Tải bản đầy đủ (.pdf) (265 trang)

Tim hieu cac vu viec phap luat ve dan su, thuong mai (vu an dien hinh)85

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.37 MB, 265 trang )

Tìm hiểu các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại

Phần I. Các vụ việc pháp luật về dân sự

BỘ TƯ PHÁP
VỤ PHỐ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

TÌM HIỂU CÁC VỤ VIỆC PHÁP LUẬT
VỀ DÂN SỰ, THƯƠNG MẠI

HÀ NỘI - 2012

1

2


Tìm hiểu các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại

Phần I. Các vụ việc pháp luật về dân sự

CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN:
Nguyễn Thúy Hiền, Thứ trưởng Bộ Tư pháp, Trưởng Ban
chỉ đạo Đề án
TỔ CHỨC BIÊN SOẠN:
Nguyễn Duy Lãm, Vụ trưởng Vụ PBGDPL, Bộ Tư pháp
Phạm Thị Hòa, Phó Vụ trưởng Vụ PBGDPL, Bộ Tư pháp
THAM GIA BIÊN SOẠN:
1. ThS. Nguyễn Thị Hạnh, Học viện Tư pháp
2. ThS. Nguyễn Thị Hằng Nga, Học viện Tư pháp


3

4


Tìm hiểu các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại

Phần I. Các vụ việc pháp luật về dân sự

bình luận pháp luật và hướng giải quyết của các tác giả về
những vụ việc trên.

LỜI GIỚI THIỆU
Ngày 27/02/2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết
định số 270/2009/QĐ-TTg phê duyệt Đề án: “Củng cố, kiện
toàn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát
triển của đất nước” thuộc Chương trình phổ biến, giáo dục
pháp luật của Chính phủ từ năm 2008 đến năm 2012. Một
trong các hoạt động của Đề án là cung cấp, hỗ trợ tài liệu
nghiệp vụ, tài liệu pháp luật cho các đối tượng của Đề án, góp
phần nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ
thực hiện công tác này trong thời kỳ mới.

Ban chỉ đạo Đề án trân trọng cảm ơn sự tham gia nhiệt
tình của tập thể tác giả và sự phối hợp tích cực của Vụ Phổ
biến, giáo dục pháp luật - Thường trực Ban chỉ đạo Đề án để
hoàn thành cuốn sách này.
Xin trân trọng giới thiệu và mong nhận được những ý
kiến đóng góp quý báu của bạn đọc về nội dung cuốn sách.

Tháng 12/2012
BAN CHỈ ĐẠO ĐỀ ÁN

Nhằm đáp ứng nhu cầu về bồi dưỡng kiến thức pháp luật,
kỹ năng nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật đối với những
người trực tiếp thực hiện công tác này, đặc biệt là đội ngũ báo
cáo viên pháp luật, Ban chỉ đạo Đề án tổ chức biên soạn và
phối hợp với Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản cuốn: “Tìm hiểu
các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại”. Cuốn sách
cung cấp cho báo cáo viên các vụ việc pháp luật trong lĩnh
vực dân sự, kinh doanh thương mại đã và đang diễn ra phổ
biến trên thực tế như thừa kế, ly hôn, các hợp đồng thuê, hợp
đồng tín dụng, hợp đồng góp vốn… cùng với đó là những

5

6


Tìm hiểu các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại

Phần I. Các vụ việc pháp luật về dân sự

PHẦN I
CÁC VỤ VIỆC PHÁP LUẬT VỀ DÂN SỰ

7

8



Tìm hiểu các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại

Phần I. Các vụ việc pháp luật về dân sự

phố H đã giữ nguyên bản án sơ thẩm nói trên của Toà án
nhân dân quận HK.

I. TRANH CHẤP THỪA KẾ

VỤ VIỆC SỐ 1

Nội dung vụ án:
Cụ Bùi Văn P chết ngày 29/12/2002. Cụ Hoàng Thị C
chết ngày 03/01/1995.
Sinh thời các cụ sinh được 04 người con là ông Bùi Văn
T, ông Bùi Văn H, ông Bùi Văn Th, bà Bùi Thị M. Ngoài ra,
các cụ không có người con riêng, con nuôi nào khác.
Tài sản thuộc sở hữu chung của hai cụ khi còn sống gồm:
Diện tích nhà, đất 57m2 tại số 8 HĐ, quận HK, thành phố H và
diện tích 1396m2 đất tại tổ 18 phường NT, quận LB, thành phố H.
Đối với ngôi nhà tại số 8 HĐ thì năm 1954 do có người
thuê nên hai cụ P và cụ C đã uỷ quyền cho anh Bùi Văn H
tiến hành các thủ tục tại các cấp Toà án để đòi nhà. Theo
Bản án số 02/DSST ngày 26/02/1993 của Toà án nhân dân
quận HK đã tuyên “Xử chấp nhận yêu cầu đòi nhà cho thuê
của ông Bùi Văn P do anh Bùi Văn H đại diện…”. Tại Bản
án số 79/DSPT ngày 29/5/1993 của Toà án nhân dân thành
9


Sau khi anh Bùi Văn H tiến hành việc đòi nhà theo sự ủy
quyền và đã được cơ quan thi hành án tiến hành thi hành án
bàn giao trả nhà số 8 HĐ thì hai cụ P và cụ C đã cùng anh H
về sinh sống tại ngôi nhà này. Quá trình ở tại đây, anh H đã
xây dựng, sửa chữa như làm toàn bộ trần bằng toocxi, lát lại
toàn bộ nền nhà, xây mới khu phụ, làm lại gác xép, cầu
thang… Đến năm 2002, anh Bùi Văn H đã làm thủ tục để
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà
số 8 HĐ. Trên cơ sở đó, theo Quyết định số 1730/QĐ-UB
ngày 19/3/2002 của Ủy ban nhân dân (sau đây viết tắt là
UBND) thành phố H, nhà số 8 HĐ đứng tên chủ sở hữu nhà,
sử dụng đất là anh Bùi Văn H (Giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà ở và quyền sử dụng đất ở hồ sơ gốc số 5019.2002 ngày
19/3/2002 của UBND thành phố H).
Còn đối với diện tích nhà, đất 1396m2 tại tổ 18 phường
NT, quận LB, thành phố H cũng là di sản của hai cụ P và cụ
C. Sinh thời hai cụ cũng có sinh sống tại nhà cấp 4 diện tích
52m2 được xây dựng trên thửa đất này cùng với vợ chồng anh
Bùi Văn T. Sau này, nhà cấp 4 của các cụ được vợ chồng anh
T sửa chữa, tôn tạo để sử dụng. Đến ngày 11/7/1999, cụ Bùi
Văn P lập di chúc cho anh Bùi Văn T được toàn quyền sử
dụng phần diện tích nhà đất tại tổ 18 phường NT.
10


Tìm hiểu các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại

Phần I. Các vụ việc pháp luật về dân sự

Ông Bùi Văn T chết ngày 20/5/2001, có vợ là Lương

Thị AH và 02 người con là anh Bùi Duy H, chị Bùi Thị X.
Ngoài ra, vợ chồng ông T không có người con riêng, con
nuôi nào khác.
Cụ Hoàng Thị C chết năm 1995 không để lại di chúc. Cụ
Bùi Văn P chết năm 2002, có để lại di chúc định đoạt cho anh
Bùi Văn T được toàn quyền sử dụng phần tài sản của cụ tại tổ
18 phường NT, quận LB, thành phố H.
Ngày 24/2/2010, bà Bùi Thị M có đơn khởi kiện ông Bùi
Văn H, bà Lương Thị AH, anh Bùi Duy H về việc chia thừa
kế di sản của hai cụ P và cụ C gồm ngôi nhà số 8 HĐ, quận
HK, thành phố H và nhà, đất tại tổ 18 phường NT, quận LB,
thành phố H. Tại đơn khởi kiện bổ sung ngày 26/8/2010, bà
Bùi Thị M đề nghị Toà án chia thừa kế nhà số 8 HĐ theo pháp
luật. Còn đối với nhà đất ở phường NT thì công nhận di chúc
của cụ P, còn lại 1/2 là phần của cụ C do thừa kế hết thời hiệu
nên đề nghị Toà án chia tài sản thuộc sở hữu chung. Nhưng
sau đó, bà M lại thay đổi yêu cầu của mình đối với phần di
sản nhà và đất tại tổ 18 phường NT hiện bà Lương Thị AH,
anh Bùi Duy H đang quản lý, bà yêu cầu chia theo pháp luật
vì di chúc của cụ P không có hiệu lực.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Bùi Văn
Th đề nghị Toà án chia theo hiện vật và chia chung.

11

Phía bị đơn ông Bùi Văn H trình bày:
Sau khi được bố, mẹ ủy quyền đòi lại nhà số 8 HĐ, ông
đã tiến hành các thủ tục để đòi lại nhà. Và sau khi đòi được thì
hai cụ P và cụ C ở với ông và đã cho ông toàn bộ diện tích
nhà này. Ông đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà

và quyền sử dụng đất ngày 19/3/2002.
Quá trình sử dụng, ông đã xây dựng, sửa chữa như lát lại
toàn bộ nền, xây mới khu phụ, làm mái cầu thang, gác xép,
lợp mái… Nay trước yêu cầu chia thừa kế của phía nguyên
đơn thì ông H không đồng ý chia, vì bố, mẹ ông đã cho ông
ngôi nhà này. Còn đối với phần di sản tại tổ 18 phường NT,
ông yêu cầu chia theo pháp luật.
Anh Bùi Duy H trình bày:
Về huyết thống gia đình, bố anh là Bùi Văn T là một
trong 04 người con của cụ Bùi Văn P và cụ Hoàng Thị C.
Bố anh mất năm 2001. Sinh thời, cụ P có di chúc để lại
toàn bộ nhà, đất phần của cụ ở tổ 18 phường NT cho bố
anh. Sau khi bố anh chết thì mẹ anh là Lương Thị AH và
các con là Bùi Duy H, Bùi Thị X, vẫn quản lý, sử dụng.
Nay trước yêu cầu của phía nguyên đơn, quan điểm của
anh là không đồng ý chia thừa kế vì ông nội anh (Bùi Văn
P) đã cho bố anh (Bùi Văn T) phần di sản của hai cụ. Đối
với phần di sản của bà nội anh (Hoàng Thị C) anh cũng
không đồng ý chia tài sản chung.
12


Tìm hiểu các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại

Phần I. Các vụ việc pháp luật về dân sự

Bà Lương Thị AH và những người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan, Bùi Thị X trình bày thống nhất với quan điểm với
anh Bùi Duy H.
Tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện:

Theo Công văn số 1941/TNMT và NĐ-CS ngày
30/3/2011 của Sở Tài nguyên, môi trường và nhà đất thì:
Nhà số 8 HĐ, thành phố H trên thửa đất số 827 tờ bản đồ
số 15, khu A nay bằng khoán điền thổ số 720, ĐX tên chủ
sở hữu là ông Bùi Văn P và bà Hoàng Thị C, trước bạ và
đăng ký tại thành phố H ngày 29/5/1956. Văn bản uỷ
quyền được lập ngày 12/6/1992 của cụ P và cụ C ủy quyền
cho ông H có nội dung: “Ông Bùi Văn P, bà Hoàng Thị C
uỷ quyền cho con trai là Bùi Văn H thay mặt tiến hành
việc đòi nhà số 8 HĐ, thành phố H… và đứng tên trước bạ
cho con trai tôi”.
Bản di chúc ngày 11/7/1999 cụ Bùi Văn P có nội dung:
“Tôi là Bùi Văn P, vợ là Hoàng Thị C có một thửa đất thổ
cư diện tích 1396m2 trên thửa đất có 01 ngôi nhà xây cấp 4,
nhà bếp, nhà tắm (theo bản đồ địa chính số 154 tờ số 4 của
xã). Tôi thấy tuổi đã cao, các con đều đã trưởng thành… Để
tạo điều kiện cho con trai tôi là Bùi Văn T được toàn quyền sử
dụng phần tài sản của tôi trên thửa đất tại là tổ 18, phường
NT, quận LB, thành phố H và sau này có trách nhiệm thờ
cúng tổ tiên. Nay trong tình trạng thể chất tinh thần minh
13

mẫn, tôi làm di chúc này giao toàn quyền tài sản của tôi cho
con trai là Bùi Văn T được toàn quyền sử dụng”.
Về hình thức của bản di chúc có chữ ký của cụ Bùi Văn P là
người lập di chúc, có xác nhận của 2 người làm chứng, có xác nhận
của UBND xã NT, huyện GL (nay là phường NT, quận LB).
Bình luận:
* Về người để lại thừa kế, người thừa kế, thời điểm mở
thừa kế, thời hiệu khởi kiện về thừa kế

Cụ Hoàng Thị C chết ngày 03/01/1995 để lại tài sản thừa kế,
cụ Bùi Văn P chết ngày 29/12/2002. Sinh thời các cụ sinh được
04 người con là ông Bùi Văn T, ông Bùi Văn H, ông Bùi Văn Th,
bà Bùi Thị M. Thời điểm ông T, cụ P chết là thời điểm BLDS
năm 1995 đang có hiệu lực nên áp dụng các quy định về thừa kế
của BLDS năm 1995 để giải quyết vụ án. Ngoài 04 người con đẻ
cụ C và cụ P không có người con riêng, con nuôi nào khác. Ông
Bùi Văn T chết năm 2001, sinh được 02 người con là anh Bùi
Duy H, Bùi Thị X. Căn cứ Điều 634 BLDS năm 1995 xác định cụ
C, cụ P là người để lại thừa kế. Theo Điều 638 BLDS năm 1995
thì ông T, ông H, ông Th, bà M là người thừa kế di sản của cụ C.
Tuy nhiên theo tình tiết trong vụ án, ông T chết trước cụ P nên
không được thừa kế tài sản của cụ P, vì vậy theo Điều 680 BLDS
năm 1995 thì anh Bùi Duy H, chị Bùi Thị X là người thừa kế thế
vị hưởng di sản của cụ P để lại. Vì vậy, ông H, ông Th, bà M; anh
H, chị X là người thừa kế di sản của cụ P.
14


Tìm hiểu các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại

Phần I. Các vụ việc pháp luật về dân sự

Theo Điều 636 Bộ luật Dân sự (sau đây viết tắt là BLDS) năm
1995 thời điểm mở thừa kế lần 1 - cụ C chết ngày 03/01/1995;
thời điểm mở thừa kế lần 2 - cụ P chết ngày 29/12/2002. Ngày
24/02/2010, bà M làm đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế
của bố mẹ để lại nên theo Điều 648 BLDS sự năm 1995 thời hiệu
khởi kiện yêu cầu phân chia di sản của cụ C đã hết. Do đó, không
chia phần di sản của cụ C để lại cho những người thừa kế.


đã chết, thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác
định tại khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này.
2. Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của
người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư
trú cuối cùng, thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn
bộ hoặc phần lớn di sản.

Điều 648 BLDS năm 1995 quy định:

Điều 634 BLDS năm 1995 quy định:

Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế
Quyền thừa kế của cá nhân

Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm, kể
từ thời điểm mở thừa kế.

Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của
mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo
pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Điều 680 BLDS năm 1995 quy định:

Điều 635 BLDS năm 1995 quy định:

Thừa kế thế vị

Quyền bình đẳng về thừa kế của cá nhân


Trong trường hợp con của người để lại di sản chết
trước người để lại di sản, thì cháu được hưởng phần
di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu
còn sống; nếu cháu cũng đã chết trước người để lại di
sản, thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc
mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.

Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của
mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di
chúc hoặc theo pháp luật.

Điều 636 BLDS năm 1995 quy định:

* Về tính hợp pháp của bản di chúc cụ P lập ngày 11/7/1999

Thời điểm, địa điểm mở thừa kế

Cụ Bùi Văn P chết ngày 29/12/2002. Khi còn sống, ngày
11/7/1999 cụ Bùi Văn P đã lập 01 bản di chúc với nội dung: Chuyển

1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản
chết. Trong trường hợp Toà án tuyên bố một người là

15

16


Tìm hiểu các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại


Phần I. Các vụ việc pháp luật về dân sự

quyền sử dụng nhà đất cho con trai của cụ là ông Bùi Văn T ở tại
thôn GT, xã NT, huyện GL, thành phố H (từ năm 2004 là tổ 18,
phường NT, quận LB, thành phố H). Bản di chúc này có nội dung:
“Tôi là Bùi Văn P, vợ là Hoàng Thị C có một thửa đất thổ
cư diện tích 1396m2 trên thửa đất có 01 ngôi nhà xây cấp 4,
nhà bếp, nhà tắm (theo bản đồ địa chính số 154 tờ số 4 của
xã). Tôi thấy tuổi đã cao, các con đều đã trưởng thành… Để
tạo điều kiện cho con trai tôi là Bùi Văn T được toàn quyền sử
dụng phần tài sản của tôi trên thửa đất và sau này có trách
nhiệm thờ cúng tổ tiên. Nay trong tình trạng thể chất tinh thần
minh mẫn, tôi làm di chúc này giao toàn quyền tài sản của tôi
cho con trai là Bùi Văn T được toàn quyền sử dụng”.

kế theo di chúc của cụ P. Và vì vậy, di chúc của cụ Bùi Văn P
lập ngày 11/7/1999 không có giá trị pháp lý. Do di chúc của
cụ P không có hiệu lực pháp luật nên theo quy định tại Điều
678 BLDS năm 1995 phần di sản thừa kế của cụ Bùi Văn P để
lại sẽ được chia theo pháp luật cho những người thừa kế.

Điều 638 BLDS năm 1995 quy định:
Người thừa kế
1. Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống
vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống
sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước
khi người để lại di sản chết.

Về hình thức của bản di chúc này, có chữ ký của cụ Bùi
Văn P là người lập di chúc, có xác nhận của 02 người làm

chứng, có xác nhận của UBND xã NT, huyện GL. Tuy nhiên,
ông Bùi Văn T là người được hưởng phần tài sản của cụ Bùi
Văn P theo di chúc trong số tài sản chung với cụ Hoàng Thị C
là 1396m2 đất trên có nhà xây cấp 4 và một số công trình xây
dựng khác, song ông Bùi Văn T lại chết vào ngày 20/5/2001,
cụ P chết vào ngày 29/12/2002. Thời điểm mở thừa kế của
ông T là ngày 20/5/2001, thời điểm mở thừa kế của cụ P là
ngày 29/12/2002. Như vậy, người được hưởng di sản thừa kế
theo di chúc chết trước người để lại di sản nên theo quy định
tại Điều 638 BLDS năm 1995 ông T không phải là người thừa
17

2. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ
quan, tổ chức, thì phải là cơ quan, tổ chức tồn tại vào
thời điểm mở thừa kế.

Điều 678 BLDS năm 1995 quy định:
Những trường hợp thừa kế theo pháp luật
1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những
trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước

18


Tìm hiểu các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại

Phần I. Các vụ việc pháp luật về dân sự


* Về di sản thừa kế:

hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ
quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc
không còn vào thời điểm mở thừa kế;

Về nguồn gốc nhà số 8 phố HĐ, quận HK, thành phố H
và 1396 m2 đất trên đó xây dựng 1 ngôi nhà cấp 4, nhà tắm,
nhà vệ sinh tại tổ 18 phường NT, quận LB, thành phố H.

d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo
di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối
quyền hưởng di sản.

- Đối với nhà số 8 phố HĐ, quận HK, thành phố H: Theo
Công văn số 1941/TNMT và NĐ-CS ngày 30/3/2011 của Sở Tài
nguyên, môi trường và nhà đất thì: Nhà số 8 HĐ, thành phố H
trên thửa đất số 827 tờ bản đồ số 15, khu A nay bằng khoán điền
thổ số 720, ĐX tên chủ sở hữu là ông Bùi Văn P và bà Hoàng
Thị C trước bạ và đăng ký tại thành phố H ngày 29/5/1956.

2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với
các phần di sản sau đây:
a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc
không có hiệu lực;
c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế
theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản,
từ chối quyền hưởng di sản, chết trước hoặc chết

cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ
quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng
không còn vào thời điểm mở thừa kế.

Hàng thừa kế thứ nhất của cụ Bùi Văn P bao gồm 4 người
con đẻ của cụ P còn sống tại thời điểm viết di chúc: Ông Bùi
Văn T, Bà Bùi Thị M , ông Bùi Văn Th, ông Bùi Văn H (ông
Bùi Văn T chết năm 2001). Hai người con của ông T - anh
Bùi Duy H, chị Bùi Thị X là thừa kế thế vị được hưởng tài sản
thừa kế của cụ P.
19

Do nhà số 8 phố HĐ, thành phố H cho hộ gia đình khác ở
thuê từ trước, vào năm 1992, cụ Bùi Văn P và cụ Hoàng Thị C
đã uỷ quyền cho ông Bùi Văn H thay mặt 2 cụ để tiến hành các
thủ tục pháp lý: Đòi nhà cho thuê. Theo Quyết định của bản án
sơ thẩm số 02/DSST ngày 26/02/1993 của Toà án nhân dân
quận HK và Bản án phúc thẩm số 79/DSPT ngày 29/5/1993 của
Toà án nhân dân thành phố H đều xác định cụ Hoàng Thị C và
cụ Bùi Văn P là đồng sở hữu nhà số 8 phố HĐ, thành phố H.
Đồng thời, án tuyên buộc hộ gia đình đang ở thuê tại số nhà số 8
phố HĐ, thành phố H trả lại toàn bộ diện tích nhà đang thuê cho
cụ P, cụ C do ông Bùi Văn H là đại diện. Bản án phúc thẩm đã
được thi hành án xong và từ sau khi lấy lại nhà cụ P, cụ C, gia
đình ông Bùi Văn H về sống tại số 8 HĐ, thành phố H. Cho đến
năm 1998, thực hiện chủ trương của Nhà nước về việc đăng ký
20


Tìm hiểu các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại


Phần I. Các vụ việc pháp luật về dân sự

kê khai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà.
Ngày 28/3/1998, ông Bùi Văn H đã làm đơn xin cấp Giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất đối với nhà số 8
HĐ, quận HK, thành phố H và ngày 19/3/2002, UBND thành
phố H đã cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử
dụng đất ở số 1010519018 cho ông Bùi Văn H tại số 8 phố HĐ,
thành phố H theo Quyết định số 1730/QĐ-UB ngày 19/3/2002.
Cơ sở để UBND thành phố H ban hành Quyết định số 1730/QĐUB ngày 19/3/2002 về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà và quyền sử dụng đất đối với nhà số 8 phố HĐ, quận HK,
thành phố H cho ông Bùi Văn H là dựa trên nội dung của văn
bản uỷ quyền được lập ngày 12/6/1992 có nội dung: Ông Bùi
Văn P, bà Hoàng Thị C uỷ quyền cho con trai là Bùi Văn H thay
mặt tiến hành việc đòi nhà số 8 HĐ, thành phố H… và đứng tên
trước bạ cho con trai tôi.
Như vậy, xét về phạm vi của việc cụ P, cụ C uỷ quyền
cho ông Bùi Văn H là thực hiện hành vi tiến hành các thủ tục
đòi nhà số 8 HĐ, thành phố H đồng thời chỉ là người đứng tên
trong trước bạ nhà số 8 HĐ, thành phố H chứ giấy uỷ quyền
này không thể hiện nội dung cụ P, cụ C cho (tặng) định đoạt
nhà số 8 HĐ, thành phố H cho ông Bùi Văn H. Việc ông H
đứng tên sở hữu nhà là không đúng vì thực chất là nhà số 8
phố HĐ, thành phố H vẫn thuộc quyền sở hữu của cụ P, cụ C.
Do đó, xác định nhà số 8 phố HĐ là di sản của cụ C, cụ P để
lại theo Điều 637 BLDS năm 1995.
21

Điều 637 BLDS năm 1995 quy định:

Di sản
1. Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài
sản của người chết trong tài sản chung với người khác.
2. Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và
được để lại thừa kế theo quy định tại Phần thứ năm
của Bộ luật này.

- Đối với diện tích nhà đất tại tổ 18 phường NT, quận LB,
thành phố H: Quá trình giải quyết vụ kiện tại Toà án các bên
đương sự đều có lời khai xác nhận nguồn gốc diện tích
1396m2 đất, trên có nhà cấp 4 và nhà tắm, nhà vệ sinh là do cụ
P, cụ C mua. Sau đó, cho vợ chồng ông T, bà Lương Thị AH
về ở tại đây, hiện toàn bộ thửa đất này mang số thửa 87, tờ
bản đồ số 4 đo vẽ năm 1993. Hiện bà Lương Thị AH và anh
Bùi Duy H đang quản lý sử dụng. Bà AH, anh H cho rằng,
phần di sản của cụ P thì cụ P đã lập di chúc cho ông Bùi Văn
T nên đề nghị Toà án chia theo di chúc. Vấn đề này như phần
trên đây đã nhận định, phân tích về di chúc của cụ Bùi Văn P
là di chúc không có hiệu lực nên di sản thừa kế của cụ P được
chia theo pháp luật.
Xác định di sản thừa kế của cụ P, cụ C là 2 khối tài sản:
Nhà số 8 phố HĐ, thành phố H và diện tích 1396m2 nhà và đất
tại tổ 18 phường NT, quận LB, thành phố H. Nay phía nguyên
22


Tìm hiểu các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại

Phần I. Các vụ việc pháp luật về dân sự


đơn yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật đối với 2 khối di sản
trên của cụ P, cụ C.
Nhà số 8 phố HĐ mà ông H đang quản lý sử dụng theo
biên bản định giá thì tổng cộng giá trị quyền sử dụng đất và
giá trị xây dựng còn lại của nhà số 8 HĐ là di sản thừa kế của
cụ P, cụ C tính thành tiền là: 12.150.000.000 đồng (giá trị
quyền sử dụng đất) + 32.815.000 đồng (giá trị xây dựng còn
lại) = 12.182.815.000 đồng.
Thời điểm mở thừa kế để chia di sản thừa kế của cụ C là
năm 1995. Di sản thừa kế của cụ C để lại tại số 8 HĐ là 1/2 giá
trị nhà số 8 phố HĐ - thành phố H thành tiền là: 12.182.815.000
đồng : 2 = 6.091.407.500 đồng. Tính đến thời điểm bà Bùi Thị
M khởi kiện vụ án dân sự - Chia thừa kế là ngày 01/7/2010 thì
thời hiệu để chia phần di sản thừa kế của cụ Hoàng Thị C đã hết
thời hiệu. Bà M có yêu cầu: Đối với phần di sản của cụ C đề
nghị Toà án chia tài sản chung theo quy định của Nghị quyết số
02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc
giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình. Về yêu cầu
này của bà M nhận thấy:

hướng dẫn: “… Sau khi kết thúc thời hạn 10 năm mà các đồng
thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa
nhận di sản thừa kế do người chết để lại chưa chia thì di sản
đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế…”.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại Toà án: Ông H trình
bày nhà số 8 phố HĐ, thành phố H đã được bố mẹ cho ông và
ông không đồng ý chia, do vậy viện dẫn và áp dụng mục 2.4
điểm a của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn

áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn
nhân và gia đình thì yêu cầu chia tài sản chung đối với phần di
sản thừa kế của cụ C của bà M không được thoả mãn với quy
định của pháp luật.

Tiểu mục 2.4 Mục 1 Phần I Nghị quyết số 02/2004/NQHĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong
việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình:
2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế
a) Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời
điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh
chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận
là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười
năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về

Theo quy định tại tiểu mục 2.4 Mục 1 Phần I Nghị quyết
số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật
trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình
23

24


Tìm hiểu các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại

Phần I. Các vụ việc pháp luật về dân sự

hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết
để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản

chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu
Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi
kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của
pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần
phân biệt như sau:

hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền...
thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để
đòi lại di sản.

Đối với phần di sản thừa kế của cụ P tại số 8 phố HĐ,
thành phố H là 1/2 nhà tính thành tiền có giá trị là:
6.091.407.500 đồng. Thời điểm mở thừa kế để chia di sản của
cụ P là năm 2002 và di sản thừa kế được chia theo pháp luật.
Tuy nhiên, khi chia thừa kế đối với phần di sản thừa kế của cụ
P, cũng cần xem xét đến công sức duy trì và bảo quản di sản
cũng như quá trình vào năm 1992 ông H đã thay mặt cụ P, cụ
C tiến hành các thủ tục đòi nhà cho thuê và từ sau khi cụ P, cụ
C mất đi, ông đã quản lý di sản trong nhiều năm; vì vậy trích
01 kỷ phần thừa kế cho ông H về công sức đi đòi nhà và bảo
quản di sản thừa kế là phù hợp. Theo quy định tại Điều 679
BLDS năm 1995 thì hàng thừa kế thứ nhất của cụ P gồm: 03
người con đẻ còn sống tại thời điểm mở thừa kế và 02 người
cháu là thừa kế thế vị: ông Bùi Văn H, ông Bùi văn Th, Bà
Bùi Thị M và anh Bùi Duy H, chị Bùi Thị X (01 kỷ phần thừa
kế thế vị của ông T).

a.1) Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế
không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ
được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài

sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện
theo di chúc.
a.2) Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa
kế thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có
nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó
được thực hiện theo thoả thuận của họ.
a.3) Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa
kế không có thoả thuận về phần mỗi người được
hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản
chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật
về chia tài sản chung.

Xác định di sản thừa kế của cụ P có tổng giá trị thành tiền
là 6.091.407.500 đồng và chia 4 kỷ phần + 01 kỷ phần trích
trừ công sức cho ông H, chia toàn bộ hiện vật nhà số 8 phố
HĐ cho ông H sở hữu. Tổng di sản 6.091.407.500 đồng : 5.
Như vậy, mỗi kỷ phần thừa kế của cụ P được hưởng di sản

b) Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa
kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử
dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất

25

26


Tìm hiểu các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại

Phần I. Các vụ việc pháp luật về dân sự


thừa kế tính thành tiền là 6.091.407.500 đồng : 5. Riêng ông
Bùi Văn H được nhận một kỷ phần thừa kế và một suất công
sức quản lý, bảo quản di sản.
Chia toàn bộ bằng hiện vật phần di sản thừa kế của cụ P
cho ông Bùi Văn H được hưởng và ông Bùi Văn H, có nghĩa
vụ thanh toán lại giá trị bằng tiền cho các đồng thừa kế khác.
Phần di sản hết thời hiệu chia thừa kế của cụ C Tòa án không
chia cho những người thừa kế.

Điều 679 BLDS năm 1995 quy định:
Người thừa kế theo pháp luật

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng
thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã
chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền
hưởng thừa kế hoặc từ chối nhận di sản.

Đối với di sản thừa kế tại tổ 18 NT, quận LB, thành phố
H do bà Lương Thị AH, anh Bùi Duy H đang quản lý. Theo
biên bản định giá 1396 m2 đất cùng các công trình xây dựng
trên đất thì tổng di sản tính thành tiền gồm giá trị quyền sử
dụng đất và giá trị xây dựng còn lại thuộc di sản thừa kế là
6.994.368.000 đồng.
Thời điểm mở thừa kế để phân chia di sản thừa kế của cụ
C là năm 1995 di sản của cụ C gồm 1/2 quyền sử dụng đất là
698m2 đất, tính di sản thành tiền là: 3.497.184.000 đồng (gồm
cả giá trị quyền sử dụng đất và giá trị xây dựng). Như trên đã
nhận định, thời hiệu để phân chia di sản thừa kế của cụ C đã
hết thời hiệu chia thừa kế, phía nguyên đơn yêu cầu phân chia

tài sản chung thì cũng không thoả mãn những quy định tại
mục 2.4 điểm a của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày
10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án
dân sự, hôn nhân và gia đình.

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định
theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ,
cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại,
bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của
người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột
của người chết; cháu ruột của người chết mà người
chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột.

Đối với phần di sản thừa kế của cụ P tại tổ 18 phường
NT, quận LB là 1/2 diện tích quyền sử dụng đất và 1/2 giá trị
xây dựng, cụ thể là 698m2 quyền sử dụng đất tính thành tiền

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần
di sản bằng nhau.

27

28


Tìm hiểu các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại


Phần I. Các vụ việc pháp luật về dân sự

có giá trị là: 3.497.184.000 đồng (bao gồm cả giá trị quyền sử
dụng đất và giá trị xây dựng). Cụ P chết năm 2002, đây là thời
điểm mở thừa kế để chia di sản thừa kế của cụ P, di sản được
chia theo pháp luật. Theo quy định tại Điều 679 BLDS năm
1995 thì hàng thừa kế thứ nhất của cụ P gồm: 03 người con đẻ
của cụ và 02 cháu nội (con ông T là thừa kế thế vị). Tuy
nhiên, khi chia thừa kế đối với di sản thừa kế của cụ P, cũng
cần xem xét đến công sức duy trì, quản lý khối di sản của bà
Lương Thị AH, anh Bùi Duy H, chị Bùi Thị X là những người
đã trực tiếp duy trì, bảo quản di sản và có công sức tôn tạo tại
đây nên trích chia tương đương với 01 kỷ phần cho những
người này. Như vậy, di sản thừa kế của cụ P sẽ được chia làm
5 suất (riêng anh H, chị X, bà AH được thêm 01 suất) chia cụ
thể: mỗi kỷ phần thừa kế được nhận di sản tính thành tiền là:
3.497.184.000 đồng : 04 kỷ phần + 1 kỷ phần tính công sức.
Ông Th, ông H, bà M mỗi người được nhận 01 kỷ phần. Chị
X, anh H được nhận 01 kỷ phần thừa kế. Chị X, anh H, bà AH
được nhận 01 kỷ phần tính công sức.
Từ những phân tích trên đây, vụ việc có thể giải quyết
như sau:
1. Chấp nhận yêu cầu chia thừa kế của bà Bùi Thị M đối
với di sản thừa kế tại số 8 HĐ, thành phố H và tổ 18 phường
NT, quận LB, thành phố H (do bà Lương Thị AH, anh Bùi
Duy H đang quản lý).
29

2. Xác nhận nhà số 8 HĐ, thành phố H và diện tích 1396m2

đất trên có nhà cấp 4 tại tổ 18 phường NT, quận LB, thành phố H
là di sản thừa kế của cụ Bùi Văn P và cụ Hoàng Thị C để lại.
3. Xác định di sản thừa kế của cụ Bùi Văn P gồm: 1/2 giá
trị đất và giá trị xây dựng còn lại của nhà số 8 HĐ, thành phố H
và diện tích 1396m2 đất trên có nhà cấp 4 tại tổ 18 phường NT,
quận LB, thành phố H được chia cho các thừa kế của cụ P.
4. Xác định di chúc của cụ Bùi Văn P lập ngày 11/7/1991
không có hiệu lực pháp luật. Toàn bộ di sản thừa kế của cụ
Bùi Văn P được chia theo pháp luật.
VỤ VIỆC SỐ 2

Nội dung vụ án:
Chị Nguyễn Thị X trình bày:
Năm 1992, chị X kết hôn hợp pháp với anh Vương Văn V
là con trai thứ sáu của ông Vương Văn Tr và bà Nguyễn Thị
D. Bà D chết năm 1996. Năm 2006, anh V mất do tai nạn lao
động, không để lại di chúc. Vợ chồng chị có 03 con chung là:
cháu Vương Thị H - sinh năm 1994; cháu Vương Văn Th sinh năm 1996, cháu Vương Văn A - sinh năm 1998. Khi anh
V còn sống, vợ chồng chị có tạo lập được một khối tài sản,
trong đó có diện tích đất nông nghiệp là 2.472m2 tại các xứ
đồng thuộc thôn LC, xã XG, huyện S, tỉnh H. Diện tích đất
30


Tìm hiểu các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại

Phần I. Các vụ việc pháp luật về dân sự

trên đã được UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất năm 1998 mang tên anh Vương Văn V, số sổ là

863/QSDĐ. Năm 2006, anh V chết, ông Vương Văn Tr là bố
anh V đã lấy 1.080m2 tại xứ đồng bờ Tuỳ để canh tác, không
trả cho chị. Sau nhiều lần yêu cầu ông Tr trả đất của vợ chồng
chị, chị X đã yêu cầu UBND xã XG hòa giải nhưng không
thành. Vì vậy ngày 20/8/2008, chị làm đơn khởi kiện yêu cầu
Toà án buộc ông Tr phải trả cho chị diện tích đất trên. Ngày
26/10/2008, chị có đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, đề nghị
Toà án chia thừa kế theo pháp luật diện tích đất 1.080m2 tại
xứ đồng bờ Tuỳ do ông Tr đang chiếm giữ. Chị X yêu cầu
chia phần của chị và 03 con chung vào một khối.
Tại bản tự khai ngày 05/10/2007, ông Vương Văn Tr
trình bày:
Năm 1992, con trai ông là Vương Văn V lấy chị Nguyễn Thị
X về làm vợ và sinh được 03 người con là Vương Thị H, Vương
Văn Th và Vương Văn A. Năm 2006, con trai là anh Vương Văn
V mất do tai nạn lao động. Nay chị X kiện ông yêu cầu chia diện
tích đất nông nghiệp tại xứ đồng bờ Tuỳ là 1.080m2, ông không
chấp nhận vì diện tích đất trên là do ông đổi cho các hộ khác (ông
K, ông C, ông H, ông M là người cùng làng), về gần nhà để tiện
canh tác, còn sổ đỏ cấp cho anh V là không đúng vì ông Nguyễn
Xuân H lúc đó là chủ nhiệm hợp tác xã đã tự ghi tên anh V vào
trong đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông
31

nghiệp (2.472m2). Hiện tại, ông Tr đang canh tác diện tích đất
này, do vậy ông không đồng ý với yêu cầu của chị X.
Tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện:
Lời khai của ông Nguyễn Xuân H - nguyên chủ nhiệm Hợp
tác xã nông nghiệp LC, nguyên Trưởng tiểu ban cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp, tại biên bản lấy lời khai

ngày 12/02/2009 có nội dung: Ông là họ hàng của cả ông Tr và
chị X. Thực hiện Nghị định số 64-CP ngày 27/9/1993 của Chính
phủ ban hành bản Quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ
gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất
nông nghiệp, ông H đến nhà anh V - chị X, lúc đó ông Tr đang ở
cùng để làm thủ tục kê khai. Họ đã thống nhất và nhờ ông ký tên
hộ. Khi có Giấy chứng nhận ông H đã giao cả 02 bản cho chính
ông Tr. Đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông
nghiệp cho hộ gia đình hiện đang lưu giữ tại UBND huyện S,
cũng như Công văn số 242/UBND-TNMT ngày 17/3/2009 của
UBND huyện S có nội dung đối tượng được cấp Giấy chứng
nhận 2.472m2 đất là hộ gia đình ông Vương Văn V. Hộ gia đình
anh V tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện
tích đất tranh chấp hộ gia đình anh Vương Văn V gồm ông Tr,
anh V, chị X.
Bình luận:
* Về quan hệ pháp luật tranh chấp:
Tranh chấp giữa chị X và ông Tr là tranh chấp về thừa kế
32


Tìm hiểu các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại

Phần I. Các vụ việc pháp luật về dân sự

quyền sử dụng đất nông nghiệp vì diện tích đất nông nghiệp là
2.472m2 tại các xứ đồng thuộc thôn LC, xã XG, huyện S, tỉnh
H đã được UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất năm 1998 mang tên anh Vương Văn V, số sổ là
863/QSDĐ. Năm 2006, anh V chết, ông Vương Văn Tr đã

chiếm giữ, sử dụng diện tích 1.080 m2 đất tại xứ đồng bờ Tùy,
chị X đòi nhiều lần nhưng ông Tr không trả. Chị X khởi kiện
ông Tr yêu cầu Toà án chia thừa kế theo pháp luật diện tích
đất 1.080m2 tại xứ đồng bờ Tuỳ.
* Về người thừa kế, di sản thừa kế:
Anh Vương Văn V chết có tài sản để lại vì vậy anh V là
người để lại thừa kế, anh V chết không để lại di chúc vì vậy di
sản của anh V được chia theo pháp luật. Bên nguyên đơn
không yêu cầu chia toàn bộ di sản của anh V để lại mà chỉ yêu
cầu chia thừa kế theo pháp luật diện tích đất 1.080m2 tại xứ
đồng bờ Tuỳ nên Tòa án chỉ giải quyết trong phạm vi yêu cầu
của nguyên đơn. Người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thứ
nhất của anh V theo quy định tại Điều 676 BLDS năm 2005
gồm 05 người: ông Vương Văn Tr, chị Nguyễn Thị X, cháu
Vương Thị H, cháu Vương Văn Th, cháu Vương Văn A. Cháu
Vương Thị H - sinh năm 1994; cháu Vương Văn Th - sinh
năm 1996, cháu Vương Văn A - sinh năm 1998. Chị X khởi
kiện ngày 20/8/2008 khi đó các cháu chưa thành niên nên chị
X là người đại diện hợp pháp của 03 con chị.
33

* Về di sản thừa kế:
Ông Tr cho rằng 1.080m2 đất đang có tranh chấp là tài sản
của ông, do ông đổi với một số hộ dân cùng thôn từ những năm
1988, ông Nguyễn Xuân H lúc đó là chủ nhiệm hợp tác xã đã tự
ghi tên anh V vào trong đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nông nghiệp (2.472m2) nên việc cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho anh V là không đúng. Còn chị X có quan
điểm, diện tích đất tranh chấp vợ chồng chị đã nhận chuyển
nhượng của ông K, nhưng hiện nay ông K đã chết và giấy tờ thì

không có. Song thực tế là từ tháng 01/1998 thì diện tích đất có
tranh chấp đã được UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đứng tên hộ anh Vương Văn V.
Theo nội dung lời khai của ông Nguyễn Xuân H - nguyên
chủ nhiệm Hợp tác xã nông nghiệp LC, nguyên Trưởng tiểu
ban cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp thực
hiện Nghị định số 64-CP, thì ông là người trực tiếp đến nhà
anh V - chị X, lúc đó ông Tr đang ở cùng để làm thủ tục kê
khai (ông H là họ hàng của cả ông Tr và chị X), ông Tr, anh
V, chị X đã thống nhất và nhờ ông ký tên hộ. Khi có Giấy
chứng nhận ông đã giao cả 02 bản cho chính ông Tr.
Căn cứ vào các đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nông nghiệp cho hộ gia đình hiện đang lưu giữ tại
UBND huyện S, cũng như căn cứ vào Công văn số
242/UBND-TNMT ngày 17/3/2009 của UBND huyện S đã
34


Tìm hiểu các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại

Phần I. Các vụ việc pháp luật về dân sự

khẳng định đối tượng được cấp Giấy chứng nhận 2.472m2 đất
là hộ gia đình anh Vương Văn V (gồm ông Tr, anh V, chị X).
Từ những căn cứ trên, xác định diện tích đất tranh chấp là tài
sản của hộ gia đình anh Vương Văn V theo quy định tại Điều
106, 107, 108, 688 BLDS năm 2005. Do vậy, anh V, ông Tr,
chị X có quyền ngang nhau đối với diện tích họ đang có tranh
chấp là 1.080 m2. Do xác định diện tích đất tranh chấp là tài
sản chung của ông Tr, anh V chị X nên chia ba sau khi anh V

chết. Ông Tr, anh V, chị X mỗi người được chia bằng nhau.

2. Giao dịch dân sự do người đại diện của hộ gia đình
xác lập, thực hiện vì lợi ích chung của hộ làm phát
sinh quyền, nghĩa vụ của cả hộ gia đình.

Ðiều 108 BLDS năm 2005 quy định:
Tài sản chung của hộ gia đình
Tài sản chung của hộ gia đình gồm quyền sử dụng đất,
quyền sử dụng rừng, rừng trồng của hộ gia đình, tài sản do
các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên hoặc
được tặng cho chung, được thừa kế chung và các tài sản
khác mà các thành viên thỏa thuận là tài sản chung của hộ.

Ðiều 106 BLDS năm 2005 quy định:
Hộ gia đình

Ðiều 109 BLDS năm 2005 quy định:

Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng
đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản
xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi
tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này.

Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của hộ
gia đình
1. Các thành viên của hộ gia đình chiếm hữu và sử dụng
tài sản chung của hộ theo phương thức thỏa thuận.


Ðiều 107 BLDS năm 2005 quy định:

2. Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản
chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các
thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với
các loại tài sản chung khác phải được đa số thành
viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý.

Ðại diện của hộ gia đình
1. Chủ hộ là đại diện của hộ gia đình trong các giao
dịch dân sự vì lợi ích chung của hộ. Cha, mẹ hoặc một
thành viên khác đã thành niên có thể là chủ hộ.
Chủ hộ có thể ủy quyền cho thành viên khác đã thành
niên làm đại diện của hộ trong quan hệ dân sự.

35

36


Tìm hiểu các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại

Phần I. Các vụ việc pháp luật về dân sự

Ðiều 688 BLDS năm 2005 quy định:

Ðiều 689 BLDS năm 2005 quy định:

Căn cứ xác lập quyền sử dụng đất


Hình thức chuyển quyền sử dụng đất

1. Ðất đai thuộc hình thức sở hữu nhà nước, do Chính
phủ thống nhất quản lý.

1. Việc chuyển quyền sử dụng đất được thực hiện
thông qua hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại
khoản 3 Ðiều này.

2. Quyền sử dụng đất của cá nhân, pháp nhân, hộ gia
đình, chủ thể khác được xác lập do Nhà nước giao
đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất.

2. Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất phải được lập
thành văn bản, có công chứng, chứng thực theo quy
định của pháp luật.

3. Quyền sử dụng đất của cá nhân, pháp nhân, hộ gia
đình, chủ thể khác cũng được xác lập do được người
khác chuyển quyền sử dụng đất phù hợp với quy định
của Bộ luật này và pháp luật về đất đai.

3. Việc thừa kế quyền sử dụng đất được thực hiện
theo quy định tại các điều từ Ðiều 733 đến Ðiều 735
của Bộ luật này.

Ðiều 733 BLDS năm 2005 quy định:

Phần đất của anh V được chia có diện tích 360 m 2 là tài
sản chung của vợ chồng anh V, chị X theo quy định tại

Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Anh V chết,
thanh toán chia tài sản chung của vợ chồng nên xác định
quyền sử dụng đất là di sản của anh V để lại là 360 m 2 : 2
còn 180m2 chia đều cho 05 người thừa kế theo quy định tại
các điều 676, 689, 735 BLDS: 180 m2 : 5 = 36 m2 (gồm ông
Tr = chị X = cháu H = cháu Th = cháu A). Như vậy, ông Tr,
chị X, cháu H, cháu Th, cháu A được chia mỗi người 36 m 2
từ 180 m2 đất di sản thừa kế của anh V.

37

Thừa kế quyền sử dụng đất
Thừa kế quyền sử dụng đất là việc chuyển quyền sử
dụng đất của người chết sang cho người thừa kế theo
quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai.

Ðiều 734 BLDS năm 2005 quy định:
Cá nhân để thừa kế quyền sử dụng đất
Cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, nhận
chuyển quyền sử dụng đất có quyền để thừa kế quyền
sử dụng đất theo quy định tại Phần thứ tư của Bộ luật
này và pháp luật về đất đai.

38


Tìm hiểu các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại

Phần I. Các vụ việc pháp luật về dân sự


Ðiều 735 BLDS năm 2005 quy định:

Vương Văn V, chị Nguyễn Thị X, ông Vương Văn Tr. Chia đều
mỗi người được quyền sử dụng 360 m2 đất.

Thừa kế quyền sử dụng đất được Nhà nước giao cho

3. Xác định thời điểm mở thừa kế di sản của anh Vương
Văn V là ngày 28/3/2006.

hộ gia đình
Hộ gia đình được Nhà nước giao đất nếu trong hộ có
thành viên chết thì quyền sử dụng đất của thành viên đó
được để lại cho những người thừa kế theo quy định tại
Phần thứ tư của Bộ luật này và pháp luật về đất đai.

Hàng thừa kế thứ nhất của anh V là ông Vương Văn Tr,
chị Nguyễn Thị X, các cháu Vương Thị H, Vương Văn Th,
Vương Văn A. Mỗi thừa kế được chia 36m2.

Như vậy, phần ông Tr được thừa kế là 180 m2 : 5 = 36
m2, nhập vào chung với phần ông Tr được chia trước đó 360
m2 = 396 m2.
Phần của chị X và 03 con là cháu A, H, Th được hưởng
thừa kế của anh V là: 36 m2 x 4 = 144 m2. Diện tích đất chị X
được chia tài sản chung khi chia tài sản của hộ gia đình là 360
m2, chia tài sản chung của vợ chồng là 180 m2. Cộng gộp lại
là chị X và 03 con được chia diện tích 684 m2.
Từ những phân tích trên đây, vụ việc có thể giải quyết
như sau:

1. Chấp nhận yêu cầu chia di sản thừa kế là quyền sử dụng
1.080 m2 đất nông nghiệp tại xứ đồng bờ Tuỳ, thôn LC, xã XG,
huyện S, tỉnh H của Nguyễn Thị X đối với ông Vương Văn Tr.
2. Xác định quyền sử dụng 1.080 m2 đất nông nghiệp đo thực
tế tại xứ đồng bờ Tuỳ thuộc thôn LC (bản đồ địa chính lập năm
1992) được cấp cho hộ gia đình anh Vương Văn V gồm: anh
39

4. Ghi nhận sự tự nguyện của chị X và 03 con xin chia
chung vào một khối. Chia cho chị Nguyễn Thị X và 03 con là
Vương Thị H, Vương Văn Th, Vương Văn A quyền sử dụng
684 m2 đất nông nghiệp còn lại tại xứ đồng bờ Tuỳ, thôn LC,
xã XG, huyện S, tỉnh H.
5. Chia cho ông Vương Văn Tr quyền sử dụng 396 m2 đất
nông nghiệp tại xứ đồng bờ Tuỳ, thôn LC, xã XG, huyện S,
tỉnh H (trong 1.080 m2 đất nông nghiệp đang có tranh chấp).
Các bên không phải thanh toán cho nhau khoản tiền nào
và có trách nhiệm đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền kê
khai xin cấp Giấy chứng nhận theo quyết định của Toà án.
VỤ VIỆC SỐ 3

Nội dung vụ án:
Ông Nguyễn Th mất ngày 09/5/2007, có vợ là bà Hồng
Bảo A. Ông Th, bà A có 03 con chung là Nguyễn Hồng C;
40


Tìm hiểu các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại

Phần I. Các vụ việc pháp luật về dân sự


Nguyễn Hồng S và Nguyễn Hồng Q, ngoài ra ông Th không
có người con đẻ, con nuôi, con riêng nào khác.

15/01/2008, chị Q khởi kiện yêu cầu chia thừa kế di sản của ông
Th theo di chúc.

Nguồn gốc căn hộ tại phòng 116 (cũ phòng 16) - C1 - tập
thể KL - quận Đ - thành phố H do Bộ kiến trúc phân cho bà
Hồng Bảo A ngày 14/7/1967. Năm 1987, ông Th được phân
thêm 01 căn hộ tại phòng 103 (cũ phòng 3) - C5 - tập thể KL quận Đ - thành phố H. Năm 1991, ông bà ly hôn đã tự phân
chia tài sản cụ thể: Ông Th được chia 1/2 căn hộ tại phòng
116 (cũ phòng 16) - C1 - tập thể KL và căn hộ tại phòng 103
(cũ phòng 3) - C5 - tập thể KL. Ngày 06/12/2000, ông
Nguyễn Th được UBND thành phố H cấp Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đối với diện tích
đất ông được chia. Sau khi ông Th ly hôn thì 02 căn hộ này do
ông Th cùng gia đình anh C ở quản lý và sử dụng.

Anh Nguyễn Hồng C cũng nhất trí với lời khai của chị Q
nhưng theo anh toàn bộ diện tích lấn chiếm là do anh tự lấn
chiếm, tự xây nhà. Nay anh chỉ đồng ý phần di chúc của ông
Th đối với diện tích đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Phần lấn chiếm bố anh định đoạt cả là không đúng
nên anh chỉ đồng ý trả phần nhà 20,2m2 đã được cấp Giấy
chứng nhận, phần anh lấn chiếm anh không đồng ý trả.

Ngày 18/4/2006, ông Th lập chúc thư, di chúc do ông Th viết
tay, không có người làm chứng. Di chúc gồm có 02 trang, mỗi
trang đều có chữ ký của ông Th, nội dung để lại tài sản cho các

con của ông Th cụ thể: Anh C được hưởng toàn bộ diện tích nhà
đất tại phòng 103 (cũ phòng 3) - C5 - tập thể KL - quận Đ - thành
phố H gồm có phần đất tự tạo (lưu không) và 10m2 kiốt tại phòng
116 - C1. Anh S được hưởng 2/3 diện tích phòng 116 nhà C1 tập
thể KL; chị Q được hưởng 1/3 diện tích phòng 116 nhà C1 tập thể
KL bao gồm cả phần đất tự tạo (lưu không: có phần nhà xây trên
đất lưu không liền kề phần nhà chính có diện tích 22,75m2). Ngày
41

Anh Nguyễn Hồng S thống nhất với lời khai của chị Q
yêu cầu Tòa công nhận di chúc.
Chị Trần Thị Kim T (vợ anh C) nhất trí với lời khai của
anh C.
Tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện:
Tại biên bản lấy lời khai ngày 20/4/2008, anh C khai có
nội dung vào cuối năm 2006 anh đã dùng tiền của bố để sửa
nhà. Tại phiên hòa giải ngày 24/6/2008, chị Q, anh Sơn cũng
đã tự nguyện thanh toán khoản tiền 24.944.160 đồng là tiền
sửa chữa xây dựng cho anh C.
Trong quá trình giải quyết vụ án, anh C có đơn yêu cầu Tòa
án trưng cầu giám định chữ ký của ông Nguyễn Th tại chúc thư
lập ngày 18/4/2006. Tại Kết luận giám định số 920/C21 (P6)
ngày 06/5/2009 của Viện khoa học hình sự, Tổng cục cảnh sát
42


Tìm hiểu các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại

Phần I. Các vụ việc pháp luật về dân sự


đã kết luận: “Chữ ký đứng tên “Nguyễn Th” dưới mục “người
viết chúc thư” trên 20trang tài liệu cần giám định đề “chúc thư”
ngày 18/4/2006 (ký hiệu A1-2) với chữ ký của ông Nguyễn Th
trên các trang tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1; M2; M3; M4;
M5-2; M6-2; M7-2 là do cùng một người ký ra”.
Diện tích 10m2 kiốt, các đồ dùng sinh hoạt trong gia đình
các đương sự đã tự giải quyết không yêu cầu Tòa án xem xét,
giải quyết.
Bình luận:
* Về người để lại thừa kế, người thừa kế:
Ông Nguyễn Th mất ngày 09/5/2007, có vợ là bà Hồng
Bảo A. Ông bà có 03 con chung là anh C, anh S, chị Q. Năm
1991, ông bà ly hôn đã tự chia nhau tài sản xong. Ngoài ba
người con đẻ, ông Th không còn con đẻ, con nuôi, con riêng
nào khác. Căn cứ BLDS năm 2005, xác định ông Th là người
để lại thừa kế. Theo quy định tại Điều 635 BLDS năm 2005,
anh C, anh S, chị Q được ông Th chỉ định trong di chúc hưởng
di sản thừa kế của ông và còn sống vào thời điểm mở thừa kế
nên là người thừa kế theo di chúc của ông Th.
* Về di sản thừa kế:
Anh C, anh S và chị Q đều xác định ông Th mất đi có để
lại 02 khối tài sản gồm căn hộ P116 (cũ P16) - C1 diện tích
20,2m2 và căn hộ P103 (cũ P3) - C5 diện tích 18,5m2 tại khu
43

tập thể KL hiện đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất mang tên ông Nguyễn Th. Ngoài ra, còn xây dựng nhà trên
phần đất lưu không liền kề với 02 căn hộ trên. Theo chị Q, anh
S thì phần xây dựng nhà là tiền của, công sức của ông Th bỏ ra.
Theo anh C, chị T thì toàn bộ tiền của, công sức xây dựng nhà

trên phần đất lưu không là của vợ chồng anh chị bỏ ra. Tuy
nhiên, anh C, chị T không đưa ra được các chứng cứ chứng
minh cho việc sửa chữa của mình. Hơn nữa, anh C còn xác
nhận vào cuối năm 2006 anh đã dùng tiền của bố để sửa nhà.
Về thực tế, ông Th là chủ sở hữu 02 căn hộ nêu trên. Trong quá
trình ở và quản lý nhà này, ông Th mới là người được quyền
lấn chiếm xây dựng phần đất lưu không phía trước hoặc phía
sau căn hộ. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Q, anh S cũng
đã tự nguyện thanh toán khoản tiền 24.944.160 đồng là tiền sửa
chữa xây dựng cho anh C.
Tuy nhiên, phần đất lưu không nói trên thuộc quyền quản
lý của nhà nước nên diện tích đất này không phải là di sản
thừa kế của ông Th. Do đó, xác định di sản của ông Th để lại
bao gồm: Nhà tại P116 - C1 theo biên bản định giá có giá trị
là: 353.663.136 đồng (giá trị của căn hộ P116) + 24.944.160
đồng (giá trị vật liệu xây dựng trên phần đất lưu không) =
378.607.296 đồng. Nhà tại P103 - C5 theo biên bản định giá
có giá trị là: 259.000.000 đồng (giá trị của căn hộ P103) +
28.574.000 đồng (giá trị vật liệu xây dựng trên phần đất lưu
không) = 287.574.000 đồng.
44


Tìm hiểu các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại

Phần I. Các vụ việc pháp luật về dân sự

Đối với diện tích 10m2 kiốt, các đồ dùng sinh hoạt trong
gia đình các đương sự đã tự giải quyết không yêu cầu Tòa án
xem xét nên không phải xét.

* Về tính hợp pháp của di chúc:
- Về hình thức của di chúc:
Bản di chúc do ông Th viết tay, không có người làm
chứng. Di chúc gồm có 02 trang, mỗi trang đều có chữ ký của
ông Th. Như vậy, đây là di chúc bằng văn bản không có người
làm chứng, căn cứ theo quy định tại Điều 653, 655 BLDS
năm 2005 hình thức của bản chúc thư ông Th lập ngày
18/4/2006 là đúng quy định của pháp luật.
- Về nội dung của di chúc:
Ngày 18/4/2006, ông Th có lập chúc thư để lại tài sản cụ
thể: Phần cho con trai cả Nguyễn Hồng C trước đây tôi đã cho
C sử dụng để ở phần nhà bên C5, nay tôi vẫn để cho C ở như
cũ. Sau khi tôi mất đi, tôi sẽ cho thêm C một kiốt gần 10m2 ở
đầu hồi nhà C1, ngoài C ra sau này là của cháu nội tôi là
Nguyễn Thanh L mới được hưởng, còn những người khác
không có phần. Phần nhà đất liền kề tự tạo ở P116 - C1 tập thể
KL (kể cả sân) bằng 50,2m2 tôi sẽ cho S 2/3 và cho Q 1/3.

ngày 06/5/2009 của Viện khoa học hình sự, Tổng cục cảnh sát
đã kết luận: “Chữ ký đứng tên “Nguyễn Th” dưới mục “người
viết chúc thư” trên trang 2 tài liệu cần giám định đề “chúc thư”
ngày 18/4/2006 (ký hiệu A1-2) với chữ ký của ông Nguyễn Th
trên các trang tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1; M2; M3; M4;
M5-2; M6-2; M7-2 là do cùng một người ký ra”.
Như vậy, ông Th lập di chúc là hoàn toàn tự nguyện, thể
hiện ý chí đích thực của ông. Di chúc có nội dung định đoạt
tài sản thuộc quyền sở hữu của ông cho 03 người con. Vì vậy,
nội dung của bản di chúc này là hợp pháp.
Di chúc ngày 18/4/2006 có nội dung và hình thức phù
hợp với pháp luật nên được công nhận.

Từ những phân tích trên, xác định phần diện tích nhà đất
đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng sở hữu hợp pháp
mang tên ông Nguyễn Th là di sản thừa kế của ông Nguyễn
Th và công nhận di chúc của ông Th về phần nhà đất này là có
căn cứ và đúng pháp luật.

Ðiều 652 BLDS năm 2005 quy định:
Di chúc hợp pháp
1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều
kiện sau đây:

Trong quá trình giải quyết vụ án, anh C có đơn yêu cầu Tòa
án trưng cầu giám định chữ ký của ông Nguyễn Th tại chúc thư
lập ngày 18/4/2006. Tại Kết luận giám định số 920/C21 (P6)
45

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập

46


Tìm hiểu các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại

Phần I. Các vụ việc pháp luật về dân sự

di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;

a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;

b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội;

hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.

b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản
hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ
chức được hưởng di sản;

2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ
mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải
được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

d) Di sản để lại và nơi có di sản;

3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của
người không biết chữ phải được người làm chứng lập
thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

đ) Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung
của nghĩa vụ.
2. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu;
nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được
đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người
lập di chúc.

4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng
thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều
kiện được quy định tại khoản 1 Ðiều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di
chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước
mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó

những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc
điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người
di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải
được công chứng hoặc chứng thực.

Ðiều 655 BLDS năm 2005 quy định:
Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng
Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm
chứng phải tuân theo quy định tại Ðiều 653 của Bộ
luật này.

Ðiều 653 BLDS năm 2005 quy định:

Từ những phân tích trên đây, vụ việc có thể được giải
quyết như sau:

Nội dung của di chúc bằng văn bản

1. Chấp nhận yêu cầu chia thừa kế theo di chúc của chị

1. Di chúc phải ghi rõ:

47

48


Tìm hiểu các vụ việc pháp luật về dân sự, thương mại


Phần I. Các vụ việc pháp luật về dân sự

Nguyễn Hồng Q đối với anh Nguyễn Hồng C về việc chia
thừa kế di sản của ông Nguyễn Th.
2. Xác định khối tài sản của ông Nguyễn Th để lại gồm có
căn hộ tại P116 - C1 và căn hộ P103 - C5 khu tập thể KL,
quận Đ, thành phố H có tổng diện tích là 38,7m2 được UBND
thành phố H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày
26/12/2000 mang tên ông Nguyễn Th cộng với giá trị phần
nguyên vật liệu xây dựng trên phần đất lưu không tại 02 căn
hộ nêu trên là di sản thừa kế của ông Nguyễn Th.

Nguyễn Th ngày 06/12/2000 và toàn bộ giá trị vật liệu xây
dựng đã được xây dựng tại phần đất lưu không (bao gồm 01
gian nhà + sân) liền kề với căn hộ P116 nêu trên.
- Giao cho anh Nguyễn Hồng C sở hữu, sử dụng căn hộ
P103 (cũ phòng 3) - C5 tập thể KL, quận Đ, thành phố H diện
tích 18,5m2 đã được UBND thành phố H cấp Giấy chứng
nhận quyền quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Th ngày
06/12/2000 và toàn bộ giá trị vật liệu xây dựng tại phần đất
lưu không liền kề với căn hộ P103 nêu trên.

3. Xác định thời điểm mở thừa kế di sản của ông Nguyễn
Th là ngày 09/5/2007.

- Các đương sự phải chấp hành các quy định của các cơ
quan có thẩm quyền về quản lý, sử dụng đất.

4. Hàng thừa kế thứ nhất của ông Nguyễn Th gồm: Anh
Nguyễn Hồng C; chị Nguyễn Hồng Q; anh Nguyễn Hồng S.


6. Ghi nhận sự tự nguyện của anh S và chị Q thanh toán
cho anh C, chị T 24.944.160 đồng tiền nguyên vật liệu xây
dựng trên đất lưu không.

5. Xác định di chúc do ông Nguyễn Th lập ngày
18/4/2006 là hợp pháp đối với di sản là căn hộ P116 - C1 và
căn hộ P103 - C5 khu tập thể KL, quận Đ, thành phố H cộng
với giá trị phần nguyên vật liệu xây dựng trên phần đất lưu
không tại 02 căn hộ nêu trên thuộc quyền sở hữu hợp pháp
của ông Nguyễn Th.
- Giao cho anh Nguyễn Hồng S, chị Nguyễn Hồng Q sở
hữu, sử dụng chung căn hộ P116 - C1 tập thể KL, phường KL,
quận Đ, thành phố H diện tích 20,2m2 đã được UBND thành
phố H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông
49

50


×