Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

biện pháp thực hiện chỉ đạo việc rèn, giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non vùng khó khăn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.63 KB, 23 trang )

BIỆN PHÁP THỰC HIỆN VIỆC CHỈ ĐẠO VIÊC RÈN, GIÁO DỤC KỸ
NĂNG SỐNG CHO TRẺ MẦM NON VÙNG KHÓ KHĂN

I- Phần I: Lý do chọn đề tài
Giáo dục “Kỹ năng sống” cho trẻ mầm non vùng có điều kiện kinh tế xã
hội khó khăn là giáo dục cách sống tích cực để trẻ dần được tiếp cận được hòa
nhập với xã hội hiện đại. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong việc
thực hiện phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” do Bộ
giáo dục & Đào tạo phát động . Thực hiện việc giáo dục cho trẻ những kỹ năng
mang tính cá nhân và xã hội nhằm giúp trẻ có thể chuyển kiến thức, thái độ, cảm
nhận thành những khả năng thực thụ, giúp trẻ biết xử lý hành vi của mình trong
các tình huống khác nhau trong cuộc sống phù hợp với điều kiện thực tế vùng
miền của mình .
Trẻ mầm non vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn vốn đã thiếu kiến
thức trong cuộc sống và lại chịu nhiều thiệt thòi so với trẻ vùng thuận lợi nên dẫn
tới chưa có kỹ năng cuộc sống ( Bao gồm rất nhiều kỹ năng : Kỹ năng giao tiếp
ứng xử , kỹ năng vệ sinh , kỹ năng thích nghi với môi trường sống , kỹ năng hợp
tác chia sẻ.. ) chưa biết sử dụng linh hoạt kỹ năng thì không đảm bảo cá nhân trẻ
có thể đưa ra các quyết định hợp lý, giao tiếp có hiệu quả và có mối quan hệ tốt
với mọi người. Kỹ năng sống chính là năng lực tâm lý xã hội để đáp ứng và đối
phó những yêu cầu và thách thức trong cuộc sống hàng ngày.

1


Một nghiên cứu gần đây về sự phát triển trí não của trẻ cho thấy khả năng
giao tiếp, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình, biết cách
ứng xử phù hợp và biết tự cách giải quyết các vấn đề cơ bản một cách tự lập rất
quan trọng đối với trẻ. Chính vì vậy, việc đi sâu lồng ghép dạy kỹ năng sống cho
trẻ phù hợp với từng độ tuổi từ lứa tuổi mầm non vô cùng cần thiết.
Dạy kỹ năng sống cho trẻ là truyền cho trẻ những kinh nghiệm sống của


người lớn. Nhằm giúp trẻ có những kỹ năng đương đầu với những khó khăn
trong cuộc sống. Trẻ biết vận dụng, biến những kiến thức của mình để giải quyết
những khó khăn trong cuộc sống cho phù hợp. Muốn vậy, người lớn phải tạo cho
trẻ có môi trường để trải nghiệm, thực hành. Nhưng trên thực tế trẻ mầm non
vùng khó khăn chưa được gia đình quan tâm chú trọng việc rèn kiến thức cũng
như kỹ năng sống cho trẻ, thường để trẻ phát triển các kỹ năng tự phát dẫn tới
khó khăn cho trẻ trong việc có tình huống bất ngờ xảy ra.
Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài:“ Biện pháp thực hiện chỉ đạo việc rèn,
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ Mầm non vùng khó khăn”.

Phần II: Phạm vi và thời gian áp dụng
1. Phạm vi áp dụng:
Thực hiện áp dụng tại các trường Mầm non Mẫu giáo có điều kiện xã hội
khó khăn trên địa bàn trong và ngoài tỉnh Lào cai.

2. Thời gian áp dụng:
Từ tháng 08 năm 2013 đến tháng 05 năm 2014

2


Phần III: Đánh giá thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến
1. Thuận lợi:
Thực hiện nhiệm vụ năm học 2013-2014 tiếp tục phát huy thực hiện cuộc
vận động “ Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực” Phòng GD&ĐT
huyện Bắc Hà thực hiện xây dựng kế hoạch chỉ đạo cụ thể để thực hiện việc rèn
kỹ năng sống cho học sinh đối với từng bậc học, đây chính là những định hướng
giúp nhà trường chủ động hơn trong công tác chỉ đạo giáo viên thực hiện rèn kỹ
năng sống cho trẻ như: Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống
trong cuộc sống, thói quen, kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm, kỹ năng

phòng chống tai nạn giao thông, đuối nước….
Cơ sở vật chất, phòng học đồ dùng đồ chơi đảm bảo nên thuận lợi cho việc
thực hiện nội dung xây dựng môi trường giáo dục sạch đẹp, an toàn cho trẻ.
Giáo viên nhiệt tình trong công tác sưu tầm sử dụng các trò chơi dân gian
để rèn dạy trẻ qua các đồ dùng, đồ chơi tự tạo.
2. Khó khăn:
Gia đình nơi trẻ về nhà sinh hoạt do điều kiện, trình độ hiểu biết nên hầu
hết không chú ý tới con cái, tự phó mặc cho con tự phát theo hướng qui luật sinh
tồn không biết cách rèn dạy trẻ các nền nếp thói quen tốt.
Giáo viên nhiều khi chưa hiểu về nội dung phải dạy trẻ mầm non những kỹ
năng sống cơ bản nào, chưa biết vận dụng từ những định hướng, kế hoạch chung
để rèn kỹ năng sống cho trẻ.
Công tác phối hợp giữa gia đình & nhà trường trong việc rèn kỹ năng sống
cho trẻ gặp nhiều bất cập về ngôn ngữ. Cha mẹ không dạy con ở nhà trong khi đó
thời gian trẻ ở nhà nhiều hơn ở với các cô giáo
3


Thực tế đầu năm: Trẻ có thói quen tối thiểu trong sinh hoạt học tập, giao
tiếp, ứng xử…. như sau:
- Mạnh dạn tự tin: 50 %;
-Kỹ năng hợp tác:

-Tự lập, tự phục vụ: 40 %;

60 %;

- Lễ phép: 70%;

Kỹ năng giao tiếp: 63 %


- Thích khám phá học hỏi : 50%;

Trên cơ sở từ những thuận lợi & khó khăn, thực trạng khảo sát trên là một
người quản lý tôi cho rằng mình cần thực hiện đầu tư, nghiên cứu tìm ra các giải
pháp để áp dụng chỉ đạo tập thể giáo viên áp dụng rèn kỹ năng sống đối với trẻ
Mầm non vùng khó.

Phần IV: Những giải pháp, biện pháp áp dụng thực hiện sáng kiến:

1. Biện pháp giúp giáo viên nhận thức sâu sắc về việc dạy trẻ kỹ năng sống
Đầu năm học, tôi thực hiện tổ chức hội thảo về thực trạng và giải pháp của
đơn vị trong việc tiếp tục đẩy mạnh phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực” do Bộ Giáo dục- Đào tạo phát động; qua đó giúp giáo viên
hiểu được rằng chương trình học chính khoá thường cho trẻ tiếp xúc từ từ với các
kiến thức văn hoá trong suốt năm học, còn thực tế trẻ sẽ học tốt nhất khi có được
cách tiếp cận một cách cân bằng, biết cách phát triển các kỹ năng nhận thức, cảm
xúc và xã hội phù hợp với điều kiện vùng miền. Vì thế, khi trẻ tiếp thu được
những kỹ năng giao tiếp xã hội và các hành vi ứng xử cơ bản trong nhóm bạn, thì
trẻ sẽ nhanh chóng sẵn sàng và có khả năng tập trung vào việc học văn hoá một
cách tốt nhất.
4


Ví dụ: Ngay từ đầu năm học khi trẻ vừa đến lớp, đến trường các con còn
nhút nhát không tự tin khi giao tiếp cùng các bạn thì giáo viên phải là người linh
hoạt thực hiện nghiêm túc tuần lễ làm quen với Cô giáo các bạn theo đúng
chương trình kế hoạch, gần gũi thương yêu trẻ dạy trẻ nhớ lại những kỹ năng
giao tiếp cần thiết( Giao tiếp, ứng xử, nề nếp, thói quen….)
2. Biện pháp giúp giáo viên xác định những kỹ năng sống cơ bản cần dạy

trẻ ở lứa tuổi mầm non:
Đối với tâm sinh lý trẻ em Mầm non nói chung thì có nhiều kỹ năng quan
trọng mà trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá. Trẻ em vùng dân
tộc khó khăn càng đòi hỏi quan trọng hơn bởi đi học mầm non đa số các em bắt
đầu mới được chuẩn bị về Tiếng Việt. Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu đều
cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ phải học vào thời gian đầu của năm học
là chính là những kỹ năng sống như: sự hợp tác, tự kiểm soát, tính tự tin, tự lập,
tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Việc xác định được các kỹ năng cơ bản
phù hợp với lứa tuổi, phù hợp với nhận thức điều kiện, hoàn cảnh của trẻ Mầm
non vùng khó khăn sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để
dạy trẻ .
Ví dụ: Khi thực hiện tuần làm quen với cô giáo, với các bạn cô giáo cần
linh hoạt để ý tới từng độ tuổi của trẻ lớp mình vì trên thực tế đa số lớp học vùng
khó là lớp ghép 2 đến 3 độ tuổi nên việc để ý đến những trẻ chưa biết giao tiếp,
chậm giao tiếp cho những trẻ lớn làm quen chơi nhóm cùng trẻ bé là việc làm vô
cùng quan trọng
3. Biệp pháp cụ thể hóa nội dung của những kỹ năng cơ bản mà giáo viên
cần dạy trẻ:
5


+ Kỹ năng sống tự tin : Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên
cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm
nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những
người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống
ở mọi nơi.
Ví dụ: Cô khuyến khích để trẻ thi đua tự giác được lên trước lớp tập giới
thiệu, sau đó tự giới thiệu tên, tuổi, trường lớp, gia đình mình. Trẻ mới đi học
chưa tự tin cô cần kiên trì dạy trẻ từng câu đến khi trẻ tự nói được theo yêu cầu
của cô

+ Kỹ năng sống hợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên
giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với
trẻ lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc
với các bạn.
Ví dụ: Cô thực hiện các trò chơi mang tính thi đua tập thể, các bài hát thực
hiện theo nhóm…..
+ Kỹ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong
những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự khát khao
được học. Giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khêu gợi
tính tò mò tự nhiên của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện
hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí não
nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được.
Ví dụ: Cô giáo cần quan tân trú trọng việc thực hiện cho trẻ kể chuyện
sáng tạo bằng nhiều hình thức qua đồ vật, qua tranh để trẻ được làm việc theo

6


nhóm tự nói lên được suy nghĩ khám phá của mình sau đó cô hướng lại nội dung
giáo dục trẻ theo đúng nội dung truyện.
+ Kỹ năng giao tiếp: Giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn
đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến
thức của mình trong thế giới xung quanh nó. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá
quan trọng đối với trẻ. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kỹ năng khác
như đọc, viết, làm toán và nghiên cứu khoa học. Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi
nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn
sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp trẻ sẳn
sàng học mọi thứ.
Ngoài ra, ở trường cô giáo cần dạy trẻ nghi thức văn hóa trong ăn uống qua
đó dạy trẻ kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay sạch

sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật
dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai
nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn,
cảm ơn sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa … hoặc biết giúp
người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, ăn hết suất. không làm ảnh hưởng đến người
xung quanh.
4. Biện pháp xác định nhiệm vụ cơ bản và phân công trách nhiệm trong
việc dạy trẻ kỹ năng sống
4.1. Trách nhiệm của trường mầm non
Ban giám hiệu nhà trường trao đổi với giáo viên để xác định mục tiêu của
trường, kết quả mong đợi phù hợp với tiềm năng phát triển của trẻ và xây dựng
kế hoạch năm học cho từng độ tuổi phù hợp với đặc điểm của chương trình.
7


Tạo điều kiện cho giáo viên tổ chức tốt các họat động nuôi dưỡng, chăm
sóc giáo dục trẻ theo thời gian biểu của nhà trường đã đưa ra.
Tập huấn cho giáo viên về công tác dân vận tại địa phương các kỹ năng
làm việc với cha mẹ, tạo cơ hội, tổ chức nhiều hoạt động nhằm giúp giáo viên
tăng cường phối hợp nhất quán với gia đình để dạy trẻ kỹ năng sống đạt hiệu quả.
Ví dụ: Thực hiện họp thôn bản thường kỳ, phối hợp hội phụ nữ, y tế xã
tuyên truyền hướng dẫn vệ sinh môi trường tại gia đình cách bổ sung dinh dưỡng
tại nhà cho con…
4.2. Giáo viên có thể làm được gì để dạy kỹ năng sống cho trẻ
Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến
khích sự chuyên cần, tích cực của trẻ, giáo viên cần phải biết khai thác phát huy
năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Vì mỗi đứa trẻ là một nhân vật đặc biệt,
phải giáo dục trẻ như thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của
cuộc sống.
Giáo viên cần thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc

giáo dục trẻ một cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp trẻ phát triển
đồng đều các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẩm
mỹ. Phát huy tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tim tòi,
biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tinh huống khác
nhau.
Ví dụ: Nhà trường thực hiện chỉ đạo giáo viên xây dựng chương trình kế
hoạch thực hiện đúng theo chủ đề, chủ điểm. Tích cực làm sử dụng có hiệu quả
đồ dùng đồ chơi tự tạo giúp trẻ phát triển đồng đều các lĩnh vực

8


Giáo viên cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những
bạn khác trong lớp, trẻ biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách hành xử,
biết lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm trẻ
khác nhau, giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Điều
này liên quan tới việc đứa trẻ có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không đối với mọi
người xung quanh, cũng như việc mọi người xung quanh chấp nhận đứa trẻ đó
như thế nào? Cần chuẩn bị cho trẻ sự tự tin, thoải mái trong mọi trường hợp nhất
là trong việc ăn uống để chúng ta không phải xấu hổ vì những hành vi không đẹp
của trẻ.
Ví dụ: Trẻ hay để cơm rơi, ăn chậm, không ăn hết xuất như các bạn cô giáo
cần quan tâm, động viên khích lệ trẻ giúp trẻ thực hiện dần để kịp các bạn.
Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của trẻ,
trao đổi với phụ huynh những nội dung và tuyên truyền hướng dẫn biện pháp
chăm sóc và giáo dục trẻ tại nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp
phải.
5. Biện pháp tuyên truyền các bậc cha mẹ cách dạy trẻ kỹ năng sống trong
gia đình
Có thể thấy, trẻ thường dễ dàng kết bạn khi chơi theo đôi bạn trong môi

trường của riêng chúng hơn là chơi trong một nhóm bạn tại trường. Nhiều giáo
viên thấy rằng, một số trẻ có khó khăn trong việc kết bạn hoặc chia sẻ với bạn
theo nhóm lớn, lại có thể hình thành mối liên kết thân thiết với bạn mới trong môi
trường gia đình của trẻ, điều này càng khó khi thực hiện đối với trẻ vùng khó
khăn vì cha mẹ học sinh vùng khó chưa quan tâm được nhiều đến con mà điều

9


này có thể giúp trẻ phát triển kỹ năng cảm xúc và xã hội bằng cách tạo ra các mối
liên kết bạn bè tại gia đình. Điều này giáo viên phải quan tâm xây dựng kế hoạch
khuyến khich hỏi trẻ muốn mời ai về nhà chơi? Giáo viên tại lớp có thể cùng trẻ
đó đi thăm nhà bạn theo kế hoạch. Mối quan hệ này được trẻ duy trì khi đến
trường, khi có được mối liên kết với một trẻ nào đó trong lớp, các mối quan hệ
khác sẽ hình thành tiếp theo một cách dễ dàng hơn.
Tuyên truyền để cha mẹ cần có niềm tin với sự hướng dẫn của giáo viên
và năng khiếu tò mò bẩm sinh của trẻ, trẻ có thể lĩnh hội kinh nghiệm nhằm giải
quyết các vấn đề quan trọng, đọc, làm toán, thử nghiệm một số kỹ năng khoa học
khi chơi với nhau.
Cha mẹ trẻ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng
việc tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trường. Cha mẹ nên
tham gia vào các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà
trường và dự một số giờ học, dự các hoạt động ngoại khoá; chỉ bằng cách đó thôi
cha mẹ đã giúp trẻ hiểu rằng học là phải học cả đời.
Cần giáo dục để trẻ cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống của
cuộc sống. Nếu cha mẹ muốn giáo dục trẻ biết tự giữ kỷ luật, trước hết cần đánh
thức sự tự ý thức của trẻ, cố gắng khơi gợi để trẻ luôn nghĩ về bản thân mình một
cách tích cực và đừng bao giờ phá vỡ suy nghĩ tích cực về bản thân trẻ.
Trong gia đình, việc dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống rất
cần thiết. Để trẻ có được những kỹ xảo, thói quen sử dụng đồ dùng một cách

chính xác và thuần thục và khéo léo, không chỉ đòi hỏi trẻ phải thường xuyên
luyện tập, mà còn phải đáp ứng được những nhu cầu của trẻ, đó là cung cấp cho

10


trẻ những mẫu hành vi văn hóa, những hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính
cha mẹ và những người xung quanh trẻ.
Ví dụ: Giáo viên cần tuyên truyền để phụ huynh dạy tập cho con họ những
thói quen sử dụng các đồ dùng công việc phù hợp lứa tuổi của trẻ trong nhà ( Rót
nước uống, ăn cơm không để rơi, uống nước xong phải úp ca cốc…)
6. Biện pháp chỉ dẫn cho giáo viên và tuyên truyền các bậc cha mẹ thực
hiện dạy trẻ các kỹ năng sống cơ bản
6.1. Trước hết, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử
công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ.
6.2. Tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ vui chơi
Giáo viên cần tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày
của trẻ. Vì đối với trẻ chơi trò chơi có một vai trò rất quan trọng trong việc rèn kỷ
năng sống cho trẻ. Trẻ lớn lên, học hành và khám phá thông qua trò chơi. Các
hành động chơi đòi hỏi trẻ phải suy nghĩ, giải quyết các vấn đề, thực hành các ý
tưởng.
Ví dụ: Giáo viên có thể giới thiệu với trẻ về chữ cái và các con số thông
qua các trò chơi đóng vai, các trò chơi xây dựng, các trãi nghiệm văn học và âm
nhạc.
6.3. Liên tục đọc sách, trò chuyện, kể chuyện cho trẻ nghe
Giáo viên cần tranh thủ đọc sách cho trẻ nghe trong mọi tình huống như
những giờ hoạt động góc ở một nhóm nhỏ, hoặc đọc sách trẻ nghe trong giờ trưa
đối với những trẻ khó ngủ.
Tăng cường kể cho trẻ nghe các câu chuyện cổ tích qua đó rèn luyện đạo
đức cho trẻ, giúp trẻ hoàn thiện mình, biết đọc sách, dạy trẻ yêu thương bạn bè,

11


yêu thương con người. Tạo hứng thú cho trẻ nhỏ qua các truyện bằng tranh tùy
theo lứa tuổi, gợi mở tính tò mò, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ.
Ví dụ: Khi kể chuyện “ Ba cô gái” giáo viên đặt những câu hỏi gợi mở
như: Trong ba cô gái con yêu cô nào nhất ? Vì sao? Hoặc nếu là con khi hay tin
mẹ bị ốm, con sẽ làm gì? gợi mở tính tò mò thay đổi đoạn kết của truyện có hậu
hơn, đặt tên khác cho câu chuyện v,v….
Trong gia đình, cô giáo cần tuyên truyền để anh chị lớn đọc sách cho trẻ
nghe, bên góc học tập của các anh chị
Về gia đình môi trường đọc sách của trẻ gặp khó khăn nên hàng ngày cô
giáo cần dành 15 phút cuối buổi học để trò chuyện, đọc sách cho trẻ nghe các
loại sách phù hợp với lứa tuổi. Khi trẻ có thể tự đọc được lúc đó việc đọc sách trở
thành là niềm vui có giá trị và có ý nghĩa hơn giúp trẻ phát triển sự ham hiểu biết,
tìm tòi phát triển nhân cách của trẻ.
6.4. Cô giáo, cha mẹ luôn khuyến khích trẻ nói lên quan điểm của trẻ, nói
chuyện với các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa
chọn của mình, cần giúp trẻ hiểu rằng nên có thông số để theo đó mà lựa chọn, cố
gắng không chỉ trích các quyết định của trẻ. Việc này sẽ hình thành kỹ năng tự
kiểm soát bản thân, rèn luyện tính tự tin cho trẻ khi tham gia các hoạt động và
các buổi thảo luận tại trừơng sau này.
6.5. Cô giáo kết hợp tuyên truyền hướng dẫn cha mẹ giúp trẻ phát triển sở
thích, ý thích của mình và đảm bảo rằng ngừơi lớn có thể cung cấp thêm phương
tiện để trẻ thực hiện ý thích đó.
Ví dụ : Trẻ thích vẽ, ngoài việc cho trẻ học năng khiếu vẽ thì cô giáo, cha
mẹ có thể cho trẻ thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho trẻ cách lưu giữ các bức
12



tranh để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính trẻ hoặc triển lãm tranh của
trẻ ở góc học tập hoặc góc nhỏ trong nhà trẻ có điều kiện.
6.6. Cô giáo tuyên truyền với cha mẹ cần dạy trẻ những nghi thức văn hóa
trong ăn uống, biết cách sử dụng các đồ dùng ăn uống; hơn nữa trẻ sẽ được dạy
cách sử dụng các đồ dùng đúng chức năng một cách chính xác và thuần thục.Việc
này được thực hiện trong giờ học, giờ sinh hoạt hàng ngày của trẻ tại lớp và trong
bữa cơm gia đình.
Cụ thể: Trẻ được làm quen với những đồ dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ
bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch sẽ, gọn gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp
đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ, ăn uống từ tốn,
không vội vã, không khí cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi nhẹ
nhàng, dễ chịu… tất cả những yếu tố trên sẽ giúp trẻ có thói quen tốt để hình
thành kỹ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau này.
7. Biện pháp giúp trẻ phát triển các kỹ năng sống qua việc tổ chức các
hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh trong nhà trường
Nội dung phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”,
trong đó có nội dung: Nhà trường cần tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao
một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh. Tổ
chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác phù
hợp với lứa tuổi của học sinh.
Căn cứ vào nội dung trên, tôi đã xây dựng kế hoạch và thực hiện nhiều
hoạt động một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của
trẻ. Cụ thể như sau:

13


+/ Phát động giáo viên làm đồ chơi dân gian; sáng tác bài hát, điệu múa
thể loại dân ca cho trẻ ở lứa tuổi mầm non.
Năm học 2013-2014, tôi thực hiện xây dựng kế hoạch chỉ đạo giáo viên

tăng cường cho trẻ chơi các trò chơi dân gian. Đồng thời, tôi đã phát động phong
trào làm đồ chơi dân gian bằng đồ phế thải, lon bia, giấy bó hoa ….
Thực hiện nội dung tăng cường tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt
động văn nghệ, vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của trẻ mầm
non. Tôi tiếp tục phát động giáo viên thiết kế trang phục văn nghệ bằng giấy bó
hoa, sáng tác bài hát, điệu múa thể loại dân ca cho trẻ ở lứa tuổi mầm non.
Duy trì biện pháp tăng cường cho trẻ chơi các trò chơi dân gian trong giờ
hoạt động ngoài trời vào các ngày thứ tư, sáu; Mỗi tuần 1 lần trẻ được xem các
kịch bản rối qua các câu chuyện cổ tích, được trực tiếp chơi với các con rối, giao
lưu thi hỏi đáp về nội dung các câu chuyện.
+/ Thực hiện tham gia các cuộc thi chuyên đề:
Tháng 1/2014: Tổ chức cho học sinh lớp lớn thi “ Bé thông minh nhanh
trí cấp trường” theo chủ đề tết và mùa xuân, giáo viên lên tiết thực hành giúp trẻ
trải nghiệm bằng các giác quan, tư duy trực quan trải nghiệm thực tế
Tháng 02+ 03/2014: Tổ chức tham gia thi “ Bé thông minh nhanh trí cấp
cum, cấp huyện.Tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian, những trò chơi rèn kỹ
năng tự tin, mạnh dạn giúp trẻ phát triển nhận thức, thẩm mỹ thông qua đó thông
tin tuyên truyền các bậc cha mẹ về kiến thức chăm sóc nuôi dưỡng, bảo đảm an
toàn, phòng bệnh cho trẻ, hứơng dẫn các bậc cha mẹ kỷ năng chấm biểu đồ phát
triển theo dõi cân đo nhằm bảo vệ sức khỏe cho trẻ.

14


Tổ chức cho trẻ mẫu giáo đến thăm nhà bạn trong chủ đề gia đình theo
từng tổ, từng nhóm trẻ. Hoạt động trên nhằm phối hợp với các bậc cha mẹ để có
thể giúp trẻ phát triển kỹ năng cảm xúc và xã hội bằng cách tạo ra các mối liên
kết bạn bè tại gia đình.
Thực hiện cho trẻ lớp Mẫu giáo 5+ 6 tuổi tuổi tham quan trường tiểu học,
tham quan lớp 1 trẻ được tiếp xúc trò chuyện với cô giáo các anh chị trường tiểu

học, làm quen với các đồ dùng khi lên lớp 1 để trẻ được chuẩn bị tốt về tâm thế
trước khi vào lớp 1
Thực hiện chuyên đề “ Quê hương, đất nước Bác Hồ” vào thời điểm tháng
05/2014. Đồng thời hàng tuần vào sáng thứ hai tổ chức cho trẻ tham dự chào cờ,
hát quốc ca của trường tiểu học qua đó giáo dục trẻ lòng yêu quê hương, đất
nước, yêu kính Bác Hồ.
8. Biện pháp tạo môi trường giúp giáo viên thực hiện nhiệm vụ dạy trẻ kỹ
năng sống
8.1. Hướng dẫn giáo viên thực hiện kế hoạch giáo dục, kế hoạch đánh giá
trẻ, mỗi trẻ có mỗi biểu mẫu đánh giá riêng nhằm giúp giáo viên quan sát ghi
chép hàng ngày từng chi tiết về sự tiến bộ của trẻ, các mối quan hệ với cô, với
bạn, ghi chép những kỹ năng trẻ đạt được trong mỗi ngày làm căn cứ, thước đo
để đánh giá cuối mỗi độ tuổi, cuối giai đoạn phát triển của trẻ theo từng độ tuổi.
Cũng từ biện pháp này, giáo viên sẽ có điều kiện lưu trữ dữ liệu, sản phẩm để
đánh giá trẻ, đồng thời có cơ sở để thay đổi, bổ sung các biện pháp giáo dục từng
trẻ vì trẻ con rất khác nhau và giúp trẻ hình thành các kỹ năng sống.
8.2. Nhiều bậc cha mẹ nhất là những thôn bản khó khăn rất e ngại khi tham
gia vào quá trình giáo dục trẻ, hơn nữa phần lớn cha mẹ thường lúng túng khi lựa
15


chọn hình thức thực hiện nên nhà trường chỉ đạo giáo viên luôn thực hiện trao đổi
hai chiều với các bậc cha mẹ những vấn đề có liên quan đến trẻ, các thông tin của
lớp, thông tin sức khỏe, ngược lại nhà trường thông qua các buổi họp thôn, phụ
huynh nhà trường luôn thực hiện tiếp thu đề nghị, thông tin cần trao đổi với giáo
viên của phụ huynh.
8.3. Nhằm tạo môi trường giúp giáo viên và các bậc cha mẹ tăng cường
đọc sách cho con trẻ, tôi tiếp tục thực hiện việc xây dựng thư viện cho bé tại
nhóm, lớp. Khuyến khích giáo viên, các bậc cha mẹ tăng cừơng đọc sách cho trẻ
nghe. Để duy trì, bổ sung nhu cầu đọc sách của trẻ,

8.4. Phát động phong trào sáng tác bài hát, điệu múa thể loại dân ca, làm
đồ chơi dân gian, thiết kế trang phục văn nghệ do chính giáo viên sáng tạo thiết
kế.
8.5 Tổ chức hội thảo“ Trường học thân thiện- Học sinh tích cực” về thực
trạng và giải pháp ở trường tạo điều kiện giúp giáo viên nhận ra những ưu điểm,
hạn chế, thuận lợi, khó khăn cùng trao đổi các biện pháp thực hiện. Đây cũng là
cơ hội giúp tôi đúc rút kinh nghiệm mà tôi đang nghiên cứu, khai thác để đánh
giá kết quả, rút ra bài học kinh nghiệm và hoàn chỉnh thành văn bản.
8.6. Lập kế hoạch, phổ biến những thông tin hỏi đáp trong việc thực hiện
xây dựng phong trào“ Trường học thân thiện-Học sinh tích cực”; lập phương án
triển khai đến giáo viên, nhân viên về công tác đảm bảo an toàn cho trẻ, xây dựng
các tiêu chí đánh giá và thực hiện cam kết đảm bảo an toàn cho trẻ giữa Hiệu
trưởng và giáo viên, nhân viên nhằm giúp đội ngũ có định hướng thực hiện kế
hoạch cụ thể và đạt kết quả.

16


8.7. Trang trí sân trường các khẩu hiệu nhắc nhở giáo viên, người lớn phải
gương mẫu như: “ Cô duyên dáng mẫu mực, bé khỏe ngoan lễ phép”; “Mỗi cô
giáo là tấm gương sáng về đạo đức, tự học, sáng tạo” “ Chung tay chăm sóc trẻ,
góp sức xây trường xanh”…. bằng chính hình ảnh giáo viên và học sinh của
trừơng, là điều kiện để khen ngợi sự cố gắng của trẻ.
8.8. Tham mưu tranh thủ sự giúp đỡ các nguồn lực để có kinh phí để trang
trí, thay đổi hình thức theo chủ đề, chủ điểm . Trồng tỉa thảm cỏ, cây xanh tôn tạo
cảnh quan sân trường sạch đẹp, an toàn.

Phần VI: Kết quả đạt được
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng
thuận hợp tác của tập thể sư phạm, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã giúp

nhà trường đạt được một số kết quả trong việc dạy trẻ mầm non các kỹ năng
sống cơ bản thể hiện ở các kết quả sau:
1./ Kết quả trên trẻ:
100% trẻ đều được cô giáo và cha mẹ tạo mọi điều kiện khuyến khích
khơi dậy tình tò mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin,
100% trẻ 5 tuổi được rèn luyện khả năng sẳn sàng chuẩn bị tâm thế lên lớp
1 ở trường phổ thông hiệu quả ngày càng cao.
100% trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập;
kỹ năng nhận thức; kỹ năng vận động thô, vận động tinh thông qua các hoạt động
hàng ngày trong cuộc sống của trẻ; ngoài ra có 70% trẻ mẫu giáo được rèn luyện

17


kỹ năng vận động tinh, kỹ năng tự kiểm soát bản thân, phát triển óc sáng tạo, tính
tự tin thông qua các hoạt động năng khiếu vẽ, thể dục.
100% trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội; kỹ năng về cảm xúc, giao tiếp;
chung sống hòa bình, và tuyệt đối không xảy ra bạo hành trẻ em ở trường cũng
như ở gia đình.
100 % trẻ được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe,
được bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ phát triển.
80% trẻ luôn có kết quả tốt trong học tập thông qua bảng đánh giá trẻ ở lớp
sau mỗi giai đoạn, cuối độ tuổi và qua kết quả kiểm tra đánh giá chất lượng sau
mỗi chủ đề đối với từng trẻ đạt khá và tốt:

* Trước khi áp dụng

* Sau khi áp dụng

- Mạnh dạn tự tin: 50 %;


- Mạnh dạn tự tin: 87 %;

-Kỹ năng hợp tác:

- Kỹ năng hợp tác: 93%;

60 %;

-Kỹ năng giao tiếp 63 %;

- Kỹ năng giao tiếp 92,3%;

-Phát âm rõ lời:

- Phát âm rõ lời: 94%;

54%;

-Tự lập, tự phục vụ: 40 %;

- Tự lập, tự phục vụ: 92,6 %;

-Lễ phép: 70%;

- Lễ phép: 96%;

- Thích khám phá học hỏi : 50%;

- Thích khám phá học hỏi : 86 %;


-Tự kiểm soát bản thân: 55 %

- Tự kiểm soát bản thân: 83,7 %

Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt từ 96% trở lên và ít gặp khó
khăn khi đến lớp, có kỹ năng lao động tự phục vụ, trực nhật, sắp xếp bàn ăn, tự

18


chuẩn bị bát thìa ….trong các giờ ăn, biết phân công trực nhật sắp xếp bàn ăn, tự
xếp chăn gối trước và sau khi ngủ ...
2. Kết quả từ phía các bậc cha mẹ:
Các bậc cha mẹ đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo
trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình ; số
lượng phụ huynh học sinh tham gia đông hơn kết quả lượng phụ huynh dự họp
trong cả hai kỳ họp vừa qua ở các lớp đều đạt trên 80%, đúng đối tượng là
cha hoặc mẹ đạt 70%.
Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, , thay đổi trong cách rèn kỹ năng
cho trẻ, phân việc cho trẻ, trẻ tự đeo ba lô đi học tự giác cất và lấy đồ dùng tự xúc
cơm ở trẻ nhỏ …..
Cha mẹ cảm thấy tin tưởng vào kết quả giáo dục của nhà trường, không
chê bai cô giáo ngược lại cha mẹ thông cảm, chia sẻ những khó khăn của cô giáo,
cung cấp vật liệu, phụ giúp giáo viên trang trí lớp, làm đồ chơi.
3. Về phía giáo viên và nhà trường
Cô giáo chịu khó trò chuyện với trẻ, trả lời những câu hỏi vụn vặt của trẻ,
không la mắng, giải quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các
trẻ trong lớp.
Trong giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn,

Mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự
chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với cha mẹ trẻ.
Trong năm học qua, nhà trường đã tổ chức nhiều phong trào, hội thi, lễ hội
dành cho trẻ như: Lễ hội trăng rằm, hội thi tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân

19


gian, hội thi “Bé thông minh nhanh trí” cấp cụm, cấp huyện . Tổ chức biểu diễn
văn nghệ mừng xuân, ngày lễ ngày tết…
Nhà trường huy động phụ huynh, các tổ chức để làm sân bê tông, xây bếp
ăn trang trí phân hiệu thi phân hiệu “ Sạch, xanh đẹp, an toàn, thân thiện” các
cấp. Kết quả qua các lần tổ chức, phát động các phong trào, nhà trừơng đã nhận
được sự ủng hộ ngày công vật liệu qui tiền là: 130.000.000đ . Hiệu quả lớn nhất
là nhà trường đã huy động được sự tham gia của cha mẹ trẻ em, của các tổ chức,
các lực lượng xã hội trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống cho trẻ, đồng thời
đây là những cơ hội vàng dạy trẻ kỹ năng sống.
Trên đây là bản đề tài sáng kiến “Biện pháp thực hiện chỉ đạo việc rèn,
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ Mầm non vùng khó khăn” của tôi. Tôi rất mong
được sự đánh giá công nhận của hội đồng thẩm định các cấp để sáng kiến của tôi
được áp dụng đối với nhà trường các trường khác trong tỉnh có điều kiện xã hội
tương tự./.

Nậm mòn, ngày 15 tháng 05 năm 2014
X/N đánh giá của nhà trường

Người viết

Trần Thu Châm


20


Ý kiến đánh giá của hội đồng thẩm định
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….

21


22


23



×