Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Ô nhiễm môi trường Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.27 KB, 10 trang )

Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG- TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

TS. Phạm Thị Tuyết
Học viện Ngân hàng
Toàn cầu hóa kinh tế khiến các doanh nghiệp, người tiêu dùng, nhà hoạch định chính
sách, các tổ chức phi chính phủ… trên toàn thế giới ngày càng quan tâm hơn tới ảnh hưởng của
nó đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, môi trường xã hội và phúc lợi cộng đồng.
Vì lẽ đó, nếu doanh nghiệp không thực hiện trách nhiệm xã hội sẽ không có cơ hội tiếp cận thị
trường thế giới. Trước xu hướng này, doanh nghiệp Việt Nam muốn phát triển bền vững luôn
phải tuân theo những chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng giới, an toàn lao động, đảm
bảo quyền lợi lao động, trả lương công bằng, có kế hoạch, chiến lược trong đào tạo, bồi dưỡng
nhân viên và phát triển cộng đồng… Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập đến vấn đề ô
nhiễm môi trường- trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất một số
giải pháp nhằm giúp doanh nghiệp Việt Nam thực hiện tốt trách nhiệm xã hội trong nền kinh tế
hội nhập.
1. Khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Thuật ngữ “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp” (TNXH) được xuất hiện cách đây khoảng gần
50 năm khi H.R.Bowen, một chuyên gia nghiên cứu tổ chức, đề cập đến trong cuốn sách “Social
responsibilities of the Businessmen” vào năm 1953. Trong cuốn sách này, trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp được Bowen xác định là trách nhiệm của chủ các doanh nghiệp không làm tổn hại
đến các quyền và lợi ích của người khác; chủ doanh nghiệp phải có lòng từ thiện và bù đắp
những thiệt hại do doanh nghiệp mình gây ra khi làm tổn hại cho xã hội… Tuy nhiên, thuật ngữ
này cho đến nay được hiểu dưới nhiều giác độ khác nhau:
Quan điểm thứ nhất, đại diện là Prakash, Sethi… cho rằng: “Trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp là nâng hành vi của doanh nghiệp lên một mức phù hợp với các quy phạm, giá trị và kỳ
vọng xã hội đang phổ biến”. Những người theo quan điểm này lập luận rằng doanh nghiệp không
có trách nhiệm với xã hội bởi doanh nghiệp khi thực hiện hoạt động kinh doanh đã phải đóng
thuế cho nhà nước và vì vậy, doanh nghiệp chỉ có trách nhiệm với cổ đông và người lao động
của doanh nghiệp mà thôi.
Nếu trường phái trên cho rằng trách nhiệm duy nhất của các doanh nhân là tạo ra lợi nhuận tối đa
cho các cổ đông, thì càng ngày càng nhiều người đồng thuận với Liên minh Châu Âu khi cho


rằng doanh nghiệp phải quan tâm đến các cá nhân và các nhóm có thể bị tác động bởi hoạt động
của doanh nghiệp hay có thể ảnh hưởng đối với các hoạt động đó. Trong trường hợp này, doanh
nghiệp được gán cho vai trò làm thỏa mãn mọi thành phần có liên quan và trở thành nơi phân
định các lợi ích khác nhau cho các thành phần có liên quan đó. Yêu cầu này có thể lớn hoặc nhỏ
tùy theo các thành phần được xem xét: có những thành phần mà doanh nghiệp có các mối quan
hệ khế ước (những người lao động, những nhà cung ứng, các khách hàng…), và những thành
phần mà doanh nghiệp không có bất cứ mối quan hệ khế ước nào (các nhóm lợi ích khác nhau,

1


chẳng hạn những người sống gần nơi hoạt động của doanh nghiệp hoặc những người bảo vệ
thiên nhiên)”1.
Một số nhà nghiên cứu khác, đại diện là Archie, B.Carroll, Bowen… cũng khẳng định trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp là sự mong đợi của xã hội về kinh tế, luật pháp, đạo đức và lòng
từ thiện của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Những người theo quan điểm này nghiêng
về quan điểm cho rằng các doanh nghiệp với tư cách là chủ thể kinh doanh tại thị trường nào đó,
họ đã sử dụng nguồn lực của xã hội, khai thác nguồn lực tự nhiên và trong quá trình thực hiện
hoạt động kinh doanh, họ gây ra không ít tổn hại đối với môi trường tự nhiên và xã hội. Vĩ lẽ đó,
ngoài việc đóng thuế, doanh nghiệp còn phải có trách nhiệm xã hội với môi trường, cộng đồng
và người lao động.
Ở Việt Nam, đây là một khái niệm khá mới mẻ và trên thực tế có không ít doanh nghiệp hiểu
chưa thực sự đúng về khái niệm này, họ thường hiểu trách nhiệm xã hội theo nghĩa "truyền
thống". Tức là doanh nghiệp thực hiện TNXH như là một hoạt động tham gia “giải quyết các vấn
đề xã hội” mang tính nhân đạo, từ thiện. Với cách hiểu này, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
không mang tính bắt buộc mà là doanh nghiệp “tự nguyện” thực hiện. Trong quy chế và tiêu chí
xét thưởng của Giải thưởng trách nhiệm xã hội doanh nghiệp năm 2009, Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam (VCCI) giới hạn trách nhiệm xã hội doanh nghiệp ở hai lĩnh vực lao
động và môi trường, nhưng cũng đặt thêm tiêu chí “hoạt động kinh doanh có hiệu quả kinh tế”.
Nói cách khác, VCCI dùng khái niệm 3P như đa số các tổ chức và doanh nghiệp khác trên thế

giới.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về trách nhiệm xã hội (CSR- Corporate Social Responsibility)
của doanh nghiệp. Một trong các định nghĩa được sử dụng nhiều nhất đó là theo chuyên gia của
Ngân hàng Thế giới (WB): "Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp là sự cam kết của doanh nghiệp
đóng góp vào sự phát triển kinh tế bền vững, hợp tác cùng người lao động, gia đình họ, cộng
đồng và xã hội nói chung để cải thiện chất lượng cuộc sống cho họ, sao cho vừa tốt cho doanh
nghiệp vừa ích lợi cho phát triển”22. Từ những phân tích ở trên có thể khẳng định TNXH của
doanh nghiệp thể hiện trên các phương diện sau:
- Đóng thuế đầy đủ
- Đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động
- Bình đẳng trong đối xử với người lao động
- Thực hiện tốt vấn đề vệ sinh, an toàn thực phẩm
- Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng
- Thực hiện nghiêm túc vấn đề bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên
1

Michel Capron & Fr. Quairel-Lanoizelée, Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, NXB Tri Thức, 2009;
H.R. Bowen, Social Responsability of the Businessman, New York, 1953.
2

Mr. NiGel Twose- WB tại Washington DC. USA - Hội thảo quốc gia về Trách nhiệm xã
hội của DN và khả năng cạnh tranh quốc gia, Hà Nội,12/2002
2


- Tham gia vào các hoạt động từ thiện và trợ giúp xã hội.
2. Lợi ích khi doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội
Khẳng định của ông Martin Neureiter- chuyên gia cao cấp, Trưởng ban phụ trách triển khai ISO
26000: “Chúng ta đừng nên coi trách nhiệm xã hội (CSR) của doanh nghiệp là một gánh nặng
mà nên coi đó là cơ hội, là mục đích tự thân, là một kinh nghiệm để doanh nghiệp hoạt động tốt

hơn chứ không phải là một gánh nặng của chi phí, áp lực từ phía Nhà nước. Do đó, hãy tìm các
giải pháp để phát triển tốt hơn cho nơi mình đang sống”2 .
Về cơ bản, doanh nghiệp thực hiện TNXH mang lại lợi ích sau:
Một là, giảm chi phí và tăng hiệu quả trong sản xuất: Nhiều chuyên gia kinh tế trên thế giới
nhận định rằng các doanh nghiệp có thể tiết kiệm đáng kể chi phí nếu thực hiện TNXH tốt. Công
ty sản xuất gốm sứ Giang Tây- Trung Quốc, khi lắp đặt công nghệ mới thân thiện với môi trường
đã tiết kiệm gần 10 triệu USD mỗi năm, với kết quả giảm 6% lượng nước sử dụng, 65% lượng
chất thải nước và 74% chất thải khí. Một hệ thống quản lý nhân sự hiệu quả cũng giúp doanh
nghiệp cắt giảm chi phí và tăng năng suất lao động đáng kể. Chế độ lương thưởng hợp lý, môi
trường lao động an toàn, đặc biệt là các cơ hội đào tạo, thăng tiến được doanh nghiệp chú trọng,
luôn thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người lao động…sẽ tạo động lực giúp
người lao động gắn bó lâu dài với doanh nghiệp, giảm số lượng lao động bỏ việc…; điều này
góp phần tăng lợi nhuận cho công ty.
Hai là, thực hiện trách nhiệm xã hội giúp doanh nghiệp có khả năng tăng doanh thu: Hindustan
Lever là một chi nhánh của tập đoàn Unilever hoạt động kinh doanh tại Ấn Độ. Thời gian đầu
khi mới vào thị trường Ấn Độ, các nhà máy chế biến sữa Hindutan không thể hoạt động hết công
suất do cung không đủ cầu, chất lượng bò sữa ở địa phương rất kém. Hãng quyết định xây dựng
chương trình giúp người dân chăn nuôi bò sữa theo nhiều giai đoạn khác nhau, từ việc đào tạo
nông dân cách chăn nuôi, cải thiện cơ sở hạ tầng cơ bản để thành lập một Hiệp hội những nhà
cung cấp sữa bò. Kết quả thật đáng mừng, chưa đầy hai năm sau, nguồn cung bò sữa đã tăng lên
trên 40 lần và nhà máy đã hoạt động hết công suất. Doanh thu và lợi nhuận của Hindustan nhờ
đó cũng tăng cao đáng kể.
Ba là, thực hiện tốt trách nhiệm xã hội giúp doanh nghiệp nâng cao giá trị thương hiệu và uy tín:
Khi doanh nghiệp được cấp chứng chỉ CSR sẽ nâng cao đáng kể uy tín và giá trị thương hiệu của
doanh nghiệp đối với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt, chứng chỉ CSR như
“giấy thông hành” để sản phẩm của doanh nghiệp được thử sức cạnh tranh ở môi trường quốc tế.
Một doanh nghiệp sản xuất bàn ghế tại Bulsan- Hàn Quốc, sau khi có được Chứng chỉ thân thiện
với tài nguyên rừng, đã nhanh chóng đẩy mạnh doanh số bán hàng, các đối tác lớn ở trong và
ngoài nước ồ ạt tìm đến. Bàn ghế của doanh nghiệp này thâm nhập thị trường Mỹ và châu Âu
một cách dễ dàng. Giá bán các sản phẩm cao hơn trước đến 20% mà số lượng đơn đặt hàng vẫn

tăng đều đặn.
Bốn là, doanh nghiệp có nhiều cơ hội thu hút nhân tài khi thực hiện CSR: Việc thu hút nhân tài
luôn được các doanh nghiệp quan tâm bởi nhân lực giỏi là một trong những yếu tố quan trọng
3


quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Có được những nhân viên tốt đã khó
nhưng việc giữ chân họ là thách thức lớn đối với mỗi doanh nghiệp, nhất là trong nền kinh tế
cạnh tranh. Những doanh nghiệp trả lương thỏa đáng và công bằng, tạo cho nhân viên cơ hội đào
tạo, thăng tiến, biết ghi nhận sự sáng tạo của nhân viên, đóng bảo hiểm y tế đầy đủ và môi
trường làm việc thân thiện… sẽ có khả năng thu hút và giữ được nhân viên tốt.
Người lao động cũng thể hiện ý kiến và quan điểm của mình về CSR theo cách riêng của họ, cứ
ba trong số bốn nhân viên được hỏi cho biết, họ sẽ “trung thành” hơn với ông chủ nào luôn giúp
đỡ và có trách nhiệm với cộng đồng địa phương. Kết quả của nhiều nghiên cứu thực tế tại Bắc
Mỹ đã chứng minh sự liên hệ mật thiết giữa việc thực thi CSR và khả năng thu giữ người tài của
doanh nghiệp. Lý do được nêu ra là những người giỏi, có uy tín thường muốn làm việc ở nơi mà
họ nghĩ là tốt trong xã hội và thấy tự hào.
Năm là, thực hiện tốt CSR giúp doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh và thực hiện tốt hơn
pháp luật lao động. Ông Patrick Gilaber- Trưởng đại diện Unido tại Việt Nam đánh giá: “Chúng
ta đang chứng kiến sự thay đổi của người tiêu dùng trên thế giới, CSR của doanh nghiệp ngày
càng quan trọng và nó khẳng định năng lực hoạt động của chính các doanh nghiệp trong nước và
trên thị trường quốc tế. Phát triển cộng đồng là một mối quan hệ không thể tách rời trong sự phát
triển của doanh nghiệp, nhưng hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam lại chưa đủ khả năng, đặc biệt
là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên họ chưa tận dụng được dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài”3. Điều này phản ánh rõ nhất lợi ích mang lại nếu doanh nghiệp biết phát triển cộng đồng.
3. Thực trạng ô nhiễm môi trường tại Việt Nam trong thời gian qua
Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu với kinh tế khu vực và thế giới, các doanh
nghiệp Việt Nam buộc phải có quan hệ với các đối tác nước ngoài, phải thực hiện những quy
định về môi trường, về TNXH theo quy chuẩn quốc tế như Tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA
8000 và WRAP; Hệ thống quản trị môi trường ISO 14000; Hệ thống quản lý an toàn và sức khoẻ

OHSAS 18001… Thời gian qua, cùng với sự phát triển kinh tế, Việt Nam đang chịu nhiều hậu
quả của biến đổi khí hậu và vấn đề ô nhiễm môi trường tại các khu đô thị, khu công nghiệp, làng
nghề, các lưu vực sông trên cả nước. Vấn đề ô nhiễm đã trở thành các chủ đề nóng và luôn là
mối quan tâm của toàn xã hội bởi tính chất vi phạm rất “tinh vi” của các doanh nghiệp và những
tổn thất mà nó gây ra cho con người.
Năm 2010, Bộ Tài Nguyên và Môi trường công bố Báo cáo môi trường quốc gia, cho thấy:
Trong 5 năm qua, môi trường nước mặt ở hầu hết các đô thị và một số lưu vực sông của Việt
Nam đều bị ô nhiễm các chất hữu cơ và tình trạng này không ngừng gia tăng. Tại hầu hết các
sông, hồ, kênh, rạch trong nội thành của các thành phố, thị trấn lớn, hàm lượng các chất ô nhiễm
hữu cơ đều vượt giới hạn tối đa cho phép từ 2 đến 6 lần. Điển hình là ô nhiễm tại lưu vực các
sông gồm sông Cầu, sông Nhuệ, sông Đáy, sông Đồng Nai đã tới mức báo động. Nghiêm trọng
nhất là lưu vực sông Đồng Nai, nguồn nước thuộc đoạn sông Sài Gòn- Đồng Nai hiện đang bị ô
3

/>
4


nhiễm nặng, chất lượng nước mặt dùng cho sinh hoạt không đảm bảo, gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sức khỏe cộng đồng. Nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng ô nhiễm này là do có
“trên 9.000 cơ sở sản xuất công nghiệp nằm phân tán, xen kẽ trong khu dân cư trên lưu vực sông
Đồng Nai. Bình quân mỗi ngày, lưu vực sông phải tiếp nhận khoảng 48.000m3 nước thải từ các
cơ sở sản xuất này”4.
(Hộp cắt) Tính đến hết năm 2009, toàn quốc đã có tới 249 khu công nghiệp được thành lập theo
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, nhưng chỉ có khoảng 50% các khu công nghiệp đang hoạt
động là có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Hiện nay, có khoảng 70% trong số hơn 1 triệu m3
nước thải/ngày từ các khu công nghiệp xả thẳng ra các nguồn tiếp nhận không qua xử lý.
Một thực trạng khác dẫn đến ô nhiễm nguồn nước được bắt nguồn từ các sản phẩm thải của các
doanh nghiệp, các hộ kinh doanh trong các khu công nghiệp và các làng nghề. Theo thống kê của
Tổng cục Môi trường, trong năm 2010 có khoảng 40.000 tấn ắc quy chì được thải bỏ trong nước

và dự báo đến năm 2015, con số này sẽ là gần 70.000 tấn. Ông Lê Văn Kiều, nguyên Chánh
Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng: “Các nước trong khu vực đều đã triển khai quy
định về trách nhiệm doanh nghiệp trong thu hồi sản phẩm thải bỏ. Việt Nam cũng cần bắt kịp với
xu hướng này, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ như hiện nay…”5. Trong
cấu thành giá sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm của các tập đoàn lớn đã có tính đến 10% chi
phí cho thực hiện trách nhiệm môi trường. Vì vậy, triển khai quy định về sản phẩm thải bỏ là rất
cần thiết, Việt Nam cần nhanh chóng áp dụng và sửa đổi dần căn cứ theo nhu cầu thực tiễn.
Ô nhiễm nước ở nông thôn và khu vực sản xuất nông nghiệp cũng rất nghiêm trọng, gần 75% số
dân Việt Nam sinh sống ở nông thôn, với cơ sở hạ tầng phần lớn lạc hậu, các chất thải của con
người và gia súc không được xử lý, thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm cho tình trạng ô nhiễm
nguồn nước về hữu cơ và sinh vật không ngừng tăng cao. Nhiều nơi do các hộ dân nuôi trồng
thuỷ sản ồ ạt, thiếu quy hoạch, các khu chế biển thuỷ hải sản đông lạnh không tuân theo quy
trình kỹ thuật đã gây ra nhiều tác động tiêu cực tới môi trường nước. Một phần khiến môi trường
nước ở nông thôn bị ô nhiễm do người nông dân dùng không đúng cách và không hợp lý các hoá
chất nông nghiệp (thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ,….) thiếu các phương tiện vệ sinh cơ sở hạ tầng
phục vụ sinh hoạt nên số hộ gia đình dùng nước đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh chỉ đạt khoảng 30%40%, và chỉ có khoảng 20%- 30% số hộ sử dụng công trình vệ sinh đạt tiêu chuẩn.
Cùng với sự phát triển của các làng nghề, hậu quả về môi trường do các hoạt động sản xuất làng
nghề đưa lại cũng ngày càng nghiêm trọng. Tình trạng ô nhiễm không khí, chủ yếu là do nhiên
liệu sử dụng trong các làng nghề là than, lượng bụi và khí CO, CO2, SO2 và Nox thải ra trong
4

/>
luong/6763300.epi
5

/>
luong/6763300.epi

5



quá trình sản xuất khá cao. Theo thống kê của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, hiện nay cả nước
có 2.790 làng nghề, trong đó có 240 làng nghề truyền thống, đang giải quyết việc làm cho
khoảng 11 triệu lao động, bao gồm cả lao động thường xuyên và lao động không thường xuyên.
Tuy nhiên, do sản xuất mang tính tự phát, hộ sản xuất sử dụng phương tiện thủ công lạc hậu,
chắp vá, mặt bằng sản xuất chật chội, việc đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải ít được họ
quan tâm, ý thức bảo vệ môi trường sinh thái của người dân làng nghề còn kém. Bên cạnh đó
chúng ta đang thiếu cơ chế quản lý, giám sát của các cơ quan chức năng của Nhà nước, chưa có
những chế tài đủ mạnh đối với những hộ làm nghề thủ công gây ô nhiễm môi trường, nên tình
trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề ngày càng trầm trọng và hiện nay đã ở mức “báo
động đỏ”. Hoạt động gây ô nhiễm môi trường sinh thái tại các làng nghề không chỉ ảnh hưởng
trực tiếp đến cuộc sống, sinh hoạt và sức khoẻ của những người dân làng nghề mà còn ảnh
hưởng đến cả những người dân sống ở vùng lân cận.
(Hộp cắt)Theo báo cáo của Chương trình môi trường của Liên hợp quốc, Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh đứng đầu châu Á về mức độ ô nhiễm bụi. Mới đây, kết quả công bố tại Diễn đàn
Kinh tế Thế giới Davos cho thấy, Việt Nam nằm trong 10 quốc gia có môi trường không khí “tệ”
nhất thế giới, đứng thứ 123 trong tổng số 132 nước.
4. Một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trạng trên
Các chuyên gia về môi trường trong nước và trên thế giới tìm hiểu về vấn đề ô nhiễm môi trường
ở Việt Nam đã đưa ra rất nhiều nguyên nhân đẫn đến thực trạng ô nhiễm môi trường trên các
bình diện khác nhau. Về cơ bản, chúng tôi xin đề cập đến một số nguyên nhân sau:
Một là, hạn chế, bất cập của cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường cũng như việc tổ
chức, thực hiện các văn bản, quy định pháp luật của các cơ quan chức năng tại Việt Nam. Nhằm
nâng cao tính pháp lý trong bảo vệ môi trường, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định
117/2009 về xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (có hiệu lực từ tháng 3-2010) quy
định 33 hành vi vi phạm, theo đó mức phạt tiền tăng cao gấp 7,5 lần so với mức phạt trong Nghị
định 81/2006 và khoảng 300 văn bản pháp luật (Theo thống kê của Bộ Tư pháp) về bảo vệ môi
trường để điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế, các quy trình kỹ
thuật, quy trình sử dụng nguyên liệu trong sản xuất. Tuy nhiên, hệ thống các văn bản này vẫn
còn chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, thiếu chi tiết, tính ổn định không cao, tình trạng văn bản mới

được ban hành chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ sung là khá phổ biến, từ đó làm hạn chế hiệu quả
điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế. Đó là chưa kể đến văn bản
quá nhiều, rất dễ dàng gây sự hiểu lầm trong tổ chức, thực hiện ở cấp dưới.
Hai là, quyền hạn pháp lý của các tổ chức bảo vệ môi trường, nhất là của lực lượng cảnh sát môi
trường chưa thực sự đủ mạnh, nên đã hạn chế hiệu quả hoạt động nắm tình hình, phát hiện, đấu
tranh, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Các cơ sở pháp lý, chế tài
xử phạt đối với các loại hành vi gây ô nhiễm môi trường và các loại tội phạm về môi trường vừa
thiếu, vừa chưa đủ mạnh, dẫn đến hạn chế tác dụng giáo dục, phòng ngừa, răn đe đối với những
hành vi xâm hại môi trường. Điển hình như vụ vi phạm pháp luật về môi trường của Công ty

6


Vedan (Đồng Nai) làm ảnh hưởng đến đời sống lâu dài của người dân, nhưng Công ty cũng chỉ
phải nộp hành chính 267,5 tỷ đồng và nộp truy thu tiền phí bảo vệ môi trường là hơn 127,2 tỷ
đồng mà không hề bị xử lý hình sự. Hay vụ Công ty cổ phần Men thực phẩm Mauri La Ngà
(Đồng Nai), nước thải công ty gây chết cá bè, hàng trăm người dân kéo đến công ty yêu cầu
ngừng xả thải. Cảnh sát môi trường, Công an Đồng Nai phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi
trường, UBND huyện Định Quán kiểm tra, xử phạt 32 triệu đồng và tạm đình chỉ hoạt động của
công ty để xử lý môi trường. Tại Hải Phòng, nhà máy chế biến khoáng sản (thuộc Công ty cổ
phần Kinh doanh chế biến hàng xuất khẩu Đà Nẵng) xả chất thải gây ô nhiễm môi trường, ảnh
hưởng cuộc sống người dân nhưng chưa bị xử lý…
Ba là, các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức đối với công tác bảo
vệ môi trường, dẫn đến buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra, giám sát về
môi trường. Điển hình là sự kiện Công ty Vedan bị bắt quả tang xả thẳng nước thải chưa xử lý
vào sông Thị Vải liên tục 14 năm, chỉ thực sự bị xử lý khi đã “giết chết” dòng sông. Công tác
kiểm tra về môi trường của các cơ quan chức năng đối với các cơ sở sản xuất dường như vẫn
mang tính hình thức, hiện tượng “phạt để tồn tại” còn phổ biến. Từ năm 2007 đến nay, chỉ có
một vụ vi phạm môi trường nhập phế liệu nguy hại được đưa ra khởi tố về hành vi buôn lậu và
phải nhờ cơ quan cảnh sát điều tra kinh tế khởi tố.

Bốn là, chi phí xây dựng hệ thống xử lý nước, rác thải đạt chuẩn là rất lớn, khiến nhiều doanh
nghiệp không đủ sức đầu tư. Một số nhà máy ứng dụng thành công dây chuyền xử lý rác thải
hiện đại, chi phí rẻ hơn như Công ty TNHH Thủy lực- Máy ứng dụng (Hà Nội) đã thiết kế thành
công dây chuyền xử lý rác sinh hoạt CDW. Mặc dù được cho đã tiết kiệm nhiều thì chi phí cho
hệ thống xử lý rác CDW cũng tiêu tốn khoảng 5 tỷ đồng cho trạm công suất 20 tấn một ngày,
còn ở quy mô cao cũng vài chục tỷ. Vì lẽ đó, đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến
doanh nghiệp “chùn bước” thực hiện trách nhiệm xã hội khi nguồn vốn của họ eo hẹp.
Năm là, do nhận thức chưa thực sự đầy đủ của các doanh nghiệp về trách nhiệm xã hội nên đối
với các doanh nghiệp có thị trường xuất khẩu, theo yêu cầu của đối tác nước ngoài họ “buộc”
phải thực hiện tránh nhiệm xã hội. Một số doanh nghiệp vừa và nhỏ, họ chỉ hiểu trách nhiệm xã
hội là “làm từ thiện”. Một số khác cho rằng việc thực hiện trách nhiệm xã hội sẽ làm tăng chi phí
cho doanh nghiệp, làm giảm khả năng cạnh tranh ban đầu mà chưa thấy ngay được lợi ích nên
không muốn thực hiện.
5. Một số giải pháp nâng cao trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp Việt Nam về ô
nhiễm môi trường
Thứ nhất, nhóm giải pháp nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về TNXH nói chung và ô
nhiễm môi trường nói riêng
Để thực hiện tốt nhóm giải pháp này, chúng tôi đề xuất một số cách làm sau:
- Giao cho VCCI phối hợp với các viện, các trường đại học tổ chức tập huấn cho lãnh đạo các
doanh nghiệp về văn hóa doanh nghiệp, đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp. Đặc biệt nhấn mạnh lợi ích đạt được nếu doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội
7


khi tham gia vào nền kinh tế toàn cầu, đây chính là nền tảng để giúp doanh nghiệp phát triển bền
vững. Chính Phủ cần xây dựng các chương trình trọng điểm, đề án quốc gia như thúc đẩy
chương trình vệ sinh, an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường... để thông qua đó, các doanh nghiệp
phải nỗ lực tham gia. Có chế độ khen thưởng, ưu đãi đối với các doanh nghiệp thực hiện tốt
TNXH cũng như lên án, xử phạt và có biện pháp mạnh khi các doanh nghiệp trốn tránh nghĩa vụ,
trách nhiệm với cộng đồng.

- Chính Phủ cần giao cho các Bộ, Ban, Ngành có kế hoạch truyền thông, tuyên truyền, phổ biến
rộng rãi, làm cho tất cả các doanh nghiệp, trước hết là các chủ doanh nghiệp hiểu về TNXH của
doanh nghiệp. Điều quan trọng là, làm sao để việc thực hiện TNXH của doanh nghiệp trở thành
động cơ bên trong của các doanh nghiệp, được xem là hành vi đạo đức và được điều khiển bằng
động cơ đạo đức từ những người đứng đầu doanh nghiệp. Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về
TNXH, đặc biệt là vấn đề ô nhiễm môi trường, biện pháp khắc phục, bài học kinh nghiệm từ các
quốc gia khác trên thế giới…
- Cuộc bình chọn và trao giải “Doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội” do VCCI chịu
trách nhiệm cần được phổ biến rộng rãi, quy định cụ thể các tiêu chí xét thưởng để các doanh
nghiệp phấn đấu. Doanh nghiệp được nhận thưởng sẽ được cấp chứng nhận về thực hiện tốt
TNXH trên các sản phẩm, dịch vụ của mình.
- Nâng cao nhận thức cho khách hàng, khuyến khích người tiêu dùng chỉ sử dụng những sản
phẩm, dịch vụ rõ ràng về nguốn gốc, được kiểm định và các sản phẩm có chứng nhận doanh
nghiệp thực hiện tốt TNXH. Xúc tiến thành lập Hiệp hội người tiêu dùng Việt Nam với tôn chỉ là
bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng; thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm sạch,
chất lượng cao và an toàn, không gây ô nhiễm; không mua hàng hoá của những doanh nghiệp không
thực hiện tốt các nội dung cơ bản của TNXH, trong đó có nội dung liên quan đến an toàn vệ sinh
thực phẩm và ô nhiễm môi trường.
Thứ hai, nhóm giải pháp về pháp lý
- Chính Phủ cần xây dựng một hành lang pháp lý bắt buộc các doanh nghiệp phải thực thi TNXH
một cách đầy đủ và nghiêm túc. Khung pháp lý chính là biện pháp có hiệu lực nhất đối với việc
thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp; đồng thời, là giải pháp hỗ trợ đắc lực cho giải
pháp về đạo đức, làm cho các động cơ đạo đức thường xuyên được củng cố và ngày càng có hiệu
lực trên thực tế. Chính phủ cần phải hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về môi trường, khắc
phục nhanh chóng sự chồng chéo, thiếu đồng bộ như hiện nay. Bên cạnh đó có những biện pháp
mạnh tay như thiết lập chế tài và quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong Bộ luật Hình
sự, đối với những trường hợp vi phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Thực hiện việc trao
quyền rõ ràng, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ cụ thể cho từng cấp để thực hiện việc kiểm
soát vấn đề ô nhiễm môi trường từ các khu công nghiệp, các làng nghề… gây ra.
- Chính phủ cũng nên ban hành một Nghị định hướng dẫn thi hành các quy định về quản lý môi

trường đối với doanh nghiệp dựa trên các tiêu chuẩn quản lý môi trường của các bộ CoC quốc tế và
phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
8


- Nhà nước cần giao thêm quyền cho các Sở kế hoạch đầu tư các Tỉnh, Thành Phố trong cả nước xây
dựng các điều kiện cần và đủ phù hợp với từng lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh. Kiểm tra, kiểm soát
các doanh nghiệp khi đăng kí xin Giấy phép kinh doanh nếu ở ngành nghề kinh doanh chính của họ
có các hoạt động sản xuất, kinh doanh liên quan đến việc xử lý các chất thải, nước thải, độ bụi… Sở
kế hoạch đầu tư sẽ không cấp đăng kí kinh doanh cho doanh nghiệp đó nếu doanh nghiệp không có
dự án về xử lý các chất thải, nước thải, độ bụi… Như vậy, doanh nghiệp buộc phải có kế hoạch và lộ
trình thực hiện nghiêm túc vấn đề chống ô nhiễm môi trường mới được cấp Giấy phép kinh doanh.
Thứ ba, nhóm giải pháp về đầu tư cơ sở hạ tầng chống ô nhiễm môi trường
- Nhà nước cần có lộ trình cụ thể quy hoạch các làng nghề, cần huy động sức mạnh trí tuệ của các
chuyên gia trong và ngoài nước chuyên nghiên cứu về ô nhiễm môi trường để có giải pháp xử lý tình
trạng ô nhiễm môi trường một cách hợp lý. Trong trường hợp hoạt động sản xuất ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sức khỏe cộng đồng, Chính phủ cần làm công tác tư tưởng, vận động người dân nhận thức
rõ mức độ nguy hại của nó đến an toàn tính mạng con người và có chiến lược hỗ trợ họ chuyển đổi
ngành nghề kinh doanh khác để đảm bảo cuộc sống, tinh thần, tư tưởng cho người lao động.
- Mỗi khu công nghiệp Chính Phủ cần ưu tiên đầu tư xây dựng hệ thống các công trình xử lý chất
thải, nước thải như đưa vào vận hành nhà máy xử lý chất thải nguy hại với công suất lớn, đảm
bảo cho các khu chế xuất, khu công nghiệp và khu công nghệ cao vận hành và xử lý 100% nước
thải đạt tiêu chuẩn môi trường trước khi thải ra ngoài; đặc biệt là đảm bảo 100% chất thải rắn đô
thị được thu gom và xử lý hợp vệ sinh… Tại hệ thống xử lý nước thải tập trung của khu công
nghiệp phải được lắp đặt trạm quan trắc chất lượng nước tự động để việc kiểm soát thực sự hiệu
quả và chặt chẽ. Thay mới hoặc tu sửa mạng lưới quan trắc chất lượng không khí và nước mặt
của khu công nghiệp, các thành phố lớn. Mỗi thành phố lớn, khu công nghiệp cần xây dựng
trung tâm quan trắc và phân tích môi trường có quy mô hiện đại để thuận lợi cho việc lấy mẫu,
phân tích kiểm tra xác định hành vi vi phạm gây ô nhiễm môi trường của các doanh nghiệp một
cách chính xác, khách quan để có cơ sở khoa học làm căn cứ pháp lý khi xử lý các doanh nghiệp

này.
- Chính phủ nên giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng Bộ Lao động- Thương binh và Xã
hội, Ngân hàng Nhà nước cùng xây dựng cơ chế, chính sách ưu tiên cho các doanh nghiệp vay
vốn với lãi suất ưu đãi để đầu tư công nghệ thân thiện với môi trường, đầu tư mua sắm phương
tiện xử lý rác thải, nước thải và khí thải, đầu tư thực hiện các tiêu chuẩn môi trường quốc tế và
các bộ CoC quốc tế về quản lý môi trường (ISO 14000, …) dưới sự giám sát chặt chẽ của Chính
Phủ.
Trong thời đại toàn cầu hóa, uy tín doanh nghiệp không phải chỉ tác động đến bản thân doanh
nghiệp mà nó còn là đại diện bộ mặt của quốc gia trong mắt bạn bè trên toàn thế giới. Chính vì
vậy, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp không phải là bề nổi, không chỉ đơn giản là một khía
cạnh “cộng thêm” mà là bản chất của doanh nghiệp. Nói cách khác, doanh nghiệp càng có trách
nhiệm xã hội bao nhiêu, càng có khả năng sinh lợi nhiều bấy nhiêu và ngược lại. Và vì trách

9


nhiệm xã hội là bản chất của doanh nghiệp nên doanh nghiệp phải thể hiện trách nhiệm xã hội
của mình một cách toàn diện nhằm chung sức xây dựng cộng đồng trong thời đại mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bộ Luật lao động của nước CHXHCN Việt Nam (Bộ luật lao động số 35-L/CTN ban hành
ngày 5/7/1994; Luật sửa đổi bổ sung một số Điều của Bộ luật lao động số 35/2002/QH10 ngày
19/4/2002 và số 74/2006/QH11 ngày 12/12/2006).
- Luật Bảo vệ Môi trường của nước CHXHCN Việt Nam (Luật số 29-L/CTN ngày 10/1/1994 và
số 52/2005/QH11 ngày 12/12/2005).
- TS. Lê Thanh Hà, Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong lĩnh vực lao động- Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Kinh tế và Phát triển số 09/2006.
- TS. Lê Thanh Hà (Chủ nhiệm), Các giải pháp thúc đẩy việc thực hiện trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế, Đề tài cấp Bộ
mã số CB 2007-01-04 của Bộ LĐ-TB-XH, Hà Nội, 2008.
- Nguyễn Mạnh Quân (2007), “Đạo đức kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp”, NXB ĐHKT

Quốc dân.
- Trần Phương Minh, tổng hợp và dịch từ PRO.com, IAES.org và CNN/Money.com
- Jia, cundou, Zhang, wenkui (2006), Nhìn về trách nhiệm xã hội của Trung Quốc.
- Joseph W. McGuire, Business and Social, New York: MGraw-Hill, 1963, 144.
- Michel Capron & Fr. Quairel-Lanoizelée, Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, NXB Tri
Thức, 2009.
- H.R. Bowen, Social Responsability of the Businessman, New York, 1953.
- Một số báo điện tử.

10



×