Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Xuân diệu, xuân quỳnh hai phong cách thơ tình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.33 KB, 122 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Xuân Diệu, Xuân Quỳnh là hai nhà thơ lớn, có nhiều đóng góp
xuất sắc cho nền văn học dân tộc, đặc biệt là về mảng thơ tình. Tuy
Xuân Diệu, Xuân Quỳnh thuộc hai thế hệ ở hai thời đại khác nhau
nhưng họ gặp nhau ở một điểm trong tâm hồn, đó là: niềm khát khao
đến cháy bỏng yêu và được yêu. Chính vì vậy mà những vần thơ về
tình yêu của họ là những vần thơ bất tử. Cũng từ đó nền văn học Việt
Nam có hai đại biểu thơ tình xuất sắc nhất: Một Xuân Diệu - đại diện
cho cái tình khao khát mãnh liệt, ồn ào, sôi nổi, vồ vập ở nam giới và
một Xuân Quỳnh - đại diện cho những tình cảm đôn hậu, đằm thắm,
đầy nữ tính nhưng cũng không kém phần mãnh liệt.
Giá trị thơ tình Xuân Diệu, Xuân Quỳnh đã được khẳng định qua
thời gian và qua dư luận công chúng. Ở mọi thời đại, thơ tình Xuân
Diệu, Xuân Quỳnh đều được đông đảo bạn đọc đón nhận, đặc biệt là
giới trẻ, những người biết yêu và biết trân trọng tình yêu.
Tình yêu là đề tài lớn của thơ ca. Thể hiện thành công và xuất
sắc đề tài này, Xuân Diệu, Xuân Quỳnh đã khiến cho thơ tình của họ
trở thành đối tượng quan tâm đặc biệt của nhiều nhà nghiên cứu phê
bình. Tuy nhiên, sự quan tâm đó mới chỉ tập trung ở từng cá nhân
riêng lẻ chứ chưa có sự đối sánh giữa hai phong cách ở hai tác giả.
Việc tìm hiểu mang tính hệ thống và so sánh thơ tình Xuân Diệu,
Xuân Quỳnh sẽ khẳng định những đóng góp to lớn của Xuân Diệu,
Xuân Quỳnh trong đề tài quan trọng này. Hơn thế nữa, việc so sánh ở


đây sẽ không chỉ thấy được những nét phong cách khác nhau với sức
hấp dẫn riêng của mỗi người mà còn thấy được những nét riêng biệt
của hai thế hệ ở hai thời đại khác nhau đã đẻ ra họ.
Mặt khác, chính vì những giá trị nổi bật nói trên mà thơ tình của
Xuân Diệu cũng như Xuân Quỳnh được đưa vào giảng dạy nhiều ở


nhà trường Trung học phổ thông, Cao đẳng, Đại học… với tư cách là
1

những tác giả quan trọng của nền văn học Việt Nam hiện đại. Việc
dạy học thơ tình Xuân Diệu, Xuân Quỳnh ở các bậc học nói trên có
một ý nghĩa to lớn trong quá trình giáo dục đạo đức, tư tưởng và thẩm
mỹ cho học sinh, sinh viên.
Lựa chọn nghiên cứu đề tài này trước hết do niềm yêu thích của
bản thân: say mê Xuân Diệu, Xuân Quỳnh ngay từ khi biết đọc thơ
tình. Là một giáo viên dạy văn và đam mê thơ tình Xuân Diệu, Xuân
Quỳnh, tôi mong muốn được đem những hiểu biết của mình đã được
học, được đọc để đi vào tìm hiểu hai phong cách rất riêng của hai nhà
thơ cùng viết về đề tài tình yêu này nhằm góp phần nhỏ bé của mình
vào công việc nghiên cứu và nâng cao hiệu quả giảng dạy hơn nữa thơ
tình Xuân Diệu, Xuân Quỳnh.
Trong luận văn chúng tôi có đề cập đến khái niệm phong cách
nghệ thuật. Như chúng ta đã biết, nhà văn có phong cách đã tạo ra cho
mình một thế giới nghệ thuật riêng. Thế giới nghệ thuật này có tính
thống nhất như một chỉnh thể với quy luật nội tại của nó. Chi phối thế
giới nghệ thuật này là tư tuởng nghệ thuật của nhà văn. Có nhiều
nguyên nhân tạo nên phong cách mỗi nhà văn nhưng một nguyên nhân
quan trọng nhất đó là hoàn cảnh riêng thời thanh thiếu niên, nhất là
thời thơ ấu (hoàn cảnh gia đình, môi trường xã hội, thiên nhiên, văn
2


hoá, quan hệ cá nhân). Đây là một khái niệm phức tạp, không dễ lĩnh
hội. Song, thực hành khám phá ra được phong cách lại còn khó hơn
nữa. Ở đây, luận văn chỉ xin cố gắng tìm hiểu để nhận ra được một vài
nét nổi trội của phong cách Xuân Diệu, Xuân Quỳnh mà thôi và chỉ

giới hạn trong lĩnh vực thơ tình.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ :
2.1. Lịch sử nghiên cứu về thơ tình Xuân Diệu:
Lịch sử phê bình, nghiên cứu Xuân Diệu nói chung và thơ tình
Xuân Diệu nói riêng là một quá trình lâu dài, bởi ngay khi xuất hiện
cái tên Xuân Diệu gần như lập tức gây được sự chú ý trên văn đàn. Ở
đây luận văn chỉ xin phép được đề cập đến lịch sử nghiên cứu thơ tình
Xuân Diệu.
Nam Chi trong một bài phê bình của mình đã gọi Xuân Diệu
là“hiện tượng Xuân Diệu…”. Sở dĩ như vậy là vì Xuân Diệu ra đời
như một hiện tượng mới và với những sáng tạo độc đáo của mình, ông
được đánh giá là đỉnh cao của phong trào Thơ mới. Ông là người
mang đến cái hay, cái đẹp, cái mới cho Thơ mới, khẳng định sự thắng
lợi của Thơ mới trong tiến trình lịch sử phát triển của Văn học Việt
Nam. Hoài Thanh nhận xét: Xuân Diệu “là nhà thơ mới nhất trong
các nhà thơ mới”. Còn Thế Lữ, viết lời tựa cho tập “Thơ thơ” (1938)
của Xuân Diệu, đã khẳng định: “Và từ đây, chúng ta có Xuân Diệu,
loài người hãy hiểu con người ấy”.
Kể từ ngày Thế Lữ ra lời kêu gọi thiết tha ấy cho đến nay thì số
lượng các bài viết xung quanh hiện tượng Xuân Diệu đã khá phong
phú. Việc nghiên cứu thơ tình Xuân Diệu, theo ý chúng tôi, ngày càng
đạt đến độ sâu sắc và thoả đáng hơn. Tuy nhiên, trong quá trình tham
3


khảo bài viết của các tác giả, ta còn gặp phải nhiều ý kiến trái ngược
nhau về thơ tình Xuân Diệu. Chẳng hạn về vấn đề quan niệm tình yêu
trần tục, về tính chất nhục cảm ở thơ tình Xuân Diệu, đã có nhiều ý
kiến khác nhau trong giới phê bình nghiên cứu. Phan Cự Đệ cho đó là
sự thể hiện “triết lý hưởng thụ”, “bộc lộ lối sống ích kỷ cá nhân” và

thiếu sự trân trọng với người yêu. Còn tác giả Uyên Thao thì coi thơ
tình Xuân Diệu là sự biểu hiện một cách đầy đủ tính chất nhục dục
thuần tuý bản năng. Ông cho rằng: “Đối với Xuân Diệu, yêu chỉ là sự
tìm tòi cảm giác, là sự va chạm giữa hai thân xác, nói cho rõ hơn là
sự gặt hái lấy những ân ái hữu hiện”.
Cách đánh giá thơ tình yêu Xuân Diệu khách quan hơn và tránh
được sự thiên lệch là cách đánh giá của nhóm các tác giả: Nguyễn
Hoành Khung, Nguyễn Văn Long, Lưu Trọng Lư, Huy Cận… Nhóm
tác giả này đã khẳng định tính chất trần tục, phê phán “thái độ hưởng
thụ nâng lên thành triết lý” đồng thời cùng nhấn mạnh sắc thái “say
đắm nồng nàn” và coi trọng sự “diễn tả đặc biệt sôi nổi và rạo rực”
của thơ tình Xuân Diệu.
Đặc biệt, Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh khi bàn về thơ tình Xuân
Diệu đã khẳng định: chỉ đến Xuân Diệu, “tình yêu thật sự là tình yêu
mới cất lên tiếng nói thành thực và đầy ý thức của nó trong văn học
ta”. Theo Giáo sư “Tình yêu là tình cảm say mê nhất trong thơ Xuân
Diệu” và với con người luôn luôn mang trong mình “niềm khát khao
giao cảm với đời” ấy thì thơ tình phải là sự “hoà nhịp từ linh hồn đến
thể xác”, “tình yêu của con người trần thế” chứ không phải là thứ tình
yêu thuần tuý tinh thần, thứ tình yêu đã từng bị Ăngghen và Biêlinxki
chế giễu. Giáo sư khẳng định theo cách diễn đạt của Ăngghen: “Xuân
4


Diệu là người đầu tiên trong thơ tình đã biểu hiện tính nhục dục và
những thèm muốn nhục dục thật là lành mạnh và cường tráng”. Ông
“hiểu sự lành mạnh của thơ tình Xuân Diệu ở chỗ nhà thơ không quan
niệm tình yêu chỉ là sự giao cảm xác thịt mà còn là sự giao cảm của
những linh hồn. Mà đấy mới là cái khát vọng cao nhất, cái đích cao
nhất của tình yêu”. Từ đó Giáo sư đi đến kết luận: “Thơ Xuân Diệu

nói giao cảm đầy đủ hơn là nói yêu” [19,206]và khẳng định bi kịch
của thơ tình Xuân Diệu là không tìm được sự đáp ứng đầy đủ niềm
giao cảm mãnh liệt mà tình yêu đòi hỏi.
Thế Lữ - người đầu tiên giới thiệu thơ Xuân Diệu với bạn đọc
cũng đã có những ý kiến chân xác về “nhà thi sĩ mới” này: “Sở dĩ
Xuân Diệu tham lam tình yêu, chất chứa vào lòng không chán, không
đủ là bởi vì thi sĩ rất sợ cô độc”. [32,201]
Cũng chính vì sợ cô độc nên Xuân Diệu luôn “say đắm tình yêu,
say đắm cảnh trời, sống vội vàng cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc
đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng
nàn tha thiết” và Hoài Thanh đã nhận ra: “Thơ Xuân Diệu là nguồn
sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này”[33,106]
Với tình yêu nồng nàn của mình, Xuân Diệu vẫn luôn là người
“sống hết mình cho cuộc sống và cho thơ”. Hà Minh Đức trong bài
viết bàn về vấn đề này đã nhận xét: “Xuân Diệu tha thiết yêu cuộc
sống, anh truyền cả tình cảm ấy cho bạn bè, đấy là ngọn lửa không
ngừng đốt lên ánh sáng trên những trang sách”. Chính vì tình yêu ấy
mà Xuân Diệu sau này mới có “sự giao cảm thực sự” với đời.
[32,139]
5


Trong bài viết “Thơ tình Xuân Diệu” đề tựa cho tập “Đây chùm
thương nhớ”, Huy Cận, một người rất hiểu Xuân Diệu ngoài đời cũng
như trong thơ, đã viết: “Thơ tình của Xuân Diệu thực sự là thơ tình,
tình yêu của những người yêu. Thơ tình Xuân Diệu trước hết nói về
tình nhưng thông qua tình yêu để nói lên cảm xúc sâu thẳm về cuộc
sống, về đời người”.[32,231]
Chúng ta có thể lấy ý kiến sau của Lý Hoài Thu trong bài viết
“Tình yêu và nguồn cảm hứng mới trong thơ Xuân Diệu sau cách

mạng tháng 8 năm 1945” để thay thế cho lời nhận xét tổng kết thơ
tình Xuân Diệu: “Điều đáng quý là Xuân Diệu đã rất nâng niu, trân
trọng tình yêu, biết lấy sự phong phú của tình đời để làm giàu có tâm
hồn mình. Nhờ vậy ông đã luôn giữ được sự thanh xuân trong tâm
hồn và tự hào vì mình là người phát ngôn, sứ giả của tình yêu”.
[54,44]
Ngoài các ý kiến, các bài viết nói trên còn có các công trình
nghiên cứu của một số nhà lý luận phê bình cũng viết về thơ tình
Xuân Diệu nhưng chỉ dưới góc độ thi pháp để khám phá thế giới nghệ
thuật thơ Xuân Diệu ở một giai đoạn sáng tác cụ thể (mà chủ yếu là
trước cách mạng) như: Công trình nghiên cứu khoa học của tác giả Lý
Hoài Thu: “Thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng 8 năm 1945”.
Nghiên cứu một cách tập trung và toàn diện về thế giới nghệ thuật thơ
Xuân Diệu trước cách mạng tháng 8 năm 1945 còn có chuyên luận
của tiến sĩ Lê Quang Hưng (hoàn thành năm 1996).
Tiếp đến là các luận văn, khoá luận viết về Xuân Diệu cũng rất
phong phú về đề tài cũng như số lượng như: “Thơ tình Xuân Diệu”.
(Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Văn Phượng), “Khát khao giao cảm và
6


bi kịch tình yêu trong thơ tình Xuân Diệu” (khoá luận tốt nghiệp của
Nguyễn Hoài Anh).
Tóm lại, Xuân Diệu, thơ tình Xuân Diệu, một hiện tượng đặc
biệt của thơ ca Việt Nam, đã lọt vào mắt xanh của rất nhiều người
nghiên cứu phê bình, những nhà giáo và nghiên cứu sinh cũng như
những sinh viên… Tuy chưa nghiên cứu được một cách toàn diện,
nhưng tất cả những ý kiến đúng đắn và những phát hiện sâu sắc nói
trên của những người đi trước đã có ý nghĩa định hướng và có những
gợi ý cần thiết cho người viết trong quá trình nghiên cứu đề tài của

luận văn này.
2.2. Lịch sử nghiên cứu thơ tình Xuân Quỳnh:
Xuân Quỳnh là nhà thơ sáng tác vào nửa cuối thế kỷ XX. Chị có
một tuổi đời và tuổi nghề tương đối ngắn ngủi (1942-1988). Thế
nhưng Xuân Quỳnh đã có một chỗ đứng vững chắc trong nền văn học
Việt Nam hiện đại. Chị được coi là một nhà thơ nữ xuất sắc của thế kỷ
XX.
Với Xuân Quỳnh, thơ như cuộc sống thứ hai của chị. Thơ là nơi
mở ra cho chị khát vọng đi tìm tình yêu và hạnh phúc trên con đường
tít tắp của cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc, dù sướng vui hay đau khổ, chị
đều đến với thơ để tìm một chốn nương náu bình yên, một điểm tựa
của tâm hồn.
Tính đến nay, các tập thơ của chị, đặc biệt là những bài thơ về
tình yêu đã liên tục được giới thiệu, tuyển chọn và được nhiều bạn đọc
mến mộ. Rất nhiều nhà phê bình nghiên cứu văn học đã tìm đến thơ
Xuân Quỳnh.
7


Ngay từ khi tập thơ đầu tay của Xuân Quỳnh ra đời, Chu Nga,
trong tạp chí văn học số 1 năm 1973, đã coi chị là “một chồi thơ sắc
biếc” đầy hứa hẹn. Và quả thật, từ tác phẩm này đến tác phẩm khác,
gương mặt thơ của Xuân Quỳnh ngày càng trở nên sáng rõ hơn, thân
thuộc hơn với sức quyến rũ riêng của một hồn thơ rất phụ nữ. Càng về
sau những bài thơ của Xuân Quỳnh càng đạt đến độ chín của một
phong cách thơ lắng sâu về những nỗi đau thầm kín của “người đàn
bà yêu và làm thơ” [11,65]. Lại Nguyên Ân có một nhận xét rất chính
xác: “Xuân Quỳnh là hiện tượng rất quan trọng trong nền thơ của
chúng ta. Có lẽ từ Hồ Xuân Hương, qua các chặng phát triển, phải
đến Xuân Quỳnh nền thơ ấy mới lại thấy một nữ thi sĩ mà tài năng và

tâm hồn được thể hiện ở một tầm cỡ đáng kể như vậy, dồi dào, phong
phú như vậy”. [11,207]
Hà Minh Đức, trong một bài viết về lực lượng thơ trẻ,cũng đã
nhận xét: “Xuân Quỳnh đã đến với thơ từ phần riêng tận tình, kỷ niệm
tuổi thơ, từ tình yêu tha thiết của tuổi trẻ và lòng gắn bó với nghề
nghiệp… Xuân Quỳnh tiếp tục vượt qua ranh giới những khó khăn
nhất đối với nhiều cây bút trẻ, từ cái riêng đi vào cái chung…. Thơ
Xuân Quỳnh dần dần trở nên phong phú và có bản sắc hơn. Xuân
Quỳnh luôn chân thật và mềm mại trong cảm xúc, chị nhìn cuộc sống
không đơn giản, một chiều”. Tuy chưa phải là một bài nghiên cứu
chuyên sâu về tác giả song những nhận xét của giáo sư đã nói đúng và
nói trúng về nhà thơ trong thời điểm ấy. Tác giả khẳng định vị trí của
Xuân Quỳnh trong thế hệ nhà thơ trẻ và đặc biệt đã phát hiện ra bản
sắc thơ chị là chân thực về cảm xúc và cái nhìn sâu sắc về cuộc sống.
Từ phần riêng tâm tình với cách nhìn cuộc sống một cách khách quan,
8


tỉnh táo, Xuân Quỳnh có một hướng đi riêng, một bản lĩnh riêng so
với những nhà thơ cùng thời khác.
Nguyễn Xuân Nam khi nghiên cứu về thơ Xuân Quỳnh đã phát
hiện ra “vẻ đẹp thơ Xuân Quỳnh”. Tác giả cho rằng: “Xuân Quỳnh là
nhà thơ nữ mang đậm nữ tính nhất hôm nay”. [11,158]. Vẻ đẹp thơ
Xuân Quỳnh chính là cái hồn nhiên, dịu dàng, đằm thắm, nhân hậu
nhưng không hề vướng mặc cảm cho mình là phái yếu. Thơ của chị
vừa dịu dàng tha thiết, vừa táo bạo mãnh liệt. Và cũng chính sự dung
dị trong hồn thơ của Xuân Quỳnh đã khiến chị trở thành nhà thơ của
hạnh phúc đời thường… Và “đến Xuân Quỳnh, thơ Việt Nam hiện đại
mới có được một tiếng nói bày tỏ trực tiếp những khao khát tình yêu
vừa hồn nhiên, chân thật, vừa mãnh liệt sôi nổi của một trái tim phụ

nữ” [11,166].
“Cảm nhận về thơ Xuân Quỳnh”, Lưu Khánh Thơ xúc động viết:
“Xuân Quỳnh là một tác giả thơ có bản sắc tương đối rõ rệt. Bản sắc
ấy ngày càng dược khẳng định và biểu hiện với nhiều sắc thái qua
mỗi tập thơ… Ngòi bút Xuân Quỳnh đã được thử thách qua thời gian
với những bài thơ tình đã đạt đến đỉnh cao. Dù đi vào những vấn đề
lớn của đất nước hay trở về với những tình cảm riêng tư, thơ Xuân
Quỳnh bao giờ cũng là tiếng nói rất riêng của một tâm hồn phụ nữ
thông minh, sắc sảo, giàu yêu thương… Xuân Quỳnh sống hết mình
với các bài thơ của mình, hay nói đúng hơn, thơ chị chính là đời sống
của chị, là những tâm trạng thật của chị trong mỗi bước vui buồn của
đời sống” [11, 9].
Và đặc biệt với bài “Cánh chuồn trong giông bão”, nhà nghiên
cứu
9


Chu Văn Sơn đã cảm nhận thật tinh tế về “chất thơ từ tổ ấm” trong
Xuân Quỳnh và khẳng định “người đàn bà ấy thực sự được yên ổn khi
sống trong gia đình mình”. Mặt khác, tác giả lại thấy một Xuân
Quỳnh mỏng manh tội nghiệp luôn lo cho đời, trang trải cho đời,
nhưng cuối cùng chẳng nhận lại được bao nhiêu: “Lo âu phải là bản
năng, phải là phẩm chất hàng đầu của một người mẹ, là mẫu tính”.
Và với Xuân Quỳnh “thì lo âu, đó mới thực là điệu hồn” của chị. Thơ
Xuân Quỳnh vì thế luôn có sự cả tin của một người cả lo, vì khao khát
tình yêu, nên Xuân Quỳnh bao giờ cũng khắc khoải không yên. “Với
nỗi niềm ấy Xuân Quỳnh thực sự là người đàn bà của muôn
thuở”[11,126-136].
Đi sâu vào thế giới nội tâm đầy phức tạp của Xuân Quỳnh, tác
giả

Lê Lưu Oanh đã khám phá những “khát vọng nhức nhối”, những “dự
cảm lo âu” qua bài “Đôi điều cảm nhận về Hoa cỏ may” và đi đến
khẳng định “bản chất nữ tính muôn đời của người phụ nữ ấy”: “dù đã
qua bao niềm đau đớn, qua nỗi đau buồn dồn xuống đáy tâm tư,
nhưng tâm hồn chị không trở nên chai sạn, tàn nhẫn, khắc nghiệt mà
vẫn là con người dịu dàng, nhân hậu, sống hết mình, yêu hết mình:
Lòng như trời biếc nguyên sơ
Trái tim như nắng thuở ban đầu …” [11,203]
Nói chung, các nhà phê bình đã nghiên cứu thơ Xuân Quỳnh ở
nhiều phương diện khác nhau: giới thiệu tác giả, điểm sách, đi tìm
những nét phong cách… Qua sự nghiên cứu đó, thấy nổi bật lên phong
cách thơ Xuân Quỳnh: “tự hát về tình yêu” (Lại Nguyên Ân), “giọng
10


thơ ưa phô bày, kể lể, nhắn nhe, tự tình, ví von… gắn bó với lối nghĩ,
lối cảm thông thường” (Nguyễn Hoà Bình)…
Quả thực, tài năng thơ và những tư tưởng, phong cách độc đáo,
mới lạ của Xuân Quỳnh đã trở thành một hiện tượng nghệ thuật độc
đáo cho nhiều nhà nghiên cứu và phê bình văn học bàn luận. Ngoài ra,
còn có nhiều bài viết dưới dạng bình giảng thơ Xuân Quỳnh được
tuyển chọn vào dạy ở trường trung học phổ thông như bài viết của các
tác giả: Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn V¨n Long, Trần Đăng Suyền,
Hà Minh Đức… Bên cạnh những bài viết đã đăng trên báo, trên sách
là các công trình nghiên cứu về đề tài thơ Xuân Quỳnh của các nghiên
cứu sinh, thạc sĩ, các sinh viên làm luận văn tốt nghiệp.
Nhìn một cách bao quát, các tác giả đều khẳng định giá trị và nét
đẹp độc đáo của thơ Xuân Quỳnh, đều phát hiện ra những nét đặc sắc
trong tư tưởng và phong cách nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh. Đồng thời
đề cao giá trị nhân bản, sức sống mãnh liệt với trái tim yêu chân

thành, bao dung và nhân hậu ở nữ sĩ. Các tác giả cũng đều khẳng định
ở Xuân Quỳnh “cái tôi” cá nhân được phát triển cao độ làm nên vẻ
đẹp tâm hồn trong thơ chị.
Như vậy, qua việc điểm lại lịch sử nghiên cứu thơ tình Xuân
Diệu cũng như Xuân Quỳnh, chúng tôi nhận thấy rằng các bài viết,
các công trình nghiên cứu về hai nhà thơ tình này tuy rất phong phú
song chưa có một bài viết nào hoặc công trình nào đặt vấn đề đối
chiếu, so sánh thơ tình của họ về mặt phong cách. Có chăng cũng chỉ
là sự liên hệ so sánh ở một vài khía cạnh rất nhỏ lẻ trong các bài viết
mang tính chất bình văn, giảng văn ở từng tác phẩm cụ thể. Trong khi
đó, một thực tế cho thấy, cùng thành công ở đề tài tình yêu, nhưng
11


Xuân Diệu, Xuân Quỳnh là hai hiện tượng độc đáo khác nhau của Văn
học Việt Nam hiện đại: một người là ông hoàng của thơ tình và một
người là phụ nữ tự hát về tình yêu. Họ là hai phong cách khác nhau
tạo nên hai gương mặt rất riêng. Vì vậy, ở luận văn này, người viết xin
được mạnh dạn đưa ra vấn đề: thử so sánh phong cách thơ tình Xuân
Diệu, Xuân Quỳnh với mong muốn tìm ra được sự khác biệt trong
phong cách của hai nhà thơ cùng viết về tình yêu này.
Để đạt được mục đích nghiên cứu khoa học đó, những ý kiến
đánh giá, những công trình nghiên cứu của người đi trước, tuy chưa có
sự so sánh giữa hai cây bút, vẫn có ý nghĩa gợi ý, định hướng hết sức
quan trọng cho người viết trong quá trình thực hiện đề tài: “Xuân
Diệu, Xuân Quỳnh - hai phong cách thơ tình”.
3. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Thông qua việc tập hợp, khảo sát, phân tích những tác phẩm thơ
tình của Xuân Diệu, Xuân Quỳnh với những nét thống nhất và khác

biệt, phản ánh đặc điểm của hai cây bút thuộc hai thế hệ, hai giới tính,
hai thời đại, từ đó khẳng định những đóng góp quí báu của hai thi sĩ
trên lĩnh vực thơ tình trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Sự nghiệp thơ của Xuân Diệu cũng như của Xuân Quỳnh rất
phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, đáp ứng yêu cầu của đề tài, luận văn
chỉ giới hạn đối tượng khảo sát những tác phẩm của họ thuộc lĩnh vực
thơ tình trước và sau Cách mạng tháng 8 năm 1945.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
12


Để thực hiện được những mục tiêu khoa học nói trên, luận văn
sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:
- Phương pháp phân tích tác phẩm văn học
- Phương pháp tiếp cận hệ thống
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp thống kê, phân loại
Trong đó, phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp phân
tích và phương pháp so sánh được sử dụng như những phương pháp
chủ đạo.
5. NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN:
5.1. Nội dung cơ bản:
Khảo sát thơ tình của Xuân Diệu, Xuân Quỳnh, luận văn làm
sáng tỏ những nội dung chính sau đây:
+ So sánh thơ tình Xuân Diệu, Xuân Quỳnh, đánh giá những đóng
góp của họ như những nhà thơ lớn về thơ tình.
+ So sánh thơ tình Xuân Diệu, Xuân Quỳnh ở giai đoạn sau hôn
nhân.
+ So sánh thơ tình Xuân Diệu, Xuân Quỳnh trong mối quan hệ tình

yêu và nghĩa vụ công dân.
5.2. Đóng góp của luận văn:
Lần đầu tiên luận văn với tính chất là một công trình nghiên cứu
khoa học đã đặt vấn đề so sánh để tìm ra những nét đặc sắc của Xuân
Diệu, Xuân Quỳnh trong lĩnh vực thơ tình.
Qua đó, luận văn mong muốn góp một phần nhỏ vào công tác
nghiên cứu và giảng dạy thơ Xuân Diệu, Xuân Quỳnh nói chung và
thơ tình của họ nói riêng ở các cấp học Phổ thông, Cao đẳng, Đại học.
13


6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chính của luận
văn gồm ba chương sau:
Chương 1: Xuân Diệu, Xuân Quỳnh - hai hồn thơ lớn về tình yêu.
Chương 2: Xuân Diệu, Xuân Quỳnh và giai đoạn “văn xuôi” của
tình yêu.
Chương 3: Xuân Diệu, Xuân Quỳnh - tình yêu và nghĩa vụ công
dân.

14


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
XUÂN DIỆU, XUÂN QUỲNH - HAI HỒN THƠ LỚN VỀ TÌNH
YÊU
Tình yêu vốn là đề tài muôn thuở của thơ ca. Viết về địa hạt tính
ái này có rất nhiều ngòi bút đã thử sức mình và không ít thi sĩ đã thành
công. Nhưng để đạt được tới độ chín và độ lớn như Xuân Diệu, Xuân

Quỳnh thì không phải ai cũng có được. Với ý nghĩa nhân văn cao cả
và những tình cảm nồng ấm, chân thành, mãnh liệt nhất, họ đã xây
dựng được “thương hiệu” khó có thể thay thế được. Nói đến thơ tình,
không ai không nhắc tới thơ tình Xuân Diệu, Xuân Quỳnh. Cũng
không biết từ bao giờ “sóng” và “biển” của Xuân Diệu, Xuân Quỳnh
đã trở thành những biểu tượng lớn về tình yêu muôn thuở, muôn đời
trong tiềm thức mỗi độc giả Việt Nam.
Xuân Diệu, Xuân Quỳnh thực sự là hai hồn thơ lớn về tình yêu.
Đó là chỗ thống nhất của họ. Tuy vậy, ở họ có nhiều nét đặc sắc khác
nhau, bởi họ là hai cá thể, giới tính khác nhau và thuộc hai thế hệ khác
nhau.
1.1. Xuân Diệu, Xuân Quỳnh -Niềm khát khao mãnh liệt trong
tình yêu:
Ai trong mỗi chúng ta khi bước vào tuổi yêu lại không có nỗi
niềm khao khát cháy bỏng riêng cho mình. Bởi tình yêu, tự bản thân
nó, vốn là một tình cảm mãnh liệt, là sự hiến dâng hết mình không
tính toán, là niềm giao cảm tuyệt đối, là sự đòi hỏi tuyệt đối và vô
biên. Đối với tình yêu, có lẽ thơ là hình thức tối ưu để con người có
15


thể bày tỏ lòng mình. Song không phải ai cũng có thể nói lên được nỗi
lòng khao khát ấy của mình bằng thơ một cách dễ dàng và thành công.
Muốn nói được, trước hết, phải có một niềm yêu thật sự chân thành và
mãnh liệt, sau đó phải có một tài nghệ đủ để diễn đạt mọi cung bậc
tinh vi và phức tạp của tình yêu. Khát khao yêu là tư tuởng chủ đạo có
thể bắt gặp ở mọi tác giả viết thơ tình. Thế nhưng chỉ đến Xuân Diệu,
Xuân Quỳnh niềm khát khao trong tình yêu ấy mới thực sự đạt đến độ
mãnh liệt, độ say đắm đến đam mê.Xuân Diệu, Xuân Quỳnh được coi
là hai nhà thơ tình xuất sắc, hai hồn thơ lớn về tình yêu chính vì đã thể

hiện được tình yêu như thế.
Cùng thành công ở đề tài tình yêu, thơ tình Xuân Diệu, Xuân
Quỳnh đều đạt tới độ chín, độ lớn, chín trong cảm xúc, chín trong suy
nghĩ, chín trong cách biểu đạt và lớn ở tầm cao tư tưởng nhân văn.
Tuy nhiên mỗi người vẫn là một cá nhân khác nhau với cách cảm,
cách nghĩ thuộc hai giới tính khác nhau dẫn đến những phương thức
biểu đạt những cung bậc, sắc thái tình yêu khác nhau.
1.1.1. Xuân Diệu - niềm khát khao giao cảm hết mình từ linh hồn
đến thể xác:
Xuân Diệu không phải là người đầu tiên làm nên chiến thắng vẻ
vang của phong trào thơ mới. Khi ông xuất hiện với trái tim si mê và
rạo rực, với hồn thơ Âu hoá táo bạo, thì những cuộc xung đột mới cũ
trong làng thơ đã đi qua. Là người được lựa chọn để giương cao hơn
nữa ngọn cờ Thơ mới, Xuân Diệu đã không phụ công sức của những
người mở đầu, khai phá, mau chóng trở thành đại biểu ưu tú nhất của
một thời đại thơ ca.
16


Quả thực, đến Xuân Diệu, cái tôi tiểu tư sản đã ngang nhiên đòi
hỏi được thoả mãn một cách tối đa những nhu cầu của cuộc sống vật
chất, của những tình cảm, cảm giác phức tạp, mãnh liệt. Có lẽ trong
các nhà thơ mới chưa ai bộc lộ lòng ham sống đến mức thiết tha,
cuồng nhiệt như Xuân Diệu:
“Kẻ đựng trái tim trìu máu đất
Hai tay chín móng bám vào đời”
(Hư vô)
Thế Lữ từng viết về Xuân Diệu trong “lời tựa cho tập Thơ thơ”
xuất bản lần thứ nhất năm 1938: “Lầu thơ ông dựng trên đất của một
tấm lòng trần gian, ông đã không trốn tránh mà còn quyến luyến cõi

trần”. Ví mình như cây kim bé nhỏ mà vạn vật là muôn đá nam châm,
Xuân Diệu luôn ước ao sự hoà hợp khăng khít với thiên nhiên và với
loài người, nhất là những tầng lớp trẻ tuổi, trẻ lòng. Là nhà thơ của
niềm khát khao đến cháy bỏng được giao cảm với đời như vậy nên tất
nhiên Xuân Diệu cũng là nhà thơ của tình yêu.
Nói như Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh thì “tình yêu là tình cảm
say mê nhất trong thơ Xuân Diệu, ông khao khát muốn đuổi kịp và
vượt cả Rông xa về điểm này”. [19,203]. Xuân Diệu là nhà thơ thể
hiện sôi nổi nỗi ham yêu khát sống của mình. Là một “tấm lòng trần
gian” (Thế Lữ), thơ tình Xuân Diệu không còn là những nhớ thương
mơ hồ, lẩn trong sầu mộng nữa. Ông yêu cầu một tình yêu đắm say và
trần tục. Nếu như với Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, tình yêu còn như “bông
hoa phong kín ý yêu đương” thì đến Xuân Diệu, dù “uống tình yêu
dập cả môi” vẫn không nguôi nỗi khát thèm, vẫn cứ “uống xong lại
khát”. Có lúc nhà thơ dường như lạc vào cõi mê cung của ái tình, thấy
17


tình yêu là tất cả lẽ sống của đời người, ngoài tình yêu không có gì
nữa, không cần biết gì nữa:
“Tôi không biết, không biết gì nữa cả
Chỉ yêu nhiều là tôi biết mà thôi .”
Đừng vội kết tội những vần thơ như thế.Tình yêu đích thực phải
say đắm như vậy, và ngôn ngữ của tình yêu bao giờ cũng mang giọng
tuyệt đối như thề:
“Tôi đã yêu từ khi chưa có tuổi
Lúc chưa sinh vơ vẩn giữa vòng đời
Tôi sẽ yêu khi đã hết tuổi rồi
Không xương vóc chỉ huyền hồ bóng dáng”
...“Kẻ đa tình không cần đủ thịt da

Khi chết rồi thì tôi sẽ yêu ma”.
Tình yêu hiểu đúng nghĩa của nó phải là niềm giao cảm mãnh
liệt từ linh hồn đến thể xác. Đó là niềm giao cảm kỳ diệu bậc nhất của
con người. Một mặt tình yêu đòi hỏi con người phải là con người, mặt
khác lại là một cái gì hết sức lý tưởng, hết sức thánh thiện. Hai mặt đó
của tình yêu khôngbao giờ tách rời trong thơ tình Xuân Diệu. Cho nên
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh khẳng định: “Phải đến những năm 30
của thế kỷ XX, với Xuân Diệu, quan niệm tình yêu vừa trần tục vừa lý
tưởng, tình yêu thật sự là tình yêu mới cất lên tiếng nói thành thực và
đầy ý thức của nó trong văn học ta” [19,206]. Bốn câu thơ sau đây đã
thể hiện đầy đủ quan niệm tình yêu đích thực ấy của nhà thơ:
“Trời cao trêu nhử chén xanh êm.
Biển đắng khôn nguôi nỗi khát thèm
Nên lúc môi ta kề miệng thắm
18


Trời ơi ta muốn uống hồn em!”
(Vô biên)
Quan niệm tình yêu mang tính trần tục, trần thế nên Xuân Diệu
tôn thờ vẻ đẹp thân xác đầy xuân tình xuân sắc của người yêu và tạo
nên những câu thơ khoẻ khoắn đầy sức sống:
...

“Em đẹp khi em phồng nét ngực”

...

“Hây hây thục nữ mắt như huyền”


....“Mùa xuân chín ửng trên đôi má”
... “Vòng sẽ khép chiều ôm thân óng ả”
Xuân Diệu không phải chỉ có thơ tình, nhưng tình yêu say đắm ở
ông đã tạo cho nhà thơ một thứ nhãn quan riêng khiến ông nhìn đâu
cũng thấy có sự giao duyên, nhìn đâu cũng thấy đầy tính sắc dục. Từ
hình ảnh rất đỗi thơ mộng trong bài “Thơ duyên”:
“Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền”.
Đến hình ảnh trong bài thơ “Thu” chứa đựng những cảm nhận
hết sức tinh tế của một hồn thơ nhạy cảm:
“Nõn nà sương ngọc quanh thềm đậu
Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì
Hư vô bóng khói trên đầu hạnh
Cành biếc run run chân ý nhi”
hay đến một câu thơ đã được coi là tuyệt bút của Xuân Diệu trong bài
“Vội vàng”:
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
và táo bạo, độc đáo hơn nữa là ham muốn:
“Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”.
19


Đến đây ta đã thật sự hiểu được vì sao Hoài Thanh đã gọi Xuân
Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Với Xuân Diệu thơ
tình có cách diễn đạt khác hẳn các nhà thơ cùng thời và trước đó. Thi
sĩ là người đầu tiên dám diễn đạt tình yêu theo đúng nghĩa tình yêu.
Tất nhiên vẻ đẹp đồng trinh của tâm hồn và vẻ đẹp trần thế của
thân xác trong một bài thơ tình hay luôn như là hai mặt không thể tách
rời trong một trang sách và luôn là vẻ đẹp toàn bích mà thi nhân hằng
hướng tới. Chúng tôi muốn dè dặt đưa ra một nhận xét: Ở một chừng

mực nào đó, thơ tình Xuân Diệu ngời sáng lên vẻ đẹp toàn bích này.
1.1.2. Xuân Quỳnh - niềm khát khao yêu và được yêu:
Là nhà thơ nữ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
của dân tộc, Xuân Quỳnh được biết đến như một nhà thơ xuất sắc về
tình yêu. Cũng như Xuân Diệu, chị đến với tình yêu như để vĩnh viễn
hoá cái hữu hạn của đời người. Song nếu ở ông hoàng thơ tình Xuân
Diệu là cái khát khao tình yêu mãnh liệt đến sôi nổi,ham hố, vồ vập
cña nam giới thì ở Xuân Quỳnh là nỗi khát vọng yêu của một phụ nữ,
sâu lắng, nhẹ nhàng, đằm thắm, tuy nhiên cũng không kém phần mãnh
liệt. Đó là một “cái tôi” luôn luôn tự hát về mình với nhiều cung bËc
đam mê, say đắm và táo bạo.
Trong số những nhà thơ nữ Việt Nam, có lẽ ngoài Hồ Xuân
Hương thì có Xuân Quỳnh là người đàn bà luôn luôn tự hát bằng cả
trái tim đắm đuối trong sóng nhạc của tình yêu. Khi viết “Chồi biếc”
Xuân Quỳnh mới hai mươi tuổi - cuộc đời thật đáng yêu biết bao.
Cảm xúc trong “Chồi biếc” là cảm xúc nguyên sơ của tình yêu ban
đầu vô tư trong trẻo. Vượt lên trên tất cả là tình yêu vĩnh cửu. Thế hệ
nọ nối tiếp thế hệ kia dệt nên những trang đời và những bài ca tình yêu
bất diệt.
20


“Lá vàng rụng xuống
Cho đất thêm màu
Có mất đi đâu
Chồi non lại biếc”
(Chồi biếc)
Những bài thơ của chị là một bản giao hưởng về tình yêu nồng
nàn, tha thiết, không ngừng, không nghỉ, với những con sóng tình dào
dạt. Hãy đọc những vần thơ nồng nhiệt đắm say của chị:

“Và cả anh, anh yêu của riêng em
Khi anh nói yêu em, trái tim em đập chừng mạnh quá
Mạnh đến nỗi em tưởng là nghe rõ
Tiếng tim anh đang đập vì em
Em yêu anh, yêu anh như điên
Em viết những bài thơ tưởng anh là ý tứ”
(Thơ viết cho mình và những người con gái
khác)
Người con gái đang yêu trong thơ Xuân Quỳnh thật là táo bạo.
Để có thể thốt lên cho cả thế giới biết “em yêu anh như điên”, cô gái
phải có một trái tim say đắm đến nhường nào. Khác với người con gái
trong ca dao truyền thống, chỉ biết đợi chờ thụ động như bến đợi
thuyền:
“Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
Cái tôi Xuân Quỳnh là một cô gái hiện đại, mạnh dạn, chủ động
đi tìm tình yêu của mình:
“Núi cao biển rộng sông dài
21


Tôi đi khắp chốn tìm người tôi yêu”
(Thơ viết tặng anh)
Và dám bày tỏ tình yêu của mình mà không hề có mặc cảm bị
chê cười:
“Không sĩ diện đâu nếu tôi yêu được một người
Tôi sẽ yêu anh ta hơn anh ta yêu tôi nhiều lắm
Tôi yêu anh dẫu ngàn lần cay đắng
(Thơ viết cho mình và những người con gái
khác)

Cũng như Xuân Diệu, Xuân Quỳnh thường ví tình yêu với sóng
biển. Và cũng như Xuân Diệu, những con sóng tình của Xuân Quỳnh
cũng không kém phần mãnh liệt:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”.
(Sóng)
Trái tim tự hát của Xuân Quỳnh đã biến thành những con sóng
lúc ồn ào dữ dội, khi lặng lẽ dịu êm,và dù có ở cung bậc nào cũng
thiết tha, rạo rực, say đắm, nồng nàn. Đó là sóng lớn nơi biển cả,
không thể giam mình giữa hai bờ hạn hẹp của dòng sông cho nên:
“Sông không hiểu với mình, sóng tìm ra tận bể”. Đó là sức sống và
khát vọng không lúc nào nguôi, sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp để
đến với biển trời cao rộng. Thật là minh bạch và cũng thật là quyết
liệt. Từ “sông” ra “bể” là cả một hành trình nhận thức không ngừng, là
22


sự đổi thay mạnh mẽ, vừa để kiếm tìm thế giới, vừa để phát hiện chính
mình.
Từ “ngày xưa” đến “ngày sau”, con sóng trong thơ Xuân Quỳnh
đã dội lên điệp khúc tình yêu của muôn đời:
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”.
(Sóng)
Nếu con sóng si tình của Xuân Diệu đã từng khao khát đến
cuồng nhiệt và vồ vập:

“Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em”….
(Biển)
thì với Xuân Quỳnh ta bắt gặp con sóng tình mang nữ tính nên thầm
kín, lắng đọng hơn nhưng thật là da diết. Nó đặt những câu hỏi xoáy
ngược vào tim như một cuộc đối thoại với vũ trụ bao la, với muôn
trùng sóng bể:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
(Sóng)
Đó là sự trăn trở thầm lặng mà nhức nhối - một câu hỏi không
lời đáp vì không thể giải đáp, bởi tình yêu chứa đựng biết bao bí ẩn.
23


Xuân Diệu khi xưa đã từng phải thú nhận như vâỵ: “làm sao cắt nghĩa
được tình yêu?”.
Ở Xuân Quỳnh, tình yêu thể hiện da diết và mãnh liệt nhất là
trong nỗi nhớ.
“Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức.”
(Sóng)
Yêu bao giờ cũng đi liền với nhớ. Với Xuân Diệu, yêu hay nhớ
cũng đều cuồng nhiệt, hăm hở:
“Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh.
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!”

Với Xuân Quỳnh, nỗi nhớ không bộc lộ ra ngoài, nhưng là một
nỗi thao thức không yên. Tình yêu mãnh liệt vượt qua cả bản thân
mình. Với Xuân Quỳnh, tình yêu nuôi dưỡng và chăm sóc tâm hồn, cơ
thể chị. Không gặp nhau, không được ở gần nhau thì trái tim đau buốt,
quay quắt đến “bạc đầu thương nhớ” và trong lòng nỗi đau khổ, bão
tố trào dâng. Bởi vậy nữ sĩ yêu hết mình, yêu như chưa từng yêu bao
giờ, như gió như giông, như đắm như chìm đến mức chị phải bật lên
tiếng tự thú về nỗi khao khát cháy bỏng của mình: “lòng em nhớ đến
anh, cả trong mơ còn thức”.Bất chấp qui luật của thông thường, nó len
vào và đánh thức cả những giấc mơ. Nó trải dài theo thời gian, mở
rộng khắp không gian. Dù ở nơi đâu, phương Nam hay phương Bắc,
vào bất cứ lúc nào, nỗi nhớ cũng thể hiện lòng thuỷ chung như nhất
“hướng về anh một phương”. Cảm xúc dồn nén, nỗi khao khát dâng
24


lên đến tột cùng, Xuân Quỳnh ước được cùng tan ra với sóng, để cất
lên tiếng hát tình yêu ngàn năm của mình:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
(Sóng)
Tình yêu mãnh liệt của Xuân Quỳnh đã tạo nên những hình ảnh
thật dữ dội:
“Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau rạn vỡ
Nếu từ giã thuyền rồi

Biển chỉ còn sóng gió
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố”
(Thuyền và Biển)
Yêu mãnh liệt nên nữ sĩ rất sợ những khung cảnh bình yên,
vắng lặng:
“Tôi sợ mầu trời sau khung cửa bình yên
Con đường vắng người đi và rừng cây lặng gió
Tôi yêu những dòng sông mùa nước lũ
Sau phá phách ngàn đời vẫn là lượng phù sa”
Nguyễn Du ngày xưa nói về khối tình bất vong, bất diệt, uất kết
đến đau đớn trong lòng Kiều: “Khối tình mang đến tuyền đài chưa
25


×