Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

TIỂU LUẬN hệ tư tưởng -Nho giáo trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.41 KB, 33 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Nho giáo vốn gốc từ Trung Quốc do Khổng Tử khai sáng nhưng đã xâm nhập
vào nước ta qua hàng ngàn năm. Nó đã giữ một vị trí quan trọng trong kiến trúc
thượng tầng của xã hội phong kiến Việt Nam và do đó đã chi phối đời sống tư tưởng
và tâm linh của nhân dân ta trong nhiều thế kỷ. Ảnh hưởng của Nho giáo không chỉ
dừng lại ở trong phạm vi hoạt động của bộ máy Nhà nước, trong lĩnh vực giáo dục,
học thuật và văn nghệ mà còn đi sâu vào phong tục, nếp sống, niềm tin và khát vọng
của con người. Trong quá trình thâm nhập vào Việt Nam, Nho giáo đã kết hợp với
những tín ngưỡng tôn giáo cổ truyền vốn có từ lâu đời trên đất nước ta, chịu ảnh
hưởng đồng thời cải tạo và củng cố một số tín ngưỡng cổ truyền ấy. Với sự thúc đẩy
và cổ vũ của các triều đình phong kiến Việt Nam, Nho giáo đã phát huy khía cạnh
thần học và gắn với những nghi thức tế lễ có tính chất tôn giáo. Hơn nữa Nho giáo
còn hoà quyện với các tôn giáo lớn như Phật giáo và Đạo giáo để tạo nên cái khung
cảnh “Tam giáo đồng nguyên”. Trong cái khung cảnh ấy, Nho giáo vừa chi phối sự
phát triển của Phật giáo, Đạo giáo vừa tiếp thu những yếu tố của Phật giáo và Đạo
giáo. Có thể nói sự có mặt của Nho giáo là không thể thiếu trong bức tranh chung về
sinh hoạt tôn giáo của đất nước Việt Nam trên nhiều chặng đường lịch sử.
Tư tưởng Nho giáo chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử tư tưởng
chính trị Trung Quốc. Nó đã ảnh hưởng sâu sắc mọi mặt của đời sống xã hội Trung
Quốc và các nước láng giềng trong suốt hơn hai nghìn năm lịch sử. Và tư tưởng ấy
cũng đã ảnh hưởng rất sâu sắc trong tư tưởng chính trị Việt Nam. Trong cuộc đấu
tranh chống Bắc thuộc, xu hướng chống Hán hoá là ý chí của những người Việt Nam
yêu nước chống bọn xâm lược trên mọi lĩnh vực. Nhưng họ không chống đối cực
đoan mà biết tiếp thu có chọn lọc những giá trị của văn hoá Hán để làm giàu vốn tri
thức và làm phong phú nền văn hoá dân tộc. Ngay khi chế độ Bắc thuộc sụp đổ,
những người Việt trong chế độ triều đình phong kiến Việt Nam đã từng ý thức được
vai trò của Nho giáo đối với đời sống chính trị và thấy được sự tiếp thu Nho giáo là
cần thiết để chuyển hoá nó từ chỗ vốn là vũ khí tinh thần của kẻ đi xâm lược đã bại
1



trận trở thành một công cụ có ích cho việc xây dựng một Nhà nước phong kiến và
một trật tự xã hội phong kiến Việt Nam vững mạnh.
Dưới góc độ của Hệ tư tưởng học, sinh viên nhận thấy rằng: Để hiểu thêm về
tư tưởng chính trị của Nho giáo và vị trí, vai trò của nó trong xã hội ta là một việc
làm cần thiết. Chính vì vậy, sinh viên đã chọn đề tài “Nho giáo trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay”.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài:
Ở nước ta trong nhiều năm qua đã có các công trình nghiên cứu về Nho giáo
đối với xã hội Việt Nam như: Cuốn “Nho giáo tại Việt Nam" của Viện Triết học và
Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia do nhà xuất bản Khoa học – xã hội
xuất bản năm 1994; Cuốn “Nho giáo xưa và nay” của tác giả Quang Đạm do nhà
xuất bản Thông tin xuất bản năm 1999; cuốn “Nho giáo ảnh hưởng của nó - vấn đề
của ngày xưa, ngày nay nước ta” của giáo sư Trần Đình Hượu; cuốn “Vài ý kiến ảnh
hưởng của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam” của Đào Duy Anh; cuốn “Người dân
Vịêt Nam dưới tác động của Khổng Tử” của Vũ Khiêu; cuốn “Nho giáo” của Trần
Trọng Kim,…Trong số các tác giả trên một số đánh giá cao vai trò của Nho Giáo đối
với xã hội và con người Việt Nam hiện nay, thậm chí có người coi Nho Giáo tạo cơ
sở quan trọng cho việc xâm nhập dễ dàng chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam,
hoặc coi các truyền thống Việt Nam bắt nguồn từ Nho giáo. Ngược lại với những
quan điểm trên là phê phán, phủ nhận vai trò của Nho giáo, phê phán các tư tưởng
của Nho giáo, phủ nhận Nho giáo đã diễn ra ở Trung Quốc những năm 1950-1960, ở
Việt Nam cũng không ít người nhìn nhận Nho giáo dưới lăng kính tiêu cực cho rằng
Nho giáo là trở lực của sự phát triển của xã hội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
3.1 Mục đích:
Đề tài có mục đích là làm rõ tư tưởng về chính trị của Nho giáo và sự tiếp
biến tư tưởng chính trị của Nho giáo ở Việt Nam, từ đó chứng minh cho sự ảnh
hưởng của nó đối với nước ta trong quá khứ và hiện tại, trên cơ sở đó có cách nhìn
nhận đúng đắn về nó và đồng thời đưa ra một hệ thống các quan điểm, chính sách

2


đúng khoa học có ý nghĩa phương pháp luận đối với việc xây dựng nền văn hoá,
chính trị, con người mới nói riêng và sự nghiệp đổi mới đất nước tiến lên chủ nghĩa
xã hội nói chung.
3.2 Nhiệm vụ:
Để thực hiện được những mục đích đã đưa ra ở trên thì đề tài có nhiệm vụ:
- Làm rõ quá trình hình thành, phát sinh, phát triển tư tưởng chính trị của Nho
giáo.
- Nghiên cứu sự tiếp biến, sự ảnh hưởng của tư tưởng chính trị Nho giáo ở
Việt Nam.
- Ý nghĩa, phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu trên với việc kế thừa và
phát huy tư tưởng về chính trị trong truyền thống và trong giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp logic lịch sử kết hợp sử dụng các
phương pháp tổng hợp, so sánh, khái quát và hệ thống hoá.
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở bài, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung của
đề tài gồm có 3 chương, 6 mục.

3


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN
VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA NHO GIÁO

1.1. Sự ra đời và phát triển của Nho giáo.
1.1.1. Sự ra đời của Nho giáo(1).

Trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của mình, Trung Quốc luôn luôn là
quốc gia lớn ở Đông Á, trên lãnh thổ Trung Quốc có hai con sông lớn chảy qua, đó
là Hoàng Hà ở phía Bắc và sông Trường Giang ở phía Nam. Lưu vực hai con sông
này sớm trở thành cái nôi của nền văn minh Trung Hoa, về mặt chủng tộc, cư dân ở
lưu vực sông Hoàng Hà thuộc giống người Mông Cổ, đến thời Xuân Thu gọi là Hoa
Hạ. Đó là tiền thân của Hán tộc sau này.
Trung Quốc cổ đại kéo dài từ thế kỉ XXI (TCN) đến cuối thế kỉ III (TCN),
với sự kiện Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc bằng uy quyền bạo lực, mở ra
thời kỳ phong kiến. Lịch sử xã hội chiếm hữu nô lệ Trung Quốc là lịch sử đấu tranh
tàn khốc giữa chủ nô và nô lệ; giữa tầng lớp thượng lưu của xã hội chiếm hữu nô lệ
với những nông dân phá sản bị nô dịch và trở thành phụ thuộc; giữa tầng lớp quý tộc
truyền thống bị bần cùng hoá với những thương nhân giàu có tiếm quyền.
Lịch sử Trung Quốc cổ đại được chia làm ba thời tương ứng với ba vương
Triều: Hạ, Thương, Chu.
Hạ: (khoảng thế kỷ XXI -XVI - TCN): mặc dù Vũ chưa xưng vương, nhưng
là người đặt cơ sở cho triều Hạ. Thời kỳ này Trung Quốc mới chỉ biết đồng đỏ, chưa
có chữ viết. Sau bốn thế kỷ với đời vua kiệt bạo chúa nổi tiếng đầu tiên trong lịch sử
Trung Quốc, Triều Hạ bị diệt vong và không để lại những chứng tích cụ thể.
Thương: (thế kỉ XVI - XII TCN) hay còn gọi là nhà Ân, Thăng là người đem
quân tiêu diệt vua kiệt, thành lập nhà Thương. Thời kì này người Trung Quốc biết sử
dụng đồng thau, chữ viết ra đời và họ đã biết làm lịch nông nghiệp, biết quan sát sự
vận hành của mặt trăng, tính chu kì của nước sông dâng lên. Thời thương, giới quý
(1)

– Lịch sử tư tưởng chính trị - NXB Chính trị Quốc gia, 4-2001, tr.28-31

4


tộc giữ vai trò thống trị, mà các tư tưởng gia đã khẳng định sự thống trị của quý tộc

là do trời định, nhà vua là "thiên tử", quản lí quốc gia theo mệnh trời.
- Chu: (thế kỉ XI - III TCN).
Người thành lập nhà Chu là Văn Vương, người có công tiêu diệt vua Trụ bạo chúa nổi tiếng thời Thương. Trong hơn tám thế kỉ tồn tại, Triều Chu được chia
thành hai thời kì Tây Chu và Đông Chu, thời Chu nhìn chung xã hội Trung Quốc
tương đối ổn định từ năm 771 TCN, nhà Chu rời đô về Lạc Ấp ở phía Đông nên gọi
là Đông Chu. Thời Đông Chu tương ứng với hai thời kì: Xuân Thu (772-481 TCN)
và Chiến Quốc (403 - 221 TCN).
Thời Đông Chu là thời kì chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ
phong kiến. Đồ sắt được sử dụng rộng dãi, tạo nên cuộc cách mạng về công cụ sản
xuất. Hệ thống thuỷ lợi rất phát triển, tạo điều kiện cho nông dân trồng lúa hai vụ,
công cuộc khai hoang, khẩn hoá, mở rộng đất canh tác được nhà nước khuyến khích.
Các nghề khai khoáng, chế tác kim loại, làm muối, làm thuỷ tinh... phát triển, theo
đó xuất hiện các trung tâm buôn bán, đô thị mở rộng hệ thống giao thông.
Trong xã hội, bên cạnh các giai cấp, tầng lớp xã hội cũ (quý tộc, nông dân,
thợ thủ công, nô lệ), đã xuất hiện những giai cấp tầng lớp mới là địa chủ, thương
nhân. Trước đây khi nhà Chu thịnh vượng thì đất đai thuộc nhà vua. Vào thời kì
Chiến Quốc, đất đai phần lớn thuộc địa chủ, sự phân hoá sang hèn dựa trên cơ sở số
lượng tài sản, đạo đức, trật tự xã hội suy thoái, đảo lộn, tình trạng tôi giết vua, con
giết cha, vợ giết chồng trở nên phổ biến, thời đại "lễ hư, nhạc hỏng ", nhân dân bị
đói khổ vì chiến tranh, bị áp bức,bóc lột nặng nề, lúc này trong xã hội xuất hiện tầng
lớp trí thức mới " kẻ sĩ văn học", họ không trị nước mà bàn việc nước từ đó hình
thành nhiều trường phái, học thuyết chính trị khác nhau, hoạt động sôi nổi, rầm rộ
gọi là phong trào " Bách gia chư tử" (Bách gia tranh minh, chư tử hưng khởi). Nhìn
chung các trường phái chính trị - xã hội hay các học thuyết xã hội cũng hướng vào
giải quyết những vấn đề thực tiễn đạo đức - chính trị của xã hội. Trong các học
thuyết đó có nho giáo do Khổng Tử sáng lập.
1.1.2. Sự phát triển của Nho giáo
5



Nho giáo chính là hệ thống học thuyết và đạo lý bảo vệ đến cùng và cố sức
phục hồi hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ nhà Chu, cho nên nó không phù
hợp với thế lực nổi lên thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Vì vậy, khi Doanh Chính tức
Tần Thuỷ Hoàng lên ngôi, bằng bạo lực và pháp trị với chính sách hà khắc như:" đốt
sách chôn nho" đã ra sức diệt Nho giáo - một học thuyết triết học chính trị. Có thể
nói vào thời Tần, đạo của Khổng Mạnh bị chôn vùi theo các nhà Nho và tiêu huỷ
theo các sách Nho qua ngọn lửa Tần. Không thể như nhà Tần trị nước, bằng binh
hùng , tướng mạnh, gươm sắc, giáo nhọn, Lưu Bang rất cần có một học thuyết chính
trị để điều hành xã hội đương thời cùng với Nho giáo cũng có nhiều học thuyết như
"vô vi" của Lão Đau, "Vị Ngã " của Chu Phương, "Kiêm Ái" của Mạc Định tồn tại
nhưng Lưu Bang đã chấp nhận Nho giáo. Nho giáo đã dần dần được phục hồi và trở
thành vũ khí tinh thần của nhà Hán và chiếm địa vị cao nhất trong Tam Giáo.
Đến các Triều đại nhà Đường thì Nho giáo lại không chiếm vị trí đáng kể
(phật giáo được đề cao) nhưng đến nhà Tống thì Nho giáo lại được đề cao. Nổi bật
là hai anh em Trình Hạo - Trình Di mở trường học Nho giáo đầu tiên. Thành ngữ
"Cửa Khổng Sân Trình" xuất hiện từ đời Tống thể hiện rõ điều đó.
Ngót một thế kỉ, Triều đại Mông Nguyên thống trị toàn bộ nước Trung Hoa,
Nho giáo vẫn được duy trì bằng công việc giảng dạy đạo, thi cử.Từ đầu thế kỉ XVI,
Vương Dương Minh (đời nhà Minh) đã phát triển Nho giáo theo hướng duy tâm chủ
quan cực đoan.
Đến đời nhà Thanh, thời thế có nhiều thay đổi, Trung Hoa tiếp xúc với văn
hoá Tây Âu. Đại biểu của các nhà cải cách dân chủ là Khang Hữu Vi và Lương Khải
Siêu, cũng muốn nước Trung Hoa phát triển công nghiệp, khoa học - kĩ thuật ... song
cuối cùng họ chỉ đi đến chỗ tìm đường cải lương và duy tân dưới ngọn cờ của hoàng
đế Thanh Triều.
Như vậy, trong suốt hơn hai nghìn năm trường tồn, qua mỗi triều đại, chính
thể, tuy Nho giáo cũng có những thay đổi có những vị trí và vai trò nhất định trong
thượng tầng kiến trúc, song không đến mức làm thay đổi bản chất của nó. Trong mỗi
giai đoạn, về tổ chức, thể chế và pháp luật thì dĩ nhiên Triều đại sau có những cái
6



mới so với Triều đại trước, song những tư tuởng cơ bản của Nho giáo thì triều đại
nào cũng phải giữ lấy.Vì vậy, Nho giáo, hệ tư tưởng chính trị chính thống của giai
cấp phong kiến thống trị đã ăn sâu, bám chặt vào đời sống xã hội, tinh thần Trung
Quốc hơn hai nghìn năm qua, cho đến khi cách mạng Tân Hợi nổ ra 10.10.1911.
1.2. Những tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo
Tư tưởng chính trị của Nho giáo chiếm vị trí đặc biệt trong lịch sử tư tưởng
của Trung Quốc. Hệ tư tưởng chính trị Nho giáo được thể hiện một cách cơ bản có
hệ thống trong tư tưởng của người khởi xướng (Khổng Tử), những nhà Nho tiếp
theo, xuất phát từ đó mà cụ thể hoá và phát triển thêm theo một số hướng khác nhau,
tiêu biểu là Mạnh Tử và Tuân Tử.
1.2.1. Tư tưởng chính trị của Khổng Tử ( 551 -478 TCN)
Khổng Tử là người sáng lập trường phái Nho gia. Ông tên là Khâu, tự là
Trọng Ni, sinh ra trong một gia đình quý tộc nhỏ ở nước Lỗ. Thời trẻ, ông đã mở
trường dạy học, sau đó làm chức quan nhỏ, quản lý kho và trông coi trâu, dê, sau đó
là Trung đô tể, quan Tư khấu. Vì không được trọng dụng, ông dẫn các học trò đi chu
du các nước hơn 10 năm. Cuối đời, ông trở về nước Lỗ tiếp tục dạy học và chỉnh lý,
san định các thư tịch cổ như ngũ kinh: Thi, Thư, Lễ, Ngạc, Dịch và viết kinh Xuân
Thu. Luận Ngữ là bộ sách do các học trò của Khổng Tử ghi lại. Tư tưởng chính trị
của Khổng Tử trước hết là vì sự bình ổn xã hội - một xã hội “thái bình thịnh trị”.
Những nội dung cơ bản của chính trị (1).
Về chính trị và quyền lực chính trị: Ông dùng khái niệm về cai trị là "chính"
như" vi chính", "vấn chính". Và ông quan niệm lĩnh vực cai trị, người cai trị lấy
việc ngay thẳng, giữ lòng tin làm chuẩn mực: "chính giả, chính dã, tử xuất dĩ
chính, thục cảm bất chính" nghĩa là việc cai trị phải ngay thẳng, nay ngài ngay
thẳng chính trực, ai còn dám lừa dối (Nhan Uyên - Luận Ngữ). Vậy chính trị là
chính đạo, thẳng thắn, cai trị phải ngay thẳng.
Phương pháp cai trị


(1)

Theo sách Nho giáo - Trần Trọng Kim, NXB Văn học, H. 2001, tr.38

7


Theo ông phương pháp cai trị lý tưởng phải là cai trị bằng đạo đức: "cai trị
bằng đức, giống như sao Bắc Đẩu cứ ở yên một chỗ mà các sao khác phải hướng
theo về" (Vi Chính - Luận Ngữ).
Quyền lực nhà nước phải tập trung vào một người là vua, bên dưới có chư
hầu, đại phu cùng cai quản dân.
Lý tưởng chính trị của ông là xây dựng quốc gia Trung Quốc thống nhất theo
mẫu hình nhà Tây Chu, nhà nước đó, trên có thiên tử song vua phải sáng, tôi phải
hiền,vua quan tâm chăm sóc dân như cha đối với con.
Quan niệm chung về chính trị cũng như lý tưởng về chính trị được ông triển
khai theo phương pháp luận "Nhất Dĩ Nhi Quán Chi" (Lấy cái bao trùm những cái
khác) và lấy cái nội dung như dùng "Lễ", "Chính Danh", và đạo"nhân" là các
phương pháp cai trị.
Quan niệm về "lễ trị"
"Lễ" là chuẩn mực ứng xử mang tính hình thức trong xã hội nói chung, chính
trị nói riêng. Khi thực hiện quan hệ, mọi người phải tuân theo "Lễ", và chỉ có như
vậy xã hội mới có trật tự thực hiện cai trị bằng vương đạo. Khổng Tử đề cao "Lễ"
đến mức "nếu hiểu rõ giá trị của lễ giao (tế trời), lễ xã (tế đất) và ý nghĩa của lễ đế
(lễ các vua thời trước) thì việc cai trị như ngửa bàn tay ra xem vậy " (Trung Dung),
hoặc "biết dùng lễ thì cai trị khó gì" (lý nhân - luận ngữ) : "bề trên thích lễ thì dễ sai
khiến dân", (hiến vấn - luận ngữ). Lễ nhà Tây Chu là hệ thống "Lễ"phong phú, phức
tạp và nhiều khi giáo điều gò ép. Đó là các loại lễ tế của dân thường cho tới thiên
tử ; các quy định xe ngựa, vẻ mặt khi giao tiếp, chỗ ngồi chỗ đứng, cách đi...theo
ông "Lễ" quan trọng trong việc cai trị vì các lý do sau: thứ nhất, nó quy định danh

phận thứ bậc người trong xã hội; thứ hai, lễ có tác dụng điều chỉnh hành vi con
người trong quan hệ ứng xử, "không học lễ, không có gì làm chỗ dựa" (Quý thị Luận ngữ); thứ ba, "Lễ" có tác dụng hình thành thói quen đạo đức, thí dụ như con
cho cha mẹ ăn phải cung kính, nếu không cung kính thì khác nào cho chó ngựa ăn"
(cung kính dần thành thói quen ứng xử).
Quan niệm về "chính danh"
8


Theo ngài muốn cai trị trước hết phải chính danh, nghĩa là mọi vất vả phải
hợp với cái danh mà nó mang. Mỗi cái danh đều bao hàm một số trách nhiệm và bổn
phận, phù hợp với danh ấy. Chính danh là xác định rõ trật tự cai trị, thứ bậc, trách
nhiệm xã hội: ông cho rằng chính danh là hợp với tự nhiên, "Mệnh trời", "vật các
đắc kỳ sở" (Vật đều có chỗ xác định của nó), ông cho rằng một trong những nguyên
nhân của rối loạn trật tự xã hội là do mỗi người không xác định đúng vị trí của mình,
ngược lại còn tiếm quyền, tiếm lễ, nội dung chính danh của ông đưa ra gồm: tương
xứng với địa vị cai trị phải có phẩm chất tương sứng như nhân, nghĩa, liêm ..., đồng
thời chỉ sử dụng “lễ” tương ứng với địa vị đang được thừa nhận, bề tôi là thứ hầu,
đại phu không dùng lễ của thiên tử.
Là thách thức của người cai trị và của mọi thành viên xã hội: "vua phải cư xử
cho ra vua, tôi cho ra tôi , cha cho ra cha , con cho ra con ,"(Nhân Uyên -Luận Ngữ).
Ông nhận xét :nếu không chính danh tất loạn, nếu chính danh thì không cần ép buộc
dân cũng theo và tất "Trị".
Cai Trị Bằng Đạo "Nhân ".
• Là chuẩn mực ứng sử giữa người với người, là một giá trị đạo đức xã hội
với những nội dung khác nhau.
• Tự thắng mình, thực hiện theo lễ đạo nhân (Nhân Uyên -Luận Ngữ ). Điều
mình không muốn thì đừng thực hịên ở người khác .
• Cung, khoan, tín, miến, huệ (Dương Hoá - Luận Ngữ), nghĩa là khoan dung,
cung kính giữ lòng tin, chăm chỉ, lòng tốt) Đạo "Nhân" là phương pháp cai trị được
khổng Tử tiếp cận từ quan niệm về phẩm chất của người cai trị, nếu theo điều

"Nhân" sẽ tập hợp đươc dân và sẽ khiến dân "bề trên thích lễ, thì dân cũng kính, bề
trên thích tín thì dân không dám nói sai" (Tự Lộ - Luận Ngữ )... Ông cho rằng chỉ
khi nào thu phục được lòng dân thì mới có quốc gia cường thịnh.
Ngoài ra Khổng Tử còn nêu những vấn đề khác có liên quan đến việc cai trị
như xây dụng hình mẫu con người lý tưởng, người quân tử, phương pháp rèn luyện
đạo đức con người, giáo hoá dân ...

9


Như vậy, có thể nói rằng học thuyết chính trị của Khổng Tử được xây dựng
trên ba phạm trù cơ bản: nhân - lễ - chính danh. Nhân là cốt lõi của vấn đề, vừa là
điểm xuất phát nhưng cũng là mục đích cuối cùng của hệ thống. Do vậy, có thể gọi
học thuyết chính trị của Khổng Tử là “đức trị” vì lấy đạo đức làm gốc hay “nhân trị”
(chính trị dùng điều nhân). Điều nhân được biểu hiện thông qua lễ, chính danh là
con đường để đạt đến điều nhân. Ba yếu tố đó có quan hệ biện chứng với nhau, tạo
nên tính chặt chẽ của học thuyết. Về bản chất, học thuyết chính trị của Khổng Tử là
duy tâm và phản động, vì nó không tính đến các yếu tố vật chất của xã hội mà chỉ
khai thác yếu tố tinh thần (đạo đức). Mục đích của học thuyết là bảo vệ chế độ đẳng
cấp, củng cố địa vị thống trị của giai cấp quý tộc đã lỗi thời, đưa xã hội trở về thời
Tây Chu.
1.2.2 Tư tưởng chính trị của Mạnh tử (372 - 289 TCN)
Mạnh Tử là người nước Trâu. ông đã kế thừa và phát triển sáng tạo những tư
tưởng của Khổng Tử, xây dựng học thuyết “Nhân chính”, của mình.
Nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị
Về quyền lực chính trị:
Cũng giống như Khổng Tử, Mạnh Tử ít bàn đến cách thức tổ chức thể chế
chính trị mà thường bàn nhiều về phương pháp cai trị, ông lên án cách cai trị bằng
bá đạo (bạo lực), chủ chương cai trị bằng vương đạo (cai trị bằng đạo đức).
Ông giải thích nguồn gốc của quyền lực nhà nước là theo ý trời - lòng dânnhân đức có quan hệ với nhau, vua phải quan tâm đến dân, giáo hoá dân, phải được

lòng dân mới giữ được ngôi. Vua phải chăm lo cho nhân dân "hằng sản " để "hằng
tâm", dân có no đủ mới không loạn lạc, không chống đối vua.
Quan hệ vua - tôi là quan hệ hai chiều, vua đối với bề tôi như thế nào, bề tôi
đối với vua như thế ấy. "Dân quý nhất, xã tắc thứ hai, vua là nhẹ nhất" đây là một
yếu tố dân chủ sơ khai đã thấy rõ sức mạnh của nhân dân.
Ông ủng hộ phân biệt đẳng cấp: quân tử lao tâm còn tiểu nhân thì lao lực.
Ông cho rằng con người ta sinh ra vốn thiện, nên phải đề cao giáo dục, để con
người dời xa điều ác, quay trở về điều thiện.
10


Ngoài ra, Mạnh Tử còn nêu ra những vấn đề chính trị khác như tổ chức thể
chế chính trị thời Tây Chu, quan hệ bang giáo hợp mệnh trời giữa nước lớn và nước
nhỏ...
Kết luận:
Nhìn chung học thuyết của Mạnh Tử đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của
lĩnh vực chính trị như:quyền lực phong kiến, quan hệ cai trị và bị cai trị, phẩm chất
thủ lĩnh chính trị ...Tuy nhiên trên lập trường giai cấp phong kiến và lập trường triết
học duy tâm là căn bản, học thuyết chính trị của Mạnh Tử không thể không xa vào
những mâu thuẫn cả trong lý thuyết và vận dụng trong thực tiễn chính trị. Chính vì
vậy, học thuyết của ông không được phát tác dụng với xã hội đương thời(1).
1.2.3 Tư tưởng chính trị của Tuân Tử (315 - 230 TCN)
Tiểu sử:
Tuân Tử tên là Huống, tự là Khanh, người nước Triệu. Ông sống vào cuối
thời Chiến Quốc, là thời kỳ cục diện chiến tranh "Thất hùng" đi vào giai đoạn cuối
xã hội loạn lạc, dân lành khổ sở vì chiến tranh. Khi ở nước Sở ông là môn khách của
Xuân Thân Quân từng giữ một số chức quan như quan Tế Tửu nước Tề, huyện Lệnh
Lang Lăng nước Sử khi Xuân Thân Quân mất ông bỏ quan về nhà dạy học, viết
sách. Ông có hai học trò nổi tiếng là Lý Tư (Tể tướng nước Tần) và Hàn Phi (học
giả nổi tiếng của phái Pháp gia). Tuân Tử theo Nho học phát triển Nho học theo

hướng đối lập với Mạnh Tử về một số nội dung chính trị, triết học. Ông mất 230
trước Tây lịch, thọ chừng 80 tuổi.
Nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị.
Ông phát triển Nho giáo theo hướng đi sâu vào đời sống hiện thực, giải đáp
những vấn đề thực tiễn chính trị .
Ông nhấn mạnh vai trò của người làm vua, vua là nguồn gốc nảy sinh mọi
việc, là khuôn mẫu để dân chúng noi theo, "vua là nguồn, nguồn trong thì nước
trong, nguồn đục thì nước đục" (quân đạo - Tuân Tử) ; vua là người biết tập hợp tạo
nên sức mạnh quốc gia, muốn tập hợp được thì vua phải có trí, có nhân. "Đạo là gì ?
Đạo là vua, vua là gì ? Vua là người có thể tập hợp được người ta. Tập hợp được thì
(1)

Mạnh Tử - theo sách lược tư tưởng chính trị - NXB Chính trị Quốc gia, 2001 – tr.92

11


giữ khéo cho người ta sống, khéo nuôi người ta; khéo đặt ra trật tự cai trị người ta;
khéo làm rõ và định việc cho người ta; khéo che đậy sửa sai cho người ta... Bốn điều
ấy mà đủ là thiên hạ theo về, thế là quần tụ người ta" (quân, đạo -Tuân Tử); quan hệ
giữa vua và dân thì vua phải thấy được sức mạnh của nhân dân.
Về quyền lực:
Khác các nhà tư tưởng nho giáo đời trước Tuân Tử chủ chương nền cai trị
vương đạo theo "pháp, hậu, vương" (Theo các thời vua Hạ, Thương, Vũ)
Phương pháp cai trị:
Tuân Tử coi trọng việc cai trị bằng lễ và bằng pháp luật. Trước hết ông coi
"Lễ" là tất yếu, vì sự nảy sinh của nó là tất yếu, và sự tác động của nó tới trật tự xã
hội là tất yếu, còn về pháp luật theo tinh thần "Vương đạo" thưởng phạt công bằng,
ông có xu hướng đề cao pháp luật.
Kết luận:

Nếu lấy tính thực tiễn làm tiêu chuẩn, tư tưởng chính trị của TuânTử có bước
tiến quan trọng so với Khổng Tử và Mạnh Tử, đề cao quân quyền song đòi hỏi quân
quyền phải thiết thực với cuộc sống hơn, ông đề cao "Lễ", nhưng với tinh thần lý
giải thực tế hợp lý, ông chủ chương cai trị bằng pháp luật điều mà Khổng Tử và
Mạnh Tử ít bàn đến(1).

(1)

Tuân Tử - theo sách lược Lịch sử tư tưởng chính trị - NXB Chính trị Quốc gia, 2001 – tr.94

12


Chương 2
SỰ TIẾP BIẾN VÀ ẢNH HƯỞNG
CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ NHO GIÁO Ở VIỆT NAM
2.1. Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam.
Nho giáo từ Trung Quốc đã truyền sang Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam để
hình thành một vành đai văn hoá Nho giáo. Khi nghiên cứu sự xâm nhập của Nho
giáo vào Việt Nam, tác giả Ngô Xuân Thảo, Nông Thị Mồng có chung một nhận
định: Hán Nho được du nhập vào Việt Nam từ những năm cuối trước công nguyên,
bằng những con đường khác nhau: một là: thông qua con đường của những đội quân
xâm lược được trang bị hệ tư tưởng Nho giáo; hai là: thông qua con đường truyền
giáo có tổ chức của đội ngũ quan chức người Trung Quốc được các Triều đình
phong kiến Trung Quốc đánh phá thực hiện ách thống trị Bắc thuộc ở Việt Nam,
trong đó có Quang Tích, Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp... là những quan lại đã có nhiều nỗ
lực trong việc truyền bá Nho giáo tới Việt Nam; ba là: con đường của những thương
nhân theo đường biển đưa Nho giáo tới Việt Nam; bốn là: thông qua con đường của
những dân cư tự do người Trung Quốc có hành động chống lại triều đình và bị săn
đuổi đã di cư tới Việt Nam để sinh sống. Sự di cư của những người dân Trung Quốc

này cũng góp phần đưa tư tưởng Nho giáo vào Việt Nam.
Trong các cách thức xâm nhập của Nho giáo vào Việt Nam thì con đường
truyền giáo có tổ chức của đội ngũ những quan lại người Trung Quốc trong suốt thời
kỳ Bắc thuộc là chủ yếu.Vì nó nằm trong chính sách chủ động âm mưu đồng hoá
của các triều đình phong kiến đối với Việt Nam.
2.2. Sự tiếp biến tư tưởng chính trị Nho giáo của người Việt Nam.
Nho giáo được người Việt Nam tiếp thu như thế nào? Tác giả Tô Xuân Thảo
đã có những phân tích và luận giải sâu sắc. Tác giả cho rằng: Tuy là một học thuyết
có nhiều nhân tố tích cực nhưng suốt hơn một nghìn năm Bắc thuộc, Nho giáo vẫn
không có vị trí đáng kể trong đời sống tinh thần của cộng đồng xã hội người Việt,
không được đa số người Việt hào hứng đón nhận, bởi nhiều lý do khác nhau: Nho
13


giáo là công cụ của kẻ thống trị ngoại bang ức hiếp nhân dân ta nên không được
chấp nhận. Hơn nữa nó cũng không phù hợp với xã hội vừa thoát thai từ chế độ Lạc
Hầu, Lạc Tướng.
Sau một thời gian, người Giao Châu dần dần làm quen với Nho giáo, từ đó có
sự thay đổi trong nhận thức, trong thái độ đối với Nho giáo; từ phản ứng đến tiếp
thu, từ xa lạ đến gần gũi, biến công cụ của kẻ địch thành công cụ của chính bản thân
mình(1).
Nét đặc trưng của người Việt trong quá trình tiếp thu hệ thống tư tưởng Nho
giáo không phải tiếp thu hệ thống này như một hệ thống "những công thức toán" đã
có sẵn để áp đặt một cách giáo điều, máy móc vào thực tiễn của đời sống xã hội, mà
tiếp thu có chọn lọc có phát triển, người Việt đã kế thừa và phát huy những tư duy
vốn có của tổ tiên, đồng thời tiếp thu hệ thống tư duy đã phát triển qua mấy nghìn
năm của người Hán, làm phong phú vốn tri thức của mình và trở thành những yếu tố
Nho giáo mang bản sắc Việt Nam như:
 Yếu tố áp dụng cho việc xây dựng một nhà nước phong kiến và một trật tự
xã hội phong kiến Việt Nam vững mạnh và phát triển.

 Yếu tố tư tưởng về xây dựng các mối quan hệ xã hội theo cấu trúc "Ngũ
luân".
 Yếu tố tư tưởng coi trọng dân.
Theo hướng nghiên cứu chi tiết hơn về phương pháp người Việt đã tiếp thu
Nho giáo các tác giả: Lê Bỉnh, Lê Thị Thuỷ... đã có những nhận định sắc nét, đồng
quan điểm với những nhà nghiên cứu về Nho giáo, trong cuốn "một số vấn đề về
Nho giáo Việt Nam" NXB chính trị QG 1999 của tác giả Nguyễn Nam Thắng cho
rằng: "Nho giáo được du nhập vào Việt Nam từ thời kỳ Bắc thuộc, đến nước ta Nho
giáo được dung hợp và hoà đồng theo cách nghĩ của người Việt Nam". Từ khi được
Việt Nam hoá, Nho giáo đã góp phần đáng kể vào việc tạo dựng nền văn hiến Việt
Nam, thành công cụ tề gia, trị quốc và quan trọng hơn Nho giáo đã trở thành một thủ
thuật chính trị để biểu đạt tư tưởng yêu nước.
(1)

Nghiên cứu khoa học: 1993 – 2003, NXB Chính trị Quốc gia, tr.92

14


"Nhìn vào tư tưởng chính trị Việt Nam thì ta có thể thấy sự tiếp biến tư tưởng
chính trị Nho giáo của nhân dân ta diễn ra như thế nào qua từng giai đoạn cụ thể"
2.2.1 Thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc:
Thời kỳ này hoàn toàn chưa chịu sự tác động của Nho giáo vì Nho giáo chưa
được du nhập vào nước ta.
2.2.2 Thời kỳ đấu tranh chống Bắc thuộc:
Đây là thời kỳ nô lệ kéo dài hơn một nghìn năm (từ 179 trước công nguyên
đến 938) kể từ khi Triệu Đà xâm chiếm và chia nước Âu Lạc thành hai quận Giao
Chỉ và Cửu Chân. Khi xâm chiếm nước ta, bọn phong kiến phương Bắc đã cho mở
các lớp dạy tiếng Hán nhằm đào tạo đội ngũ quan lại phục vụ cho chính quyền đô
hộ, rồi truyền bá Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo ... vào nước ta. Lúc đầu, Nho giáo là

công cụ của bọn đi xâm lược, áp bức nhân dân ta nên không được nhân dân ta tiếp
nhận. Hơn nữa nó không phù hợp với một chế độ xã hội vừa thoát thai từ chế độ Lạc
Hầu - Lạc Tướng, sau một thời gian làm quen và nhận thấy những ưu điểm của Nho
giáo người Việt đã dần tiếp thu nó, song tiếp thu một cách chọn lọc "được luỹ tre
làng khúc xạ" Nho giáo thành những tư tưởng Nho giáo mang bản sắc Việt Nam và
trở thành công cụ tề gia trị quốc sau này.
2.2.3 Thời kỳ phục hưng dân tộc : (từ thế kỷ X - XV)
Thời kỳ này có một đặc điểm hết sức quan trọng chi phối tư tưởng chính trị ở
nước ta, đó là phật giáo. Phật giáo là quốc giáo từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XVI, nó
chi phối mọi quan hệ chính trị trong nhà nước. Thời Lý, các tăng sư tham gia vào
điều hành nhà nước, là cố vấn của nhà vua, nhưng từ thế kỷ thứ XIV trở đi, phật
giáo giảm dần vai trò chính trị. Từ thế kỷ này trở đi, Nho giáo đã ảnh hưởng mạnh
đến mọi lĩnh vực của đời sống nước ta, lên ngôi và trở thành hệ tư tưởng chính trị
thống trị ở nước ta, chi phối và ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống chính trị nước
ta.
Khi Nho giáo đã trở thành quốc giáo nó đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống
chính trị nước ta để hình thành những tư tưởng chính trị nổi bật như:

15


 Tư tưởng dựa vào dân, khoan dân, lấy dân làm gốc, coi nhân dân là lực
lượng quyết định trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các đời Lý - Trần
quan tâm đến đời sống và nguyện vọng của dân, tranh thủ được lòng dân, được nhân
dân ủng hộ.
 Tư tưởng đề cao đức trị, rồi các bộ luật đầu tiên của người Việt Nam ra đời
từ thời Lý - Trần với đỉnh cao là luật Hồng Đức cũng mang những yếu tố trong nó.
 Tư tưởng chính trị trong thời kỳ này được phản ánh thông qua các đại biểu
tiêu biểu, đó là những thủ lĩnh chính trị, những trí thức lớn, những nhà văn hoá,
những người hội tụ được tinh hoa của dân tộc, như: Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt,

Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông,.... sau đây ta xét hai đại biểu có tư
tưởng chính trị ảnh hưởng của học thuyết Nho giáo:
Trần Quốc Tuấn: (1228 - 1300)
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là vị tổng chỉ huy quân đội nhà Trần trong
kháng chiến chống quân Nguyên, là anh hùng kiệt xuất của dân tộc ta. Ngoài tài thao
lược quân sự, ông còn là nhà tư tưởng lớn, các tác phẩm: Binh thư yếu lược, Vạn
kiếp tông bí truyền thư, Hịch tướng sĩ, là những áng hùng văn chắt lọc, đúc kết từ
chính cuộc đời chiến đấu của ông; là cống hiến vĩ đại vào binh pháp, đường lối quân
sự nước nhà. Hịch tướng sĩ còn thể hiện tư tưởng yêu nước, quyết tâm đánh giặc của
ông. Đứng trước quân Nguyên thiện chiến, tàn bạo và hùng mạnh nhất thế giới lúc
bấy giờ, Trần Quốc Tuấn đã đánh tan tư tưởng sợ địch, phát huy tư tưởng quyết
chiến, quyết thắng trong binh sĩ và nhân dân.
Tư tưởng chính trị của ông thể hiện qua đường lối chiến lược, chiến thuật, nổi
bật nhất là tư tưởng "khoan dân":
Trần Quốc Tuấn chủ trương thân dân, dựa vào dân để đánh giặc giữ nước,
theo ông triều đình phải thi hành chính sách "khoan thư sức dân, quan tâm đến đời
sống của dân, ông hiểu rằng không thể thắng địch nếu chỉ dựa vào quân đội, vũ khí
mà còn phải dựa vào dân" “con chim hồng hạc kia bay được cao là nhờ có sáu
xương trụ cứng, nếu không cũng chỉ như chim thường mà thôi".

16


Khoan dân là dưỡng dân, sử dụng hợp lý sức dân vì đó là "kế sâu gốc bền rễ
là thượng sách để giữ nước"
Ông có khả năng thu phục dân, huy động sức dân bằng nhân dân, công tâm
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, ông tiễn cử với vua những vị tướng
tài: Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão.
Khoan dân là biết lắng nghe tâm tư nguyện vọng của dân, ông còn biết kết
hợp hài hoà quyền lợi của dân với quyền lợi của giai cấp phong kiến, đó là sự quan

tâm đến binh sĩ: "không có cơm thì ta cho ăn, không có áo thì ta cho mặc..." nếu giặc
đến thì "không những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc của các người cũng
mất, gia quyến ta bị tan mà vợ con các ngươi cũng khốn", vì vậy tất cả các tướng sĩ
phải chung sức đánh giặc, đó chính là công tác giáo dục tư tưởng chính trị trong
quân sự đương thời.
Trần Quốc Tuấn đã nhận thấy vai trò quyết định của dân trong sự nghiệp dựng
nước và giữ nước. Dó là nhận định sâu sắc vượt thời đại. Nó bắt nguồn từ học thuyết
"nhân - chính", tức "Nhân trị" và "Đức trị" theo tinh thần Khổng - Mạnh, song ở
Trần Quốc Tuấn Nho giáo đã được cải biến phù hợp với điều kiện xã hội, tâm lý con
người Việt Nam. Tư tưởng "phụ tử thư binh", "khoan thư sức dân" trở thành di huấn
chính trị cho đời sau.
Tư tưởng chính trị của Nguyễn Trãi được trình bày trong các tác phẩm: Ức
Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Dư địa chí... và được thể hiện qua thực tiễn của ông.
Đó là tư tưởng về chủ quyền quốc gia, đường lối trị nước,.... Nhưng bao chùm lên
tất cả là tư tưởng "nhân tự nghĩa" một tư tưởng chịu sự ảnh hưởng của Nho giáo.
Tư tưởng chính trị "nhân nghĩa" của ông được vận dụng trong cuộc kháng
chiến chống giặc là một thứ vũ khí tư tưởng có tác dụng như những đạo quân thiện
chiến đánh thắng và tư tưởng tâm lý tinh thần của kẻ địch.
"Nhân nghĩa" là đường lối chính trị, là chính sách cứu nước và dựng nước,
"nhân nghĩa" là cơ sở đường lối trị nước và chuẩn mực trong ứng xử, là nguyên tắc
trong giải quyết công việc quốc gia, "việc nhân nghĩa cốt ở yên dân", cứu nước
trước hết phải cứu dân, đó là nét nổi bật trong tư tưởng của Nguyễn Trãi "yêu dân là
17


điều kiện để ổn định xã hội, "nhân nghĩa" là lòng thương người, sự khoan dung với
kẻ lầm đường lạc lối. Nếu họ cải tà quy chính thì "cả nhà lớn bé đều được bình yên
vô sự".
"Nhân nghĩa" là trừ bạo, đánh đuổi ngoại xâm. Dân là người bị đau khổ nhất
trong cảnh áp bức bóc lột của giặc Minh "thui dân đen trên lò bạo ngược, hãm con

đỏ dưới hố tai ương" - Song "đồ binh là thứ không bạo, đánh nhau là việc nguy
hiểm, thánh nhân bất đắc dĩ mới dùng đến".
Nhân đạo, yêu hoà bình là nét đặc sắc trong tư tưởng "nhân nghĩa" của
Nguyễn Trãi: khi kẻ thù đã thua, muốn sống thì "thần vũ không giết, ta thể lòng trời
để tỏ hiếu sinh" mà cấp thuyền, cấp ngựa cho lũ bại binh rút chạy về nước, nhân dân
ta không những đấu tranh vì hạnh phúc của chính mình, mà còn vì cuộc sống của
người Hán. Nếu quân Minh lui quân thì "không những may riêng cho một địa
phương Giao Chỉ mà cũng là may chung cho cả thiên hạ, nhân dân" (thư gửi Vương
Thông). Vậy nhân nghĩa là chủ nghĩa nhân đạo cao cả, toàn diện. "Lấy đại nghĩa
thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo".
Nhân nghĩa là phải xem dân là gốc nước, dân có quan hệ tới sự an nguy của
triều đại. Nguyễn Trãi đã tổng kế thực tiễn: Sự thất bại của nhà Hồ là do phải đánh
giặc một mình vì "lòng dân không theo", giặc Minh tàn ác bị dân căm hờn mà bị tiêu
diệt. Ông khuyên nhủ các vua: "'Mến người có nhân là dân, mà chở thuyền và lật
thuyền cũng là dân". Đất nước thái bình nhân dân no đủ, vua thánh tôi hiền" là lý
tưởng chân lý của ông.
Nhận xét về tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tác giả Lê Bỉnh nhấn mạnh
rằng: "tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là nét độc đáo trong Việt Nam hoá Nho
giáo". Sinh thời Nguyễn Trãi tựu nho giáo .Tuy nhiên ông đã không học nho giáo
với kiểu sao chép, giáo điều mà trên tinh thần dân tộc và dân chủ, với năng lực tư
duy dộc lập, sáng tạo sắc sảo, Ông đã Việt Nam hoá Nho giáo. Vì vậy" Nhân Nghĩa"
là tư tưởng đạt tới trình độ cao dựa trên thưc tế dựng nước và giữ nước. Tư Tưởng
ấy hoàn chỉnh, sâu sắc, tiêu biểu cho một xu hướng phát triển xã hội tiến bộ. "Nhân
nghĩa" là phương thức giữ nước, là vũ khí chiến đấu, là đường lối đối ngoại, là chăm
18


lo đến đời sống nhân dân nó chứa đựng chủ nghĩa nhân đạo cao cả, toàn diện và là
đỉnh cao của trí tuệ Việt Nam.
2.2.4 Giai đoạn chia cắt đất nước và sự suy thoái của chế độ phong kiến (từ

thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XX).
Đây là thời kỳ có nhiều diễn biến, sự kiện lịch sử phức tạp có nhiều khuynh
hướng tư tưởng chính trị. Nổi bật là: tư tưởng thống trị phong kiến, điển hình nhất là
tư tưởng của vua Minh Mệnh. thứ hai: tư tưởng yêu nước của các văn thân, sĩ phu
và các phong trào của nông dân chống thực dân phong kiến; thứ ba, tư tưởng đổi
mới canh tân đất nước; thứ tư: tư tưởng dân chủ tư sản, tiểu tư sản .
Nhìn chung ở những thế kỷ đầu trong giai đoạn này Nho giáo vẫn còn ảnh
hưởng nhiều tới mọi mặt văn hoá, xã hội đạo đức của nhân dân ta. Trong đó tư
tưởng chính trị của Nho giáo về đường lối xây dựng đất nước, cách cai trị đất
nước...vẫn được vua, quan, những người có chức có quyền sử dụng và áp dụng để trị
quốc xây dựng một vương triều mang màu sắc Việt Nam, đây là tư tưởng chính trị
phong kiến tiêu biểu nhất là vua Minh Mệnh, Lê Quý Đôn.
Những thế kỷ còn lại của giai đoạn trên do hoàn cảnh đất nước có những diễn
biến phức tạp, nên có nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau không theo con
đường của Nho giáo nữa, song bản thân các nhà tư tưởng thường xuất thân trong các
gia đình Nho học nên ít nhiều cũng thấm đượm văn hoá Nho giáo trong tư tưởng của
mình. Song tư tưởng trị quốc của Nho giáo không trở thành tư tưởng chính và có xu
hướng mờ nhạt dần. Tuy không có Nho giáo nhưng trong cung cách ứng xử gia đình
vẫn tồn tại bền vững và phổ biến cho đến tận ngày nay.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh - (Người tiếp biến sáng tạo Nho giáo)
Hồ Chí Minh là một tấm gương thật suất sắc trong việc tiếp biến tư tưởng
chính trị của Nho giáo.
"Đối với Nho giáo, Hồ Chí Minh nhận thấy sự bất lực của nó đối với cách
mạng Việt Nam nên Người đã phủ định Nho giáo, song đây là một sự phủ định biện
chứng. Hồ Chí Minh đã không thể không gạt bỏ Nho giáo trên con đường cứu nước
của mình, nhưng người đã không "Đổ chậu nước bẩn cùng đứa trẻ" mà Người đã
19


cương quyết gạt bỏ những cái cốt lõi lạc hậu của Nho giáo, để rồi sau đó giữ gìn và

phát huy những yếu tố hợp lý của Nho giáo nhằm phục vụ cho sự nghiệp cách
mạng”(1).
Người đã kế thừa những tư tưởng chính trị tốt đẹp của Nho giáo như:
 Thấy được sức mạnh của nhân dân, một nhà nước của dân, do dân và vì
dân, "Gốc có vững thì cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân". Người
khẳng định nhân dân là nguồn gốc của quyền lực nhà nước, "nước ta là nước dân
chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều vì dân”.
Người đã sử dụng những khái niện, phạm trù của Nho giáo với nội dung mới,
trình độ mới để biểu đạt tư tưởng yêu nước và việc tuyên truyền của chủ nghĩa Mác
- Lênin vào nước ta.
Người đã nêu ra những hệ giá trị đạo đức cao cả nhân đạo như: nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín...và chính bản thân người cũng là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách
mạng. Người có những nhận định có giá trị là kim chỉ nam cho chúng ta nghiên cứu
Nho giáo để áp dụng vào xây dựng bộ máy nhà nước, các phương thức quản lý nhà
nước, cán bộ,công chức nhà nước...mà đang đặt ra những vấn đề cần quan tâm
nghiên cứu để áp dụng vào việc đổi mới.

(1)

Vấn đề quản lý Nhà nước trong triết học Trung Quốc cổ đại, tr.115

20


Chương 3
NHO GIÁO VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI NƯỚC TA HIỆN NAY
3.1. Định hướng kế thừa Nho giáo:
Có thể nói rằng, Nho giáo là một học thuyết lâu dài và cho đến nay vẫn được
khá nhiều người chấp nhận một cách tự nguyện. Ở Việt Nam, Nho giáo được Việt
hoá qua các thời đại kể từ khi nó được truyền vào nước ta. Vì vậy, cùng với việc tiếp

thu các nền văn hoá, văn minh khác, trong bối cảnh đất nước thực hiện chính sách
mở cửa, hội nhập và toàn cầu hoá bước vào nền kinh tế tri thức hôm nay, chúng ta
phải tiếp tục biến những tinh hoa Nho giáo vào trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Để kế thừa và phát huy có hiệu quả những giá trị nho giáo cần phải:
Một là, xuất phát từ phương pháp biện chứng, Nho giáo là một hệ thống tư
tưởng chính trị thống trị của giai cấp thống trị. Nho giáo vừa có những ưu điểm,
đóng góp tích cực, vừa có những hạn chế, ảnh hưởng tiêu cực đối với đời sống văn
hoá xã hội cho nên một mặt, chúng ta tránh tôn sùng Nho giáo, cho Nho giáo là
chính đạo độc tôn, mặt khác cần tránh quan điểm siêu hình, phiến diện một chiều là
quan điểm phủ định sạch trơn nho giáo.
Hai là: Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu khách quan trong thời đại hiện nay. Mở
cửa, hội nhập là cơ hội tốt nhất cho chúng ta tiếp thu các nền văn hoá, văn minh thế
giới cả nền văn minh phương Tây và cả nền văn minh phương Đông từ thời kỳ xa
xưa đến nay.
Ba là: Nho giáo ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội: không chỉ
trong văn hoá, tư tưởng, mà cả trong chính trị - xã hội, trong học thuyết và vì vậy
cũng ảnh hưởng đến xây dựng kinh tế, xây dựng văn hoá, xây dựng con người và
nhiều mặt khác. Đó là những yếu tố mà thời nào chúng ta cũng phải chú ý .
3.2. Kế thừa và phát huy những giá trị của Nho giáo trong công cuộc đổi
mới đất nước.
3.2.1 Kế thừa và phát triển tư tưởng chính trị của Nho giáo trong vấn đề
quản lý nhà nước.
21


Ở Việt Nam trong truyền thống, các tư tưởng Nho giáo đã có những tác động
sâu sắc đến những tầng lớp lãnh đạo của nhà nước phong kiến. Ở Việt Nam, từ thế
kỷ X đến thế kỷ XIV, giai cấp cầm quyền đã nhận thấy ưu điểm của Nho giáo trong
việc củng cố vương triều, tổ chức của nhà nước, thiết lập quan hệ chặt chẽ với nhà
nước và nhân dân. Tứ thư, Ngũ kinh đã từng là cơ sở cho việc chọn quan lại trong

các Triều đình phong kiến Việt Nam trước đây. Sau cách mạng tháng Tám thành
công năm 1945, trong nhiệm vụ xây dựng nhà nước cách mạng, vấn đề đặt ra đối
với các tư tưởng đã từng ảnh hưởng đến Việt Nam là đánh giá cao vai trò của
chúng, đặc biệt là Nho giáo.
Hồ Chí Minh là một người đã từng tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng chính
trị của Nho giáo.
Ngày nay, dưới ánh sáng đổi mới của Đảng, Việt Nam chúng ta đang trên con
đường thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa và các chính sách đổi mới của Đảng đã làm khởi sắc bộ mặt
của xã hội Việt Nam. Nhà nước trong thời kỳ chuyển đổi đã có những đóng góp to
lớn vào thành tựu của đất nước, các phương thức quản lý nhà nước, cán bộ, công
chức nhà nước... đang đặt ra những vấn đề cần quan tâm nghiên cứu để đổi mới.
Trong việc hoàn thiện quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay chúng ta đương
nhiên phải tiếp thu những lý thuyết hiện đại về quản lý nhà nước. Nhưng để trong
việc quản lý nhà nước có hiệu quả, chúng ta cần tính đến sự tiếp thu một cách sáng
tạo những hạt nhân hợp lý của những tư tưởng về quản lý nhà nước của Khổng
Mạnh. "Việt Nam là một xã hội phương Đông, Nhà nước Việt Nam phải có những
đặc thù của nhà nước phương Đông, tiếp thu được những lý thuyết hiện đại về quản
lý nhà nước đồng thời kết hợp các hạt nhân hợp lý trong các tư tưởng về quản lý nhà
nứơc của truyền thống phương Đông, đặc biệt là Nho giáo"(1).
Vậy chúng ta có thể vận dụng những tư tưởng quản lý nhà nước của nho giáo
với những tư tưởng sau :
Thứ nhất: Một nhà nước do dân, vì dân, các chính sách quản lý nhà nước phải
phát huy được sức mạnh của nhân dân: tư tưởng trên được rút ra từ tư tưởng "nhân
(1)

Vấn đề quản lý Nhà nước trong triết học Trung Quốc cổ đại, NXB TPHCM 2002 - Nguyễn Anh Tuấn, tr.138

22



trị ","đức trị" trong Nho giáo, thực chất đây chính là những tư tưởng về Nhà nước vì
dân, đây là tư tưởng mà vẫn còn giá trị đối với chúng ta ngày nay...
Điều 2: Hiến pháp Việt Nam đã khẳng định nhà nước Việt Nam là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, vậy nó phù hợp với nội dung
tư tưởng Nho gia.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh, người đã thấm nhuần các giá trị tiến bộ của tư tưởng
Nho giáo, đã sớm chỉ ra cho chúng ta thấy sức mạnh của nhân dân một nhà nước do
dân: "gốc có vững thì cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân". Người
cũng đã dạy phải lấy dân làm gốc. Đó là sự kế thừa các giá trị tiến bộ của các nhà tư
tưởng đi trước. Nhưng người xưa mới chỉ thấy sức mạnh của nhân dân, mà chưa
thấy nhân dân là người chủ quyền cai trị, tức là quyền lực nhà nước, Chủ Tịch Hồ
Chí Minh trên cơ sở thấy được sức mạnh to lớn của nhân dân đã đi đến khẳng định
rằng, nhân dân là nguồn gốc của quyền lực nhà nước : "nước ta là nước dân chủ, bao
nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân".
Như vậy trong nhà nước ta, nhân dân không những là một sức mạnh to lớn,
mà con là nguồn gốc của quyền lực nhà nước. Do vậy, mọi công việc của nhà nước
đều vì lợi ích của nhân dân, xuất phát từ ý nguyện của nhân dân. Còn trách nhiệm
của người cầm quyền là phải làm "người đầy tớ trung thành của nhân dân".
Thứ hai: coi trọng vai trò của yếu tố con người trong quản lý nhà nước: tài
năng đạo đức cán bộ, công chức nhà nước.
Nho giáo đề cao vai trò của con người trong việc thực hiện chính sách của
nhà nước. Nho giáo nói đến vấn đề trị nước là đều gắn với chủ thể là con người: vua,
quân tử…yếu tố con người có vai trò quyết định. Trong nhiều bất cập của quản lý
Nhà nước Việt Nam hiện nay, đôi khi không phải lý do từ bộ máy tổ chức hay chính
là thể chế mà chính là con người thực hiện. Tình trang tham nhũng là một chứng
minh cho việc kém hiệu quả của việc lý Nhà nước có nguyên nhân từ yếu tố con
người. Trong nhiều trường hợp chính sách quản lý Nhà nước không phải không tốt,
nhưng khi được triển khai trong thực tế, thì chính do con người thực hiên do thiếu
khả năng, thiếu đạo đức, vì những lợi ích cá nhân mà đã làm cho mục đích tốt đẹp

23


của chính sách không đạt được. Trong các nội dung hoàn thiện việc quản lý Nhà
nước Việt Nam hiện nay, phải đặc biệt quan tâm đến vấn đề cán bộ, công chức.
Nho giáo đã chỉ ra rằng, người quản lý Nhà nước phải là người hiền, tức là
người quân tử, người có tài đức. Nho giáo nhấn mạnh người quản lý Nhà nước phải
học nhiều để có tài, có đức mới đáng làm người lãnh đạo thiên hạ. Những yêu cầu
này cũng đúng với đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay ở nước ta. Tuy nhiên nội
dung có khác. Tài năng không phải là lục nghệ, đạo đức không phải đạo đức phong
kiến mà là đạo đức xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "đạo đức ngày càng
cao rộng hơn. Không phải chỉ có hiếu với bố mẹ, mà còn chung với nước, hiếu với
dân. Đạo lí của các cụ ngày xưa nêu lên không phải ai cũng làm được, vì con người
sống trong xã hội cũ là xã hội người đi bóc lột người, quan hệ giữa người với người
thường là áp bức, là xấu. Bây giờ trong xã hội mới, không có áp bức, bóc lột, ai
cũng có thể vươn tới điểm cao đạo đức cách mạng. Những gương thánh hiền ngày
xưa chỉ có mấy chục và là chuyện của nước ngoài, chuyện tưởng tượng ra. Còn
thánh hiền ngày nay bao gồm hàng triệu con người có thật trong nhân dân Việt Nam
ta"(1).
Phần thiếu hụt cơ bản nhất của đội ngũ cán bộ công chức quản lý Nhà nước
hiện nay là quản lý hành chính Nhà nước, pháp luật, ngoại ngữ, tin học và kiến thức
do đòi hỏi của nền kinh tế khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, xây dựng Nhà
nước pháp quyền và mở cửa hội nhập quốc tế. Đội ngũ công chức phục vụ sự nghiệp
có trình độ chuyên môn không theo kịp, tụt hậu so với thế giới. Cán bộ chính quyền
cơ sở số lượng đông nhưng chất lượng thấp; cá biệt ở một số vùng miền núi dân tộc,
cán bộ còn mù chữ.
Như vậy vấn đề đặt ra trước hết là phải tăng cường việc đào tạo cán bộ công
chức. Việc tuyển dụng nhân sự trong các cơ quan hành chính Nhà nước phải căn cứ
vào tài năng của đối tượng. Người có trình độ phải được bố trí vào vị trí xứng đáng
trong các cơ quan nhà nước. Người không có tri thức, không có tài năng thì không

xứng đáng để làm người quản lý đất nước, theo tư tưởng của Nho giáo.
(1)

Hồ Chí Minh tuyển tập, tập II, NXB Sự thật – 1980, tr.492

24


Thứ ba: Phân phối quân bình - Nhà nước phải đóng vai trò là người điều tiết
quan bình trong xã hội, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo.
Nho gia nói rất nhiều đến sự phân phối quân bình để xã hội không có người
giàu quá, kẻ nghèo quá. Đây là một ý tưởng còn ý nghĩa lớn đối với chúng ta hiện
nay, trong thời kỳ đổi mới đất nước ngày nay chúng ta phải kế thừa phát huy và sáng
tạo để đưa tư tưởng tiến bộ này áp dụng vào chính sách của Nhà nước và đời sống
nhân dân đem lại sự công bằng bình quân cho xã hội ta.
Từ khi Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đời sống của nhân dân ta được cải thiện đáng kể. Nhiều hộ gia đình đã thích
ứng nhanh chóng với cơ chế kinh tế mới và làm giàu một cách hợp pháp. Những hộ
giàu tăng đáng kể. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường cũng tạo ra một sự phân hoá
giàu nghèo ngày càng cao. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nhận định; "Mức
sống nhân dân, nhất là nhân dân ở một số vùng quá thấp. Chính sách tiền lương và
phân phối trong xã hội còn nhiều điều bất hợp lý. Sự phân hoá giàu nghèo giữa các
vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng dân cư tăng lên nhanh chóng" (1).
Chính vì vậy Đảng ta đặt ra nhiệm vụ phải " thực hiện công bằng trong xã hội ",
"thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, thông qua những biện pháp cụ thể, sát
với tình hình từng địa phương, sớm đạt mục tiêu không còn hộ đói, giảm mạnh các
hộ nghèo".
Vậy nên, Nhà nước phải áp dụng tư tưởng của Nho giáo để có chính sách
phân phối quân bình trong xã hội, thu dần khoảng cách và trình độ phát triển giữa
các vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư, giảm bớt sự phân hoá giàu nghèo trong

xã hội.
Thứ tư: Tiết kiệm trong việc sử dụng tài sản của Nhà nước và nhân dân.
Các nhà Nho đều đưa ra tư tưởng là phải tiết kiệm trong việc sử dụng tài sản
của Nhà nước và nhân dân. Tư tưởng này vẫn còn có giá trị lớn đối với chúng ta,
nhất là trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay. Vậy hiện nay,
để phát triển đất nước, chúng ta không thể không thực hiện chính sách tiết kiệm sử
dụng một cách hợp lý tài sản của quốc gia.
(1)

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, 2001, tr.75

25


×