Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Phong cách thơ Phạm Tiến Duật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (769.15 KB, 126 trang )

Đại học thái nguyên
TRNG I HC S PHM




Nguyễn Thị Thung






Phong cách
thơ Phạm Tiến Duật





Luận văn thạc sĩ văn học

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34








Thái Nguyên - 2008
Đại học thái nguyên
TRNG I HC S PHM




Nguyễn Thị Thung






Phong cách
thơ Phạm Tiến Duật





Luận văn thạc sĩ văn học

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34


Ngi hng dn khoa hc: Pgs. ts. vũ văn sỹ






Thái Nguyên - 2008

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sự nghiệp văn chương của Phạm Tiến Duật khởi từ tuyến đường
mòn vận tải Trường Sơn 559, con đường huyền thoại mang tên Hồ Chí
Minh trong cuộc chiến tranh chống Mỹ của dân tộc. Thơ Phạm Tiến Duật
"đã lưu lại trong lịch sử dân tộc dấu mốc sáng tạo của thơ trữ tình Việt
Nam trên hành trình đi tìm cái đẹp từ trong các sự kiện và in đậm chất sử
thi của một thế kỷ đầy biến động".
Là một gương mặt độc đáo của văn học Việt Nam 1945 - 1975, Phạm
Tiến Duật đã góp phần sáng tạo một thứ ngôn ngữ thơ thô nhám, gân guốc và
được đánh giá là một tác giả tiêu biểu của nền thơ chống Mỹ.
Phạm Tiến Duật cũng là một trong những nhà thơ Việt Nam được chọn
lọc đưa vào giảng dạy ở nhà trường phổ thông. Nhiều bài thơ nổi tiếng của
nhà thơ Trường Sơn đã để lại như: Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Nhớ,
Lửa đèn, Gửi em cô thanh niên xung phong... có lẽ sẽ còn in đậm trong ký ức
lịch sử; bồi đắp cho thế hệ sau lòng yêu nước và tự hào dân tộc.
Thơ Phạm Tiến Duật làm chúng ta như sống lại không khí của những năm
tháng hào hùng, gian khổ nhưng hết sức lạc quan của cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước. Thơ ông gieo vào lòng người đọc niềm tin tưởng ở những phẩm
chất tốt đẹp, vững bền của con người Việt Nam trước những thử thách lịch sử.
Đó là những lý do mà chúng tôi chọn đề tài Phong cách thơ Phạm Tiến
Duật để nghiên cứu. Luận văn muốn khẳng định những giá trị thẩm mỹ cao cả

và lâu bền của thơ trữ tình cách mạng nói chung và thơ Phạm Tiến Duật nói
riêng một cách cụ thể trong quá trình đổi mới văn học.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Phạm Tiến Duật có thơ đăng báo từ đầu những năm 60 của thế kỉ XX,
nhưng thơ ông lúc này vẫn còn lẫn trong thơ nhiều người. Phải đến cuộc thi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
thơ do báo Văn nghệ tổ chức vào năm 1969 -1970, ông mới thực sự ghi được
tên tuổi của mình vào làng thơ Việt Nam. Chùm thơ đoạt giải nhất của ông
gây được ấn tượng mạnh mẽ với độc giả về một phong cách thơ rất lạ. Bắt
đầu từ đây, nhiều cây bút, nhiều nhà phê bình, nghiên cứu văn học đã quan
tâm đánh giá thơ ông. Một trong những bài viết đầu tiên về thơ Phạm Tiến
Duật là Giữa chiến trường nghe tiếng bom rất nhỏ (Tạp chí Văn nghệ Quân
đội, số 10, 1970 của Nhị Ca). Nhị Ca cho rằng chùm thơ được giải bốn bài
của Phạm Tiến Duật thực sự gây được ấn tượng với độc giả về một phong
cách thơ "rất lạ", lạ từ chất liệu, thi liệu đến giọng điệu. Ông chỉ ra rằng, đây
là một hồn thơ "được nuôi dưỡng bằng chất liệu sống thực, tươi trẻ thở hết
không khí mặt trận dữ dội và tự tin, có thời gian ngẫm nghĩ về cuộc chiến đấu
quyết liệt, dũng cảm". Nhị Ca cũng rất quan tâm đến việc tạo dựng câu thơ,
một trong những yếu tố làm nên sự mới mẻ của Phạm Tiến Duật so với các
nhà thơ khác là "dáng dấp xốc vác, xô bồ, cứng cáp hơn, như hạt gạo đỏ đồng
chiêm vừa chắc dạ, vừa béo ngọt". Bên cạnh đó, Nhị Ca đã có ý kiến nhận xét
khá xác đáng về những thành công cũng như hạn chế qua việc phân tích một
số bài thơ tiêu biểu của tập Vầng trăng quầng lửa.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu (trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 7,
1972) có bài Người viết trẻ giữa cánh rừng già cho rằng: "Sự xuất hiện của
Phạm Tiến Duật đã làm xôn xao đời sống thơ ca vốn có. Thơ Phạm Tiến Duật
đã cổ vũ cho cuộc chiến đấu theo cách riêng của mình và đã đón nhận được

sự quan tâm đặc biệt từ nhiều phía".
Dưới quan điểm văn nghệ phục vụ chính trị như vậy, nhà nghiên cứu văn
học Nguyễn Ngọc Thiện với bài viết Chỗ mạnh và chỗ yếu trong thơ Phạm
Tiến Duật (in trên Tạp chí Văn học, số 4, 1974) đã khẳng định: "hồn thơ Phạm
Tiến Duật phóng khoáng, rộng mở, cái đẹp của cuộc sống chiến đấu đi vào thơ
ông tự nhiên và rất thật". Ông cho rằng, thơ Phạm Tiến Duật "là tiếng nói khoẻ
khoắn, đôn hậu, bắt nguồn trực tiếp từ cuộc sống chiến đấu sôi nổi mà hào
hùng của dân tộc". Bên cạnh đó, Nguyễn Ngọc Thiện cũng phê phán một số bài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
thơ như Qua một mảnh trời thành phố Vinh, Vòng trắng...mà trong điều kiện
chiến tranh được coi là có tư tưởng lệch lạc làm yếu sức mạnh của cộng đồng.
Và từ góc nhìn vận động và phát triển của thơ ca dân tộc, nhà thơ, nhà
phê bình Vũ Quần Phương trong bài Một đóng góp của dòng thơ quân đội
vào nền thơ Việt Nam (trong Tạp chí Văn học, số 6, 1979) đã chỉ ra sự kế thừa
những kinh nghiệm của thơ ca dân gian trong thơ Phạm Tiến Duật. Theo Vũ
Quần Phương, điều đó khiến cho thơ Phạm Tiến Duật "đầy rẫy những chi tiết
đời sống đánh Mỹ chính xác, cụ thể như hiện vật trong bảo tàng...". Năm năm
sau, năm 1985, Vũ Quần Phương phát triển bài viết thành bài nghiên cứu tác
giả Phạm Tiến Duật trong cuốn Nhà thơ Việt Nam hiện đại (Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 1985), với tư cách là một nhà thơ trẻ tiêu biểu của nền thơ trữ
tình cách mạng.
Năm 1986, Đỗ Trung Lai cũng có một bài viết rất công phu với nhan đề
Một chặng đường thơ Phạm Tiến Duật (Tạp chí Văn học, số 4, 1986) đã đánh
giá, tổng kết giai đoạn sáng tác trong chiến tranh của Phạm Tiến Duật. Nhà
văn đã khẳng định vai trò của thực tiễn chiến tranh đối với sáng tác của Phạm
Tiến Duật.
Một công trình nghiên cứu tương đối toàn diện về thơ Phạm Tiến Duật

là của Trần Đăng Xuyền trong cuốn Lịch sử văn học Việt Nam, tập III (Nxb
Đại học Sư phạm I, 2002). Tác giả công trình đã giới thiệu tiểu sử, con người
nhà thơ. Ông cho rằng "Vùng thẩm mĩ" của thơ Phạm Tiến Duật là rừng
Trường Sơn. Tác giả đặc biệt quan tâm đến phong cách thơ Phạm Tiến Duật
là tính chất trẻ trung, giọng thơ ngang tàng, sự xô bồ, rậm rạp mà khái quát
của chi tiết, ngôn ngữ sinh hoạt ùa vào trong thơ. Cũng như nhiều nhà nghiên
cứu khác, tác giả Trần Đăng Xuyền vẫn mong đợi một sự đổi mới của nhà thơ
Phạm Tiến Duật để thơ ông có thể đến được, hoà nhập với cuộc sống mới.
Bài nghiên cứu mới nhất gần đây về Phạm Tiến Duật của Vũ Văn Sỹ, in
trước ngày mất của Phạm Tiến Duật với nhan đề Phạm Tiến Duật, người "chứa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
được Trường Sơn nhiều nhất"...(trong Tạp chí Nhà văn, số 12, 2007). Vũ Văn
Sỹ đánh giá cao vị trí của Phạm Tiến Duật trong hành trình thơ trữ tình cách
mạng. Ông cho rằng "Thơ Phạm Tiến Duật đã lưu lại trong lịch sử văn học dấu
mốc của thơ trữ tình Việt Nam trên hành trình đi tìm cái đẹp trên các sự kiện và
biến cố in đậm chất sử thi của một thế kỉ đầy biến động."
Cùng với những bài viết trên, có thể kể đến các bài của Thiếu Mai, Mai
Hương, Hồ Phương, Hoàng Kim Ngọc... đăng tải trên các báo và tạp chí.
Phạm Tiến Duật cũng từng được nhắc đến và giới thiệu trong các công trình
tiểu luận và nghiên cứu như Dọc đường văn học (Nxb Văn học, H, 1996);
Nhà văn Việt Nam thế kỉ XX, tập III (Nxb Hội nhà văn, H, 2000); Từ điển tác
giả văn học Việt Nam thế kỉ XX (Nxb Hội nhà văn,H, 2003). Hầu hết các cuốn
sách đều tập trung phân tích, nghiên cứu những giá trị mới mẻ mà nhà thơ
Phạm Tiến Duật đưa lại.
Nhìn chung, các bài viết và các công trình nghiên cứu về Phạm Tiến
Duật đều cho rằng, đó là một hiện tượng lạ của thơ ca Việt Nam. Sự xuất hiện
của Phạm Tiến Duật trên thi đàn đã làm cho thơ ca của thế hệ trẻ thời chống

Mỹ có vị trí và có cá tính.
Trong công trình này, chúng tôi kế thừa các ý kiến gợi ý của những
người đi trước, tập trung phân tích Phong cách thơ Phạm Tiến Duật một
cách có hệ thống, có tính thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình
tượng và phương thức nghệ thuật nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác
của Phạm Tiến Duật.
3. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Như đã nói ở phần trên, đối tượng nghiên cứu của Luận văn này là tính
thống nhất của các yếu tố chỉnh thể trong tác phẩm - sự biểu hiện của tính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
nghệ thuật thơ Phạm Tiến Duật như là một nét riêng, nét lặp lại hữu hình và
có thể tri giác được trong sáng tác của nhà thơ.
3.2. Nhiệm vụ của Luận văn
- Thứ nhất: Làm sáng tỏ nhận thức về phong cách nghệ thuật nói chung
để làm định hướng khi tìm hiểu về phong cách thơ Phạm Tiến Duật.
- Thứ hai: Thông qua toàn bộ sáng tác, phân tích hệ thống hình tượng
trữ tình, lí giải thế giới nghệ thuật và các phương thức thể hiện đem lại ấn
tượng khi đọc thơ Phạm Tiến Duật, khẳng định phong cách thơ Phạm Tiến
Duật trong nền thơ hiện đại Việt Nam.
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Trong Luận văn, chúng tôi vận dụng phương pháp thống kê, phân
tích, tổng hợp, so sánh và đối chiếu.
- Đồng thời, chúng tôi sử dụng phương pháp liên ngành như văn học
sử, ngôn ngữ học và thi pháp học.
- Luận văn cũng quán triệt quan điểm lịch sử trong suốt quá trình lí giải
về đối tượng nghiên cứu.

5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Nhiều nhà nghiên cứu và phê bình văn học đã đề cập đến các khía cạnh
thi pháp thơ Phạm Tiến Duật, nhưng chúng tôi hi vọng rằng đây là Luận văn
đầu tiên nghiên cứu Phong cách thơ Phạm Tiến Duật một cách có hệ thống.
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận văn có 3 chương:
Chương 1: Phạm Tiến Duật và thế hệ trẻ thơ chống Mỹ.
Chương 2: Hệ thống hình tượng trữ tình trong thơ Phạm Tiến Duật.
Chương 3: Sự độc đáo của nghệ thuật biểu hiện trong thơ Phạm Tiến Duật.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
Chƣơng 1
PHẠM TIẾN DUẬT VÀ THẾ HỆ TRẺ THƠ CHỐNG MỸ
Thơ Phạm Tiến Duật dù độc đáo nhưng cũng không nằm ngoài dòng
chảy của lịch sử văn học của thế kỷ. Một thời kỳ mà do những yêu cầu chung
của lịch sử, thơ ca dù tự giác hay không tự giác đều hướng đến sự khám phá
những giá trị tinh thần sử thi của thời đại. Chúng tôi nhận thức rằng, nghiên
cứu phong cách nghệ thuật thơ Phạm Tiến Duật không thể tách rời thành tựu
thơ chống Mỹ.
Trong chương này, trước hết chúng tôi làm sáng tỏ nhận thức của mình
về khái niệm phong cách làm định hướng, từ đó tìm hiểu khái quát về thơ trẻ
chống Mỹ nói chung, trong đó có thơ Phạm Tiến Duật.
1.1. KHÁI NIỆM PHONG CÁCH
Có nhiều cách diễn đạt khác nhau bàn về phong cách. Trong Luận văn
này, chúng tôi thống nhất theo cuốn Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán,
Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên: "Phong cách nghệ thuật là một
phạm trù thẩm mĩ, chỉ sự thống nhất tƣơng đối ổn định của hệ thống
hình tƣợng, của các phƣơng tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn

độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong
trào lƣu văn học hay văn học dân tộc" [13; 207 - 208].
Trong nghĩa rộng, phong cách là nguyên tắc xuyên suốt trong việc xây
dựng hình thức nghệ thuật, đem lại cho tác phẩm tính chỉnh thể có thể cảm
nhận được một giọng điệu và một sắc thái thống nhất. Với ý nghĩa này, người
ta có thể phân biệt được phong cách lớn như phong cách thời đại, phong cách
trào lưu, phong cách dân tộc, phong cách cá nhân của tác giả.
Phong cách là quy luật thống nhất các yếu tố chỉnh thể nghệ thuật, là
một biểu hiện của tính nghệ thuật. Không phải bất cứ nhà văn nào cũng có
phong cách mà chỉ có những nhà văn có tài năng, có bản lĩnh mới có phong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
cách độc đáo. Cái nét riêng đó thể hiện ở tác phẩm và được lặp đi lặp lại làm
ta có thể phân biệt được tác giả này với tác giả khác. Cái riêng tạo nên sự
thống nhất lặp lại ấy biểu hiện tập trung ở cách cảm nhận độc đáo về thế giới
và ở hệ thống bút pháp nghệ thuật phù hợp với cách cảm nhận của nhà văn.
Nghiên cứu về phong trào Thơ Mới (1932-1945), chúng ta thấy nguyên
tắc xuyên suốt mà các thi sĩ tập trung vào để xây dựng hình tượng nghệ thuật
là đi tìm cái đẹp, khám phá cái đẹp ở bề sâu cái tôi cá nhân. Ta luôn bắt gặp
trong Thơ Mới một cái "tôi" ở vị trí trung tâm cảm hứng, giãi bày, thổ lộ.
"Tôi" chỉ là một khách tình si. "Tôi" chỉ là một kiếp đi hoang. "Tôi" là một cô
hồn. "Tôi" là con chim đến từ núi lạ. "Tôi" là kẻ lạc loài. "Tôi" là chiếc
thuyền say ... "Tôi" trở thành nguyên tắc cắt nghĩa thế giới một cách riêng tư.
Cả tạo vật chỉ là sự phản chiếu của một cái "tôi" tự ý thức về tồn tại của mình,
thế hệ mình. Thế giới cái "tôi" mang lại những giá trị thẩm mĩ mới nhưng
thường là cô đơn, u sầu, lắm khi còn đau đớn, tuyệt vọng. Thế giới Thơ Mới
hoàn toàn đồng nhất vào cái "tôi", một cái "tôi" bao trùm tất cả.
Ở thơ trữ tình cách mạng, đặc biệt là thơ trẻ thời chống Mỹ, các nhà thơ

không đi tìm vẻ đẹp ở cái tôi trong con người cá nhân nữa mà chủ yếu tập
trung khai thác giá trị cao cả trong cuộc sống thường nhật, cuộc sống chiến
trường; đi tìm vẻ đẹp của con người trong các mối quan hệ đa dạng với xã
hội, với cộng đồng, dân tộc. Con người thực sự được khẳng định phẩm chất
cách mạng của mình trong các mối quan hệ ấy.
Như vậy, trong các sáng tác của một nhà văn (nhà thơ), cái riêng tạo
nên sự thống nhất lặp lại ấy biểu hiện tập trung ở cách cảm nhận độc đáo về
hệ thống hình tượng, về thế giới và hệ thống bút pháp phù hợp với cách cảm
nhận ấy. Ngoài thế giới quan, những phương diện tinh thần khác như tâm lí,
sinh lí, cá tính, xu hướng đều có ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành của
phong cách nhà văn, nhà thơ. Từ đó có thể thấy rằng, muốn tìm hiểu phong
cách tác giả, ta cần đặt các tác phẩm của tác giả trong khuynh hướng sáng tác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
chung. Trước khi đi sâu vào tìm hiểu tính thống nhất của các yếu tố chỉnh thể
trong tác phẩm - sự biểu hiện của tính nghệ thuật trong thơ Phạm Tiến Duật,
trước tiên, Luận văn muốn trình bày những nét khái quát nhất về thơ trẻ
chống Mỹ nói chung trong đó có thơ Phạm Tiến Duật.
1.2. THẾ HỆ CÁC NHÀ THƠ TRẺ THỜI CHỐNG MỸ
Văn học Việt Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước (1964-1975) có một vị
trí quan trọng trong lịch sử văn hoc dân tộc. Đây là thời kì văn học phát triển
rực rỡ trên nhiều thể loại để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình: Làm cuốn
"biên niên văn học" về cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc. Trong sự
phát triển đó, thơ chống Mỹ, nhất là thơ của các nhà thơ trẻ thời kỳ này đã
gây được sự chú ý đặc biệt, nhanh chóng trưởng thành, đạt được nhiều thành
tựu xuất sắc. Người ta sẽ không thể hình dung một cách đầy đủ diện mạo và
đóng góp to lớn của nền thơ chống Mỹ nếu thiếu vắng mảng thơ của các cây
bút trẻ xuất hiện thời kỳ này.

Thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ là một hiện tượng rất đáng chú ý của văn học
hiện đại Việt Nam, đánh dấu sự xuất hiện, trưởng thành của một thế hệ nhà
thơ và bước phát triển mới của nền thơ ca chiến tranh và cách mạng.
1.2.1. Sự xuất hiện của thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cứu nƣớc
Từ tháng 8 năm 1964, khi đế quốc Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh ra
miền Bắc, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bước sang
một giai đoạn mới gay go, căng thẳng và vô cùng ác liệt. Phản ánh kịp thời và
động viên chiến đấu, sản xuất, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một trong những
nhiệm vụ hàng đầu của nền văn học nói chung và thơ ca nói riêng trong thời
kỳ chống Mỹ. Đó không chỉ là đòi hỏi cả thời đại mà còn là sự thôi thúc bên
trong của chính các nhà thơ. Nhanh nhạy và kịp thời, nền thơ hiện đại nóng
bỏng tính thời sự, hừng hực tinh thần chiến đấu của chúng ta đã "nhập cuộc"
tham gia vào cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của toàn dân tộc. Suốt trong
những năm tháng chiến tranh, các thế hệ nhà thơ đã tiếp bước nhau dàn quân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
trên những mặt trận với cảm hứng chủ đạo là thể hiện khát vọng độc lập tự do
và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con người Việt Nam trong thời đại
chống Mỹ.
Nền thơ chống Mỹ được hình thành từ nhiều thế hệ nhà thơ: Thế hệ nhà
thơ xuất hiện từ trước Cách mạng (Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy
Cận, Tế Hanh...), thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ chống Pháp (Chính
Hữu, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông...) và thế hệ nhà thơ ra đời trong
thời kỳ chống Mỹ. Mỗi thế hệ nhà thơ nói trên đều có thế mạnh riêng và có
những đóng góp đáng ghi nhận đối với nền thơ chống Mỹ. Chỉ trong vòng mười
năm, nền thơ chống Mỹ đã liên tiếp xuất hiện một đội ngũ những gương mặt thơ
trẻ như Thái Giang, Nguyễn Mỹ, Bằng Việt, Lê Anh Xuân, Dương Hương Ly,
Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Vũ Quần Phương, Phan Thị Thanh Nhàn,

Nguyễn Khoa Điềm, Bế Kiến Quốc, Nguyễn Đức Mậu, Vương Trọng, Nguyễn
Duy, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Hoàng Nhuận Cầm, Trần Đăng Khoa, Ý Nhi,
Lâm Thị Mỹ Dạ....Đó là những gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ thời kỳ chống
Mỹ.
Thuộc lớp người phần lớn được sinh ra từ sau Cách mạng, được trau
dồi tri thức văn hoá trong nhà trường của chế độ mới, nhiều nhà thơ thuộc thế
hệ các nhà thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cứu nước đã từ cánh cửa nhà trường đi
thẳng tới chiến trường cầm súng chiến đấu. Hiện thực đời sống những năm
tháng chống Mỹ, ngọn lửa chiến tranh cách mạng đã tôi luyện họ thành những
con người vững vàng trong cuộc sống, có bản lĩnh trong nghệ thuật. Sáp mặt
với thực tế chiến tranh, những nhà thơ trẻ thời chống Mỹ tự ý thức sâu sắc về
vị trí, vai trò của thế hệ mình. Trong thực tế, các nhà thơ trẻ chỉ thực sự khẳng
định được vị trí của mình trong nền thơ chống Mỹ khi họ có một sự thống
nhất chung cao độ của cả một thế hệ, có cách nhìn riêng, có giọng điệu riêng
khi viết về cuộc chiến tranh. Các nhà thơ trẻ một mặt có ý thức kế thừa,
nhưng mặt khác chính điều kiện sáng tác giàu chất sử thi ấy đã tạo ra tiếng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
nói riêng, giọng điệu riêng cho thế hệ của họ. Như những mầm cây có sức
sống mãnh liệt không gì tàn phá nổi, trong hoàn cảnh ác liệt của chiến tranh,
một thế hệ trẻ thời kỳ chống Mỹ đã vượt lên tự khẳng định mình, vừa tiếp nối
truyền thống của các thế hệ trước, vừa có sáng tạo độc đáo làm nên những nét
riêng của cả một giai đoạn thơ ca.
1.2.2. Các chặng đƣờng thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cứu nƣớc
Nhìn tổng quát, thơ trẻ chống Mỹ cứu nước là một dòng chảy liên tục,
nhưng mỗi bước phát triển mang dấu ấn phong cách riêng và có thể chia làm
ba chặng đường:
1.2.2.1. Chặng đường thứ nhất: từ 1964 đến 1968

Ở chặng đường đầu tiên này, đội ngũ những nhà thơ trẻ bước đầu được
khẳng định với sự xuất hiện của những cây bút như Bằng Việt, Xuân Quỳnh,
Lưu Quang Vũ, Lê Anh Xuân, Nguyễn Mỹ, Dương Hương Ly, Phạm Ngọc
Cảnh, Vũ Quần Phương, Lữ Huy Nguyên, Cảnh Trà, Vương Trọng...Những
nhà thơ trẻ này, lúc đầu được tập hợp và giới thiệu trong tập thơ Sức mới,
(1965, Nxb Văn học, Hà Nội). Nhà thơ Chế Lan Viên viết tựa cho tập thơ đã
biểu dương "Điều đáng yêu nhất của tập thơ này là nó nồng ấm cái hơi thở
của cuộc sống, của chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc nước ta". Nhìn chung, thơ
của các nhà thơ trẻ chặng đường này vừa trẻ trung tươi tắn, vừa bồng bột sôi
nổi. Các tác giả đều chọn lọc chất liệu cuộc sống theo hướng thi vị hoá. Cảm
xúc trong thơ họ vừa mang đậm màu sắc lí tưởng, ít nhiều còn vương dấu vết
của sách vở nhà trường. Những mô típ quen thuộc trong thơ chặng đường này
thường là những buổi chia tay, những đêm hành quân, những dự cảm vào
cuộc vv... thể hiện khát vọng ra trận của tuổi trẻ thời đại chống Mỹ.
Thơ của những nhà thơ trẻ chặng đường này rưng rưng cảm xúc, thấm
đậm chất trữ tình, chứa chan chất men say nồng của tuổi trẻ. Họ nói tới khao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
khát của thế hệ trẻ được cầm súng trực tiếp chiến đấu bằng một cảm xúc chân
thành, trong sáng nhất:
Ôi ta thèm được cầm khẩu súng
Đi giữa đoàn quân cùng với bạn bè
Nằm chờ giặc trên quê hương anh dũng
Ta cay nồng mùi lá rụng bờ tre.
(Gửi Bến Tre - Lê Anh Xuân)
Những năm đầu của cuộc chiến tranh, thơ của các nhà thơ trẻ còn bồng
bột, mang cái nhìn lãng mạn. Hình ảnh thế hệ trẻ cầm súng chỉ thấp thoáng
trong thơ họ. Có chăng đó chỉ là hình ảnh những bước chân du kích, những

anh giải phóng quân:
Phía trước chúng tôi cả miền Nam ruột thịt
Đang hành quân mải miết đêm ngày
Bước chân biểu tình, bước chân du kích
Anh giải phóng quân, đuổi giặc không giầy.
(Hành quân - Lữ Huy Nguyên)
Thơ chặng đường này, các nhà thơ hay nói tới những cuộc chia ly đầy
lưu luyến và lãng mạn:
Nào đâu phải người đi không lưu luyến
Mắt người trong như nước giếng ban đầu
Mảnh trăng liềm nghiêng một nỗi nhớ nhau.
(Lưu Quang Vũ)
Và những cuộc chia ly thấm đẫm tinh thần lạc quan của thời đại:
Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ
Tươi như cánh nhạn lai hồng.
(Cuộc chia ly màu đỏ - Nguyễn Mỹ)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Thơ trẻ chặng đường này thường nói đến những đêm hành quân với
một niềm vui háo hức, hăm hở, đầy tin tưởng: "Đường nào vui bằng đường ra
trận tuyến", "Ta náo nức như suối về sông biển" (Lưu Quang Vũ). Cái nhìn
lãng mạn, lí tưởng hoá, thi vị hoá cũng rất đậm trong thơ Lê Anh Xuân ở
chặng đường này:
Em đẹp lắm như mùa xuân bừng dậy
Súng trên vai cũng đẹp như em
Em ơi! Sao tóc em thơm vậy
Hay là em vừa đi qua vườn sầu riêng
Ta yêu giọng em cười trong trẻo

Ngọt ngào như nước dừa xiêm
Yêu dáng em đi qua cầu tre lắt lẻo
Dịu dàng như những nàng tiên.
Trong những năm cuối của chặng đường thứ nhất, thơ trẻ bắt đầu giàu
có thêm nhờ chất suy nghĩ và khả năng khái quát. Tuy nhiên, về cơ bản, sự
từng trải, sự chiêm nghiệm cá nhân, sự lắng đọng trong suy tư còn ít thấy
trong thơ của những nhà thơ trẻ chặng đường này. Không khí của cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước đã được gợi lên một phần trong thơ của các nhà thơ
trẻ nhưng hiện thực nóng bỏng của cuộc chiến đấu chưa nhiều ở các trang thơ.
Hình ảnh con người và thời đại chống Mỹ chủ yếu được nhấn mạnh ở cái
thanh tao, đường hoàng, cái thơ mộng của cuộc sống và con người trong lửa
đạn: một tiếng gà trưa, nụ cười, tiếng hát, nhịp đập bình yên của trái tim con
người làm nổi bật "cái yên trong cái động", "sự sống át cái chết", cái bình
thản tự tin của một dân tộc gan góc, bất khuất, kiên cường.
Nhìn chung, các tác giả thơ trẻ chặng đường này đều có khuynh hướng
đi tìm chất thơ trong mảng đời sống trong trẻo của chiến tranh. Nhưng thơ
chặng đường này đã tạo tiền đề hết sức quan trọng cho sự phát triển của thơ
trẻ chống Mỹ ở những chặng đường sau.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
1.2.2.2. Chặng đường thứ hai: từ 1969 đến 1972
Cùng với những tác giả xuất hiện ở chặng thứ nhất, đến chặng thứ hai
này đội ngũ thơ trẻ được bổ sung thêm nhiều cây bút tài năng khác như Phạm
Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Vương Anh, Bế Kiến Quốc, Phan Thị Thanh
Nhàn, Vương Trọng.... Chính sáng tác của những nhà thơ trẻ này đã góp phần
quan trọng đưa nền thơ chống Mỹ phát triển đến đỉnh cao, làm thay đổi bộ
mặt của cả nền thơ chống Mỹ. Ở chặng đường này, những nhà thơ trẻ đã thực
sự khẳng định được tiếng nói riêng của thế hệ mình qua những vần thơ giàu

chi tiết chân thực, sinh động như còn vương bụi đất chiến trường và mùi khói
lửa đạn bom, mang khí thế hừng hực của cuộc chiến đấu.
Nếu ở chặng đường trước, những nhà thơ trẻ có khuynh hướng đi tìm
chất thơ trong mảng hiện thực đời sống có vẻ nên thơ, trong trẻo thì ở chặng
đường này, họ có khuynh hướng đi tìm chất thơ trong các mảng hiện thực trần
trụi, thô nhám, dữ dội, đầy ác liệt của cuộc sống chiến trường. Cảm hứng thơ
vì thế càng trở nên mãnh liệt, sôi nổi, khác hơn ở chặng đường trước.
Thơ trẻ trong chặng đường này có xu hướng vươn tới tầm khái quát
những mảng hiện thực lớn của cuộc chiến tranh chống Mỹ với những sắc thái
dữ dội, ác liệt của nó, làm ngời sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng của thế
hệ trẻ trong thời đại chống Mỹ. Những chi tiết chân thực của đời sống chiến
trường ùa vào các trang thơ. Không khí sôi sục của những năm tháng chống
Mỹ được truyền vào các bài thơ. Đời sống thực của người lính được thể hiện
chân thực trong thơ Phạm Tiến Duật, Nguyễn Đức Mậu, Hoàng Nhuận
Cầm....Chưa bao giờ hình ảnh thế hệ trẻ sống, chiến đấu giữa chiến trường lại
được thơ tập trung khắc hoạ đạt được tính chân thực cao như thơ trẻ chống
Mỹ. Đó là những người lính lái xe, chiến sỹ công binh, anh bộ đội coi kho, cô
thanh niên xung phong, cô gái giao liên:
... Đi qua hầu hết tuổi thanh xuân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
Để lại trong rừng những gì quý nhất
Mất mọi thứ để nhân dân không mất
(Đi trong rừng - Phạm Tiến Duật)
Chứa đựng nhiều chi tiết chân thực, tươi ròng sức sống, thể hiện được
nhiều gương mặt trẻ trung, tinh nghịch mà kiên cường, anh dũng, thơ Phạm
Tiến Duật được coi như "một góc bảo tàng tươi sống" về Trường Sơn (Đỗ
Trung Lai) trong những năm tháng chống Mỹ.

Thơ trẻ chặng đường này vẫn tiếp tục viết về đề tài quê hương, đất
nước, nhưng với một ý thức tự giác cao hơn và tình cảm sâu nặng hơn. Sự
thống nhất cao độ giữa ý thức của nhà thơ với trách nhiệm công dân, tư cách
người chiến sĩ cầm súng đã tạo nên cho những trang thơ của những nhà thơ
trẻ một chiều sâu mới trong nhận thức và trong tình cảm. Thấm thía hơn thực
tế chiến tranh, các nhà thơ trẻ càng nhận rõ hơn trách nhiệm của mình, càng
thấy mình gắn bó sâu nặng hơn với nhân dân, với đất nước. Thơ họ chính là
tiếng lòng những con người trực tiếp cầm súng, lấy máu mình để giữ gìn, bảo
vệ non sông. Vùng làng của Phạm Tiến Duật, Mùa giống của Cảnh Trà, đặc
biệt là những trang thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên một cách thấm thía
và đầy xúc động tình cảm thiêng liêng, sâu nặng ấy.
Thơ trẻ chống Mỹ ở chặng đường thứ hai này đã đạt tới một mức độ
nhất định chiều sâu của suy nghĩ và tầm cao của sự khái quát. Thường là từ
những chi tiết, những hình ảnh thực của chiến tranh, của đời sống chiến
trường, các nhà thơ trẻ đã soi rọi vào đó luồng ánh sáng của tư tưởng để làm
nổi bật lên ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Và cũng thường từ những chi tiết,
những hình ảnh cụ thể, các nhà thơ trẻ đã "quy nạp", tổng hợp, nâng lên thành
những khái quát. Từ những trái cây chín, từ một ngọn" lửa đèn, Phạm Tiến
Duật đã khái quát thành sức sống tiềm tàng, bất diệt của đất nước và con
người Việt Nam. Từ những tiếng chim kể chuyện trên đồi chốt, nhà thơ nói
tới nỗi đau một thời bị cắt chia: "Mẹ ơi đất nước cắt chia - Tiếng kêu con

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
cuốc vọng về quả tim". Từ hơi ấm ổ rơm, bằng hình ảnh "rơm vàng bọc tôi
như kén bọc tằm", tác giả nói lên một cách thấm thía, sự gắn bó máu thịt của
tình quân dân, những phẩm chất, đức tính tốt đẹp của con người Việt Nam.
1.2.2 3. Chặng đường thứ ba: từ 1973 đến 1985
Đến chặng này, thơ trẻ chống Mỹ được bổ sung thêm những nhà thơ

đồng thời là chiến sỹ trực tiếp cầm súng chiến đấu ở chiến trường. Sự xuất
hiện của những cây bút trẻ như Thanh Thảo, Nguyễn Đức Mậu, Hoàng Nhuận
Cầm, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Trần Mạnh Hảo, Văn Lê, Anh Ngọc vv... đã
làm cho đội ngũ thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ thêm đông đảo và thực sự bề thế.
Chặng cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã tạo nên thế mạnh của
những nhà thơ trẻ ở chặng đường này: có cái nhìn bao quát, toàn cảnh về
cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc. Tầm nhìn cùng với nhận thức về
hiện thực cuộc sống chiến trường được mở rộng và sâu sắc hơn. Chứng kiến
chiến thắng vĩ đại, oai hùng của dân tộc, những nhà thơ trẻ đồng thời cũng
thấu hiểu sự hy sinh, mất mát, cái giá phải trả cho những vinh quang đó. Bức
tranh hiện thực đời sống chiến trường hiện lên qua những trang thơ trẻ ở
chặng đường này cũng phong phú, đa dạng và phức tạp hơn: có hy sinh, mất
mát, có chiến thắng lạc quan, tin tưởng. Thái độ, tình cảm của nhà thơ viết về
sự thực của đời sống chiến trường, nhất là về những gian khổ, hy sinh cũng
chân thực hơn. Tính chất sâu lắng, tỉnh táo ngày càng đậm thay cho tính chất
thi vị, hồn nhiên ở những chặng đường trước.
Thơ trẻ chặng đường này nói nhiều, nói sâu sắc, thấm thía về người mẹ,
nhân dân, về những con người vô danh, về những con người bình thường mà
kiên cường, bất khuất, về Tổ quốc và về thế hệ mình. Ý thức về cái tôi - thế
hệ của các nhà thơ trẻ đạt đến độ sâu sắc nhất. Chân dung tinh thần của thế
hệ trẻ cầm súng thời kỳ chống Mỹ hiện lên cụ thể, chân thực, phong phú và
sâu sắc:
Những thằng con trai 18 tuổi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Nhiều khi bực quá khóc oà
... phanh ngực áo và mở trần bản chất
mỉm cười trước những lời lời to tát

nhưng nhất định không bao giờ bỏ cuộc.
(Thanh Thảo)
Thế hệ chúng con ồn ào, dày dạn
Sống thì đi mà chết thì nằm
(Trần Mạnh Hảo)
Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
nhưng tuổi 20 làm sao không tiếc?
nhưng ai cũng tiếc tuổi 20
thì còn chi Tổ quốc?
(Thanh Thảo)
Sáng tạo những vần thơ giàu chất suy nghĩ, triết lý, những hình
tượng thơ mang ý nghĩa khái quát là xu hướng chính của thơ trẻ ở chặng
đường này. Cũng chính ở chặng đường này, khuynh hướng muốn phản ánh
những mảng hiện thực lớn của chiến tranh, tổng kết cuộc chiến tranh ái
quốc vĩ đại đã xuất hiện như một đòi hỏi chính đáng của thời đại. Không
phải ngẫu nhiên mà từ sau 1975, thơ trẻ chống Mỹ xuất hiện hàng loạt
những trường ca viết về chiến tranh, thể hiện khát vọng tổng kết cuộc chiến
thông qua cách nhìn và sự trải nghiệm riêng của mỗ i nhà thơ. Những người
đi tới biển, Những ngọn sóng mặt trời của Thanh Thảo, Đường tới thành
phố của Hữu Thỉnh, Trường ca sư đoàn của Nguyễn Đức Mậu, Mặt trời
trong lòng đất, Đất nước hình tia chớp của Trần Mạnh Hảo, Con đường
của những vì sao của Nguyễn Trọng Tạo...là sự thể hiện cụ thể những khát
vọng đó. Với những đặc trưng và ưu thế của thể trường ca, trong những
trường ca tiêu biểu của chặng đường này, các nhà thơ trẻ đã kết hợp khá

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
nhuần nhuyễn giữa trữ tình và tự sự, đan xen phối hợp nhiều thể thơ trong
một trường ca, phác hoạ được nhiều chân dung của nhân vật trữ tình nhằm

vươn tới xu hướng khái quát, tổng hợp mở rộng hiện thực, tăng cường tính
triết lí, chính luận trong thơ. Qua những trường ca này, tính chất dữ dội,
khốc liệt của chiến tranh được khơi sâu, nhấn mạnh. Các nhà thơ trẻ đã tập
trung khám phá những ngọn nguồn sâu xa nhất tạo nên sức mạnh tinh thần
thiêng liêng của dân tộc trong thời đại chống Mỹ, lý giải động cơ cầm súng
của con người Việt Nam và nguyên nhân của những chiến công. Những
hình tượng chứa đựng phẩm chất và tinh thần chung của cả dân tộc và thời
đại như người mẹ, người lính, tổ quốc, nhân dân, đất nước vv... thể hiện
bằng những cảm xúc trữ tình thâm trầm sâu lắng, qua những suy tư sâu sắc
đạt tới tầm cao của sự khái quát, triết lí. Do có độ lùi nhất định về thời
gian, cuộc kháng chiến chống Mỹ được thể hiện với một cách nhìn trầm
tĩnh hơn, hiện thực chiến tranh được tái hiện toàn vẹn, đầy đặn, sâu sắc và
chân thực hơn.
1.2.3. Thơ trẻ chống Mỹ - một dàn đồng ca thống nhất
Thực tế, sự phân chia thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ thành các chặng đường
như trên chỉ mang tính chất tương đối khó có thể chia tách một cách rõ ràng.
Trong quá trình vận động và phát triển của thơ trẻ chống Mỹ, mỗi nhà thơ có
một tiếng nói, một cách thể hiện, nhưng tất cả vẫn nằm trong dàn đồng ca của
một màn hợp xướng để cổ động và ngợi ca sự nghiệp kháng chiến, xây dựng
và bảo vệ đất nước của dân tộc.
1.2.3.1. Hiện thực sinh động, cụ thể, giàu chất sử thi
Phản ánh cuộc kháng chiến chống Mỹ là nhiệm vụ chung của cả nền
văn học thời kỳ chống Mỹ nói chung và thơ ca nói riêng. Trong sự nỗ lực
chung ấy, thơ trẻ chống Mỹ đã vượt lên, góp vào nền thơ chống Mỹ những
trang thơ viết về đời sống chiến trường, phản ánh được tính chất dữ dội, ác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
liệt, những hy sinh gian khổ của con người Việt Nam trong chiến tranh. Về

phương diện này, có thể xem thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ là một dòng thơ giàu
có chi tiết cụ thể, sống động. Nhiều nhà thơ trẻ đã mạnh dạn đưa vào thơ
những chi tiết ngổn ngang, bề bộn của đời sống chiến trường, vừa độc đáo lại
giàu chất sử thi.
Sống giữa chiến trường, những nhà thơ trẻ đã chứng kiến tận mắt
những cảnh tượng dữ dội, ác liệt của chiến tranh nên có thể nói, họ đã ghi lại
một cách đầy đủ về quang cảnh chiến trường Trường Sơn. Có những sự thật
trần trụi tưởng chừng như vô lí ở Trường Sơn cũng được các tác giả ghi lại :
Cây lá thiếu màu xanh
Rừng hoang thừa tiếng nổ
(Trường ca sư đoàn - Nguyễn Đức Mậu)
Sống giữa chiến trường đầy gian khổ và ác liệt, các nhà thơ vẫn kể
bằng một giọng điềm tĩnh, bình thản:
Cạnh giếng nước có bom từ trường
Em không rửa ngủ ngày chân lấm
Ngày em phá nhiều bom nổ chậm
Đêm nằm mơ nói mớ vang nhà
(Gửi em cô thanh niên xung phong - Phạm Tiến Duật)
Không phải là người đứng ngoài để tưởng tượng về chiến tranh nữa,
các nhà thơ trẻ đã thực sự sống giữa chiến trường. Cái thế mạnh của người
trong cuộc này đã tạo nên những vần thơ giàu chi tiết chân thực:
- Đây Quảng Trị lần đầu ta gặp
Bom B52 cắt dọc đội hình
- Dọc triền sông súng nổ đêm ngày
- Sau trận đánh ta còn nghe súng nổ
- Bom dội từ trời sâu, đạn nổ dưới chân trời.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19

(Trường ca sư đoàn - Nguyễn Đức Mậu)
Chúng ta hãy đọc lên những cảm nhận của Nguyễn Duy khi đến vùng
đất Gio Linh "Cát trắng" trong những năm chiến tranh ác liệt:
- Máu người thấm vào trong cát
- Cát tím bầm - lở loét vết giầy đinh
Có thể nói, Trường Sơn trong con mắt của những người ở giữa chiến
trường, trong cái nhìn cận cảnh hiện lên thật khốc liệt :
Cánh rừng này mấy trận B52
Cây cụt ngọn dựng bia vào trời xanh căm giận.
(Con chim thời gian - Nguyễn Khoa Điềm)
Đó là hình ảnh Trường Sơn cụ thể, chân thực và sống động với cảnh
tượng hàng ngàn cây khô chết cháy đứng bên đường như những bia căm thù
đầy uất hận.
Hơn ai hết các nhà thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ nói thật sâu sắc, thấm thía
sự hi sinh gian khổ tột cùng của đời sống chiến tranh. Đây là kỷ niệm ngày
sinh nhật của người lính trẻ qua những vần thơ đầy suy tư của Thanh Thảo:
Buổi sáng ấy tôi bước vào tuổi 25
Ở đường dây 559 - trạm 73
Ngày sinh nhật bắt đầu bằng cơn sốt
Cổ đắng khô ngồi thở trên đỉnh dốc
Bạn mở bi đông nhường hớp nước cuối cùng
Hớp nước cuối cùng giữa cơn sốt đầu tiên
Ngày sinh nhật tuổi 25 mình được sống
Phải là người nếm trải cơn đói cồn cào, cái đói quay quắt của người
lính, Hữu Thỉnh mới thấu hiểu tại sao người lính lại quý đến nhường ấy từ
"con tép chết bom từ bến ngược trôi về", từng "hạt thóc gầy" "mót cuối bìa
rừng"; mới thấm thía cái thực tế đầy xót xa: "Tiểu đoàn thồ chẳng có gì thồ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


20
cả"- "Cứ đói ròng con gái hoá con trai". Phải từng sống ở ngã ba Chân Vạc,
nơi được mệnh danh là "túi bom" của Quảng Trị, Hữu Thỉnh mới ghi được
hình ảnh:
Nồi cơm chiến trường phải đội bốn tấn bom
Hạt sống vãi cùng hạt khét
(Ngã ba Chân Vạc)
Đồng hành với cái đói là những cơn sốt rét. Thơ ca thời kỳ kháng chiến
chống Pháp, khi nói tới người lính cũng thường nhắc đến căn bệnh quái ác
này. Ấy là khi Tố Hữu ghi lại hình ảnh anh vệ quốc quân: "Giọt giọt mồ hôi
rơi - Trên má anh vàng nghệ" (Cá nước). Quang Dũng khắc hoạ hình tượng
người lính Tây Tiến: "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc - Quân xanh màu lá
dữ oai hùm" (Tây Tiến). Chính Hữu miêu tả cụ thể cơn sốt ớn lạnh run người
của người lính: "Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh - Sốt run người vừng trán
ướt mồ hôi" (Đồng chí)..... Không dùng bút pháp lãng mạn, các nhà thơ trẻ
thời kỳ chống Mỹ dùng bút pháp hiện thực để miêu tả cụ thể chi tiết hơn căn
bệnh đặc trưng của chiến trường. Chỉ nhìn những "dấu chân qua trảng cỏ",
Thanh Thảo rưng rưng cảm động, bùi ngùi hình dung ra những người đồng
đội của mình: "Những người sốt rét đang cơn - Dấu chân bấm xuống đường
trơn có nhoè?" Hữu Thỉnh trong trường ca Đường tới thành phố nhiều lần nói
đến "cơn sốt rét rừng run bắn". Trong thơ Nguyễn Đức Mậu, căn bệnh sốt rét
cứ trở đi trở lại. Nó bám riết tuổi thanh xuân của người lính: "Nơi thuốc súng
trộn vào áo lính - Cơn sốt rét rừng đi dọc tuổi thanh xuân" (Trường ca sư
đoàn). Nhà thơ như "vật vã" cùng với người lính trong những trận sốt rét ác
liệt giữa giữa rừng sâu khi "cơn sốt rét ngấm vào tận cùng cơ thể ".
Thơ trẻ ở những chặng đầu ca ngợi sự hi sinh của những người lính,
Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân, Nấm mộ và cây trầm của Nguyễn
Đức Mậu, Khoảng trời và hố bom của Lâm Thị Mỹ Dạ hướng tới việc khẳng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


21
định tư thế hiên ngang, ca ngợi sự hi sinh với ý nghĩa là cái chết gieo mầm
cho sự sống. Thơ trẻ ở chặng cuối cùng, nhất là trong những trường ca đã nói
tới cái chết như là sự hi sinh mất mát to lớn trong chiến tranh, phản ánh tính
chất ác liệt, dữ dội của nó.
Những nhà thơ trẻ đã tìm những cách nói khác nhau để nói về sự hi
sinh to lớn của người lính. Hữu Thỉnh nói tới cái chết của người chiến sĩ lái
xe tăng. Nguyễn Đức Mậu nói tới hiện thực bi thương sau một trận đánh:
Rồi hôm ấy mười căn hầm sập
Người nuôi quân thành người giữ chốt
Mười nắm cơm thừa
Mười khẩu súng
Một mình anh
(Trường ca sư đoàn)
Thơ trẻ đã gợi lên tính chất dữ dội, ác liệt, sự gian khổ trong chiến
tranh nhằm thể hiện thực chất của đời sống chiến trường. Tuy nhiên, đời sống
chiến trường dù có gian khổ, ác liệt, tàn khốc đến đâu cũng chỉ là cái phông,
cái nền để làm nổi bật chân dung tinh thần của cả một thế hệ trẻ cầm súng.
Hình ảnh những người lính trẻ trong những trang thơ của thơ trẻ thời kỳ
chống Mỹ cứu nước thật khó lẫn được. Trong hành trang ra trận của họ có cả
tiếng ve kêu:
Vào mặt trận lúc mùa ve đang kêu
Dẫu hòn bi lăn hết vòng tuổi nhỏ
Trong những ba lô kia ai bảo là không có
Một hai ba giọng hát chú ve kim?
Và trong lửa đạn khốc liệt, những người lính ấy vẫn hướng tới cuộc
sống thanh bình, hướng tới những điều bình dị nhất của tuổi trẻ:
- Vừa tiu nghỉu tiếng bom rung


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
Đã nghe nhỏng nhảnh chim rừng tán nhau
(Tiếng chim sau trận B52 - Nguyễn Duy)
- Giữa một vùng lửa cháy bom rơi
Tất cả lộ nguyên hình trần trụi
Cây xấu hổ với màu xanh bối rối
Tự dấu mình trong lá khép lim dim
(Cây xấu hổ- Anh Ngọc)
Viết về thế hệ trẻ cầm súng, các nhà thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ tập trung
làm nổi bật hình ảnh của những con người mang trong mình dòng máu tươi
trẻ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, trẻ trung và rất đỗi yêu đời trong hoàn
cảnh chiến đấu vô cùng gian khổ, ác liệt. Có nói đến cảnh đạn bom dữ dội,
nhưng thơ trẻ không gây cảm giác hãi hùng, ghê rợn, bởi vì thơ trẻ chỉ cốt ghi
lại chân dung của thế hệ mình. Đọc thơ của Phạm Tiến Duật, Hoàng Nhuận
Cầm, Nguyễn Duy.... người đọc sẽ thấy rất rõ điều này. Hình ảnh người lính
qua thơ của các nhà thơ trẻ không chỉ là những con người bình tĩnh, can
trường, dũng cảm mà còn là những con người có đời sống tinh thần, đời sống
nội tâm phong phú. Đời sống nội tâm ấy được thể hiện qua những tình cảm,
suy nghĩ về tình đồng đội, tình cảm với quê hương, với người mẹ và những
người thân thiết ở hậu phương. Có thể nói rằng, bằng chính máu thịt của tâm
hồn mình, các nhà thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ đã dựng lên một cách cụ thể và
sinh động bức chân dung tinh thần của cả một thế hệ trẻ cầm súng: "cả thế hệ
dàn hàng - gánh đất nước trên vai" (Bằng Việt).
Nhạy cảm và giàu vốn sống chiến trường, mỗi nhà thơ trẻ gắn bó máu
thịt với một vùng hiện thực, một vùng thẩm mỹ riêng. Và bằng cách nhìn, cách
khai thác riêng của mình, họ đã phản ánh chân thực từng mảng hiện thực riêng
độc đáo ấy, tất cả hợp lại, tạo thành bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng chiến
chống Mỹ. Thơ trẻ chống Mỹ thực sự trở thành một dòng thơ có sức sống trẻ


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23
trung, cường tráng khi nó bám rễ sâu vào hiện thực chiến trường, phản ánh
được hình ảnh chân thật của những con người trực tiếp chiến đấu, tạo nên được
âm hưởng riêng của thời đại chống Mỹ trong thơ trữ tình cách mạng.
1.2.3.2. Một tiếng thơ trải nghiệm giàu chất trí tuệ và chính luận
Trên cái nền của hiện thực đời sống chiến trường, thơ trẻ thời kỳ chống
Mỹ còn cất lên tiếng thơ trải nghiệm mang sắc thái trí tuệ, chính luận riêng
của thế hệ mình.
Một nền thơ ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử chiến tranh và cách
mạng không chỉ bằng lòng với việc thể hiện cảm xúc, tình cảm của con tim
nữa mà còn hướng tới tiếng nói trí tuệ của bộ óc căng thẳng những suy tư.
Các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ không chỉ dừng lại ở việc miêu tả, trình bày
mà còn ý thức khám phá, phát hiện, bộc lộ những suy nghĩ sâu sắc của mình
về con người về cuộc sống, về dân tộc và thời đại mình. Thơ chống Mỹ muốn
vươn tới khả năng nhận thức lý tính các vấn đề của đất nước và dân tộc... Có
thể nói, chưa bao giờ, trong nền thơ hiện đại Việt Nam, tầm suy nghĩ khái
quát của thơ lại đạt đến độ sâu sắc như thơ thời kỳ chống Mỹ. So với thơ thời
kỳ chống Pháp, đây là nét mới, một bước tiến của thơ chống Mỹ.
Khát vọng muốn trả lời những câu hỏi lớn của thời đại, khám phá bản
chất con người và cuộc sống đã tạo nên chất trí tuệ cho cả một nền thơ. Trong
xu hướng chung ấy, thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cất lên tiếng nói trí tuệ mang
sắc thái riêng của thế hệ mình. Đó là cái tôi tự bộc lộ mình, đại diện cho thế
hệ mình - thế hệ những người trẻ tuổi đang tôi luyện trong ngọn lửa chiến
tranh, thực sự nếm trải những gian lao thử thách và tự nguyện đem xương
máu của mình để bảo vệ quê hương, đất nước. Thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ là
tiếng nói của cái tôi thế hệ vừa trẻ trung vừa già dặn, vừa hồn nhiên trong cảm
xúc vừa sâu lắng những suy tư. Tư thế trữ tình của cái tôi - thế hệ là suy

ngẫm, tự bạch, tự phân tích, tự biểu hiện, độc thoại, đối thoại với thế hệ mình,

×