Tải bản đầy đủ (.pdf) (177 trang)

Tiểu luận nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.77 MB, 177 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Chủ đề năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại Việt Nam đã, đang và tiếp
tục là vấn đề thời sự, thu hút được sự quan tâm lớn cả từ góc độ nghiên cứu, xây dựng
và điều hành chính sách, quản trị và điều hành kinh doanh ngân hàng,...Nhìn lại 15
năm về đây, kể từ khi triển khai thực hiện hai luật ngân hàng ban hành năm 2008, thực
hiện hai luật mới ban hành năm 2010 có hiệu lực từ đầu năm 2011, cùng với cam kết
mở cửa thị trường dịch vụ tài chính gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, hoạt
động ngân hàng ở nước ta ngày càng sôi động trong môi trường cạnh tranh ngày càng
gay gắt của các loại hình tổ chức tín dụng. Để tồn tại và phát triển được, các tổ chức
tín dụng luôn phải liên tục và không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá
trình hoạt động, mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, hội nhập kinh tế quốc tế.
Là một trong những ngành đi tiên phong về mở cửa thị trường và hội nhập quốc
tế, với số lượng ban đầu chỉ có 4 NHTM nhà nước hoạt động rất hạn chế về quy mô tài
chính, dịch vụ đến nay đã phát triển rất nhanh về số lượng tổ chức tín dụng, quy mô tài
chính và khả năng hoạt động. Về mặt cấu trúc cũng rất đa dạng về hình thức sở hữu
(nhà nước, hợp tác xã, liên doanh, 100% vốn nước ngoài, cổ phần) và đa dạng hóa về
loại hình (ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng hợp tác xã, ngân
hàng chính sách xã hội, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100% vốn nước
ngoài, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài
chính vi mô). Đến nay, hệ thống NHVN cũng đã nâng cao được khá nhiều về năng lực
cạnh tranh của mình, đóng vai trò quan trọng thúc đẩy tiến trình đổi mới và phát triển
nền kinh tế. Song đứng trước yêu cầu đặt ra trong thực tiễn việc nâng cao năng lực
cạnh tranh của các NHTM Việt Nam luôn đòi hỏi phải có các giải pháp đồng bộ.
Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO từ tháng 11 - 2006 và đến
tháng 04 - 2007, bắt đầu thực hiện các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường dịch vụ
tài chính và áp lực cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng bắt đầu xuất hiện, gia tăng
đáng kể. Trong 7 năm qua các tổ chức trung gian tài chính và đông đảo các doanh
nghiệp đều đã chủ động tìm kiếm, nghiên cứu,thực hiện nhiều biện pháp để nâng cao


năng lực cạnh tranh trước yêu cầu hội nhập. Vì vậy, nghiên cứu những vấn đề cơ bản


2

để nâng cao năng lực cạnh tranh hội nhập quốc tế của hệ thống ngân hàng thương mại
vẫn tiếp tục và luôn có tính cấp bách đặt ra trong thực tiễn ở nước ta hiện nay.
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội và quá trình hội nhập kinh tế khu vực và
quốc tế, hoạt động ngân hàng ngày càng có sự cạnh tranh sôi động với sự tham gia
nhiều mô hình ngân hàng khác nhau trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng, đặc biệt
trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Sự cạnh tranh thúc đẩy quá trình đổi mới, tiếp
tục cơ cấu lại các NHTM đồng thời đáp ứng nhu cầu vốn và dịch vụ cho phát triển
kinh tế của đất nước, tuy nhiên cạnh tranh cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết.
Ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế VIB là một trong số các ngân hàng thương
mại cổ phần có quy mô khá, có mạng lưới hoạt động rộng trong toàn quốc, có cổ đông
chiến lược nước ngoài là một Tập đoàn Tài chính Ngân hàng lớn Commonwealth
Bank of Australia (CBA) đến từ nước Australia. Mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với một
định chế tài chính đứng đầu trong các ngân hàng bán lẻ tại Australia sẽ tạo điều kiện
mở rộng quan hệ quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh.
Thực hiện đề án cơ cấu lại để nâng cao năng lực cạnh tranh, VIB đang triển khai
nhiều giải pháp đồng bộ để tiếp tục phát triển bền vững, nâng cao uy tín và vị thế trên
thị trường, như cơ cấu lại tổ chức và bộ máy điều hành, mở rộng thêm mạng lưới hoạt
động, tái định vị lại bộ thương hiệu, thay đổi bộ mặt văn phòng công sở theo không
gian mới trong đó đặt khách hàng là trọng tâm trong mọi hoạt động của ngân hàng
luôn hướng tới khách hàng, thay đổi mô hình chất lượng dịch vụ, nâng cao năng lực
quản trị rủi ro, xử lý nợ xấu, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,...Tuy nhiên đứng
trước những thách thức và cơ hội mới, đòi hỏi VIB cần phải tiếp tục có những giải
pháp phù hợp sát với thực tiễn hơn để nâng cao năng lực cạnh tranh. Xuất phát từ yêu
cầu cấp thiết đó, luận án chọn đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng
thương mại cổ phần quốc tế trên thị trường Việt nam” làm công trình nghiên cứu.


2. Mục tiêu nghiên cứu
Hệ thống hóa và góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận cơ bản về năng
lực cạnh tranh, phân tích một số lý thuyết về năng lực cạnh tranh của NHTM.
Khái quát kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
một số nước trên thế giới và rút ra bài học cho VIB nói riêng, cho các ngân hàng
thương mại Việt Nam nói chung.


3

Đánh giá tổng quan năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam,
chỉ ra những tồn tại và hạn chế của các kết quả nghiên cứu trước đây có liên quan đến
lĩnh vực cạnh tranh ngân hàng từ đó thấy rõ khoảng trống, những vấn đề còn tồn tại,
chưa được nghiên cứu về năng lực cạnh tranh ngân hàng thương mại.
Làm rõ thực trạng và đánh giá năng lực cạnh tranh của VIB thông qua các yếu tố
bên trong của ngân hàng (các yếu tố nội lực) nhằm xác định những kết quả đạt được,
những tồn tại, hạn chế và điểm mạnh, điểm yếu, trả lời câu hỏi năng lực cạnh tranh của
VIB hiện nay như thế nào ?
Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh
của VIB trên thị trường Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Năng lực cạnh tranh của VIB trên thị trường Việt nam dựa trên cơ sở
phân tích và đánh giá các tiêu chí phản ánh năng lực cạnh tranh, các hoạt động của
VIB gắn liền với môi trường hoạt động kinh doanh hiện nay cũng như trong thời
gian tới.
Phạm vi nghiên cứu:
Những vấn đề cơ bản về lý luận cạnh tranh và kinh nghiệm nâng cao năng lực
cạnh tranh của ngân hàng thương mại Việt nam trong xu thế hội nhập quốc tế .

Năng lực cạnh tranh của VIB trên thị trường Việt nam trong xu thế hội nhập quốc
tế và các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh.
Về thời gian: Tập trung vào các năm 2009 - 2013; một số tư liệu và tài liệu rộng
hơn, trước năm 2009, định hướng và tầm nhìn năm 2020.

4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê, khái quát tổng quan các kết quả nghiên cứu của các công
trình tương tự đã được công bố trước đó.
Khảo sát, so sánh, phân tích, tổng hợp, diễn giải và quy nạp, dự báo.
Các phương pháp nghiên cứu hiện đại: SWOT, Value chain, 5-force model,...
Khung nghiên cứu luận án như hình dưới đây


4

Hình 1.1. Khung nghiên cứu luận án

Chương
1

PHƯƠNG PHÁP, CÔNG

NỘI DUNG

KẾT QUẢ, MỤC TIÊU

CỤ NGHIÊN CỨU

NGHIÊN CỨU


ĐẠT ĐƯỢC

Thống kê
So sánh
Phân tích
Tổng hợp

Tổng quan
nghiên cứu
năng lực cạnh
tranh NHTM

Kế thừa kết
quả nghiên
cứu trong và
ngoài nước

Phân tích

Lý luận năng lực cạnh
tranh NHTM

Cạnh tranh
NHTM

Mô hình chuỗi
giá trị E.Porter

Chương
2


Chương
3

Mô hình 5
force model
E.Porter

Các nhân tố liên quan
năng lực cạnh tranh
NHTM

Thu thập
Quan sát
Phân tích
Đánh giá

Các chỉ tiêu phản ánh
năng lực cạnh tranh
của NHTM

Quan sát
Đánh giá

Kinh nghiệm Ngân
hàng nước ngoài

Áp dụng
NHTMVN


Thống kê
Phân tích
So sánh

Tổng quan năng lực
cạnh tranh NHTMVN

Thực trạng
Kết quả

Tổng quan và đánh
giá thực trạng năng
lực cạnh tranh VIB

Thực trạng
năng lực
cạnh tranh
VIB

Thống kê
Vận dung tiêu
chí đánh giá
Vận dụng các
nhân tố mô
hình 5 force

model Porter

Đưa ra 4
nhóm tiêu

chí đánh giá

Sử dụng mô
hình SWOT

Tổng hợp năng lực

Kết quả, hạn
chế. Nguyên
nhân

Phân tích
So sánh

Xu hướng
Cơ hội & thách thức

Định hướng
6 Giải pháp

Chương
4

Ảnh hưởng
của các nhân
tố đến năng
lực cạnh
tranh NHTM

Tổng hợp

Chọn lọc

Kiến nghị
nâng cao
năng lực
cạnh tranh
NHTM

Kiến nghị NHNN
Khuyến nghị với
NHTM


5

Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu tác giả cũng sử dụng thêm phương pháp so
sánh đánh giá các yếu tố môi trường nội bộ nhằm đánh giá được năng lực cạnh tranh
của mình trong mối tương quan so sánh với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường mục
tiêu, từ đó tìm ra được những lợi thế cơ bản nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngân hàng thương mại trên thị trường.

5. Đóng góp mới của luận án
Về mặt lý luận:
Luận án đã phân tích các trường phái quan điểm về cạnh tranh nói chung và năng
lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại nói riêng, hệ thống hóa và làm sáng tỏ các
vấn đề về nâng cao năng lực cạnh tranh để từ đó đưa ra được quan niệm về cạnh tranh
của ngân hàng thương mại.
Đã nghiên cứu hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt nam trên một
số các chỉ tiêu chính và tổng hợp thành 4 nhóm tiêu chí để đo lường năng lực cạnh
tranh làm cơ sở tham khảo cho quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh ngân hàng

thương mại. Ngoài các tiêu chí để đo lường năng lực cạnh tranh, luận án bổ sung thêm
tiêu chí đánh giá sự phát triển bền vững trong cạnh tranh gồm quy mô, khả năng tiếp
cận và tính bền vững của ngân hàng.
Thực hiện nghiên cứu và đánh giá chuyên sâu, từ đó đưa ra được những đóng góp
mới làm cơ sở cho các ngân hàng thương mại tham khảo để tăng năng lực cạnh tranh:
(i)

Tăng năng lực cạnh tranh từ việc cần xây dựng các trung tâm bán hàng, trung tâm
phê duyệt và hỗ trợ tín dụng tập trung theo các vùng kinh tế để chuyên môn hóa
nhằm tăng trưởng số lượng khách hàng, cho vay ổn định và bền vững, nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh.

(ii) Chú trọng đầu tư sâu vào phần mềm công nghệ (core banking) để khai thác các
tính năng nhằm tạo ra các gói sản phẩm dịch vụ tiện ích theo chuỗi cung ứng vừa
đảm bảo quản trị rủi ro đồng thời kiểm soát tối ưu hóa lợi nhuận; và xây dựng chỉ
số đánh giá thực hiện công việc KPI (Key Performance Indicator) đo lường đánh
giá hiệu quả hoạt động tại mọi thời điểm làm cơ sở quản trị năng lực cạnh tranh.


6

Về mặt thực tiễn:
Dựa trên nền tảng lý luận, luận án phân tích và đánh giá thực tiễn năng lực cạnh
tranh của VIB trên thị trường Việt nam, những bài học kinh nghiệm về nâng cao năng
lực cạnh tranh của một số ngân hàng trong và ngoài nước.
Chỉ ra những ưu điểm, kết quả đạt được và làm rõ những hạn chế về năng lực cạnh
tranh của VIB cũng như nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó. Trên cơ sở đó, luận
án đề xuất 6 giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh để hệ thống ngân hàng
thương mại Việt nam có thể tham khảo trong điều kiện thích hợp. Trong đó giải pháp
mới tập trung vào các nội dung sau:

(i) Xây dựng các trung tâm bán hàng, trung tâm phê duyệt và hỗ trợ tín dụng tập
trung theo các vùng kinh tế để chuyên môn hóa nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
và tăng trưởng ổn định, bền vững.
(ii) Tiếp tục tập trung phát triển khách hàng cá nhân theo định hướng ngân hàng bán
lẻ và chú trọng phát triển thêm các khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ SME
(Small and medium-sized enterprises).
(iii) Lựa chọn phát triển các sản phẩm để tập trung đầu tư chuyên môn hoá sâu, tránh
tình trạng triển khai tràn lan rất nhiều sản phẩm không tạo ra sự cạnh tranh chuyên
biệt và triển khai phương thức bán gói sản phẩm dịch vụ tiện ích theo chuỗi cung
ứng vừa đảm bảo quản trị rủi ro đồng thời kiểm soát tối ưu hóa lợi nhuận.
(iv) Chú trọng đầu tư sâu vào phần mềm công nghệ để khai thác các tính năng nhằm
tạo ra các sản phẩm dịch vụ tiện ích mới, xuất hiện đầu tiên trên thị trường - có
tính cạnh tranh cao và xây dựng chỉ số đánh giá thực hiện công việc KPI (Key
Performance Indicator) đo lường đánh giá hiệu quả hoạt động tại mọi thời điểm
làm cơ sở quản trị năng lực cạnh tranh.
(v) Xây dựng đội ngũ cổ đông giầu tiềm lực tài chính, có kinh nghiệm hoạt động và
quản lý ngân hàng, minh bạch và cam kết đầu tư – gắn bó lâu dài.
Việc xác định năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cụ thể tại VIB là một
cố gắng mới của tác giả nhưng cũng là điểm khó khăn đối với luận án vì năng lực cạnh
tranh là tổng hợp của nhiều nhân tố và không phải tất cả các nhân tố đó đều chịu tác
tác động trực tiếp của bản thân VIB mà còn có rất nhiều các nhân tố ảnh hưởng đến
năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại. Mặt khác, có những nhân tố không thể
đánh giá bằng các chỉ tiêu định lượng mà chỉ có thể đánh giá một cách định tính dựa
trên hiểu biết, kinh nghiệm công tác lâu năm trong ngành ngân hàng.


7

6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các công

trình nghiên cứu có liên quan đã được công bố, nội dung chính của luận án được kết
cấu thành 4 chương:
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Chương 2: NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Chương 3: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUỐC TẾ
Chương 4: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUỐC TẾ TRÊN THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM


8

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Các lý thuyết chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp
1.1.1. Quan niệm của trường phái cổ điển
Thuật ngữ “cạnh tranh” ngày càng được sử dụng phổ biến hơn trên các diễn đàn
kinh tế cũng như trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong các đề án, tài liệu,
nhưng nội dung khoa học phong phú của nó chưa bao giờ đạt tới sự thống nhất tuyệt
đối trong cách hiểu và vận dụng của các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn.
Chính vì thế, cạnh tranh luôn là chủ đề nghiên cứu thu hút được sự quan tâm lớn của
nhiều thế hệ các nhà khoa học, kể từ thế kỷ 17 đến nay.
Khởi nguồn của các nghiên cứu về cạnh tranh là triết học của Locke, Bentham coi
cá nhân con người (lợi ích, nhu cầu, hoạt động) giữ vị trí trung tâm. Họ coi quyền tự
do của cá nhân con người là tự nhiên và không mâu thuẫn với lợi ích chung của xã hội.
Các nhà kinh tế ở thế kỷ 17, 18 đã tiến hành nghiên cứu cạnh tranh trên nền tảng

của thế giới quan tư sản đó mà điển hình là Adam Smith và David Ricardo [36]. Phát
triển các kết quả nghiên cứu của Adam Smith, David Ricardo đã đưa ra lý thuyết
lợi thế so sánh để lý giải nguồn gốc thương mại giữa những người sản xuất có lợi
thế tuyệt đối cao và thấp. Theo ông, mỗi một nước đều có cơ cấu các ngành sản
xuất với mức chi phí rẻ và đắt khác nhau. Chỉ cần các nước tiến hành sản xuất loại
hàng hóa có chi phí rẻ tương đối so với loại hàng hóa khác và tiến hành trao đổi
thương mại ngang giá, bình đẳng (hàm ý cạnh tranh tự do) với nhau thì tất cả các
nước đều có nhiều của cải hơn. Tư tưởng về lợi thế so sánh của David Ricardo đã
tạo cơ sở hiểu sâu sắc hơn tác động của trao đổi hàng hóa theo nguyên tắc thị
trường, cạnh tranh đến tăng trưởng của cải của các quốc gia.
Karl Marx đã phát triển lý luận cạnh tranh ở tầm cao hơn, gồm cạnh tranh để
chiếm đoạt giá trị thặng dư, cạnh tranh thông qua cải tiến chất lượng và cạnh tranh
nguồn lực giữa các ngành. Ba mặt đó diễn ra xoay quanh việc trao đổi ngang giá hàng


9

hóa. Trên cơ sở ủng hộ thuyết giá trị - lao động của Smith, Karl Marx đã chỉ ra cơ chế
chuyển hóa giá trị của hàng hóa thành giá trị thị trường, giá cả sản xuất thông qua cạnh
tranh nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành [10].

1.1.2. Quan niệm của trường phái tân cổ điển
Sự khác biệt giữa hai trường phái cổ điển và tân cổ điển trong những nghiên cứu
về cạnh tranh là cơ sở và trạng thái cạnh tranh. Trường phái cổ điển nghiên cứu dựa
trên lý luận về giá trị - lao động ở trạng thái tĩnh, trường phái tân cổ điển nghiên cứu ở
trạng thái động dựa trên tiêu chuẩn hiệu quả (tối đa hóa đầu ra trên cơ sở đầu vào khan
hiếm). Các nhà kinh tế theo trường phái tân cổ điển rất đông đảo, từ những người khởi
đầu như W.S.Jevons (1835-1882), A.Mashall(1842-1924), L.Walras (1834-1910) đến
các nhà kinh tế đương đại. Những luận điểm chính của trường phái này làcạnh tranh
hoàn hảo mang tới hiệu quả và lý luận cạnh tranh theo tổ chức ngành [36].


1.1.3. Quan niệm của trường phái Áo
Trường phái Áo ra đời vào những năm 80 của thế kỷ XIX ở Áo với đại diện nổi
tiếng là J.Schumpeter, F.Hayek, C.Meuge,L.V.Mises. Họ cho rằng cạnh tranh hoàn
hảo không phù hợp với xã hội hiện thực. Mặc dù không phủ nhận cân bằng thị trường,
nhưng họ cho rằng đó là cân bằng động hướng tới thông tin mới, phát minh mới làm
thay đổi thị hiếu tiêu dùng, dư thừa tài nguyên. Do đó yếu tố cạnh tranh luôn xuất hiện
trên thị trường và đó là cơ hội của doanh nghiệp. Trường phái Áo ủng hộ độc quyền ở
phương diện khuyến khích sáng tạo, đổi mới và bảo hộ sáng chế, phát minh [36].

1.1.4. Lý thuyết về cạnh tranh của Michael E.Porter
* Lý luận về lợi thế cạnh tranh [11],[12],[13]. Năm 1985, lý luận “lợi thế cạnh
tranh” của Michael E.Porter giải thích hiện tượng thương mại quốc tế dưới giác độ
cạnh tranh và vai trò nổi bật của doanh nghiệp. Theo ông, của cải nhiều hay ít là do
năng suất quyết định. Năng suất phụ thuộc vào môi trường cạnh tranh (mô hình kim
cương) và được xác định bởi 4 yếu tố chính: điều kiện về các yếu tố sản xuất; điều
kiện về nhu cầu; chiến lược, cấu trúc và cạnh tranh trong nước của các công ty; các
ngành công nghiệp có liên quan và các ngành bổ trợ.
* Lý luận về cạnh tranh ngành [11],[12],[13]. TheoMichael E.Porter, khái niệm
tập hợp ngành là rất quan trọng. Khi phân tích cạnh tranh ngành Michael E.Porter


10

xem xét 5 yếu tố quan trọng là nhà cung cấp, người mua, sản phẩm thay thế, những
đối thủ mới tiềm năng và cạnh tranh giữa các đối thủ trong ngành.
* Vai trò của chính phủ trong nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, ngành và
toàn cầu hóa [11]. Môi trường kinh doanh bao gồm nhiều yếu tố như các điều kiện về
cầu; các điều kiện yếu tố sản xuất, chiến lược doanh nghịêp; cơ cấu và đối thủ cạnh
tranh; các ngành liên quan và sự hỗ trợ. Các yếu tố này luôn tác động qua lại, ảnh

hưởng lẫn nhau và thúc đẩy phát triển. Trong môi trường cạnh tranh mới, các yếu tố
trên vẫn chịu sự tác động của Nhà nước.
* Lý luận về chiến lược cạnh tranh quốc tế của doanh nghiệp [13]. Michael
E.Porter cho rằng, khi tham gia cạnh tranh quốc tế, doanh nghiệp trải qua 4 giai đoạn:
- Chạy đua các yếu tố sản xuất: đây là giai đoạn cạnh tranh dựa trên những yếu tố
sản xuất cơ bản nào đó để sản xuất với giá hoặc công nghệ thấp, rẻ. Ở giai đoạn này
các doanh nghiệp rất nhạy cảm với tính chu kỳ của kinh tế thế giới và tỷ giá hối đoái.
- Chạy đua đầu tư: lợi thế cạnh tranh dựa trên yêu cầu của doanh nghiệp và năng
lực đầu tư của quốc gia. Các doanh nghiệp tiếp tục cạnh tranh về giá, sản phẩm
được tiêu chuẩn hóa nhưng vẫn lạc hậu về thế hệ công nghệ so với nước khác.
- Chạy đua sáng tạo: doanh nghiệp nội địa có khả năng cạnh tranh ở quy mô lớn
với doanh nghiệp nước ngoài và thành công nhờ sự cải tiến nhanh, không ngừng.
- Chạy đua của cải: cạnh tranh ngành giảm, mục tiêu là tích lũy của cải đã tạo ra.
Các doanh nghiệp trong giai đoạn này mất lợi thế cạnh tranh quốc tế, né tránh cạnh
tranh, hướng về tạo dựng vị thế vững chắc trên thị trường, cải tiến công nghệ chậm lại,
chủ yếu tìm cách sáp nhập, thôn tính nhau.
Theo Michael E.Porter: “Cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh
tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà
doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình quân hóa lợi nhuận
trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm đi”.
Khi doanh nghiệp tham gia cạnh tranh thương mại quốc tế cần phải có “lợi thế
cạnh tranh” và “lợi thế so sánh”, lợi thế cạnh tranh là sức mạnh nội sinh của doanh
nghiệp, của quốc gia, còn lợi thế so sánh tạo cho doanh nghiệp quốc gia đó có thuận
lợi trong sản xuất cũng như trong thương mại; lợi thế cạnh tranh và lợi thế so sánh có
quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, lợi thế cạnh tranh phát triển dựa trên lợi
thế so sánh, lợi thế so sánh phát huy nhờ lợi thế cạnh tranh [37].


11


1.1.5. Lý thuyết cạnh tranh của Karl Marx
Marx phân tích cạnh tranh trên 3 khía cạnh: cạnh tranh về giá trị thặng dư, cạnh
tranh chất lượng, cạnh tranh giữa các ngành và đều diễn ra xoay quanh giá trị và chỉ có
lao động trừu tượng mới tạo ra giá trị mới. Marx chỉ ra cơ cấu chuyển hoá giá trị thặng
dư thành lợi nhuận bình quân và giá trị hàng hoá thành giá cả sản xuất trong điều kiện
tự do cạnh tranh. Marx đã định nghĩa cạnh tranh có nghĩa là sự đấu tranh, ganh đua, thi
đua giữa các đối tượng cùng phẩm chất, cùng loại, đồng giá trị nhằm đạt được những
ưu thế lợi ích, mục tiêu xác định". Trong lĩnh vực kinh tế, cạnh tranh thể hiện đó là sự
"đối địch giữa các hãng kinh doanh trên cùng một thị trường để giành được nhiều
khách hàng hơn, thu hút được nhiều lợi nhuận hơn cho bản thân, thường là bằng cách
bán theo giá thấp hay cung cấp một chất lượng hàng hoá cao hơn". Kết quả của cạnh
tranh là thanh lọc, loại bỏ những doanh nghiệp kinh doanh kém phát triển. Đó cũng
chính là quy luật tất yếu của hoạt động kinh tế [36].

1.2. Tổng hợp các công trình nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của Ngân
hàng thương mại
1.2.1. Nghiên cứu của tác giả ngoài nước
Barbara Casu, Philip Molyneux (2000), giảng viên khoa kế toán của Trường đại
học xứ Wales đã tiến hành nghiên cứu so sánh kết quả hoạt động của hệ thống ngân
hàng Châu Âu. Tác giả đã dùng phương pháp phân tích phát triển dữ liệu phi tham số
(Non-parametric Data Development Analysis) kết hợp với cách tiếp cận hồi qui Tobit để
phân tích tính cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Châu Âu trong bối cảnh thị trường Châu
Âu thống nhất trong giai đoạn 1993-1997 [36].
Bert Scholtens (2000) đã nghiên cứu về cạnh tranh, tăng trưởng và hiệu quả của
ngành công nghiệp ngân hàng, phân tích mối liên hệ giữa cấu trúc thị trường và hiệu
quả bằng phương pháp phân tích ổn định có giới hạn (extreme bounds analysis) [36].
Allen N.Berger và Loretta J.Mester (2001) đã nghiên cứu về sự thay đổi hiệu quả
của hệ thống ngân hàng Mỹ do sự thay đổi về các yếu tố kỹ thuật, cạnh tranh và qui
định của Chính phủ. Nghiên cứu đã cho thấy trong giai đoạn 1991-1997, hiệu quả về
chi phí giảm sút trong khi lợi nhuận được cải thiện một cách đáng kể, đặc biệt là các

ngân hàng tham gia vào quá trình sát nhập, có sự gia tăng lợi nhuận bằng cách gia tăng


12

các dịch vụ cao cấp. Tuy nhiên, theo khuyến cáo của công trình nghiên cứu, việc loại
bỏ doanh thu trong quá trình nghiên cứu có thể dẫn đến những kết quả sai [36].
Lý luận “lợi thế cạnh tranh” (năm 1985) của Michael E.Porter giải thích hiện
tượng thương mại quốc tế dưới giác độ cạnh tranh và vai trò nổi bật của doanh nghiệp.
Theo ông, của cải nhiều hay ít là do năng suất quyết định. Năng suất phụ thuộc vào
môi trường cạnh tranh [37].
Nhiều nghiên cứu khác được tiến hành ở nhiều nước trên thế giới tập trung vào
lĩnh vực năng suất và từ năng suất có thể phân tích về tính cạnh tranh thông qua các
chỉ tiêu năng suất. Các nghiên cứu này hầu hết đều vận dụng mô hình kinh tế lượng,
hàm sản xuất để đo lường các nhân tố tác động đến năng suất của công ty hay của
ngành. Từ kết quả nghiên cứu mối quan hệ giữa năng suất với các yếu tố đầu vào có
tác động đến năng suất, đã đi đến lập luận về tác động của nó đến hiệu quả và cạnh
tranh ở mức độ doanh nghiệp và mức độ ngành.

1.2.2. Nghiên cứu của tác giả trong nước
1.2.2.1. Sách xuất bản
Cuốn sách với tiêu đề:“Năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong
xu thế hội nhập” của PGS.TS. Nguyễn Thị Quy, Đại học Ngoại thương Hà Nội, đã đề
cập đến nhiều khía cạnh lý thuyết và thực tiễn về năng lực cạnh tranh và đánh giá năng
lực cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam. Tác giả đã định nghĩa về năng lực cạnh
tranh của NHTM là khả năng ngân hàng đó tạo ra, duy trì và phát triển những lợi thế
nhằm duy trì và mở rộng thị phần; đạt được mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình
của ngành và liên tục tăng đồng thời đảm bảo sự hoạt động an toàn và lành mạnh có
khả năng chống đỡ và vượt qua những biến động bất lợi của môi trường kinh doanh”.
Sách không nghiên cứu năng lực cạnh tranh của một NHTM cụ thể tại Việt Nam [34].


1.2.2.2. Luận án tiến sĩ kinh tế bảo vệ trong khoảng 10 năm gần đây
Trong 10 năm về đây có một số đề tài luận án tiến sĩ đã bảo vệ thành công và
được công bố viết về năng lực cạnh tranh của NHTMVN, cụ thể:
a/ Về nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam nói chung
Đề tài:“Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập của các ngân
hàng thương mại Việt Nam”của tác giả Trịnh Quốc Trung bảo vệ năm 2004, tại trường


13

Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh [51]. Tác giả luận án đã phân tích những vấn
đề chung về cạnh tranh, hội nhập và kinh doanh ngân hàng qua đó khái quát các đặc
tính của kinh tế thị trường hiện đại và tính tất yếu khách quan của cạnh tranh cũng
như hội nhập. Thực trạng và giải pháp được đề cập có giá trị cách đây 10 năm, đến nay
thực tế đã diễn biến khác nhiều.
Đề tài:“Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” của tác giả Lê Đình Hạc, bảo vệ
năm 2005 tại trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh [9]. Tác giả luận án đã
hệ thống hóa được một số vấn đề mang tính lý luận về cạnh tranh, hội nhập, hoạt động
ngân hàng liên quan đến cạnh tranh, năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
trong nền kinh tế. Thực trạng và giải pháp được đề cập có giá trị cách đây 9 năm và
cũng đã có nhiều sự thay đổi.
b/Về nâng cao năng lực cạnh tranh của một NHTM Việt Nam cụ thể.
Đề tài:“Nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, của tác giả Phan Hồng Quang bảo vệ
năm 2007, tại Viện nghiên cứu thương mại [46],[47]. Luận án đã nêu lên được những
vấn đề cơ bản về năng lực cạnh tranh của NHTM ở giai đoạn trước khi gia nhập WTO
và phù hợp với NHTM Nhà nước, không phù hợp với ngân hàng thương mại cổ phần.
Đề tài:“Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần

Ngoại thương Việt Nam” của tác giả Đỗ Thị Tố Quyên, bảo vệ năm 2012 tại Đại học
Kinh tế quốc dân [5]. Tác giả tập trung vào nghiên cứu góc độ đầu tư cho nâng cao
năng lực cạnh tranh của một NHTM. Luận án trên góc độ chuyên ngành kinh tế đầu
tư. Vietcombank có những đặc điểm khác so với VIB và các NHTM cổ phần khác.
c/Về nâng cao năng lực cạnh tranh của một Chi nhánh NHTM Việt Nam
Đề tài:“Năng lực cạnh tranh của chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển
nông thôn tỉnh Long An trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế" của tác giả Nguyễn
Kim Thài, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm
2012 [36]. Tác giả tập trung nghiên cứu toàn diện các khía cạnh về năng lực cạnh
tranh và phạm vi chỉ là năng lực cạnh tranh của một chi nhánh NHTM nhà nước.

d/Về nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam theo ngành.
Đề tài:“Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp
thương mại Việt Nam trong giai đoạn mới”của tác giả Nguyễn Vĩnh Thanh, bảo vệ


14

năm 2005 tại trường Đại học thương mại [38]. Tác giả đã đưa ra quan niệm: Sức cạnh
tranh thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với các đối thủ khác trong việc
thỏa mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ích ngày càng cao cho doanh
nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và ngoài nước. Thực trạng và giải
pháp được đề cập có giá trị cách đây 9 năm và thị trường đã có nhiều thay đổi. Công
trình không nghiên cứu năng lực cạnh tranh cụ thể của một NHTM Việt Nam.
1.2.2.3. Đề tài nghiên cứu khoa học
Đề tài: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của một số giải pháp nâng cao hiệu quả cạnh
tranh và hợp tác trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam”. Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp ngành, Mã số: KNH 2000 – 13. Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Đắc Hưng, bảo vệ
tháng 2-2001 [32]. Đề tài tập trung vào phân tích làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản,
các đặc điểm chung và xu hướng cạnh tranh, hợp tác của hoạt động ngân hàng trên

thế giới, trong khu vực thời gian qua. Phân tích và đánh giá thực trạng môi trường và
hoạt động cạnh tranh, hợp tác của hoạt động ngân hàng trong 10 năm qua, nêu lên
những mặt tích cực, hạn chế, tìm ra các nguyên nhân. Đề xuất một số quan điểm, giải
pháp nhằm khai thác các mặt mạnh, hạn chế những mặt tiêu cực nâng cao hiệu quả
cạnh tranh, hợp tác của hoạt động ngân hàng ở Việt Nam.
Về cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng, đề tài đã đưa ra quan điểm: Hoạt động
ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt trong số các loại hình kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường; đó là hoạt động kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ tài
chính có liên quan. Do đó, cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng được hiểu là chủ
thể ngân hàng với nghệ thuật sử dụng tổng hợp các phương thức, yếu tố,...nhằm
giành được phần thắng trên thị trường với lợi nhuận cao, nâng cao vai trò và vị thế
trên thương trường.
Đề tài:“Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Thương mại
cổ phần trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh” của Viện kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh năm 2005 do tiến sỹ Lê Hùng làm chủ nhiệm [10]. Trong kỷ yếu các tác giả đã
đưa ra phân tích những cơ hội và thách thức đối với hệ thống ngân hàng Việt nam khi
hội nhập kinh tế quốc tế. Trong nội dung đề tài này thực trạng và giải pháp được đề
cập có giá trị cách đây 8 năm đến nay thực tế đã diễn biến khác nhiều..
Ngoài ra cũng có một số luận án tiến sĩ nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của
Vietcombank, Vietinbank, Chi nhánh ngân hàng thương mại. Có khá nhiều bài viết


15

đăng trên một số báo, tạp chí, kỷ yếu hội thảo đề cập đến năng lực cạnh tranh và nâng
cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại Việt Nam. Hầu hết các bài này đều
phân tích một số mặt nào đó của môi trường cạnh tranh ngân hàng, yêu cầu nâng cao
năng lực và sức cạnh tranh cụ thể của ngân hàng thương mại Việt Nam trong xu hướng
hội nhập quốc tế.


1.3. Những điểm đã thống nhất và những điểm cần nghiên cứu tiếp về năng
lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
1.3.1. Những điểm đã thống nhất về năng lực cạnh tranh của ngân hàng
thương mại
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trong nước và quốc tế về năng lực cạnh
tranh của ngân hàng thương mại đã đi đến thống nhất ở một số điểm sau:
- Cạnh tranh ngân hàng là một môi trường cạnh tranh đặc biệt giữa các đơn vị kinh
doanh tiền tệ với mức độ khác biệt về sản phẩm thấp, tốc độ sao chép nhanh, mức độ
rủi ro cao, chịu sự điều tiết rất lớn của chính sách tài chính, tiền tệ của chính phủ.
Trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập, cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại
càng trở lên gay gắt hơn đòi hỏi ngân hàng thương mại nào cũng phải chú trọng nâng cao
năng lực cạnh tranh.
- Để cạnh tranh thắng lợi cần phải nâng cao năng lực toàn diện phù hợp với môi
trường cạnh tranh, coi trọng năng lực tài chính, chất lượng nguồn nhân lực, nhất là
nhân lực quản lý, công nghệ ngân hàng, mạng lưới, chủng loại và chất lượng sản
phẩm. Môi trường cạnh tranh nhấn mạnh khuôn khổ pháp lý và đối thủ cạnh tranh.
- Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh thống nhất ở phương diện tìm
cách cải thiện các tiêu chí đo lường năng lực và bảo hộ môi trường cạnh tranh
lành mạnh.
- Mỗi quốc gia, mỗi ngân hàng thương mại có phương thức riêng của mình để
nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên các tác giả đều thống nhất ở 3 phương thức:
Tự ngân hàng thương mại nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua phát huy điểm
mạnh cốt lõi và khắc phục điểm còn yếu kém, hệ thống ngân hàng phải được tổ chức
tốt để có thị trường tài chính lành mạnh, vai trò to lớn của chính phủ trong hỗ trợ ngân
hàng thương mại nâng cao năng lực cạnh tranh.
Có những giải pháp chỉ áp dụng ở một ngân hàng thương mại cụ thể hoặc ở
một lĩnh vực hoạt động riêng, chưa có các giải pháp tổng thể. Ở giai đoạn này,
kinh tế thị trường nói chung và ngành ngân hàng nói riêng chuẩn bị để bước vào



16

hội nhập, hoạt động mang tính ổn định hỗ trợ thị trường và nền kinh tế là chính,
chưa có nhiều sự biến động và cạnh tranh, vấn đề quản trị rủi ro và an toàn hệ
thống chưa được chính thức chú trọng và quan tâm, ngoại trừ khối ngân hàng cổ
phần tư nhân.
Chưa đề cập đến sự cạnh tranh mang tính chiều sâu : đầu tư và khai thác về công
nghệ ngân hàng, nghiên cứu sản phẩm chuyên biệt và sản phẩm theo gói (nói đến sản
phẩm là người tiêu dùng biết đến tên ngân hàng), phân khúc thị trường và khách hàng
mục tiêu - trọng tâm, tầm quan trọng của cổ đông và cổ đông chiến lược, hình ảnh và
thương hiệu của ngân hàng.

1.3.2. Những điểm cần tiếp tục nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của ngân
hàng thương mại
Trên cơ sở nghiên cứu tổng quan về lý thuyết cạnh tranh trong kinh tế thị trường
và lý thuyết về cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng, đánh giá các điểm đã thống nhất
và chưa thống nhất của các công trình nghiên cứu và luận án đã nghiên cứu trước. Dựa
vào kinh nghiệm điều hành hoạt động thực tế chi nhánh ngân hàng cổ phần, tác giả
nhận thấy khoảng trống mà các tác giả trước chưa đề cập đến hoặc đã nêu ra nhưng
chưa đi vào đánh giá tầm quan trọng, thực hiện nghiên cứu chuyên sâu,… tác giả sẽ
tiếp tục nghiên cứu để từ đó có thêm các giải pháp cụ thể rõ ràng hơn nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh so với các ngân hàng thương mại khác.
Các giải pháp được tiếp cận: (i) Xây dựng các trung tâm bán hàng, trung tâm phê
duyệt và hỗ trợ tín dụng tập trung theo các vùng kinh tế để chuyên môn hóa nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng trưởng ổn định và bền vững, (ii) Chú trọng đầu tư
sâu vào phần mềm công nghệ để khai thác các tính năng nhằm tạo ra các sản phẩm
dịch vụ tiện ích mới, xuất hiện đầu tiên trên thị trường - có tính cạnh tranh cao và xây
dựng chỉ số đánh giá thực hiện công việc KPI (Key Performance Indicator) đo lường
đánh giá hiệu quả hoạt động tại mọi thời điểm làm cơ sở quản trị năng lực cạnh tranh,
(iii) Tìm kiếm cổ đông chiến lược là các ngân hàng lớn thương hiệu toàn cầu để ký

hợp tác toàn diện và nhận chuyển giao lợi thế về vốn, kinh nghiệm, công nghệ và năng
lực, mở rộng hệ thống ngân hàng đại lý và nâng cao uy tín trong giao dịch ngân hàng
quốc tế, (iv) Xây dựng đội ngũ cổ đông giầu tiềm lực tài chính, có kinh nghiệm hoạt
động và quản lý ngân hàng, minh bạch và cam kết đầu tư – gắn bó lâu dài, (v) Tiếp tục


17

tập trung phát triển khách hàng cá nhân theo định hướng ngân hàng bán lẻ và các
khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ SME, (vi) Lựa chọn phát triển các sản phẩm để
tập trung đầu tư chuyên môn hoá sâu, tránh tình trạng triển khai tràn lan rất nhiều sản
phẩm không tạo ra sự cạnh tranh chuyên biệt và triển khai phương thức bán gói sản
phẩm dịch vụ tiện ích theo chuỗi cung ứng vừa đảm bảo quản trị rủi ro đồng thời kiểm
soát tối ưu hóa lợi nhuận.

Kết luận chương 1

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung và năng lực cạnh tranh của
ngân hàng thương mại nói riêng thu hút được sự quan tâm lớn ở cả trong và ngoài
nước. Đã có rất nhiều trường phái, quan điểm, các nhà khoa học khác nhau nghiên cứu
về năng lực cạnh tranh qua các thời kỳ khác nhau trên thế giới.
Tại Việt nam cũng đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu khoa học ở các cấp, nhiều
cuộc hội thảo, luận án tiến sĩ và các công trình nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của
ngân hàng thương mại trong các giai đoạn và ở quy mô khác nhau, có những đánh giá,
đề xuất các giải pháp cụ thể khác nhau.
Dựa trên kết quả nghiên cứu tổng quan, luận án đã chỉ ra những khoảng trống cả
về lý luận và thực tiễn nghiên cứu chủ đề cạnh tranh của ngân hàng thương mại cần
phải tiếp tục nghiên cứu hay còn những quan điểm khác nhau cần tiếp tục được giải
quyết.



18

Chương 2
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
2.1. Cạnh tranh của ngân hàng thương mại
2.1.1. Quan niệm về cạnh tranh của ngân hàng thương mại
Qua những nội dung nghiên cứu, phân tích và trình bày trong chương 1, luận án
xin đưa ra quan điểm riêng về cạnh tranh của ngân hàng thương mại là sự ganh đua
giữa các ngân hàng thương mại về sản phẩm dịch vụ cung ứng để tồn tại và phát triển
mở rộng thêm thị phần, nâng cao uy tín và lợi thế của ngân hàng trên thương trường
nhằm mục tiêu gia tăng thêm nhiều lợi nhuận.
Trong cạnh tranh sẽ phát sinh ra người có khả năng cạnh tranh mạnh hay yếu,
sản phẩm có khả năng cạnh tranh mạnh hay yếu. Để có thể chiến thắng trong cạnh
tranh thì các chủ thể cần phải có khả năng cạnh tranh (sức cạnh tranh hay năng lực
cạnh tranh). Để có khả năng cạnh tranh, các chủ thể phải không ngừng nâng cao năng
lực cạnh tranh. Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế
thị trường do đó không nằm ngoài những nội dung nói trên về cạnh tranh.

2.1.2. Các loại hình cạnh tranh của ngân hàng thương mại
Có nhiều tiêu thức được sử dụng làm căn cứ để phân loại cạnh tranh. Trong đó
phổ biến thường dựa vào chủ thể tham gia thị trường, mức độ, tính chất cạnh tranh trên
thị trường và phạm vi ngành.
Căn cứ các chủ thể tham gia trên thị trường cạnh tranh được chia làm 3 loại:
-

Cạnh tranh giữa ngân hàng và các định chế tài chính phi ngân hàng: Định chế

tài chính phi ngân hàng bao gồm các công ty tài chính và cho thuê tài chính, quỹ đầu

tư và công ty quản lý quỹ, công ty chứng khoán và bảo hiểm,… là các tổ chức kinh
doanh trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ, được thực hiện một số hoạt động ngân hàng
như là nội dung kinh doanh thương xuyên, nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ
hạn và làm dịch vụ thanh toán. Như vậy sự canh tranh ở đây đơn thuần chỉ là cạnh
tranh về hoạt động cho vay, tuy nhiên các định chế tài chính phi ngân hàng không thể
đủ sức cạnh tranh vì phạm vi hoạt động đã giới hạn hơn ngân hàng rất nhiều.
-

Cạnh tranh giữa các ngân hàng trong nước và các ngân hàng nước ngoài: Thực


19

tế từ khi mở cửa thị trường tài chính đến nay thì sự cạnh tranh này mới phát sinh. Ban
đầu, nhóm các NHNNg thường lựa chọn phục vụ cho các doanh nghiệp nước ngoài
đầu tư vào Việt nam và tìm kiếm thị trường bán lẻ nội địa nhiều hơn (cho vay tiêu
dùng, cho vay thẻ,…), thị phần thậm chí còn vượt hẳn so với các ngân hàng thương
mại trong nước. Quy trình thực hiện rất bài bản và chuyên nghiệp, hoạt động kinh
doanh hiệu quả và ít rủi ro hơn. Tuy nhiên, ngoài thị trường bán lẻ thì NHNNg không
cạnh tranh được ở các hoạt động cho vay khác cũng như huy động vốn và cung cấp
các dịch vụ thanh toán cho các doanh nghiệp trong nước.
-

Cạnh tranh giữa các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước và các NHTMCP: Đây là

cuộc cạnh tranh chủ yếu trên thị trường với tính gay go và khốc liệt, có ý nghĩa sống
còn đối với các ngân hàng nhằm chiếm lĩnh thị phần, thu hút khách hàng và kết quả là
sản phẩm dịch vụ gia tăng về chất lượng, tiện ích hơn nhưng giá cả lại thấp hơn và có
lợi cho khách hàng hơn. Ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước có lợi thế về vốn, thường
được thành lập trước các NHTMCP nên có quy mô hoạt động và mạng lưới rộng lớn,

hệ thống khách hàng nhiều và đa dạng. Tuy nhiên kể từ khi hệ thống NHTMCP được
thành lập mới và chuyển đổi từ ngân hàng nông thông lên thì sự cạnh tranh là rõ rệt.
Căn cứ vào hình thái và tính chất của cạnh tranh trên thị trường, cạnh tranh được
chia làm hai loại:
-

Cạnh tranh hoàn hảo: Là loại hình cạnh tranh có vô số ngân hàng phục vụ,

khách hàng độc lập với nhau, sản phẩm dịch vụ đồng nhất, thông tin đầy đủ và không
có rào cản qui định. Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, ngân hàng thương mại là
người chấp nhận giá tức là hoàn toàn không có sức mạnh trên thị trường, mọi sản
phẩm dịch vụ đều có thể bán hết ở mức giá hiện hành trên thị trường. Vì vậy, ngân
hàng không thể bán được sản phẩm dịch vụ ở mức giá cao hơn vì các đối thủ của họ sẽ
bán các sản phẩm dịch vụ cùng loại ở mức giá trên thị trường cho người tiêu dùng.
-

Cạnh tranh không hoàn hảo: Bao gồm cạnh tranh mang tính độc quyền và độc

quyền tập đoàn.
Cạnh tranh mang tính độc quyền là thị trường trong đó có nhiều ngân hàng bán
những sản phẩm dịch vụ tương tự (thay thế được cho nhau) nhưng được phân biệt khác
nhau. Các ngân hàng cạnh tranh với nhau bằng việc bán sản phẩm dịch vụ khác nhau
về nhãn hiệu, tiện ích, các điều kiện dịch vụ đi kèm, chất lượng và danh tiếng; mỗi


20

ngân hàng là người sản xuất duy nhất với sản phẩm dịch vụ của mình; hình thức cạnh
tranh chủ yếu là thông qua thương hiệu và nhãn mác.
Cạnh tranh mang tính độc quyền tập đoàn: Khi đó thị trường chỉ có vài ngân hàng

bán những sản phẩm đồng nhất (độc quyền tập đoàn thuần tuý) hoặc phân biệt (độc
quyền tập đoàn phân biệt). Đặc điểm của độc quyền tập đoàn là chỉ có ít ngân hàng
cạnh tranh trực tiếp, các ngân hàng phụ thuộc chặt chẽ, mỗi ngân hàng khi ra quyết
định phải cân nhắc cẩn thận xem hành động của mình ảnh hưởng như thế nào tới đối
thủ cạnh tranh và sẽ phải ứng xử như thế nào?
Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế có hai loại cạnh tranh:
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là cạnh tranh giữa các nhà doanh nghiệp, giữa
các NHTM trong cùng một ngành, cùng sản xuất, tiêu thụ một loại hàng hoá hoặc dịch
vụ nào đó, trong đó các chủ doanh nghiệp, chủ ngân hàng tìm mọi cách để thôn tính
lẫn nhau, giành giật khách hàng về phía mình, chiếm lĩnh thị trường. Biện pháp cạnh
tranh của hình thức này chủ yếu là cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, giảm
chi phí sản xuất, giá trị cá biệt (giá trị xã hội), thu lợi nhuận siêu ngạch. Kết quả cạnh
tranh trong nội bộ ngành là làm cho kỹ thuật phát triển, điều kiện sản xuất trong một
ngành thay đổi, giá trị hàng hoá được xác định lại, tỷ suất lợi nhuận giảm xuống và
doanh nghiệp nào chiến thắng sẽ mở rộng được phạm vi hoạt động, doanh nghiệp thua
sẽ mất thị phần, thu hẹp phạm vi hoạt động, thậm chí dẫn tới phá sản.
- Cạnh tranh giữa các ngành: Là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, các NHTM
trong ngành kinh tế khác nhau nhằm mục đích đầu tư có lợi hơn. Biện pháp cạnh tranh
của hình thức này là chuyển dịch vốn từ ngành ít lợi nhuận sang ngành có nhiều lợi
nhuận hơn. Cạnh tranh giữa các ngành sẽ đem lại kết quả là các doanh nghiệp, các
NHTM ở các ngành khác nhau với cùng một số vốn bỏ ra chỉ thu được lợi nhuận như
nhau, tức là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân cho tất cả các ngành.

2.1.3. Đặc điểm cạnh tranh ngân hàng
Đặc điểm chung của cạnh tranh ngân hàng trong lĩnh vực dịch vụ:
- Do sản phẩm dịch vụ có tính vô hình nên khó có thể cố định sức mạnh cạnh
tranh vào hình thái vật chất của sản phẩm. Người mua sản phẩm dịch vụ thường không
nhận biết được đặc tính của sản phẩm bằng cách đo lường các giá trị sử dụng của nó.



21

Ngược lại, quá trình sản xuất dịch vụ cũng chính là quá trình sử dụng dịch vụ nên
người cung ứng dịch vụ không thể chờ sản xuất xong mới đem sản phẩm đi quảng bá,
mà phải quảng cáo trước khi sản xuất, trong quá trình sản xuất và sau khi khách hàng
đã sử dụng dịch vụ. Với sản phẩm vô hình, người sản xuất phải đem cả quá trình sản
xuất ra cạnh tranh, hơn nữa quá trình sản xuất đó có sự tham gia của khách hàng nên
khách hàng cảm nhận được sự hợp lý hay không hợp lý của quá trình sản xuất. Ngoài
ra nhân viên bán hàng chính là nhân viên sản xuất dịch vụ nên thái độ của những
người này với khách hàng cũng ảnh hưởng đến cạnh tranh. Phương thức sản xuất, môi
trường sản xuất, phương tiện, công cụ sản xuất cũng tham gia trực tiếp vào cạnh tranh.
- Sản phẩm dịch vụ có đặc tính vừa sản xuất, vừa sử dụng, người tiêu dùng không
có thời gian đo, đếm chất lượng, không có điều kiện sử dụng dịch vụ một cách độc lập,
hoàn toàn theo phong cách riêng của họ, mà phụ thuộc sâu sắc vào môi trường, cảnh
quan, không khí do người sản xuất tạo ra. Chính vì vậy các yếu tố mang tính tâm lý,
cảm nhận của khách hàng như thuận tiện, thân thiện, tin cậy, thoải mái,…làm nên sức
mạnh cạnh tranh của nhà cung ứng dịch vụ.
Nói tóm lại, hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, các ngân hàng thương mại phải
mang quy trình công nghệ, quy trình sản xuất cũng như các yếu tố sản xuất tham gia
cạnh tranh trên thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Cạnh tranh ngân hàng có đặc điểm riêng:
- Ngân hàng là ngành kinh doanh có điều kiện (đáp ứng một số điều kiện cao với
số lượng cấp phép hạn chế) do tác động to lớn của nó đến nền kinh tế, đặc biệt là tính
hệ thống cao và tương tác có tính dây chuyền. Các NHTM hoạt động kinh doanh trong
lĩnh vực đặc biệt, đó là kinh doanh tiền tệ. Đây là một lĩnh vực hoạt động đòi hỏi sự
quản lý chặt chẽ của cơ quan quản lý (NHTW, Chính phủ…) thông qua Luật, quy định
và các điều kiện ràng buộc khác nhau. Bởi lẽ NHTM huy động tiền nhàn rỗi chủ yếu
từ dân cư, thông qua hoạt động và chức năng của mình (chủ yếu là chức năng tạo tiền)
NHTM sẽ thực hiện cho vay, thanh toán… đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Nếu
không quản lý và kiểm tra giám sát chặt chẽ các hoạt động của NHTM sẽ dẫn đến tình

trạng “phá rào” dẫn đến đổ vỡ hoặc phá sản ngân hàng. Điều này không chỉ hệ lụy với
riêng từng ngân hàng mà còn cả hệ thống thậm chí kéo theo hệ lụy đến cả nền kinh tế.
Mặc dù các NHTM luôn cạnh tranh gay gắt với nhau để mở rộng thị phần, tranh thủ


22

khách hàng, nhưng trong tác nghiệp chúng phải hợp tác với nhau để thực thi các chức
năng có tính hệ thống như thanh toán bù trừ, cung cấp thông tin khách hàng cho nhau
để giảm thiểu rủi ro khách hàng gian lận, ngăn chặn tác động dây chuyền làm sụp đổ
hệ thống,…Nói cách khác, ngân hàng thương mại cạnh tranh với nhau trong mối quan
hệ biện chứng của các bộ phận hợp thành hệ thống. NHTM nào cũng phải bảo vệ tính
ổn định, minh bạch và giảm thiểu rủi ro của cả hệ thống, nếu không, sự sụp đổ của
ngân hàng này sẽ kéo theo ngân hàng khác sụp đổ. Để hỗ trợ cho nhau, đôi khi các
ngân hàng thương mại phải cứu nguy cho nhau chứ không phải tiêu diệt lẫn nhau.
- Sản phẩm có rất ít sự khác biệt: Hàng hóa mà ngân hàng thương mại cung cấp
cho khách hàng là quyền sử dụng tiền theo thời gian. Phạm vi của sự khác biệt không
nằm ở tiền mà ở quy trình, tiêu chuẩn, thái độ và phương thức cung cấp, huy động tiền,
ở khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng, không về chất lượng, mà thuần túy về số
lượng và độ dài thời gian sử dụng tiền. Nói cách khác, cạnh tranh ngân hàng vừa dựa
vào chất lượng sản phẩm dịch vụ tiện ích, an toàn,…cung cấp cho khách hàng, dựa vào
phương thức, số lượng cung cấp nhiều hơn và thái độ phục vụ gần gũi, thân thiện, tin
tưởng, phong cách giao dịch chuyên nghiệp và thân thiện.
- Cạnh tranh giá cả trong hoạt động ngân hàng cũng khá hạn chế. Bởi vì, lãi suất
đầu vào và đầu ra của các ngân hàng dễ bị san phẳng, thậm chí còn chịu sự điều tiết
của chính phủ. Chính vì vậy, các ngân hàng thường cạnh tranh về quy mô cung ứng và
chi phí cung ứng hơn là giá bán hàng hóa, cạnh tranh dựa vào uy tín, thương hiệu hơn
là sự khác biệt sản phẩm.
- Cạnh tranh của ngân hàng thương mại chịu sự ảnh hưởng nhạy cảm của thị
trường tài chính quốc tế. Cùng với quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế dòng

vốn luân chuyển giữa các quốc gia ngày càng mạnh mẽ, các ngân hàng thương mại của
bất kỳ quốc gia nào cũng phải liên kết với các ngân hàng thương mại ngoài nước để thực
hiện trọn vẹn các dịch vụ của mình. Khi liên kết ngân hàng thương mại quốc gia phải
tuân thủ các qui định và tiêu chuẩn quốc tế, chịu sự tác động của biến động thị trường tài
chính quốc tế. Mỗi sự biến động về tỷ giá, lãi suất, điều kiện kinh tế cũng như chính sách
tiền tệ của các trung tâm kinh tế quốc tế đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các
ngân hàng thương mại trong nước. Việc tuân thủ những chuẩn mực quốc tế buộc các ngân
hàng thương mại phải điều chỉnh hành vi cạnh tranh.


23

Ngoài ra cùng với xu hướng tự do hóa thương mại, để phục vụ cho yêu cầu hội
nhập kinh tế khu vực và toàn cầu, theo nguyên tắc hội nhập, các nước buộc phải tự do
hóa trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng khiến cạnh tranh quốc gia trở thành cạnh tranh
quốc tế ngay trên sân nhà. Một trong những biểu hiện tự do hóa tài chính đó là xóa bỏ
rào cản phi kinh tế trong việc di chuyển vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác. Sự tự
do di chuyển vốn như vậy làm cho các ngân hàng thương mại ngày càng lệ thuộc hơn
vào thị trường tài chính quốc tế.
- Cạnh tranh ngân hàng dựa rất lớn vào yếu tố tâm lý như sự tín nhiệm, kỳ vọng
của người gửi tiền: Kinh doanh ngành ngân hàng có tính rủi ro rất cao. Những yếu tố
ngoài ngân hàng như khó khăn của khách hàng, thiên tai, bất ổn trên thị trường, các
yếu tố của bản thân ngân hàng như lòng tham lam, quá mạo hiểm của nhân viên kinh
doanh,…đều khiến ngân hàng đi đến chỗ phá sản, làm mất tiền của người gửi. Do tình
trạng thông tin bất đối xứng giữa ngân hàng và khách hàng khiến khách hàng không
thể kiểm soát được tình hình kinh doanh của ngân hàng. Chính vì vậy, bất cứ tin đồn
nào khiến người gửi tiền mất lòng tin vào hệ thống ngân hàng nói chung, ngân hàng
thương mại cụ thể nói riêng, họ liền ồ ạt rút tiền khỏi ngân hàng khiến ngân hàng gặp
khó khăn. Lợi dụng đặc tính này, giới lãnh đạo ngân hàng vô đạo đức có thể cạnh
tranh không lành mạnh bằng cách phao tin đồn,…

- Chủ thể cạnh tranh đa dạng: Trong điều kiện kinh tế thị trường hội nhập ngày
nay có nhiều chủ thể phi ngân hàng tham gia cạnh tranh trong kinh doanh hoạt động
ngân hàng. Các chủ thể phi ngân hàng bao gồm: công ty tài chính, các quỹ tín dụng,
các hình thái tiết kiệm như tiết kiệm bưu điện, điện lực, dầu khí, hóa chất, xi
măng,…các doanh nghiệp bảo hiểm, các doanh nghiệp sản xuất (cung cấp tín dụng
thương mại,…). Các định chế tài chính phi ngân hàng, mặc dù không phải là ngân
hàng, không được phép kinh doanh toàn bộ hoạt động như một ngân hàng, nhưng được
phép kinh doanh một hoặc một số hoạt động mang tính ngân hàng. Các định chế này
được thành lập trên cơ sở khai thác lợi thế tiềm năng của họ thông qua quá trình hoạt
động. Những hoạt động ngân hàng có tính phụ thêm trên cơ sở bắt nguồn từ hoạt động
chính, hoặc được thành lập từ ban đầu do không đủ điều kiện để thành lập ngân hàng
mà chỉ được phép hoạt động một vài sản phẩm ngân hàng, chủ thể này có thể sẽ là các
ngân hàng tiềm năng trong tương lai khi đủ điều kiện.


24

Các chủ thể cạnh tranh với các ngân hàng thương mại trong điều kiện hội nhập
không chỉ là các ngân hàng thương mại, các định chế tài chính phi ngân hàng trong
nước mà còn cả các ngân hàng thương mại, các định chế tài chính phi ngân hàng đến
từ một hay nhiều quốc gia khác trên thế giới. Đối với các nước đang phát triển, những
đối thủ đến từ các quốc gia trên thế giới là những ngân hàng, tập đoàn tài chính có
tiềm lực tài chính mạnh, có nhiều năm kinh nghiệm hoạt động ngân hàng trong một
nền kinh tế thị trường, đe dọa xâm chiếm thị phần của các ngân hàng thương mại trong
nước. Mặt khác quá trình hội nhập cũng hình thành nên các tổ chức tài chính khu vực
quốc tế. Các tổ chức này cũng có thể là những đối tác tham gia cạnh tranh với các
ngân hàng thương mại trong nước.
Do đối tượng kinh doanh chủ yếu là các dịch vụ tài chính, liên quan đến tiền tệ và
hoạt động ngân hàng mang tính hệ thống, hơn nữa các hoạt động ngân hàng có tính
liên kết chặt chẽ cao dẫn đến sự cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng có một số đặc

điểm khác biệt so với cạnh tranh trong các lĩnh vực khác đó là:
- Cạnh tranh trong điều kiện chịu sự chi phối mạnh mẽ của các chính sách tài
chính tiền tệ của Nhà nước, chịu sự tác động không nhỏ của các biến động kinh tế vĩ
mô nhất là lạm phát, lãi suất, tăng trưởng kinh tế.
- Sự phá sản của một ngân hàng dẫn đến phản ứng lan truyền và tai họa cho nền
kinh tế thậm chí cả một khu vực (khủng hoảng tiền tệ ở các nước Đông Nam Á năm
1997 và Mêhicô, Brazin; khủng hoảng và đổ vỡ của các định chế tài chính tại Mỹ
mang tên Lehman Brothers và Merrill Lynch, đã cho thấy điều đó). Do vậy, cạnh tranh
trong lĩnh vực ngân hàng không phải là cuộc chiến một mất một còn giữa các ngân hàng.
- Đặc điểm của sản phẩm ngân hàng, mà biểu hiện rõ nhất trong thanh toán chẳng
hạn, quá trình cung cấp sản phẩm không chỉ có do một ngân hàng thực hiện mà phải
thông qua ngân hàng khác, do vậy mặc dù cạnh tranh nhưng các ngân hàng vẫn phải
có sự liên kết, hợp tác với nhau để hoạt động trong quá trình cung ứng sản phẩm.
- Sự lớn mạnh của đối thủ cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng nhưng không
đồng nghĩa với nhất thiết triệt hạ đối thủ mà thậm chí sự lớn mạnh của đối thủ lại là
tạo điều kiện để cho ngân hàng phát triển. Ví dụ như sự phát triển của các tổ chức bảo
hiểm sẽ tạo nguồn tiền gửi quan trọng cho các ngân hàng.


25

- Sự khác biệt nữa là về “nguyên liệu” của hoạt động kinh doanh của ngân hàng
đó là tiền. Đó là loại nguyên liệu có tính xã hội hóa và có tính nhạy cảm rất cao, chỉ
một biến động nhỏ của nó cũng có những ảnh hưởng vô cùng to lớn đến hoạt động của
toàn xã hội nói chung và hoạt động kinh doanh của các ngân hàng nói riêng. Ở các
ngành kinh tế khác nếu cùng kinh doanh một loạt sản phẩm như nhau, giá cả của sản
phẩm thuộc doanh nghiệp đang được xã hội thừa nhận ở một mức nào đó và đang
được tiêu thụ nhanh. Nếu doanh nghiệp khác muốn cạnh tranh bằng cách hạ thấp gía
bán với doanh nghiệp đó, thì việc hạ thấp này đương nhiên có ảnh hưởng đến mức tiêu
thụ sản phẩm của doanh nghiệp nhưng không phải ngay lập tức mà phải có một thời

gian nhất định để xã hội kiểm chứng, trước hết về mặt chất lượng sau đó mới là quá
trình xâm nhập dần đến thay thế sản phẩm của doanh nghiệp đã được xã hội thừa
nhận trước đó. Nhưng trong hoạt động ngân hàng thương mại chỉ cần có sự thay đổi
một chút về lãi suất là khách hàng có thể lập tức thay đổi quan hệ giữa ngân hàng
này chuyển qua ngân hàng khác.
- Nếu các ngành kinh tế khác nói chung tạo ra được một sản phẩm mà xã hội thừa
nhận, đương nhiên có một khoảng thời gian tương đối dài để khai thác nó, tạo ra một
khoản lợi nhuận cho mình. Tuy nhiên, nếu có một ngân hàng thương mại nào đó tạo ra
được một dịch vụ được xã hội ưa chuộng, thì gần như ngay lập tức trong một khoảng
thời gian rất ngắn các ngân hàng khác có thể thực hiện dịch vụ đó, làm phân tán mức
độ ưa chuộng của xã hội với dịch vụ đó, đồng thời với quá trình đó là việc phân tán lợi
nhuận của ngân hàng. Sự cạnh tranh này khá phổ biến và xảy ra thường xuyên giữa
các ngân hàng thương mại do đặc điểm dịch vụ của ngân hàng rất dễ bị bắt chước tạo
nên.
- Ngân hàng kinh doanh trong môi trường kinh tế “đóng”. Nó bị hạn chế nhiều so
với các ngành kinh doanh khác. Nhiều ngân hàng phải nản lòng trước các quy định
chặt chẽ của khuôn khổ pháp luật. Nếu các ngành kinh doanh khác được kinh doanh
khá thoải mái bởi hành lang hoạt động tương đối rộng, trong khi đó các hoạt động của
ngân hàng bị giới hạn đến mức nếu ngân hàng không khéo xoay sở thì sẽ khó thực hiện
công việc kinh doanh của mình. Trong không gian “hẹp” đó các ngân hàng cũng phải hoạt
động, vươn lên để tồn tại và phát triển thì sự cạnh tranh càng mang tính sống còn.


×