Tải bản đầy đủ (.pdf) (182 trang)

Tiểu luận về mô hình phân tích quan hệ giữa FDI với tăng trưởng nền kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.08 MB, 182 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Sau 25 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành
tựu khá thuyết phục về kinh tế và xã hội. Giai đoạn 2001 – 2010, hàng năm nền
kinh tế Việt Nam đều đạt tốc độ tăng trưởng tương đối khá, bình quân mỗi năm
tổng sản phẩm trong nước tăng 7,26%, trong đó, Kế hoạch phát triển kinh tế – xã
hội 5 năm 2001 – 2005 tăng 7,51%/năm [20], Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội
5 năm 2006 – 2010 tăng 7,01%/năm.
Thành tựu trên là dấu hiệu tốt của quá trình chuyển đổi kinh tế và là kết quả của
các chính sách mà Việt Nam đã và đang thực hiện trước những thay đổi nhanh chóng
của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là xu thế toàn cầu hoá. Trên cơ sở những đổi mới tư
duy kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý được đề ra tại Đại hội VI của Đảng Cộng sản
Việt Nam, năm 1987 Quốc hội khoá VIII đã thông qua và ban hành “Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam” với mục tiêu tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý cho
hoạt động sản xuất, kinh doanh nói chung và môi trường pháp lý cho hoạt động đầu
tư nước ngoài nói riêng. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc
gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị
trường của các nước và vùng lãnh thổ. Tháng 7/1995 Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và chính thức tham gia Khu vực thương mại tự
do ASEAN (AFTA), đây được coi là một bước đột phá về hành động trong tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Tiếp đó, năm 1996 Việt Nam tham gia sáng
lập Diễn đàn hợp tác Á- Âu (ASEM) và đến năm 1998 được kết nạp vào diễn đàn
hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC).
Ngoài ra, Việt Nam cũng tham gia các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế như:
chương trình phát triển Liên Hợp quốc (UNDP), Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp
Liên Hợp Quốc (FAO), Tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO), Tổ
chức lao động quốc tế (ILO), Tổ chức Giáo dục, Khoa học, và Văn hoá của Liên Hợp
quốc (UNESCO), Ngân hàng thế giới (WB),…. Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi quan trọng khi đã trở thành thành viên thứ 150


của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào năm 2007 sau 11 năm đàm phán gia


2

nhập tổ chức này. Việc chính thức gia nhập WTO nói riêng và những kết quả đạt được
trong những hoạt động kinh tế đối ngoại giai đoạn 2001 – 2010 nói chung đã đưa nền
kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng đầy đủ với nền kinh tế khu vực và thế giới, góp
phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Các nỗ lực của Chính phủ Việt Nam đã đem lại những kết quả đáng khích lệ
về thu hút vốn FDI vào Việt Nam. Tính đến hết tháng 12/2012, theo thống kê của
Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam đã thu hút được 14.522
dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng vốn đăng ký đạt 210,5 tỷ USD, trong đó
vốn giải ngân đạt 71,9 tỷ USD, thu hút được 100 quốc gia và vùng lãnh thổ đến đầu
tư tại hầu hết các lĩnh vực quan trọng như: công nghiệp chế biến, chế tạo, xây dựng,
thông tin và truyền thông, khai khoáng, dịch vụ lưu trú và ăn uống… [20].
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là khu vực phát triển năng động nhất với
tốc độ tăng GDP luôn cao hơn tốc độ tăng của cả nước. Năm 1995, GDP của khu
vực FDI tăng 14,98% trong khi GDP cả nước tăng 9,54%; năm 2000 tốc độ này
tương ứng là 11,44% và 6,79%; năm 2005 là 13,22% và 8,44%; năm 2010 là 8,12%
và 6,78%. Tỷ lệ đóng góp của khu vực FDI vào GDP tăng dần từ 2% năm 1992 lên
tới 12,7% năm 2000; 16,98% năm 2006 và 18,97% vào năm 2011. [10]
Tác động của khu vực FDI cũng đã góp phần quan trọng vào xuất khẩu. Trước
năm 2001, xuất khẩu của khu vực FDI chỉ đạt 42,5% tổng kim ngạch kể cả dầu thô.
Từ năm 2003, xuất khẩu của khu vực này bắt đầu vượt khu vực trong nước và dần
trở thành nhân tố chính, thúc đẩy xuất khẩu, chiếm 64% tổng kim ngạch xuất khẩu
vào năm 2012. FDI cũng góp phần vào ngân sách này ngày càng tăng. [2]
Ngoài những đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, khu vực FDI đã góp phần nhất
định vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản
xuất nông nghiệp, tạo công ăn việc làm cho 2 triệu lao động trực tiếp và 3-4 triệu lao

động gián tiếp. Khu vực FDI cũng được đánh giá là kênh chuyển giao công nghệ quan
trọng, góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế. Theo thống kê, từ năm
1993 đến tháng 3/2013, Việt Nam đã có 951 hợp đồng chuyển giao công nghệ được
phê duyệt, đăng ký; trong đó 605 hợp đồng là của khu vực doanh nghiệp FDI, chiếm
63,6% tổng số hợp đồng chuyển giao công nghệ được phê duyệt, đăng ký,… đó là
những tiền đề làm cho tác động lan tỏa của khu vực FDI đối với nền kinh tế là rất lớn.


3

Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn có nhiều ý kiến cho
rằng Việt Nam vẫn chưa tận dụng các cơ hội thu hút FDI và chưa tối đa được lợi ích
mà đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể mang lại. Cơ sở dẫn đến các nhận xét trên là
diễn biến bất thường về dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam, tỷ lệ FDI thực hiện so
với vốn đăng ký còn thấp, tập trung FDI chỉ trong một số ngành, vùng, khả năng
tuyển dụng lao động còn khiêm tốn,… Việt Nam chưa được chọn là điểm đầu tư của
phần lớn các công ty đa quốc gia có tiềm năng lớn về công nghệ và sẵn sàng chuyển
giao công nghệ và tri thức. Thực trạng này cùng với áp lực cạnh tranh ngày càng
gay gắt hơn về thu hút FDI của Trung Quốc và các nước trong khu vực đang đặt ra
thách thức rất lớn cho Việt Nam.
FDI có thể ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá và xã hội. Tuy
nhiên, đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước nghèo, kỳ vọng lớn nhất của
việc thu hút FDI chủ yếu là nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Kỳ vọng này được thể
hiện trong tư tưởng của các nhà kinh tế và các nhà hoạch định chính sách [16] với ba lý
do chính: (i) FDI góp phần góp phần vào tăng thặng dư của tài khoản vốn, góp phần cải
thiện cán cân thanh toán nói chung và ổn định kinh tế vĩ mô; (ii) các nước đang phát
triển thường có tỷ lệ tích luỹ vốn thấp và vì vậy FDI được coi là một nguồn vốn bổ
sung quan trọng nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế; (iii) FDI tạo cơ hội cho các nước
nghèo tiếp cận và chuyển giao công nghệ tiên tiến, tiếp cận với cách thức tổ chức, quản
lý cả ở tầm vi mô (các doanh nghiệp) và tầm vĩ mô (các cơ quan hoạch định chính

sách), cùng với quá trình này là quá trình phổ biến kiến thức và nâng cao chất lượng
nguồn lao động, … Tác động này được xem là các tác động lan toả về năng suất của
FDI, góp phần làm tăng năng suất của các doanh nghiệp trong nước và cuối cùng là
đóng góp vào tăng trưởng kinh tế nói chung. Đã có vài quốc gia thu hút được dòng vốn
FDI khá lớn nhưng tác động lan toả hầu như không xảy ra. Ở một tình thế khác, vốn
FDI đổ vào một quốc gia có thể làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế nhưng đóng góp
của nguồn vốn này vào tăng trưởng là thấp. Cả hai trường hợp trên đều được xem là
không thành công với chính sách thu hút FDI hay chưa tận dụng triệt để và lãng phí
nguồn lực này dưới góc độ tăng trưởng kinh tế. Thực trạng này khiến cho các nhà kinh
tế ngày càng quan tâm nhiều hơn đến việc tác động của FDI đến tăng trưởng kinh tế,
đặc biệt là của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.


4

Nhận thức được tầm quan trọng của cách tiếp cận định lượng xuất phát từ các
lập luận nêu trên để đánh giá mối liên hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam, Nghiên cứu sinh đã chọn đề tài nghiên cứu theo hướng tiếp cận bằng các mô
hình có thể ước lượng được, với tên đề tài: “Mô hình phân tích mối quan hệ của
FDI và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam”.

2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
Mục tiêu tổng quát: phân tích mối quan hệ của FDI và tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam.
Mục tiêu cụ thể:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về FDI, tăng trưởng kinh tế và vai trò của FDI đối
với tăng trưởng kinh tế.
- Phân tích thực trạng tăng trưởng kinh tế và quá trình thu hút FDI tại Việt
Nam giai đoạn 1990 – 2012.
- Xây dựng mô hình định lượng phân tích quan hệ của FDI và tăng trưởng

kinh tế Việt Nam, đánh giá các yếu tố tác động hiệu quả của FDI đối với tăng
trưởng kinh tế và sản lượng, hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp, thực nghiệm
với dữ liệu 1990 – 2012.
- Đề xuất một số hàm ý chính sách thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các mô hình phân tích mối quan hệ của
FDI và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam:
- Mô hình đo lường quan hệ của FDI và tăng trưởng kinh tế (cách tiếp cận theo
mô hình VAR).
- Mô hình đánh giá ảnh hưởng của FDI đến các doanh nghiệp trong nước
(cách tiếp cận theo phương pháp bán tham số Levinsohn-Petrin).
- Mô hình đánh giá tác động của FDI đến sản lượng đầu ra của doanh nghiệp
(cách tiếp cận theo mô hình hồi quy số liệu mảng).

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: nghiên cứu của luận án tập trung phân tích mối quan hệ
của FDI và tăng trưởng kinh tế ở cả hai cấp độ: vi mô và vĩ mô.


5

Phạm vi về thời gian và không gian:
- Luận án đo lường quan hệ của FDI và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai
đoạn 1990 – 2012.
- Luận án đánh giá ảnh hưởng của FDI đến các doanh nghiệp trong nước và tác động
của FDI đến sản lượng đầu ra của các doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn 2000 – 2011.


4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận án sử dụng phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử làm phương pháp nghiên cứu cơ bản để phân tích mối
quan hệ của FDI và tăng trưởng kinh tế.
Phương pháp thống kê: được sử dụng nhằm làm rõ hơn những phân tích định
tính bằng các bảng biểu, hình vẽ cụ thể.
Phương pháp mô hình toán: luận án vận dụng và xây dựng mô hình phân tích
mối quan hệ của FDI và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam theo cách tiếp cận mô hình
VAR, phương pháp bán tham số của Levinsohn - Petrin, mô hình số liệu mảng.
Ngoài ra, luận án còn sử dụng một số phương pháp cụ thể khác như: phương
pháp phân tích hệ thống, tổng hợp logic, lịch sử, so sánh đối chiếu tổng kết thực
tiễn,… để hệ thống hoá các vấn đề lý luận, phân tích thực trạng tăng trưởng kinh tế
và thu hút FDI tại Việt Nam.

5. Những đóng góp khoa học của luận án
* Về mặt học thuật, lý luận
Trên cơ sở tổng quan lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm, luận án đã phân tích
thực trạng thu hút FDI và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 1990-2012, làm rõ
tác động qua lại của FDI đối với nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn này và từ đó lựa
chọn được các mô hình kinh tế lượng phù hợp để phân tích mối quan hệ của FDI và
tăng trưởng kinh tế Việt Nam ở cả tầm vĩ mô và vi mô.
Luận án đã sử dụng mô hình véc tơ tự hồi quy (VAR) để đo lường và phân tích
thực nghiệm quan hệ của FDI và tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1990-2012.
Điểm mới của luận án thể hiện ở việc lựa chọn các biến đại diện trong mô hình:
GDP, FDI, KAP (vốn trong nước), OPEN (độ mở nền kinh tế), EM (lao động), HK
(số lượng học sinh tốt nghiệp THPT), LIB (khủng hoảng tài chính) - vấn đề mà các
công trình nghiên cứu trước đây chưa từng đề cập tới.


6


Luận án đã sử dụng mô hình đánh giá ảnh hưởng của FDI đến các doanh nghiệp
trong nước bằng cách tiếp cận phương pháp bán tham số của Levinsohn-Petrin trên cơ
sở sử dụng nguồn số liệu cho ngành chế tác được lấy từ bộ số liệu điều tra doanh
nghiệp của Tổng cục Thống kê giai đoạn 2000-2011 với tổng số quan sát được trong 12
năm là 45.720 quan sát (bao gồm 3.810 doanh nghiệp hoạt động trong mỗi năm). Với
cách tiếp cận vi mô, mô hình này cho phép nhận biết vai trò của các doanh nghiệp,
ngành kinh tế trong việc sử dụng hiệu quả FDI.
Để đánh giá tốt hơn tác động của FDI đến sản lượng đầu ra của doanh nghiệp
trong nước, bên cạnh cách tiếp cận phương pháp bán tham số của Levinsohn-Petrin,
luận án sử dụng mô hình hồi quy số liệu mảng trên cùng bộ số liệu thu thập được. Với
hồi quy GMM trên số liệu mảng, luận án đã khắc phục được hiện tượng phương sai sai
số thay đổi và tự tương quan của mô hình.
* Những đề xuất rút ra từ kết quả nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu khẳng định quan hệ tương tác hai chiều theo hướng tích
cực của FDI và các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế. Nhịp tăng vốn FDI sẽ ảnh hưởng
đến nhịp tăng các chỉ tiêu kinh tế-xã hội ngay ở thời kỳ thứ nhất ngoại trừ nhịp tăng
GDP. Quá trình tăng FDI có tính quán tính với chính nó rất rõ ràng và có thể duy trì
quán tính trong 2 năm, sau đó có thể tốc độ tăng giảm dần vào các năm tiếp theo.
Một hệ thống chính sách thu hút nguồn vốn FDI tốt sẽ có tác động tích cực đến tăng
trưởng, tích luỹ vốn, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, mở rộng hội nhập của
Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu.
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự hiện diện của đầu tư trực tiếp nước ngoài có
tác động tích cực đến tăng trưởng sản lượng của tất cả các doanh nghiệp trong ngành
chế tác trong đó có các doanh nghiệp nội địa trong khi sở hữu Nhà nước không tác
động tích cực đến tăng trưởng sản lượng của ngành. Vì vậy, việc cổ phần hoá các
doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực của các
doanh nghiệp nội địa, tạo sự cạnh tranh công bằng giữa các thành phần kinh tế và tác
động tích cực đến sản lượng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Sự hiện diện của vốn đầu tư nước ngoài đã trực tiếp và gián tiếp làm tăng hiệu

quả sản xuất của các doanh nghiệp và sự tồn tại của các doanh nghiệp FDI đã có tác
động tích cực đến sản xuất và tăng hiệu quả của toàn ngành.


7

Từ kết quả nghiên cứu, luận án cho rằng để góp phần tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam, Chính phủ cần phải có chính sách thu hút nguồn vốn FDI theo hướng: đầu tư cho
giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; kích thích tiết kiệm và đầu tư;
đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện ưu đãi đối với FDI trong ngành
chế tác; thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ cho khu vực đầu tư
nước ngoài; tạo môi trường thu hút FDI; phát triển thị trường tiền tệ, thị trường vốn
ngang tầm với các nước trong khu vực, tạo môi trường hấp dẫn thu hút FDI để phát
triển kinh tế các tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên.

6. Kết cấu của luận án
Tên luận án: “Mô hình phân tích mối quan hệ của FDI và tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam”.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận án được chia làm 4 chương:
Chương 1:

Lý luận chung về FDI và tăng trưởng kinh tế.

Chương 2:

Tổng quan các mô hình lý thuyết và thực nghiệm về mối quan hệ của
FDI và tăng trưởng kinh tế.

Chương 3:


Thực trạng về FDI và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam giai đoạn
1990 – 2012.

Chương 4:

Kết quả ước lượng thực nghiệm.


8

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ FDI VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Tăng trưởng kinh tế trong mỗi thời kỳ được thể hiện bởi một hệ thống đặc
trưng phù hợp với nội dung, mục tiêu của các quốc gia. Để đạt được các chỉ tiêu
tăng trưởng trong các chiến lược phát triển kinh tế, các quốc gia luôn luôn tìm cách
khai thác và tổ chức các nguồn lực hiệu quả nhất. Trong giới hạn của mục tiêu
nghiên cứu của luận án, chương này thực hiện tổng quan các lý thuyết về tăng
trưởng, từ đó thấy được các nhân tố ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế theo các quan
điểm kinh tế khác nhau. Đồng thời các vấn đề về lý luận chung cũng như các lý
thuyết kinh tế về FDI cũng được tổng quan.

1.1. Lý luận chung về tăng trưởng kinh tế
1.1.1. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế được xem là một trong những vấn đề trọng yếu nhất trong
nghiên cứu kinh tế phát triển. Hầu hết các nhà kinh tế đều thống nhất với nhau rằng
tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập hay sản lượng được tính cho toàn bộ nền
kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng được
thể hiện ở quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng
trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh

hay chậm giữa các thời kỳ. Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu hiện dưới dạng
hiện vật hoặc giá trị. Thu nhập bằng giá trị phản ánh qua các chỉ tiêu tổng sản phẩm
quốc nội (GDP), tổng thu nhập quốc dân (GNI) và được tính cho toàn thể nền kinh
tế hoặc tính bình quân trên đầu người [18].
Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Theo nghĩa hẹp thì chất lượng tăng trưởng có thể hiểu trong giới hạn ở một khía
cạnh đó là: hiệu quả của đầu tư, đánh giá qua chỉ tiêu hệ số ICOR, hoặc coi tương
đương với khái niệm năng suất nhân tố tổng hợp, đánh giá chỉ tiêu TFP. Theo nghĩa
rộng thì chất lượng tăng trưởng có thể tiến tới nội hàm của quan điểm về phát triển
bền vững, chú trọng tới tất cả ba thành tố: kinh tế, xã hội và môi trường.


9

Mối quan hệ giữa phát triển và phát triển bền vững, tăng trưởng và chất lượng
tăng trưởng là mối quan hệ tương hỗ, bổ sung cho nhau, trong đó vẫn đảm bảo
nguyên tắc tăng trưởng kinh tế là một yếu tố quan trọng của phát triển. Tăng trưởng
về lượng nhưng không được duy trì ổn định và không đi đôi với cải thiện về phúc
lợi thì mục tiêu phát triển cũng không đạt được. Như vậy, khi nghiên cứu quá trình
tăng trưởng, cần phải xem xét một cách đầy đủ hai mặt của hiện tượng tăng trưởng
kinh tế là số lượng và chất lượng của tăng trưởng.

1.1.2. Một số quan điểm về tăng trưởng kinh tế
1.1.2.1. Quan điểm cổ điển về tăng trưởng kinh tế
Giai đoạn thế kỷ XVII trở về trước, Thomas Robert Malthus đã giải thích rằng
khi cung lương thực, thực phẩm tăng lên thì dân số cũng tăng lên, thậm chí với tốc
độ còn nhanh hơn [6].
Nhưng đến thế kỷ XVIII, khi mà cả hai nền kinh tế Anh và Hà Lan đã thành
công trong việc nâng cao thu nhập bình quân, dưới áp lực của tăng dân số và quy
luật lợi tức giảm dần trong nông nghiệp, của cải được tạo ra nhanh hơn tốc độ

tăng dân số. Mô hình Thomas Robert Malthus không còn phù hợp. Lý thuyết cổ
điển về tăng trưởng kinh tế do các nhà kinh tế học cổ điển nêu ra mà các đại diện
tiêu biểu là Adam Smith và David Ricardo được coi là sự kế thừa có phát triển mô
hình Malthus.
Adam Smith (1723-1790) được coi là người sáng lập ra khoa kinh tế học và là
người đầu tiên nghiên cứu lý luận tăng trưởng kinh tế một cách có hệ thống. Trong
tác phẩm “ Của cải của các quốc gia”, ông đã nghiên cứu về tính chất, nguyên nhân
tăng trưởng kinh tế và làm thế nào để thúc đẩy cho kinh tế tăng trưởng thông qua
các học thuyết về “Giá trị lao động”, học thuyết về “Bàn tay vô hình” và lý thuyết
về phân phối thu nhập theo nguyên tắc “Ai có gì được nấy”.
Theo Adam Smith, chính lao động được sử dụng trong những công việc có
ích và hiệu quả là nguồn gốc tạo ra giá trị cho xã hội và coi sự gia tăng tư bản là yếu
tố quyết định tăng trưởng kinh tế. Các kết luận của Adam Smith được các nhà kinh
tế học chấp nhận cho đến thế kỷ XX, khi mà sự phát triển lý luận kinh tế đã làm


10

thay đổi quan niệm truyền thống và đưa các nhà kinh tế học đến chỗ ủng hộ kế
hoạch hoá tập trung và sự kiểm soát của Chính phủ, coi đó là cách tốt hơn để thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, đặc biệt ở những nước đang phát triển [8].
Nếu Adam Smith được coi là người sáng lập ra khoa kinh tế học thì David
Ricardo (1772 – 1823) được coi là tác giả cổ điển xuất sắc nhất. David Ricardo kế
thừa các tư tưởng của Adam Smith và chịu ảnh hưởng tư tưởng về dân số học của
Thomas Robert Malthus.
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của David Ricardo nhấn mạnh: Nông nghiệp là
ngành kinh tế quan trọng nhất, các yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế là đất đai,
lao động và vốn, trong từng ngành và phù hợp với một trình độ kỹ thuật nhất định.
Các yếu tố này kết hợp với nhau theo một tỷ lệ cố định, không thay đổi.
David Ricardo cho rằng trong nông nghiệp, năng suất cận biên của đất đai, tư

bản, lao động đều giảm dần và bất cứ biện pháp nào có thể thúc đẩy việc nâng cao
năng suất cận biên đều làm tăng lợi nhuận, từ đó làm tăng tỷ lệ hình thành tư bản,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy xuất phát từ góc độ phân phối thu nhập để nghiên
cứu tăng trưởng kinh tế nhưng David Ricardo vẫn đặc biệt nhấn mạnh tích lũy tư
bản là nhân tố chủ yếu quyết định sự tăng trưởng kinh tế còn các chính sách của
Chính phủ không có tác động quan trọng tới hoạt động của nền kinh tế.

1.1.2.2. Quan điểm của Karl.Marx về tăng trưởng kinh tế
Theo Karl Marx [65] các yếu tố tác động đến quá trình tái sản xuất là đất đai,
lao động, vốn và tiến bộ kỹ thuật. Karl Marx đặc biệt quan tâm đến vai trò của lao
động trong việc tạo ra giá trị thặng dư. Sức lao động đối với nhà tư bản là một loại
hàng hoá đặc biệt, giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động không giống như giá
trị sử dụng của các loại hàng hoá khác, vì nó có thể tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị
của bản thân nó, giá trị đó bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư.
Karl Marx cho rằng do các nhà tư bản cần nhiều vốn hơn để khai thác tiến bộ
kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất lao động của công nhân nên các nhà tư bản phải
chia giá trị thặng dư thành hai phần: một phần để tiêu dùng cho nhà tư bản, một
phần để tích luỹ phát triển sản xuất và đây chính là nguồn gốc tích lũy của chủ
nghĩa tư bản.


11

Karl Marx đã bác bỏ ý kiến về “cung tạo nên cầu”, nhận định rằng khủng
hoảng kinh tế là một giải pháp nhằm khôi phục lại thế thăng bằng đã bị rối loạn và
các chính sách kinh tế của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng,
đặc biệt là chính sách khuyến khích nâng cao mức cầu hiện có.

1.1.2.3. Quan điểm tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế
Cuối thế kỷ XIX là thời kỳ đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ của khoa học kỹ

thuật. Hàng loạt các phát minh khoa học ra đời, cùng với nó nhiều nguồn tài nguyên
quý được đưa vào khai thác làm cho nền kinh tế thế giới có bước phát triển mạnh
mẽ. Sự chuyển biến này có ảnh hưởng mạnh đến các nhà kinh tế, hình thành một
trường phái kinh tế mới mà ngày nay ta gọi là trường phái tân cổ điển, đứng đầu là
Alfred Marshall (1842 - 1924), tác phẩm chính của ông là “Các nguyên lý của kinh
tế học”, xuất bản năm 1890, đánh dấu sự ra đời của trường phái tân cổ điển.
Các nhà kinh tế tân cổ điển bác bỏ quan điểm cổ điển cho rằng sản xuất trong
một tình trạng nhất định đòi hỏi những tỷ lệ nhất định về lao động và vốn, họ cho rằng
vốn và lao động có thể thay thế cho nhau và trong quá trình sản xuất có thể có nhiều
cách kết hợp giữa các yếu tố đầu vào. Đồng thời họ cho rằng tiến bộ khoa học kỹ thuật
là yếu tố cơ bản để thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Do đó cần chú trọng đến các nhân tố
đầu vào của sản xuất. Lý thuyết tân cổ điển còn được gọi là lý thuyết trọng cung.

1.1.2.4. Quan điểm hiện đại về tăng trưởng kinh tế
Các nhà kinh tế học hiện đại ủng hộ việc xây dựng một nền kinh tế hỗn hợp,
trong đó thị trường trực tiếp xác định những vấn đề cơ bản của hoạt động kinh tế,
Nhà nước tham gia điều tiết có mức độ nhằm hạn chế những mặt trái của thị trường.
Thực chất nền kinh tế hỗn hợp là sự kết hợp học thuyết kinh tế tân cổ điển và
học thuyết kinh tế của Keynes trong điều tiết kinh tế. Những ý tưởng cơ bản của học
thuyết này được trình bày trong tác phẩm ‘Kinh tế học” của P.Samuelson xuất bản
năm 1948.
Kinh tế học hiện đại quan niệm về sự cân bằng kinh tế theo mô hình của
Keynes, nghĩa là sự cân bằng của nền kinh tế thường dưới mức tiềm năng, trong
điều kiện hoạt động bình thường của nền kinh tế vẫn có lạm phát và thất nghiệp.


12

Nhà nước cần xác định tỷ lệ thất nghiệp và mức lạm phát có thể chấp nhận được. Sự
cân bằng này của nền kinh tế được xác định tại giao điểm của đường tổng cung và

đường tổng cầu.
Về phía cung: lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại thống nhất với cách xác
định của mô hình kinh tế tân cổ điển về các yếu tố tác động đến sản xuất. Họ cho
rằng tổng mức cung (Y ) của nền kinh tế được xác định bởi các yếu tố đầu vào của
sản xuất: lao động ( L ) , vốn sản xuất ( K ) , tài nguyên thiên nhiên được sử dụng

( R ) , khoa học công nghệ ( A)
Mô hình có dạng: Y = F ( L, K , R, A) .

(1.1.1)

Lý thuyết trên chọn hàm sản xuất dạng Cobb-Douglas để thực hiện tác động
của các yếu tố đến tăng trưởng kinh tế:
Y = AK α Lβ Rγ

(1.1.2)

gt = a + α kt + β lt + γ rt

(1.1.3)

Trong đó:
gt : là tốc độ tăng trưởng GDP tại thời điểm t.
kt , lt , rt là tốc độ tăng trưởng các yếu tố đầu vào tại thời điểm t.

α , β , γ là các độ co giãn của K , L, R.
a : phản ánh tác động của khoa học công nghệ đến tăng trưởng kinh tế.

Để tăng trưởng sản xuất, các nhà sản xuất có thể lựa chọn công nghệ sử dụng
nhiều vốn, hoặc công nghệ sử dụng nhiều lao động. Samuelson cho rằng một trong

những đặc trưng quan trọng của nền kinh tế hiện đại là “kỹ thuật công nghiệp tiên
tiến hiện đại dựa vào việc sử dụng vốn lớn”. Do đó, vốn là cơ sở để phát huy tác
dụng của các yếu tố khác, vốn là cơ sở để tạo ra việc làm, để có công nghệ tiên tiến.
Vì vậy, trong phân tích và dự báo kinh tế ngày nay hệ số ICOR được coi là cơ sở để
xác định tỷ lệ đầu tư cần thiết phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế:
k=

∆K
∆Y

và g =

s
k

Trong đó: k là hệ số ICOR (tỷ lệ gia tăng vốn và đầu ra).

(1.1.4)


13

∆K , ∆Y tương ứng là mức gia tăng vốn và mức gia tăng đầu ra.

s là tỷ lệ tiết kiệm và g là tốc độ tăng trưởng.

Về phía cầu: các yếu tố tác động đến tổng mức cầu như cách tiếp cận của
Keynes qua hàm:
Y = f ( C , G, I , NX )


Trong đó:

(1.1.5)

C : tiêu dùng của hộ gia đình.
G : chi tiêu của Chính phủ.
I : đầu tư tư nhân.
NX : xuất khẩu ròng.

Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại cho rằng thị trường là yếu tố cơ bản
điều tiết hoạt động của nền kinh tế. Sự tác động qua lại giữa tổng cung và tổng cầu
tạo ra mức thu nhập thực tế, công ăn việc làm – tỷ lệ thất nghiệp, mức giá – tỷ lệ
lạm phát, đó là cơ sở để giải quyết ba vấn đề cơ bản của nền kinh tế: sản xuất cái gì?
Sản xuất cho ai? Sản xuất như thế nào?
Mặt khác, vai trò của Chính phủ ngày càng được coi trọng. Việc mở rộng kinh
tế thị trường đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước, không chỉ vì thị trường có
những khuyết tật mà còn vì xã hội đặt ra mục tiêu mà thị trường dù hoạt động tốt
cũng không thể đáp ứng được.

1.1.3. Các nhân tố tác động tới tăng trưởng kinh tế
Theo các nghiên cứu hiện đại về tăng trưởng kinh tế thì các nhân tố ảnh hưởng
đến tăng trưởng kinh tế có thể chia thành hai nhóm: nhóm các nhân tố kinh tế và
nhóm các nhân tố phi kinh tế.

1.1.3.1. Các nhân tố kinh tế
Các nhân tố kinh tế là các nguồn lực có tác động trực tiếp đến các biến đầu
vào và đầu ra của nền kinh tế. Biểu diễn mối quan hệ đó bằng cách xây dựng hàm
tổng quát như sau:
Y = F ( Xi )


Trong đó: Y là giá trị đầu ra.

(1.1.6)


14

X i (i = 1, 2,..., n) là các biến số biểu thị giá trị của các nhân tố kinh tế

trực tiếp tạo ra giá trị sản lượng.
Trong nền kinh tế thị trường, giá trị đầu ra của nền kinh tế không chỉ phụ
thuộc chính vào sức mua và khả năng thanh toán của nền kinh tế mà còn phụ thuộc
vào các biến số đầu vào có liên quan trực tiếp đến sản xuất.
* Các nhân tố kinh tế tác động đến tăng trưởng từ phía tổng cung
Thông thường, nói đến các yếu tố tổng cung tác động đến tăng trưởng kinh tế
là nói đến 4 yếu tố nguồn lực chủ yếu: vốn (K), lao động (L), tài nguyên đất đai (R),
và công nghệ kỹ thuật (T) thường được kết hợp theo một hàm sản xuất có dạng:
Y = F ( K , L, R , T )

(1.1.7)

Trong đó:
Vốn (K): là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp đến tăng
trưởng kinh tế. Vốn sản xuất đứng trên gốc độ vĩ mô được xét vốn vật chất chứ
không phải là dưới dạng tiền (giá trị). Nó là toàn bộ tư liệu vật chất được tích lũy lại
của nền kinh tế và bao gồm: nhà máy, thiết bị, máy móc,... Ở các nước đang phát
triển thì tăng trưởng thường theo chiều rộng, sự đóng góp của vốn sản xuất vào tăng
trưởng kinh tế thường chiếm tỷ trọng cao nhất.
Lao động (L): trước đây, thường chỉ quan niệm lao động là yếu tố vật chất
đầu vào giống như yếu tố vốn và được xác định bằng số lượng dân số, nguồn lao

động của mỗi quốc gia có thể tính bằng đầu người hay thời gian lao động. Tuy
nhiên, những mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại gần đây đã nhấn mạnh cả đến
khía cạnh phi vật chất của lao động gọi là vốn nhân lực, đó là kỹ năng, sáng kiến và
phương pháp mới của người lao động. Xét yếu tố lao động theo hai nội dung đó có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phân tích lợi thế và vai trò của lao động trong
tăng trưởng kinh tế. Hiện nay, tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển xét
theo yếu tố lao động được đóng góp nhiều bởi quy mô, số lượng lao động hơn là
đóng góp của chất lượng lao động.
Tài nguyên (R): yếu tố quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và là yếu tố
không thể thiếu được trong việc thực hiện bố trí các cơ sở kinh tế thuộc các ngành
công nghiệp, dịch vụ. Tài nguyên thiên nhiên từ trong lòng đất, không khí, rừng và


15

biển được chia ra làm hai loại: tài nguyên có thể tái tạo và tài nguyên không thể tái
tạo. Tài nguyên là yếu tố quan trọng nhưng không phải là yếu tố quan trọng nhất
trong tăng trưởng kinh tế. Một nền kinh tế nghèo tài nguyên (Nhật) nhưng được sử
dụng hiệu quả thì tăng trưởng kinh tế vẫn tốt hơn nước giàu tài nguyên (Việt Nam).
Khoa học công nghệ (T): được coi là nhân tố tác động ngày càng mạnh đến tăng
trưởng kinh tế trong điều kiện hiện đại. Yếu tố công nghệ kỹ thuật cần được hiểu đầy
đủ ở hai góc độ: thứ nhất, khoa học công nghệ là những thành tựu khoa học, những
nguyên lý, thử nghiệm và cải tiến sản phẩm, quy trình công nghệ hay thiết bị kỹ thuật;
thứ hai, khoa học công nghệ là sự áp dụng phổ biến các kết quả nghiên cứu, thử
nghiệm vào thực tế nhằm nâng cao trình độ phát triển chung của sản xuất.
Theo đó, K. Marx xem khoa học công nghệ như là “chiếc đũa thần tăng thêm
sự giàu có của cải xã hội”. Solow thì cho rằng “tất cả các tăng trưởng bình quân đầu
người trong dài hạn đều thu được nhờ tiến bộ kỹ thuật”. Kuznets hay Samuelson
đều khẳng định “công nghệ kỹ thuật là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình tăng trưởng
kinh tế bền vững” [8].

Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP): thể hiện hiệu quả của yếu tố công nghệ
kỹ thuật hay các tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật đến tăng trưởng kinh tế
được xác định bằng phần dư của tăng trưởng sau khi đã loại trừ tác động của các
yếu tố vốn và lao động. TFP được coi là yếu tố chất lượng của tăng trưởng hay tăng
trưởng theo chiều sâu. Ngày nay, tác động của thể chế, chính sách mở cửa, hội nhập
hay phát triển của vốn nhân lực đã giúp cho các nước đang phát triển tiếp cận được
nhanh chóng những công nghệ hàng đầu thế giới, tạo nên sự rượt đuổi dựa trên
năng suất và sự đóng góp của TFP ngày càng cao trong quá trình thực hiện mục tiêu
tăng trưởng nhanh của các nước trên thế giới.
Có thể thấy nguồn tăng trưởng do nhiều yếu tố hợp thành, vai trò của nó phụ
thuộc vào hoàn cảnh và thời kỳ phát triển của mọi quốc gia. Đối với các nước
nghèo, vốn vật chất đóng vai trò rất quan trọng. Các công trình nghiên cứu về
nguồn gốc tăng trưởng của Romer (1990) [74] đều cho rằng trong bối cảnh chuyển
đổi nền kinh tế từ hậu công nghiệp sang kinh tế tri thức thì nhân lực (vốn con


16

người) và khoa học công nghệ vượt trội hơn các yếu tố truyền thống khác như tài
nguyên thiên nhiên, vốn vật chất và lao động thô sơ.
* Các nhân tố kinh tế tác động đến tăng trưởng từ phía tổng tổng cầu
Yếu tố liên quan trực tiếp đến đầu ra của nền kinh tế chính là khả năng chi
tiêu, sức mua và năng lực thanh toán (tổng cầu của nền kinh tế). Theo kinh tế học vĩ
mô, có bốn yếu tố trực tiếp cấu thành tổng cầu bao gồm:
Chi cho tiêu dùng cá nhân: bao gồm các khoản chi cố định, chi thường
xuyên và các khoản chi tiêu khác ngoài dự kiến phát sinh. Chi cho tiêu dùng cá
nhân phụ thuộc vào tổng thu nhập khả dụng và xu hướng tiêu dùng biên được xác
định tuỳ theo từng giai đoạn phát triển nhất định của nền kinh tế.
Chi tiêu của Chính phủ: bao gồm các khoản mục chi mua hàng hoá và dịch
vụ của Chính phủ. Nguồn chi tiêu của Chính phủ phụ thuộc vào khả năng thu ngân

sách bao gồm chủ yếu là các khoản thu từ thuế và lệ phí.
Chi cho đầu tư: đây thực chất là các khoản chi tiêu cho các nhu cầu đầu tư
của các doanh nghiệp và các đơn vị kinh tế, bao gồm đầu tư vốn cố định và đầu tư
vốn lưu động. Nguồn chi cho đầu tư được lấy từ khả năng tiết kiệm từ các khu vực
của nền kinh tế. Đầu tư khôi phục là đầu tư bù đắp giá trị hao mòn được lấy từ quỹ
khấu hao. Đầu tư ròng được lấy từ các khoản tiết kiệm của khu vực nhà nước, các
hộ gia đình và doanh nghiệp.
Chi tiêu qua hoạt động xuất nhập khẩu: thực tế giá trị hàng hoá xuất khẩu
là các khoản chi tiêu phải sử dụng đến các yếu tố nguồn lực trong nước còn giá trị
nhập khẩu là giá trị của các loại hàng hoá sử dụng trong nước nhưng lại không phải
bỏ ra các khoản chi về các yếu tố nguồn lực trong nước nên chênh lệch giữa kim
ngạch xuất khẩu và nhập khẩu chính là khoản chi phí ròng phải bỏ ra cho quan hệ
thương mại quốc tế.

1.1.3.2. Các nhân tố phi kinh tế
Khác với các yếu tố kinh tế, các nhân tố chính trị, xã hội, thể chế hay còn
gọi là các nhân tố phi kinh tế có tính chất và nội dung tác động khác. Ảnh hưởng
của chúng là gián tiếp và không thể lượng hoá cụ thể được mức độ tác động của
nó đến tăng trưởng kinh tế. Các nhân tố phi kinh tế không tác động một cách riêng


17

rẽ mà mang tính tổng hợp đan xen, tất cả lồng vào nhau, tạo nên tính chất đồng
thuận hay không đồng thuận trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế đất
nước. Chính vì vậy mà không thể phân biệt và đánh giá phạm vi, mức độ tác động
của từng nhân tố đến nền kinh tế. Các nhân tố phi kinh tế có thể ảnh hưởng tới tăng
trưởng kinh tế gồm:
Đặc điểm văn hoá xã hội: đây là nhân tố quan trọng có tác động nhiều tới quá
trình phát triển của đất nước. Nhân tố văn hoá – xã hội bao trùm nhiều mặt từ các tri

thức phổ thông đến các tích lũy tinh hoa của văn minh nhân loại về khoa học, công
nghệ, văn học, lối sống và cách ứng xử trong quan hệ giao tiếp,... Trình độ văn hoá
cao đồng nghĩa với trình độ văn minh cao và sự phát triển cao của mỗi quốc gia.
Trình độ văn hoá của mỗi dân tộc là một nhân tố cơ bản để tạo ra các yếu tố về
chất lượng lao động, của kỹ thuật, của trình độ quản lý kinh tế – xã hội. Xét trên
khía cạnh kinh tế hiện đại thì nó là nhân tố cơ bản của mọi nhân tố dẫn đến quá
trình phát triển. Vì thế, trình độ văn hóa cao là một mục tiêu phấn đấu của sự phát
triển. Để tạo dựng quá trình tăng trưởng và phát triển bền vững thì đầu tư cho sự
nghiệp phát triển văn hoá phải được coi là những đầu tư cần thiết và đi trước một
bước so với đầu tư sản xuất.
Nhân tố thể chế chính trị - kinh tế - xã hội: được thừa nhận tác động đến
quá trình phát triển đất nước theo khía cạnh tạo dựng hành lang pháp lý và môi
trường cho các nhà đầu tư.
Thể chế biểu hiện như một lực lượng đại diện cho ý chí của cộng đồng, nhằm
điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế, chính trị và xã hội theo lợi ích của cộng đồng
đặt ra. Thể chế được thể hiện thông qua các dự kiến mục tiêu phát triển, các nguyên
tắc tổ chức quản lý kinh tế xã hội, các luật pháp, các chế độ chính sách, các công cụ
và bộ máy tổ chức thực hiện…
Một thể chế kinh tế - chính trị - xã hội ổn định và mềm dẻo sẽ tạo điều kiện để
đổi mới liên tục cơ cấu và công nghệ sản xuất phù hợp với những điều kiện thực tế,
tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng. Ngược lại, một thể chế không phù
hợp sẽ gây ra cản trở, mất ổn định, thậm chí đến chỗ phá vỡ những quan hệ cơ bản


18

làm cho nền kinh tế đi vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng trầm trọng hoặc gây ra
những xung đột chính trị, xã hội.
Một thể chế phù hợp với sự phát triển hiện đại mang trong mình những đặc
trưng: có tính năng động, nhạy cảm và mềm dẻo, luôn thích nghi được với những

biến đổi phức tạp do tình huống trong nước và quốc tế xảy ra, bảo đảm sự ổn định
của đất nước, khắc phục được những mâu thuẩn và xung đột có thể xảy ra trong quá
trình phát triển, tranh thủ vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến của thế giới, tạo được
đội ngũ đông đảo những người có năng lực quản lý, có trình độ khoa học kỹ thuật
tiên tiến đủ sức lựa chọn và áp dụng thành công các kỹ thuật và công nghệ tiên tiến
vào sản xuất trong nước cũng như đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, tạo được sự kích
thích mạnh mẽ mọi nguồn lực vật chất trong nước hướng vào đầu tư cho sản xuất và
xuất khẩu.
Cơ cấu dân tộc: trong cộng đồng quốc gia có các tộc người khác nhau cùng
sống, các tộc người có thể khác nhau về chủng tộc (sắc tộc, bộ tộc), khác nhau về
khu vực sinh sống (miền núi, đồng bằng, trung du) và với quy mô khác nhau so với
tổng dân số quốc gia (thiểu số, đa số,...).
Sự phát triển của tổng thể kinh tế có thể đem đến những biến đổi có lợi cho
dân tộc này nhưng bất lợi cho dân tộc kia. Đó chính là những nguyên nhân nảy sinh
xung đột giữa các dân tộc, làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phát triển kinh
tế đất nước. Do vậy, các chính sách phát triển kinh tế phải đảm bảo tiêu chuẩn bình
đẳng, cùng có lợi giữa các dân tộc trong cộng đồng, đồng thời phải bảo tồn được
bản sắc riêng và các truyền thống tốt đẹp của mỗi dân tộc. Điều đó sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Cơ cấu tôn giáo: vấn đề tôn giáo đi liền với vấn đề dân tộc, mỗi tộc người
đều theo một hay nhiều tôn giáo. Các dân tộc ít người, ít tiếp xúc với thế giới hiện
đại thường tôn thờ các thần linh tùy theo quan niệm. Mỗi tôn giáo còn chia làm
nhiều phái giáo. Ngoài ra còn có nhiều đạo giáo riêng mà chỉ có một số dân tộc
tôn thờ. Mỗi đạo giáo có những quan niệm, triết lý tư tưởng riêng, bám sâu vào
cuộc sống của các dân tộc từ lâu đời, tạo ra những ý thức tâm lý xã hội riêng của


19

dân tộc. Những ý thức tôn giáo thường cố hữu, ít thay đổi theo sự phát triển của

kinh tế xã hội. Những thiên kiến của tôn giáo nói chung có ảnh hưởng tới sự tiến
bộ xã hội, tuỳ theo mức độ, song có thể là sự hoà hợp, nếu có chính sách đúng đắn
của Chính phủ.
Sự tham gia của cộng đồng: dân chủ và phát triển là hai vấn đề có tác dụng
tương hỗ lẫn nhau. Sự phát triển là điều kiện làm tăng thêm năng lực thực hiện
quyền dân chủ của cộng đồng dân cư trong xã hội. Ngược lại, sự tham gia của cộng
đồng là một nhân tố bảo đảm tính chất bền vững và tính động lực nội tại cho phát
triển kinh tế xã hội. Các nhóm cộng đồng dân cư tham gia trong việc xác định các
mục tiêu của chương trình, dự án phát triển quốc gia, tham gia trong việc tổ chức
cung cấp nguồn lực cần thiết, tham gia trong quá trình tổ chức thực hiện, kiểm tra
giám sát các hoạt động phát triển tại cộng đồng và tự quản lý các thành quả của quá
trình phát triển. Đây chính là yếu tố cần thiết cho một xã hội phát triển nhằm tạo
dựng sự nhất trí cao, tính hiệu quả và sự thích ứng, ổn định trong thực hiện mục tiêu
phát triển, đồng thời khích lệ được tiềm năng của mọi cá nhân và cả cộng đồng vào
quá trình phát triển kinh tế, giảm thiểu hiện tượng tham nhũng trong xã hội.
Việc khai thác tốt các nhân tố kinh tế và các nhân tố phi kinh tế sẽ giúp các
quốc gia đạt được tăng trưởng kinh tế về cả số lượng và chất lượng.

1.1.4. Đo lường tác động và chất lượng tăng trưởng kinh tế
1.1.4.1. Các chỉ tiêu đo lường tăng trưởng kinh tế
Thước đo tăng trưởng kinh tế được xác định theo các chỉ tiêu trong hệ thống
tài khoản quốc gia gồm: tổng giá trị sản xuất (GO), tổng sản phẩm quốc nội (GDP),
tổng thu nhập quốc dân (GNI), thu nhập quốc dân (NI), thu nhập quốc dân khả dụng
(NDI), thu nhập bình quân đầu người.
Tổng giá trị sản xuất (GO): là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ được
tạo nên trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường
là một năm). Chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất có thể tính theo hai cách: thứ nhất, chỉ
tiêu tổng giá trị sản xuất là tổng doanh thu bán hàng thu được từ các đơn vị, các
ngành trong toàn bộ của nền kinh tế quốc dân; thứ hai, chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất



20

được tính trực tiếp từ sản xuất và dịch vụ bao gồm chi phí trung gian (IC) và giá trị
gia tăng của sản phẩm vật chất và dịch vụ (VA).
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ
cuối cùng do kết quả hoạt động kinh tế trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia tạo
nên trong một thời kỳ nhất định. Có ba cách tiếp cận để tính GDP:
- Theo cách tiếp cận từ sản xuất, GDP là giá trị gia tăng tính cho toàn bộ nền
kinh tế. Nó được đo bằng tổng giá trị gia tăng của tất cả các đơn vị sản xuất thường
trú trong nền kinh tế:
w

VA = ∑ (VAi )

(1.1.8)

i =1

Trong đó VA là giá trị gia tăng của toàn nền kinh tế, VAi là giá trị gia
tăng ngành i .
- Theo cách tiếp cận từ chi tiêu, GDP là tổng chi cho tiêu dùng cuối cùng của
các hộ gia đình (C), chi tiêu của chính phủ (G), đầu tư tích luỹ tài sản (I) và chi tiêu
qua thương mại quốc tế:
GDP = C + G + I + ( X − M )

(1.1.9)

- Theo cách tiếp cận từ thu nhập, GDP được xác định trên cơ sở các khoản
hình thành thu nhập và phân phối thu nhập lần đấu, bao gồm: thu nhập của người có

sức lao động dưới hình thức tiền công và tiền lương (W); thu nhập của người có đất
cho thuê (R); thu nhập của người có tiền cho vay ( I n ) ; thu nhập của người có vốn

( Pr ) ; khấu hao cố định ( DP ) và cuối cùng là thuế kinh doanh (TI ) :
GDP = W + R + I n + PR + DP + TI

(1.1.10)

Tổng thu nhập quốc dân (GNI): đây là chỉ tiêu xuất hiện trong bảng SNA
năm 1993 thay cho chỉ tiêu GNP sử dụng trong bảng SNA năm 1968. Về nội dung
thì GNP và GNI là như nhau. Tuy vậy, khi sử dụng GNI là muốn nói theo cách tiếp
cận từ thu nhập chứ không phải nói theo góc độ sản phẩm sản xuất như GNP. Như
vậy, GNI hình thành từ GDP tiếp cận theo góc độ thu nhập và được điều chỉnh theo
con số chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài:
GNI= GDP + chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài

(1.1.11)


21

Sự khác nhau về giá trị giữa GDP và GNI là ở phần chênh lệch thu nhập
nhân tố với nước ngoài. Ở các nước đang phát triển thì GNI thường nhỏ hơn GDP vì
thông thường phần chênh lệch này nhận giá trị âm.
Thu nhập quốc dân (NI): là phần giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ mới
sáng tạo ra trong một khoảng thời gian nhất định. NI chính là tổng thu nhập quốc
dân GNI sau khi đã loại trừ đi khấu hao vốn cố định của nền kinh tế ( DP ) :
NI = GNI − DP

(1.1.12)


Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI): là phần thu nhập của quốc gia dành cho
tiêu dùng cuối cùng và tích lũy thuần trong một thời kỳ nhất định. Chỉ tiêu này được
hình thành sau khi thực hiện phân phối thu nhập lần thứ hai, thực chất nó là thu
nhập quốc dân (NI) sau khi đã điều chỉnh các khoản thu, chi về chuyển nhượng hiện
hành giữa các đơn vị thường trú và không thường trú:
NDI = NI + chênh lệch về chuyển nhượng hiện hành với nước ngoài (1.1.13)
Thu nhập bình quân đầu người: (GDP/người, GNI/người). Chỉ tiêu này
phản ánh tăng trưởng kinh tế có tính đến sự thay đổi dân số. Quy mô và tốc độ tăng
thu nhập bình quân đầu người là những chỉ báo quan trọng phản ánh mức sống dân
cư. Sự gia tăng liên tục của chỉ tiêu này là dấu hiệu thể hiện sự tăng trưởng bền
vững của một quốc gia. Thu nhập bình quân đầu người còn được sử dụng trong việc
so sánh mức sống dân cư giữa các quốc gia với nhau.
Như vậy, các chỉ tiêu trên được sử dụng làm thước đo cho sự thay đổi trong
kinh tế và còn được sử dụng để xác định mục tiêu phấn đấu của quốc gia. Tuy
nhiên, các chỉ tiêu trên có một số hạn chế: không phản ánh được chính xác phúc lợi
của các nhóm dân cư khác nhau trong xã hội, việc tính toán thu nhập ở các nước
đang phát triển thường xác định không chính xác hoặc bỏ sót, dễ dẫn tới đánh giá
sai lệch trong phân tích kinh doanh.

1.1.4.2. Các chỉ tiêu đo chất lượng tăng trưởng kinh tế
Theo quan niệm của các nhà kinh tế, có ba nhóm chỉ tiêu đánh giá chất lượng
tăng trưởng kinh tế: chuyển dịch cơ cấu, hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh của
nền kinh tế.


22

a. Nhóm các chỉ tiêu phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế được hiểu là tương quan giữa các bộ phận trong tổng thể kinh

tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số lượng và chất lượng
giữa các bộ phận với nhau. Các mối quan hệ này được hình thành trong những điều
kiện kinh tế – xã hội nhất định luôn luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ
thể. Nếu các thước đo tăng trưởng phản ánh sự thay đổi về lượng thì xu thế chuyển
dịch cơ cấu kinh tế là thể hiện mặt chất trong quá trình phát triển.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế có thể được thể hiện trong: cơ cấu ngành, vùng,
thành phần khu vực kinh tế và tái sản xuất.
Cơ cấu ngành kinh tế: về lý thuyết, cơ cấu ngành kinh tế thể hiện cả mặt
định lượng và định tính. Mặt định lượng chính là quy mô và tỷ trọng trong GDP, lao
động, vốn của mỗi ngành trong tổng thể kinh tế quốc dân. Mặt định tính thể hiện vị
trí và tầm quan trọng của mỗi ngành trong hệ thống kinh tế quốc dân.
Trong quá trình phát triển, cơ cấu ngành kinh tế của mỗi quốc gia đều có sự
chuyển đổi theo một xu hướng chung là tỷ trọng nông nghiệp có xu hướng giảm đi,
trong khi đó tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên.
Cơ cấu vùng kinh tế: sự phát triển kinh tế được thể hiện ở cơ cấu vùng kinh
tế theo góc độ thành thị và nông thôn. Một xu hướng khá phổ biến của các nước
đang phát triển là luôn có một dòng di dân từ nông thôn ra thành thị. Đó là kết quả
của cả “lực đẩy” từ khu vực nông thôn bởi sự nghèo khổ cũng như sự thiếu thốn đất
đai ngày càng tăng và cả “lực hút” từ sự hấp dẫn của khu vực thành thị. Mặt khác,
việc thực hiện các chính sách công nghiệp hoá nông thôn, đô thị hoá, phát triển hệ
thống công nghiệp, dịch vụ nông thôn, đô thị hoá… làm cho tỷ trọng kinh tế thành
thị ở các nước đang phát triển ngày càng tăng lên, tốc độ tăng dân số thành thị cao
hơn so với tốc độ tăng trưởng dân số chung và đó chính là xu thế hợp lý trong quá
trình phát triển.
Cơ cấu thành phần kinh tế: đây là dạng cơ cấu phản ánh tính chất xã hội
hoá về tư liệu sản xuất và tài sản của nền kinh tế. Nhìn chung, các nước phát triển
và xu hướng ở các nước đang phát triển, khu vực kinh tế tư nhân thường chiếm tỷ


23


trọng cao và nền kinh tế phát triển theo con đường tư nhân hoá. Ở Việt Nam hiện
nay đang tồn tại 6 thành phần kinh tế là: thành phần kinh tế nhà nước, thành phần
kinh tế tập thể, thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, thành phần kinh tế tư bản tư
nhân, thành phần kinh tế tư bản nhà nước, thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài. Các thành phần kinh tế nói trên không có sự phân biệt về thái độ đối xử, đều
có môi trường và điều kiện phát triển như nhau, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai
trò chủ đạo.
Cơ cấu khu vực thể chế: theo dạng cơ cấu này, nền kinh tế được phân chia dựa
trên cơ sở vai trò các bộ phận cấu thành trong sản xuất kinh doanh và qua đó đánh giá
được vị trí của mỗi khu vực trong vòng luân chuyển kinh tế và mối quan hệ giữa
chúng trong quá trình thực hiện sự phát triển kinh tế. Các đơn vị thể chế thường trú
trong nền kinh tế được chia thành các khu vực: khu vực chính phủ (bao gồm tất cả
các hoạt động được thực hiện bằng ngân sách nhà nước) và khu vực tư nhân.
Cơ cấu tái sản xuất: đây là cơ cấu kinh tế hiểu theo góc độ phân chia tổng
thu nhập của nền kinh tế theo tích lũy – tiêu dùng. Phần thu nhập dành cho tích lũy
tăng và chiếm tỷ trọng cao là điều kiện cung cấp vốn lớn cho quá trình tái sản xuất
mở rộng của nền kinh tế. Tỷ trọng thu nhập dành cho tích luỹ ngày càng cao chính
là xu thế phù hợp trong quá trình phát triển, tuy vậy việc gia tăng tỷ trọng thu nhập
dành cho tích lũy tái đầu tư phải có tác dụng dẫn đến gia tăng mức thu nhập dành
cho tiêu dùng cuối cùng trong tương lai vì đó là kết quả của quá trình tích lũy.
Ngoài các dạng trên, cơ cấu kinh tế của đất nước còn được biểu hiện theo
những góc độ khác nhau như: cơ cấu theo tính chất xã hội, cơ cấu theo tính chất kỹ
thuật, theo quy mô sản xuất, cơ cấu thương mại quốc tế,… Mỗi dạng đều phản ánh
những khía cạnh và tính chất của quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
b. Nhóm các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế
Hiệu quả sản xuất của nền kinh tế được thể hiện dưới các góc độ: năng suất sử
dụng các yếu tố đầu vào là vốn và lao động, đóng góp của TFP với tăng trưởng kinh tế.
Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng lao động – Năng suất lao động: để
tính năng suất lao động cho toàn bộ nền kinh tế, có thể đơn giản lấy GO (theo giá cố

định) chia cho số lao động (hoặc giờ lao động). Nếu GO bình quân trên mỗi lao


24

động càng lớn thì năng suất lao động càng cao.
Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn – Hệ số ICOR: tỷ lệ gia tăng vốn
trên sản lượng (ICOR) là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp cho biết: để tăng thêm một đơn vị
tổng sản phẩm trong nước đòi hỏi phải tăng thêm bao nhiêu đơn vị vốn đầu tư thực
hiện. Vì vậy, hệ số này phản ánh hiệu quả của việc sử dụng vốn đầu tư tới tăng
trưởng kinh tế.
Tốc độ tăng TFP và tỷ phần đóng góp của tốc độ tăng TFP: năng suất có
tính chất lượng là phần tăng GDP sau khi trừ đi đóng góp của tăng số lượng lao
động và số lượng tài sản cố định dùng trong sản xuất. Phần thặng dư có tính chất
lượng này phản ánh việc tăng chất lượng tổ chức lao động, chất lượng máy móc, vai
trò của quản lý và tổ chức sản xuất, được gọi chung là năng suất nhân tố tổng hợp
TFP. Nói một cách rõ ràng hơn, TFP là chỉ số phụ thuộc vào hai yếu tố: tiến bộ
công nghệ và kỹ thuật; và hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào.
TFP chiếm tỷ trọng cao trong đóng góp của vào tăng trưởng kinh tế sẽ đảm
bảo duy trì được tốc độ tăng trưởng dài hạn và tránh được những biến động kinh tế
từ bên ngoài.
Tốc độ tăng TFP được tính theo công thức: gTFP = gY − (α g K + β g L )

(1.1.14)

Trong đó, gY là tốc độ tăng GDP, g K là tốc độ tăng vốn hoặc tài sản cố định,
g L là tốc độ tăng lao động làm việc, α và β lần lượt là hệ số đóng góp của vốn và

lao động, thường được xác định bằng phương pháp hạch toán tăng trưởng hoặc
bằng hàm sản xuất Coob-Douglas.

Tốc độ tăng TFP là chỉ tiêu phản ánh đích thực và khái quát nhất hiệu quả sử
dụng nguồn lực sản xuất, là căn cứ quan trọng để đánh giá tính chất phát triển và
bền vững của kinh tế, là cơ sở để phân tích hiệu quả sản xuất xã hội, đánh giá tiến
bộ khoa học công nghệ, đánh giá trình độ tổ chức và quản lý sản xuất,…của mỗi
ngành, mỗi địa phương hay mỗi quốc gia. Chính vì vậy, tốc độ tăng trưởng TFP và
tỷ phần đóng góp của tốc độ tăng TFP là một trong những chỉ tiêu quan trọng để
đánh giá chất lượng tăng trưởng.
c. Nhóm các chỉ tiêu phản ánh về khả năng cạnh tranh của nền kinh tế


25

Bao gồm: tỷ suất lợi nhuận trên vốn (ROE), tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu
(ROS), tỷ lệ xuất khẩu, tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm sản xuất từ nguyên liệu trong
nước, tỷ lệ xuất khẩu nông sản qua chế biến, mức tiêu thụ điện năng để tạo ra một
đơn vị GDP hay Kwh/1 đơn vị GDP; các thước đo chất lượng tăng trưởng kinh tế
liên quan đến các vấn đề phúc lợi: tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm, tăng
trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo, tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội (chỉ số
phát triển con người HDI), tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội; các thước đo về
chất lượng tăng trưởng kinh tế liên quan đến bảo vệ và cải thiện môi trường…
Mỗi quốc gia có đặc điểm riêng, nguồn lực riêng nên sự tác động của các nhân
tố này đến tăng trưởng kinh tế không giống nhau. Việc khái quát những nhân tố tác
động đến tăng trưởng kinh tế của các trường phái lý thuyết về tăng trưởng trong
luận án này nhằm dẫn luận đến một chủ đề đang được tranh luận khá sôi nổi trong
những năm gần đây và liên quan đến phạm vi đối tượng nghiên cứu của luận án đó
là nghiên cứu mối quan hệ của FDI và tăng trưởng kinh tế. Ở phần sau của luận án
sẽ làm rõ hơn vai trò của FDI đối với tăng trưởng kinh tế thông qua việc phân tích
cơ sở lý thuyết và các bằng chứng định lượng trên thế giới cũng như ở Việt Nam.

1.2. Lý luận cơ bản về vốn và FDI

1.2.1. Vốn sản xuất
Khái niệm vốn sản xuất được bắt nguồn từ quan niệm về tài sản quốc gia. Tài
sản quốc gia có thể được hiểu theo nghĩa rộng hoặc theo nghĩa hẹp.
Tài sản quốc gia theo nghĩa rộng bao gồm: tài nguyên thiên nhiên của đất
nước, các loại tài sản được sản xuất ra và nguồn vốn con người.
Tài sản quốc gia theo nghĩa hẹp là toàn bộ của cải vật chất do lao động sáng
tạo của con người được tích lũy lại qua thời gian theo tiến trình lịch sử phát triển
của đất nước.
Theo cách phân loại của Liên Hợp Quốc, tài sản được sản xuất ra chia thành 9
loại: công xưởng, trang thiết bị văn phòng, phương tiện vận tải, cơ sở hạ tầng, tồn
kho của tất cả các loại hàng hoá, các công trình công cộng, các công trình kiến trúc,
nhà ở, các cơ sở quân sự.


×