cho sự phát triển văn hóa của xã hội.
Hiện nay trong xã hội ta đã xuất hiện một bộ phận không nhỏ những thanh
niên sống thiếu văn hóa, chỉ thích hưởng thụ, thực dụng, vui chơi giải trí
không lành mạnh, tiếp cận rất nhanh những thói hư tật xấu những luồng tư
tưởng phản động phi văn hóa từ bên ngoài và nếu cùng với sự phát triển của
đất nước nếu Đảng và Nhà nước không có giải pháp tác động, ngăn chặn kịp
thời thì những tư tưởng và lối sống như vậy sẽ lan rộng và làm mất dần đi
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Khi có ý thức pháp

20
luật tích cực trong việc tiếp cận và kế thừa văn hóa làm cho đời sống tinh thần
của con người tốt hơn, những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc sẽ
được giữ gìn và phát huy. Như vậy, qua phân tích chúng ta thấy rằng ý thức
pháp luật có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của văn hóa.

Tóm lại, ngoài những vấn đề mà chúng ta vừa phân tích thì ngoài ra có
thể khẳng định rằng: ý thức pháp luật có vai trò tác động rất quan trọng đến
mọi mặt của đời sống xã hội. Sự tác động diễn ra theo hai chiều hướng có thể
là tích cực nếu ý thức pháp luật tiến bộ, có thể là tiêu cực nếu ý thức pháp luật
kém. Do vậy, cần phải có một cơ chế để phát huy vai trò tích cực của ý thức
pháp luật đối với các mặt của đời sống xã hội. Ý thức pháp luật với tư cách là
một bộ phận của ý thức xã hội, sẽ chi phối ý thức cá nhân và trở thành một bộ
phận trong ý thức cá nhân, chi phối nhận thức, tình cảm, hành vi cá nhân. Ý
thức pháp luật tốt cần được biểu hiện trong các hành vi ứng xử đúng theo
chuẩn mực pháp luật trong cuộc sống, biến thành những hành vi hợp pháp
trong hoạt động thực tiễn. Vì vậy, cần đẩy mạnh những hoạt động thực tiễn để
sao cho ý thức pháp luật của quần chúng nhân dân được nâng cao hơn. Bên
cạnh đó tự các cá nhân phải nhận thức và điều chỉnh hành vi của bản thân sao
cho phù hợp yêu cầu nâng cao ý thức pháp luật của xã hội.
1.2. Vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên ở các trường
cao đẳng, đại học ở nước ta hiện nay
1.2.1. Vai trò của việc nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên ở các
trường cao đẳng, đại học ở nước ta hiện nay
Hiện nay, nhân loại đang đứng trước những vấn đề toàn cầu phức tạp
cần phải giải quyết như: xung đột sắc tộc, tôn giáo, vấn đề vũ khí hạt nhân,
vấn đề hiểm họa thiên tai do sự tàn phá môi trường, nạn suy thoái đạo đức,
vấn đề bùng nổ dân số và những vấn đề khác trong lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Để giải quyết các vấn đề đó, cộng đồng quốc tế phải tiến hành nhiều biện

21
pháp đồng bộ và sử dụng nhiều công cụ, phương tiện khác nhau. Một trong số
những công cụ đó chính là pháp luật. Vì vậy, việc trang bị những kiến thức
pháp luật cho thế hệ trẻ là một trong những điều kiện cơ bản nhất để bảo đảm
cho nước ta không chỉ phát triển bền vững mà còn thực hiện có hiệu quả quá
trình hội nhập quốc tế.

Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta đề xướng và
lãnh đạo, chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn, đã đưa đất
nước vượt qua được thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định
chính trị, giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề cấp bách về kinh tế -
xã hội. Nhưng một thực tế đáng buồn là cùng với sự phát triển về kinh tế - xã
hội, đời sống ngày càng được nâng cao, thì tình trạng vi phạm pháp luật ngày
càng tăng cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng. Trong đó, một số lượng
không nhỏ các vụ vi phạm pháp luật do học sinh, sinh viên gây ra. Nguyên
nhân cơ bản vẫn là do ý thức pháp luật của một bộ phận sinh viên còn hạn
chế.
Thực trạng trên đây dù được lý giải như thế nào đi nữa, chúng ta cũng
cần phải nhấn mạnh rằng, đã có một thời gian dài, công tác tuyên truyền, giáo
dục pháp luật chưa được chú trọng đúng mức, thậm chí nhiều nơi, nhiều lúc
buông lỏng. Sự coi nhẹ và thiếu năng động trong công tác tuyên truyền giáo
dục pháp luật cho học sinh, sinh viên là một trong những nguyên nhân dẫn
đến tình trạng số lượng học sinh, sinh viên vi phạm pháp luật và kỷ cương
ngày càng tăng. Điều đó đã đặt ra cho chúng ta thấy sự cần thiết phải nhận
thức được ý nghĩa quan trọng mang tầm chiến lược của công tác tuyên truyền
phổ biến và giáo dục ý thức pháp luật trong công tác giảng dạy ở các trường
cao đẳng và đại học hiện nay. Trong một thời gian khá dài, chúng ta mới chỉ
chú trọng bồi dưỡng truyền thụ cho thế hệ trẻ những kiến thức khoa học, mà
chưa chú ý đúng mức đến kiến thức pháp luật và kỹ năng sống. Sự thiếu đồng
bộ trong công tác giáo dục đã dẫn đến hậu quả nghiêm trọng là ý thức pháp

×