Tải bản đầy đủ (.doc) (137 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân và vận dụng vào công việc đổi mới nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.22 KB, 137 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Tư tưởng và quan điểm của Người về nhà nước của dân, do dân, vì
dân vô cùng sâu sắc và là hạt nhân cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nó
chứa đựng những giá trị to lớn về cả phương diện lý luận và thực tiễn
đối với cách mạng Việt Nam; là cẩm nang để thực hiện sự nghiệp đổi
mới- với trọng tâm là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và mở rộng quan hệ quốc tế đi tới thành công.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì
dân không những có ý nghĩa lịch sử mà còn cung cấp cho chúng ta
những kinh nghiệm quý báu để tiến hành cải cách bộ máy nhà nước, xây
dựng đội ngũ cán bộ công chức thực sự là công bộc của dân, hoàn thiện
hệ thống pháp luật, đấu tranh loại bỏ những thói hư, tật xấy trong bộ
máy nhà nước, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ có hiệu quả
các quyền và lợi ích của nhân dân, đảm bảo cho nhà nước luôn giữ được
bản chất cách mạng, phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới.
Xây dựng nhà nước pháp quyền là xu hướng tất yếu khách quan,
nhưng đối với chúng ta đây là nhiệm vụ hết sức mới mẻ. Trên thế giới
cũng chưa có quốc gia, dân tộc nào khẳng định đã xây dựng thành công
nhà nước pháp quyền, mà chỉ đạt được một số thành tựu nhất định. Mặt
khác, không có một nhà nước pháp quyền với tư cách là khuôn mẫu
chung cho tất cả các quốc gia, dân tộc. Do vậy, cùng với việc tiếp thu
những giá trị có tính chất phổ biến về nhà nước pháp quyền mà nhân loại
đã đạt được, chúng ta cần nghiên cứu, kế thừa và vận dụng những giá trị
tư tưởng Hồ chí Minh về nhà nước và pháp luật để từng bước xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những đặc trưng


riêng, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội , truyền thống văn
hoá và bản sắc dân tộc Việt Nam.
Trong ý nghĩa đó, việc thực hiện đề tài: "Tư tưởng Hồ Chí Minh


về nhà nước của dân, do dân, vì dân và vận dụng vào công việc đổi
mới nước ta hiện nay, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với sự
nghiệp đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường, xây
dựng nhà nước pháp quyền và mở rộng quan hệ quốc tế ở nước ta
hiện nay.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
Mục tiêu tổng quát của đề tài là nghiên cúư, tìm hiểu tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân, từ đó vận dụng vào công
cuộc đổi mới của nước ta hiện nay.
Để đạt được mục tiêu tổng quát nêu trên, luận văn tập trung giải
quyết các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
Một là, làm sáng tỏ sự hình thành và những nội dung cơ bản trong
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Hai là, làm sáng tỏ sự cần thiết phải vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân và việc vận dụng trong công
cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
3.Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và nhà
nước ta về nhà nước của dân, do dân, vì dân. Những quan điểm chỉ đạo,
kết luận của Đảng ta từ quá trình tổng kết lý luận và thực tiễn của 20
năm đổi mới đất nước.


Tác giả của luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác
nhau, bao gồm: phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp,
phương pháp hệ thống, phương pháp quy nạp và diễn dịch, phương pháp
so sánh và phương pháp xã hội học.
4. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung của luận văn gồm 2 chương.
Chương 1: Quá trình hình thành và những nội dung cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân,
do dân, vì dân vào công cuộc đổi mới nước ta hiện nay.


CHƯƠNG I. CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT
TRIỂN VÀ
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ
NƯỚC
CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
1.

CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
TƯ TƯỞNG

HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
1.1. Cơ sở hình thành
1.1.1. Chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam là quốc gia có ngàn năm văn hiến. Quá trình dựng nước
và giữ nước đã hun đúc và phát triển ngày càng sâu sắc ý thức dân tộc về
độc lập tự do. Tinh thần yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc trở thành động
lực, sức mạnh truyền thống, đạo lý làm người, niềm tự hào và là nhân tố
hàng đầu trong hệ giá trị tinh thần Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước của
dân tộc có đặc điểm nổi bật là Tinh thần độc lập, tự chủ được hình thành
sớm và Tư tưởng gần dân, thân dân, nước gắn liền với nhà- làng- xã,
nước gắn liền với dân đậm nét. Gữi làng- giữ nước cũng là dựng làng dựng nước. Dòng chủ lưu này là sợi chỉ đỏ xuyên suốt các thời kỳ lịch
sử.
Từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên, Việt Nam bị các triều đại

phong kiến phương Bắc thay nhau đô hộ, sự tồn vong của một dân tộc bị
thử thách suốt hơn nghìn năm đã sản sinh ra tinh thần bất khuất, kiên
cường, bền bỉ đấu tranh bảo tồn cuộc sống, giữ gìn và phát huy tinh hoa


văn hoá, quyết giành lại độc lập cho dân tộc. Chiến thắng Bạch Đằng
năm 938 mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử Việt Nam – kỷ nguyên phát
triển quốc gia phong kiến độc lập, thời kỳ xây dựng và bảo vệ nền độc
lập dân tộc. Dưới các triêu Ngô (939-965), Đinh (68- 979), Tiên Lê (980
- 1009) Nhà nước trung ương tập quyền được thiết lập. Tiếp đó, Việt
Nam bước vào thời kỳ phục hưng và phát triển (với quốc hiệu Đại Việt)
dưới thời Lý -Trần -Lê sơ được biết đến như một quốc gia thịnh vượng ở
Châu Á. Thăng Long (nay là Hà Nội) cũng được chính thức công nhận
là Kinh đô của Đại Việt với Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn vào năm
1010.
“Nhờ có ý chí độc lập và lòng khát khao tự do hơn là nhờ quân
đông sức mạnh, nước Nam đã thắng các đội xâm lược phong kiến đông
mạnh trong lịch sử”. Song động lực của chủ nghĩa dân tộc vĩ đại đó
không phải bất cứ lúc nào cũng có thể khơi dậy và phát động mạnh mẽ
được.
Bước sang đầu thế kỷ XIX, các nước tư bản phương Tây đã
chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, càng ráo riết tìm kiếm thị
trường, xâm chiếm thuộc địa. Trong hoàn cảnh này, trước mưu đồ đế
quốc Pháp thôn tính nước ta, nhiều trí sĩ Việt Nam đã nhận thức được
yêu cầu bảo vệ độc lập phải gắn liền với cải cách, đưa đất nước thoát
khỏi tình trạnh trì trệ của phương Đông nhưng bị triều Nguyễn khước từ,
đẩy đất nước vào tình trạng lạc hậu, bế tắc, từ đó Việt Nam đã trở thành
một nửa thuộc địa nửa phong kiến gần 100 năm (1958- 1945)



Trước cảnh nước mắt nhà tan đau thương của dân tộc, Nguyễn Ái
Quốc nhận lấy trách nhiệm của lịch sử, ra đi tìm đường cứu nước. Sau
này, Người viết:“Lúc đầu, chính chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ
nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.
Có thể nói rằng, chủ nghĩa yêu nước truyền thống dân tộc và sự bế tắc
về tư tưởng, đường lối cứu nước của các phong trào cuối thế kỷ XIX và
đầu thế kỷ XX đã thôi thúc Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước,
cứu dân, cũng có nghĩa là thôi thúc Người ra đi tìm một mô hình Nhà
nước, một mô hình xã hội mới cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam,
phù hợp với xu thế thời đại và có thể phúc đáp được lợi ích của cả dân
tộc.Sự tìm kiếm ấy là bước khởi đầu cho quá tình hình thành và phát
triển tư tưởng về một Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
ở Việt Nam.
Kế thừa truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh đã phát triển chủ
nghĩa yêu nước truyền thống lên một tầm cao mới trên nền tảng của chủ
nghĩa Mác Lênin, làm nên triết lý của Người anh hùng giải phóng dân
tộc, danh nhân văn hoá thế giới.
1.1.2. Tinh hoa văn hoa văn hoá nhân loại
1.1.2.1. Tinh hoa văn hoá phương Đông
Trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp xúc,
thâu thái và tổng hợp nhiều yếu tố văn hoá của phương Đông và phương
Tây, tiếp xúc, thâu lược những tinh hoa văn hoá của dân tộc và thời đại.
- Khổng Tử dậy “dân là gốc của xã hội”. Mạnh Tử cho rằng, trong
nước dân là quý nhất, tiếp theo là xã tắc, vua là nhẹ, nên ai được lòng


dân thì được làm thiên tử: “ Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh.
Thị cố đắc hồ khuư vi dân nhi Thiên Tử “
Hồ Chí Minh kế thừa và khai thác những yếu tố tích cực, hợp lý
trong tư tưởng chính trị của Nho gia, như triết lý nhân sinh lấy tu thân

làm gốc, lấy hành động để lập thân và có ý tưởng về một xã hội thái bình
thịnh trị, thế giới đại đồng, đề cao văn hoá và truyền thống hiếu học
trong xã hội. Nhận thức giá trị tiến bộ của tư tưởng chính trị Nho gia,
Người đã sớm chỉ cho chúng ta thấy sức mạnh của lực lượng nhân dân
trong xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân “ Gốc có vững cây
mới vững bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Không chỉ thấy sức
mạnh nhân dân như người xưa, phát triển hơn, Người còn nhận thấy
nhân dân là người chủ của quyền cai trị- tức quyền lực Nhà nước. Trên
cơ sở sức mạnh to lớn của nhân dân, Người khẳng định nhân dân là
nguồn gốc của tất cả quyền lực trong nhà nước và ngoài xã hội.
-Tư tưởng chính trị của Mặc gia cũng được Hồ Chí Minh kế thừa
và phát triển.
Mạc gia chủ trương chính sách kiêm ái trong công cuộc cai trị, nhà
cầm quyền phải thương yêu nhân dân, tận tuỵ với nhân dân. Thuyết
Kiêm ái hạn chế ở tính duy tâm và phi giai cấp. Loại bỏ những hạn chế
đó, tiếp thu tinh thần yêu thương nhân dân của Mạc Gia, Người nói:
“Chúng ta phải biết rằng cơ quan chính phủ, từ toàn quốc cho đến các
làng xã đều là công bộc của dân”, có nghĩa vừa là người lãnh đạo vừa là
người đầy tớ của nhân dân
- Tư tưởng vô vi của Lão Tử.


Tư tưởng vô vi coi“Trị nước lớn như nấu cá nhỏ”(Trị đại quốc nhược
phanh tiêu tiên).Trị nước việc lớn, phức tạp mà ví như “nấu cá nhỏ”một phương sách chiến luợc- hàm ý nấu cá nhỏ người ta không làm vẩy,
lóc thịt là vì người ta sợ làm nát nó đi. Trị nước lớn, bậc thánh nhân
không dám dùng đến cái đạo hữu vi mà làm thương tổn và đau khổ nhân
dân, xui họ sinh ra chống đối và trá nguỵ. Tư tưởng Lão Gia được Hồ
Chí Minh kế thừa trong phương pháp cách mạng nhằm nhận thức quy
luật, nắm bắt tiến trình, không ngừng lợi dụng tình thế, tuần tự nhi tiến
sít sao theo tiến trình mà không nóng vội, thuận theo nó để sử dụng nó.

Cách mạng Tháng Tám là điển hình của việc nắm bắt, lợi dụng tiến
trình, thời cơ trong việc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Hồ Chí Minh cũng kế thừa, tiếp thu những yếu tố tích cực của Phật
giáo như tư tưởng Từ bi bác ái, thương người như thể thương thân,
khuyến thiện, trừ ác, tinh thần bình đẳng, dân chủ, chống lại mọi sự phân
biệt đẳng cấp, đề cao lao động, chống luời biếng. Nguời viết :” Không
được báo thù báo oán. Đối với những kẻ đi lầm đường lạc lối, đồng bào
ta cần phải chính sách khoan hồng “.
Về cách mạng Tân Hợi và Tư tưởng Tôn Trung Sơn.
Tư tưởng Tam dân:Dân tộc độc lập - Dân quyền tự do -Dân sinh hạnh
phúc của Tôn Trung Sơn còn nhiều hạn chế và phong trào thất bại,
nhưng Hồ Chí Minh nhận thấy bài học về cách mạng và tư tưởng “Thân
Nga thân cộng, phù trợ công nông”là tư tưởng tiến bộ, có thể vận dụng
vào cách mạng Việt Nam.


Những tinh hoa Nho giáo của Khổng tử, Kiêm ái của Mạc gia,
Thuận theo tự nhiên của Lão tử, Từ bi bác ái của Phật giáo,…đã góp
phần tích gộp, hình thành trong tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước
vì con người, giải phóng con người. Nhà nước ra đời từ trong lòng nhân
dân, phục vụ và bảo vệ nhân dân, vì ấm no hạnh phúc của nhân dân.
1.1.2.2 Tinh hoa văn hoá Phương Tây
Hồ Chí Minh tiếp nhận những giá trị văn hoá Pháp, văn hoá
phương Tây qua lăng kính đoàn kết với các dân tộc thuộc địa và giải
phóng. Xuất phát từ lợi ích dân tộc, Nguyễn Ái Quốc dần dần mở rộng
tầm nhìn về thế giới, về tiếp biến văn hoá, văn minh tư sản. Người tìm
thấy điểm chung trong các dòng văn hoá đó là sự mưu cầu hạnh phúc
cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Người chắt lọc tư tưởng,
học thuyết đã có sắn theo phương thức kế thừa cái tốt, cái hợp lý và phát
triển sáng tạo, hiện thực hoá lên một tầm cao hơn về chất trong thực tiễn.

Nhà nước tư sản ra đời thay thế Nhà nước phong kiến độc đoán,
chuyên quyền, khẳng định mạnh mẽ những tư tưởng nhân đạo, các
nguyên tắc tự do và bình đẳng của công dân, thừa nhận những nguyên
tắc quyền con người không thể bị tước đoạt, tìm tòi cơ cấu, hình thức,
công cụ chống lại một cách không khoan nhượng sự tiếm quyền và tình
trạng vô trách nhiệm của quyền lực đối với cá nhân và xã hội.
Hồ Chí Minh không xa lạ với học thuyết pháp quyền tư sản, đại
diện là những nhà tư tưỡng vĩ đại như: Nhà triết học khai sáng Pháp
Montecquieu (1689- 1755), tác giả của “Tinh thần pháp luật “(1748)khi đưa ra quan điểm Tam quyền phân lập đã luận giải về sự phân chia


quyền lực Nhà nước, ở đó, mô hình tối ưu là mỗi nhà nước đều có ba
quyền: Lập pháp - Hành pháp -Tư pháp. Quyền lực ba cơ quan này có
phân chia và kiềm chế giữa các quyền (các quyền đối lập và cân bằng
nhau) là điều kiện tiên quyết để đảm bảo tự do chính trị trong Nhà nước
(tự do làm những gì mà pháp luật cho phép, tự do thể hiện trong pháp
luật); Rouseau (1712- 1788)- Nhà triết học khai sáng Pháp đã kế thừa tư
tưởng của Montesquieu để xây dựng lý luận về thiết chế dân chủ và nhà
nước pháp quyền…
Người cũng đã trực tiếp tiếp xúc với những Nhà nước tư sản Anh,
Pháp, Mỹ. Đây chính là nguồn để Người nghiên cứu, chắt lọc thành
những tư tưởng tích gộp văn hoá độc đáo của mình về nhà nước pháp
quyền với điều kiện Việt nam.
Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ ngày 4 -7 - 1776 quan niệm cơ
bản quyền con người của cá nhân. Đối lập với quyền lực của chế độ
phong kiến độc đoán, quan liêu hay quân phiệt, người ta tin rằng, các cá
nhân có những quyền nhất định mà không một Chính phủ hay cá nhân
nào có thể tước đoạt nếu không có lý do chính đáng, được xác lập theo
một cơ chế công bằng, hợp lý. Quan niệm về quyền cá nhân này, sau
được gọi là quyền con người và được Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ

thể hiện một cách sinh động: “Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng
và trong số những quyền không thể tước đoạt đó có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Học thuyết của các nhà tư tưởng tư sản về tổ chức nhà nước và bộ
máy Nhà nước, về chính thể Cộng hoà Tổng thống ở Mỹ, chính thể


Cộng hoà đại nghị ở Pháp là những mô hình được Hồ Chí Minh khảo sát
kỹ lưỡng để thâu thái những mặt mạnh mỗi thiết chế mà sáng tạo trong
việc xây dựng mô hình Nhà nước hợp lý ở Việt Nam và phù hợp tiến bộ
thời đại.
Vận dụng tư tưởng Tuyên ngôn của Mỹ và Pháp, trong áng hùng
văn “Tuyên ngôn Độc lập “ khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà, Hồ Chí Minh đã trích dẫn câu hai nổi tiếng trong Tuyên ngôn Độc
lập của Mỹ và Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của Pháp, trước hết
là để khẳng định cơ sở pháp lý và chính nghĩa của Tuyên ngôn độc lập
Việt Nam, nhân quyền về dân quyền, những tư tưởng lớn của thời đại,
cao đẹp, là vấn đề chung của con người, của loài người, và dân quyền
cùng nhân quyền của Việt Nam cũng không nằm ngoài vấn đề chung đó.
Từ đó, quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng, và quyền tự do
của Việt Nam và các dân tộc trên thế giới phải được tôn trọng, thừa nhận
và bảo vệ.
Sự chắt lọc và phát triển sáng tạo có thể thấy chế định Chủ tịch nước
trong Hiến pháp 1946 có một số điểm giống chế định Tổng thống trong
Hiến Pháp Mỹ. Khẩu hiệu:“ Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” mà Hồ Chí
Minh đề ra năm 1945 là đỉnh cao của sự chung đúc từ khát vọng muôn
đời của dân tộc, cũng là sự phát triển những tư tưởng “Tự do - Bình
đẳng - Bác ái” của cách mạng tư sản Pháp, tuyên ngôn Độc lập Mỹ, tư
tưởng Tam dân của Tôn Trung Sơn lên một trình độ mới mang tính giai
cấp, tính dân tộc và tính nhân dân trong tiến trình cách mạng xã hội chủ

nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân.


1.1.3. Lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin
“ Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lê nin khi sáng tạo và phát
triển học thuyết của mình, đã luôn luôn chỉ ra rằng học thuyết của các
ông không phải là giáo điều mà là sự chỉ đạo hành động. Xuất phát từ
nguyên tắc đó- nguyên tắc làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin khác với tất
cả các học thuyết trước - sự cần thiết phải phát triển học thuyết Mác –
Lênin ( trong đó có triết học).Trong bài : “Cương lĩnh của chúng ta”,
Lênin viết: “ Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như một cái gì đã
xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại chúng ta tin rằng lý luận đó
chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa
cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành
lạc hậu đối với cuộc sống “
“Chủ nghĩa Mác được Hồ Chí Minh tiếp biến với tính cách là tinh
hoa văn hoá nhân loại”

(1)

làm phong phú thêm kho tàng của Chủ nghĩa

Mác-Lênin. Người tiếp cận “Phương pháp biện chứng của chủ nghĩa
Mác Lênin là phép biện chứng duy vật - kết quả tổng hợp và là linh hồn
sống của lý luận trong của nghĩa Mác Lênin (với các nguyên tắc: thực tế,
lịch sủ - cụ thể, khách quan, chỉnh thể và phát triển), sử dụng chúng làm
công cụ để nhận thức, cải biến thế giới khách quan thông qua hoạt động
thực tiễn theo phương châm: quan điểm về đời sồng, về thực tiễn, phải là
quan điểm thứ nhát và cơ bản của lý luận nhận thức”


( 2)

, “Người dùng

các phạm trù chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lênin, để chỉ trào lưu chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất trong các trào lưư tư tưởng
mácxít trên thế giới; đồng thời để thông qua các phạm trù đó, Người chỉ


ra tính vận động và tính liên tục, không liên tục của nội dung và phương
pháp tiếp cận đối với các quan điểm, học thuyết của chủ nghĩa Mác, để
không mắc phải bệnh giáo điều vốn thường nẩy sinh trong các loại chủ
nghĩa, tư tưởng. Và chính nhờ thế, Người cũng tiếp cận, tiếp biến nó
trong mối liên hệ với tinh hoa văn hoá Đông – Tây” (3)..
Minh triết và sáng tạo, về mô hình xấy dựng Nhà nước, “Hồ Chí Minh
đã tiếp biến và tổng hợp chính sách “ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc “của
chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và Tư tuởng “ tự do, bình đẳng,
bác ái” của cách mạng tư sản Pháp, Mỹ, đặc biệt tiếp biến tư tưởng
chính quyền công nông của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản của Chủ nghĩa Lênin, để xây dựng nền dân chủ, cộng
hoà ở Việt Nam. “

(4)

(1, 2, 3,4 : PGS.TS. Phạm Ngọc Anh, Triết lý phát

triển Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia,
Hn, 2009, tr 68, 69, 70, 73)
1.1.4 Nhân tố chủ quan
Trước hết, đó là minh triết trí tuệ và trái tim quảng đại tình yêu

thương con người của một nhà yêu nước vĩ đại, một chiến sỹ cộng sản
kiên cường, một đại nhân- đại trí- đại dũng Hồ Chí Minh, anh hùng giải
phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới, đã cống hiến trọn đời cho
Tổ quốc – nhân dân – nhân loại cần lao vì Độc lập - Tự do – Hanh
phúc.
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nhận lấy trách nhiệm lịch sử
suy tìm một giải pháp về con đường cứu nước giải phóng dân tộc, về
hình thức Nhà nước phù hợp với điều kiện lịch sử của dân tộc và xu thế


phát triển tiến bộ của nhân loại. Nghiên cứu, tiếp biến và phát triển biện
chứng giá trị tư tưởng văn hoá truyền thống trong đó cốt lõi là chủ nghĩa
dân tộc, ý chí độc lập và khát vọng tự do của tổ tiên, tinh hoa văn hoá
phương Đông, phương Tây, đặc biệt là học thuyết cách mạng của Mác
và Lênin, Người đã để lại di sản hệ thống quan điểm toàn diện, sâu
sắcvà sáng tạo về học thuyết cách mạng giải phóng dân tộc, vì độc lập tự
do của Hồ Chí Minh
1.2. Qúa trình hình thành
1.2.1. Thời kỳ trước 1945
Thế kỷ XIV - đầu thế kỷ XX là đêm trường nô lệ của dân tộc, chế
độ phong kiến Việt Nam đã suy thoái đến cực điểm, lợi dụng lá cờ tự do,
bình đẳng, đế quốc Pháp xâm lược nước ta. Kể từ năm 1858 khi thực
dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, Việt Nam từ một quốc gia phong
kiến độc lập đã mất hết quyền tự do, độc lập, trở thành một nước thuộc
địa nửa phong kiến thuộc Pháp. Tất cả các phong trào chống Pháp đều
thất bại, Vua bị lưu đầy biệt sứ, lãnh tụ lên máy chém, bị mang thủ cấp
đi bêu, giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm hoành hành, cả dân tộc tiêu
điều, nòi giống, giang sơn, miếu mạo, đền chùa, bàn thờ tổ tiên, mồ mả
cha ông bị nô dịch rên siết dưới gót giày thực dân Pháp và bè lũ tay sai.
Nhưng trời đất, xã hội vẫn vần vũ theo quy luật, từ mạch nguồn của

dòng cháy văn hoá dân tộc mấy ngàn năm tích tụ bừng nở một sinh lực
mới, một sức mạnh tự thân. Vận nước bắt đàu từ ngày Nguyến Tất
Thành -Người con ưu tú, dũng cảm dân tộc rời bến Nhà Rồng đi tìm
đường cứu nước


a)Thời kỳ 1911-1930 : Phủ nhận nhà nước thực dân phong
kiến- đến Tư tưởng thành lập nhà nước công nông binh
- Năm 1911, Giải bài toán thế kỷ của dân tộc, Nguyễn Tất Thành
rời Tổ quốc sang phương Tây tìm đưòng cứu nước. Việc ra đi của Người
không chỉ thể hiện lòng yêu nước thương dân , hoài bão cứu nước mà
còn là thái độ phủ nhận chính quyền thuộc địa Pháp phi pháp, bất hợp
hiến Việt Nam. Nơi đầu tiên Người đến là Pháp với quyết tâm tìm câu
trả lời ngay trên đất Pháp. Người cần biết cặn kẽ: Đằng sau ba chữ
Pháp: “Tự do- Bình đẳng- Bắc ái” của chính thể Cộng hoà Pháp ở chính
quốc là gì? Làm gì, con đuờng cách mạng nào để nhân dân Việt Nam
“những người nông dân bị nhấn chìm trong bóng đêm hết sức tối tăm”,
“thân phận người An Nam chỉ là những thân phận nông nô” được giải
phóng?
Rời Pháp sang Anh, rồi qua nhiều nước châu Phi, Châu Mỹ La
tinh, đến nhiều nước châu Âu, sống và làm việc với các phong trào công
nhân ở chính quốc, với những người dân bị áp bức phương Đông và
những người làm thuê ở các nước phương Tây, Người nhận thức rõ bản
chất bóc lột, bất công của chế độ tư sản dẫn đến những mâu thuẫn sâu
sắc không chỉ giữa chủ nghĩa đế quốc với chủ nghĩa đế quốc, giữa giai
cấp tư sản chính quốc với phong trào công nhân các nước thuộc địa mà
cả giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản ở chính quốc và ở đâu, nhân
dân cũng mong thoát khỏi áp bức bóc lột. Từ lòng yêu thương đồng bào
mình đến đồng cảm với những người cùng cảnh ngộ trên toàn thế giới,



Nguời ý thức về sự đoàn kết giữa các dân tộc nhằm đấu tranh thoát khỏi
ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc.
Trở lại Pháp (1917), thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại
Pháp, Nguyễn Aí Quốc gửi đến Hội nghị Vécxay Bản yêu sách của
nhân dân An Nam trong đó có yêu cầu đòi cải cách nền pháp lý ở Đông
dương bằng cách cho người bản xứ cũng được đảm bảo về mặt pháp luật
như người Âu châu, và phải thay đổi chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ
ra các đạo luật. Đây là tư tưởng đầu tiên “ thần linh pháp quyền” của Hồ
Chí Minh.
Mùa xuân năm 1919 đánh dấu bước quyết định chính trị đầu tiên
khi Nguyễn Tất Thành dưới tên Nguyễn ái Quốc gia nhập Đảng Xã hội
Pháp. Điểm xuất phát và động lực duy nhất đưa tới việc Người vào
Đảng này “chỉ vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi, là tổ
chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: Tự
do – Bình đẳng – Bác ái”. Lần đầu tiên giữa Thủ đô của “ mẫu quốc “,
một người Việt Nam, trên diễn đàn của Đại hội Đảng Xã hội Pháp đã
kịch liệt lên án chủ nghĩa thực dân Pháp xâm lược và đã “nhân danh toàn
thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phái tả lẫn phái
hữu, chúng tôi kêu gọi:“Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi”.
22 g ngày 29 –12-1920 Nguyễn Ái Quốc đã tiến đến một quyết
định lịch sử, bỏ phiếu tán thành gia nhập quốc tế ba bởi Quốc tế đó ủng
hộ phong trào giải phóng dân tộc, bởi nó có“Những Luận cương của
V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa”. Và, chính hành động này đã


đưa Nguyễn ái Quốc vào hàng ngũ những yếu nhân của lich sử hiện đại
ở Châu Âu: Tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp.
Với Nguyễn Ái Quốc, đến với Luận cương của Lê nin là bước
ngoạt lịch sử quyết định, sự thay đổi về chất trong cuộc đời hoạt động

cách mạng của Người. Từ đây, Người đã:Từ chủ nghĩa yêu nước đến với
chủ nghĩa cộng sản, đi theo con đường cách mạng Tháng Mười, đứng
hẳn về Chủ nghĩa Mác-Lênin và Quốc tế Cộng sản, và nhận ra con
đường cứư nước mới cho dân tộc - Con đường cách mạng vô sản: “ Hỡi
đồng bào bị đoạ đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là
con đường giải phóng chúng ta”.
Với Việt Nam thì hành động lịch sử đó của Nguyễn ái Quốc chính
là một ánh chớp giữa đêm đông, là “Túi khôn” để cả dân tộc thức tỉnh
tin theo Người, theo Chủ nghĩa Mác Lênin – chủ nghĩa chân chính nhất,
cách mạng nhất, đỉnh cao của tư tưởng thời đại “rũ bùn đứng dậy sáng
loà”.Sau này, Người nói :” Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa
nghiên cứu lý lụân Mác Lênin, vừa làm công tác thực tế, dân dần tôi
hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới
khỏi ách nô lệ”. “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Nguyễn Ái Quốc khởi đầu hoạt động đấu tranh cách mạng của
mình bằng việc tố cáo những tội ác man rợ của bọn thực dân ở thuộc địa,
nhằm làm cho nhân dân Pháp và nhân dân thế giới biết được sự thật về
cái gọi là” chính sách khai hoá “ của bọn thực dân, gây phẩn nộ xã hội,


từ đó kêu gọi “ thức tỉnh”. Người viết:” Mọi chế độ thực dân đế quốc
đều tiêu diệt hết giống nòi bản xứ, và muốn cữu vãn những nòi giống
này, ta phải lật đổ chủ nghĩa đế quốc.
Năm 1925 Nguyễn Ái Quốc viết “ Bản án chế độ thực dân Pháp”
nhằm tố cáo tội ác của chế độ thực dân “ăn cướp”, “giết người” và bằng
mọi thủ đoạn, chúng bắt “dân bản xứ “phải đóng thuế máu cho chính
quốc để “phơi thây trên chiến trường Châu Âu”, “đầy đoạ phụ nữ, trẻ em
thuộc địa”, các thống sứ, quan lại thực dân độc ác như một bầy thú dữ

v.v… “. Vì vậy, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc
thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới”.
Đứng vững trên lập trường dân chủ, dân tộc, yêu nước, kết hợp
với tư tưỏng của thời đại “ nhân dân nắm quyền tự quyết”, Nguyễn ái
Quốc đã phê phán, tố cáo, buộc tội đối với chủ nghĩa thực dân nói
chung và bộ máy thống trị, quan lại chính quyền thực dân thuộc địa đã
biến người dân nghèo khổ ở Việt Nam và các xứ thuộc địa thành vật hy
sinh để phục vụ cho lợi ích của mình trong các cuộc chiến tranh tàn
khôc. Sử dụng hình ảnh “ chủ nghĩa tư bản là con đỉa có hai vòi”, một
vòi bám vào giai cấp vô sản ở thuộc đia, một vòi bám vào giai cấp vô
sản ở chính quốc, nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt
cả hai cái vòi của nó đi, Hồ Chí Minh nêu lên mối liên hệ giữa cách
mạng ở chính quốc với cách mạng các nước thuộc đia và sự cần thiết
phải liên minh chiến đầu giữa giai cấp vô sản ở chính quốc và giai cấp
vô sản ở các thuộc địa, hai cuộc cách mạng đó phải phối hợp nhịp nhàng
như cánh của con chim. Người chỉ ra vai trò tích cực chủ động của dân


tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột
của chủ nghĩa thực dân và đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Cách mạng
thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ khăng khít
với nhau, nhưng không phụ thuộc nhau. Cách mạng thuộc địa có thể
bùng nổ và giành thắng lợi trưc cách mạng vô sản chính quốc.
Bằng “Bản án chế độ thực dân Pháp, “ Nguyễn Ái Quốc không chỉ
thể hiện sự kết hợp nhuẫn nhuyễn nguyên lý chủ nghĩa Mác- Lênin với
thực tiễn phong trào cách mạng của nhân dân các nước thuộc địa và phụ
thuộc chống chủ nghĩa thực dân mà còn bô sung và làm phong phú lý
luận của chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Đây là
một văn kiện lý luận quan trọng chuẩn bị về nhận thức, tư tưởng cho
nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc đứng dậy đấu tranh cách

mạng.
Tại đại hội V Quốc tế cộng sản, trước tình trạng phong trào cộng
sản quốc tế chỉ coi trọng vai trò quyết định của cách mạng vô sản ở
chính quốc, mà coi nhẹ hoặc đặt cách mạng giải phóng dân tộc ở địa vị
phụ thuộc, bằng lập luận thuyết phục, Hồ Chí Minh đã “thức tỉnh“các
đồng chí cộng sản châu Âu về tầm quan trọng của cách mạng thuộc địa,
rằng: vận mệnh của giai cấp vô sản các nước đi xâm lược thuộc địa gắn
chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”, rằng “nọc độc
và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tâp trung ở các thuộc
địa hơn là ở chính quốc…Thế mà các đồng chí khi nói về cách mạng,
các đồng chí lại khinh thường thuộc địa… trong lúc chủ nghĩa tư bản lại
dựa vào nó để tự bảo vệ và chống lại các đồng chí ”


Trong cuộc đấu tranh giải phóng, sự ủng hộ giúp đỡ của quốc tế là
quan trọng, song nhân tố quyết định vẫn là sự nỗ lực của bản than nhân
dân các nước thuộc địa. Người viết: “Vận dụng công thức của Các Mác,
chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có
thể thực hiện được bằng việc nỗ lực của bản thân anh em”.
Nhằm chuẩn bị về tổ chức cho sự ra đời của Đảng cộng sản ở Việt
Nam mà trước hết là sự chuẩn bị về tư tưởng và truyền bá chủ nghĩa
Mác- Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam, năm 1924 Nguyến Ái Quốc từ Nga trở về Quảng Châu - Trung
Quốc, thành lập “ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên “ – tổ chức cách
mạng của những người Việt Nam yêu nước trong và ngoài nước có tôn
chỉ, mục đích “làm cuộc cách mạng dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành
lại độc lập cho xứ sở), sau đó làm cách mạng thế giới ( lật đổ chủ nghĩa
đế quốc và thực hiện Chủ nghĩa cộng sản ) ( Hồ Chí Minh – Tiểu sử,
Nxb Chính trị quốc gia, Hn, 2010, tr 183) và trực tiếp huấn luyện cho tổ
chức này về Chủ nghĩa Mác- Lênin, về những vấn đề cơ bản của đường

lối cách mạng để họ làm nhiệm vụ truyền bá Chủ nghĩa Mác- Lênin vào
Việt Nam và tiến hành thành lập những đường dây liên lạc với trong
nước và quốc tế.
Tác phẩm “Đường Kách mệnh” - tập hợp những bài giảng do
chính Người trình bày tại các lớp huấn luyện “ Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên” - thế hệ thanh niên cách mạng đầu tiên ở Hương Cảng,
Trung Quốc (xuất bản năm 1927 bằng tiếng Việt), được coi là cuốn
Sách giáo khoa lý luận cách mạng đầu tiên của cách mạng Việt Nam: “


Mục đích cuốn sách này là để nói cho đồng bào ta biết rõ : Vì sao chúng
ta muón sống thì phải làm cách mệnh. Vì sao cách mệnh là việc chung
của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người. Đem lịch sử
cách mệnh các nước làm gương cho chúng ta soi. Đem phong trào thế
giới nói cho đồng bào ta rõ. Ai là bạn ta? Ai là thù ta? Cách mệnh thì
phải làm thế nào?. ”Chính tác giả đã trả lời câu hỏi trên: “ Như An Nam
đuổi Pháp … ấy là dân tộc cách mênh”. “Vậy ai là ngưòi làm cách
mệnh:” Khi trước tư bản bị phong kiến áp bức cho nên nó cách mệnh.
Bây giờ tư bản lại đi áp bức công nông, cho nên công nông là người chủ
cách mệnh”. “Cách mệnh trước hết phải có cái gì ?”Trước hết phải có
đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì
liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững
cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới
chạy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn.
Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác- Lênin.”
Định hướng những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam về mục
tiêu, đường lối cách mạng, thực hiện liên minh công nông dưới sự lãnh
đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế
giới nhưng trước hết, dân tộc Việt Nam phải tự cứu mình và phải lực

cánh sinh, “ Đường Cách mệnh cũng nêu những bài học kinh nghiệm từ
các cuộc cách mạng tiêu biểu của thế giới lúc bấy giờ, từ cách mạng Mỹ
(1776), Cách mạng Pháp (1789), đến cách mạng Nga (1917). Người
nhận xét :“ Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách


mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ
thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”,
Người khẳng định chỉ có Cách mạng tháng Mười Nga là triệt để: “Trong
thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công
đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng
thật”. Từ so sánh các cuộc cách mạng (tư bản, dân tộc, giai cấp), Nguyễn
Ái Quốc đi đến kết luận:“Chúng ta đã hy sinh làm cách mạng, thì nên
làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mạng rồi thì quyền giao cho dân
chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy
sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”.
Như vậy, đến “Đường Cách Mệnh”, cùng với việc xác định những
vấn đề cơ bản của đường lối cách mạng Việt Nam, định hướng chính trị
về một nhà nước, sự thống nhất về mục tiêu giữa chính trị và nhà nước
của số đông nhân dân lao động đã được hình thành. Nguyễn Ái Quốc
tiếp tục phát triển những định hướng tư tưởng pháp quyền trên cơ sở
thực hiện cuộc đấu tranh dân tộc phù hợp với xu thế cách mạng trên thế
giới, từng bước đề ra chủ trương về tạo lập một nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam,
Ba năm sau, Mùa xuân 1930, tại Quảng Châu -Trung Quốc, với
trách nhiệm chủ trì và hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam, Nguyễn
Ái Quốc đã thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mở bước ngoặt vĩ đại
của cách mạng Việt Nam. Từ đây, xã hội Việt Nam chấm dứt khủng
hoảng chính trị và đường lối cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí
Minh, giai cấp công dân Việt Nam có chính Đảng tiền phong của giai



cấp mình - Đảng của dân tộc Việt nam- diện cho trí tuệ, danh dự, lương
tâm dân tộc và thời đại chính thức bước lên vũ đài chính trị. “Chính
cương vắn tắt” của Đảng do Hồ Chí Minh soạn thảo nêu rõ: “Chủ trương
làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng”, “xây dựng
chính quyền công nông binh” “để đi tới xã hội cộng sản”.
* Năm 1941, Thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh
(Mặt trận Việt Minh)
Tháng 1/1941 Hồ Chí Minh đã về nước trực tiếp tổ chức và lãnh
đạo cuộc đấu trtanh chống Pháp - Nhật của nhan dân Việt nam. Nắm
vững và gương cao ngọn cờ độc lập tự do được xác định trong Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng, Hội nghị lần thứ tám của Ban chấp hành Trung
ương Đảng tháng 5/1941 do Người chủ trì đã quyết định thay đổi chiến
lược cách mạng, khẳng định cách mạng Đông Dương lúc bấy giờ là một
cuộc “ Cách mạng dân tộc giải phóng”.Nhiệm vụ đánh đổ Pháp – Nhật
không phải là nhiệm vụ riêng của giai cấp công nhân, nông dân mà là
nhiệm vụ chung của toàn thể nhân dân. Lúc này không phân biệt công
nhân, nông dân, phú nông, địa chủ, tư sản bản xứ, ai có lòng yêu nước
thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất vào mặt trận chung, dem tiềm lực
dân tộc để giành quyền độc lập, tự do. Mặt trận ấy là Việt Nam độc lập
đồng Minh, gọi tắt là Việt Minh.
Chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh nhằm thực hiện hai điều
cốt yếu mà toàn thể đồng bào ta hằng mong ước là: “làm cho nước Việt
Nam hoàn toàn độc lập; dân tộc Việt Nam được sung sướng tự do”.Sau
khi đánh đuổi đế quốc Pháp – Nhật sẽ “thành lập một nước Việt Nam


dân chủ mới theo tinh thân tân dân chủ. Chính phủ nước Việt Nam mới
theo thể chế cộng hoà dân chủ chứ không phải là chính phủ Xô viết

công nông binh như đã đề ra năm 1930. Chính quyền cách mạng của
nước dân chủ mới ấy không phải thuộc quyền riêng của một giai cấp nào
mà là của chung của toàn thể dân tộc: “ Chính phủ nước Viẹt Nam dân
chủ cộng hoà lấy ngọn cờ đỏ ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh làm lá
cờ toàn quốc và do “Quốc dân cử lên” (Đảng cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2000 Tập 7, tr 114)
Chủ truơng thay đổi chiến lược của Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp
hành Trung ương Đảng tháng 5/1941 dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ
Chí Minh có ý nghĩa quyết định đến chiều hướng phát triển thắng lợi của
cuộc vận động giải phóng dân tộc từ 1941- 1945.
Tháng 10/1944, trong bối cảnh chiến tranh thế giới sắp bước vào
giai đoạn kết thúc, thắng lợi sẽ thuộc về các lực lượng dân chủ chống
phát xít, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho quốc dân đồng bào thông báo chủ
trương triệu tập Đại hội đại biểu dân để bầu ra một cơ cấu đại biểu cho
sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân Việt
Nam trước vận hội mới của đất nước.“Một cơ cấu như thế mới đủ lực
lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc,
ngoài thì giao thiếp với hữu bang”. (Hồ Chí Minh toàn tập. Nxb Chính
trị quốc gia, H, 1995, tập 3, tr 505).
Như vậy, từ Chính phủ công nông binh chuyển sang thành lập
Chính phủ nhân dân của Nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà là một bước


chuyển đổi mang tính cách mạng trong tư tưởng của Nguyễn ái Quốc về
Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
1.2.2. Thời kỳ 1945 – 1954
Tháng 3 - 8/1945: Xây dựng các tổ chức chính quyền tiền thân –
cơ sở cho chế độ dân chủ cộng hoà: Uỷ ban dân tộc giải phóng - Uỷ
ban dân tộc giải phóng Việt Nam - Chính phủ lâm thời nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà

Tháng 3 /1945 trở đi, một cao trào kháng Nhật cứu nước đã phát
động mạnh mẽ trong toàn quốc. Cuộc khởi nghĩa từng phần đã diễn ra
thắng lợi ở nhiều địa phương. Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra
chỉ thị tổ chức Uỷ ban dân tộc giải phóng là hình thức tiền Chính phủ
trong đó nhân dân học tập để tiến lên giành chính quyền cách mạng.
Trong các vùng giải phóng,các căn cứ địa cách mạng thì tổ chức Uỷ ban
nhân dân cách mạng do dân dùng phổ thống đầu phiều hay do đại biệu
Hội nghị các giới bầu lên.
Hội nghị quân sự cách mạng Bắc kỳ họp từ ngày 15 dến 20/4/1945
cùng thảo luận và đề nghị triệu tập một cuộc đại biểu đại hội của các
giới, các đảng phái, các thân ỹ toàn quốc để thành lập Uỷ ban dân tộc
giải phóng Việt Nam và tiến tuới thành lập Chính Phủ làm thời. Điều này
đã thể hiện rõ tư tưởng và Chủ truơng tổ chức Quốc dân Đại hội của Hồ
Chí Minh có tầm quan trọng đặc biệt, được sự nhât trí của Đảng và của
Mặt trận Việt Minh.
Đến giữa tháng 8/1945, cao trào kháng Nhật cứư nước đã phát
triển đến đỉnh cao. Quân đội phát xít Nhật bị quân Đồng minh đánh bại.


×