Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

bệnh giun xoắn ở dạ múi khế của gia súc nhai lại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (723.67 KB, 34 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
PHÒNG QUẢN LÝ SAU ĐẠI HỌC

BÀI THI
Môn: KÝ SINH TRÙNG THÚ Y
Hình thức thi: VIẾT TIỂU LUẬN

Chủ đề:

“BỆNH GIUN XOĂN DẠ MÚI KHẾ
Ở GIA SÚC NHAI LẠI”

Giảng viên: GS. TS. Nguyễn Thị Kim Lan
Học viên: Nguyễn Hữu Đạt
Lớp: Cao học Thú y K22

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2015


Phần 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngành chăn nuôi nước ta đã và đang chiếm một vị trí quan trọng trong sản
xuất nông nghiệp nói riêng và trong cơ cấu nền kinh tế nói chung. Chăn nuôi với
nhiều phương thức phong phú, đa dạng đã góp phần giải quyết việc làm, nâng cao
thu nhập cho người dân, tạo ra các sản phẩm có giá trị cao, phù hợp với thị hiếu
người tiêu dùng.
Bệnh giun xoăn dạ múi khế là bệnh phổ biến trên gia súc nhai lại không chỉ ở
Việt Nam mà còn trên toàn thế giới. Bệnh do nhiều loài giun tròn ký sinh ở dạ múi
khế của gia súc nhai lại gây ra.
Giun xoăn dạ múi khế ký sinh, hút máu của ký chủ, làm ký chủ mất máu dẫn
đến thiếu máu nặng, không những vậy, chúng gây tổn thương niêm mạc dạ múi khế,


gây hội chứng tiêu chảy. Gia súc bị bệnh còi cọc, chậm lớn, giảm sức đề kháng với
các bệnh khác và có thể gây chết nếu mắc bệnh nặng.
Để làm sáng tỏ vấn đề này tôi thực hiện chuyên đề “ Bệnh giun xoăn dạ múi
khế ở gia súc nhai lại”
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. Đặc điểm sinh học của giun xoăn dạ múi khế ký sinh ở gia súc nhai lại
1.1. Vị trí của giun xoăn dạ múi khế trong hệ thống phân loại động vật
Giun xoăn ký sinh chủ yếu ở dạ múi khế trâu, bò, dê, cừu gồm nhiều giống
loài.
Theo Skrjabin và cs (1977), Nguyễn Thị Lê và cs (1996), giun xoăn dạ múi
khế có trong phân loại động vật như sau:
Ngành Nemathelminthes Schneider, 1873
Lớp Nematoda Rudolphi, 1808
Phân lớp Rhabditia Pearse, 1942
Bộ Strongylida Railliet et Henry, 1913
Phân bộ Strongylata Railliet et Henry, 1913
Siêu họ Trichostrongyloidea Cram, 1927
Họ Trichostrongylidae Leiper, 1912


Phân họ Trichostrongylinae Leiper, 1905
Giống Trichostrongylus Looss, 1905
Loài T. colubriformis (Giles, 1892)
Loài T. axei (Cobbold, 1879)
Loài T. probolurus (Railliet, 1896)
Giống Ostertagia Ransom, 1907
Loài O. ostertagi (Stiles, 1892)
Loài O. circumcincta (Stadelmann, 1894)
Giống Marshallagia Orloff, 1933

Loài M. marshalli (Ransom, 1907)
Phân họ Haemonchinae Skrjabin et Schulz, 1952
Giống Haemonchus Cobbold, 1898
Loài H. contortus (Rudolphi, 1803)
Loài H. similis (Travassos, 1914)
Phân họ Cooperinae Skrjabin et Schikhobalova, 1952
Giống Cooperia Ransom, 1907
Loài C. curticei (Giles, 1892)
Loài C. punctata (Linstow, 1906)
Phân họ Nematodirinae Skrjabin et Orloff, 1934
Giống Nematodirus Ransom, 1907
Loài N. oiratianus (Rajevskaia, 1929)
Loài N. skrjabini (Mizkewisch, 1929)
Giống Mecistocirrus Railliet et Henry, 1912
Loài M. digitatus (Linstow, 1906)
(Trích dẫn theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 2008) [].
Các tác giả trong và ngoài nước đều thống nhất rằng, tập đoàn giun xoăn ờ
dạ dày(chủ yếu ở dạ múi khế) của trâu, bò và các thú nhai lại khác tương đối phong
phú, gồm nhiều loài giun thuộc họ Trichostrongylidae Leiper, 1912 một trong
những họ thuộc siêu họ Trichostrongylidae Cram, 1927. Đặc điểm chung nhất của
những loài giun này là: Thân hình sợi chỉ to hoặc nhỏ. Miệng ờ tận cùng đầu.
Xoang miệng không có, ở một số giun có bao miệng nhỏ nhưng xoang miệng thể
hiện rõ và có thể có răng ở ữên thành hoặc ở dưới đáy xoang. Ở con đực túi sinh
dục phát triển. Đại đa số thuỳ bên lớn, thuỳ lưng thể hiện yếu hoặc không có. Có hai
gai giao hợp, có hoặc không có lái. Âm hộ của con cái nằm phía sau thân. Giun cái
đẻ trứng theo phân ra ngoài (Skrjabin và cs, 1963. Riêng ở gia súc nhai lại Việt
Nam, nhiều tác giả đã xác định: Haemonchus contortus (H. contortus),
Haemonchus similis (H. similis), Trichostrongylus axei (T. axei), Trichostrongylus
colubriformis (T colubriformis) và Mecistocirrus digitatus (M. digitatus) là những



loài giun xoăn phổ biến ký sinh ờ dạ múi khế và gây tác hại nghiêm trọng cho gia
súc nhai lại (Drozdz và cs, 1967; Phan Thế Việt và cs, 1977; TrịnhVăn Thịnh, 1978,
1982; Nguyễn Thị Lê và cs, 1996; Nguyễn Văn Đức, 2000; Phạm Sỹ Lăng và cs,
2002; Phan Địch Lân và cs, 2005; Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 2008). (Dẫn theo
Nguyễn Thị Kim Lan, 2011)[].
1.2. Thành phần loài giun xoăn dạ múi khế ký sinh ở gia súc nhai lại
Bệnh giun xoăn ở đường tiêu hóa của gia súc nhai lại do những loài giun
thuộc họ Trichostrongylidae gây ra. Trong họ Trichostrongylidae có nhiều giống
loài. Thường thấy 7 giống phổ biến với trên 100 loài. (Nguyễn Thị Kim Lan, 2012):
Tên giống
Ký chủ chính
Vị trí ký sinh
Haemonchus
Trâu, bò, dê, cừu
Dạ múi khế, ruột non
Mesistocirrus
Trâu, bò, dê, cừu, lợn
Dạ múi khế, dạ dày lợn
Trichostrongylus
Trâu, bò, dê, cừu
Dạ múi khế, ruột non
Ostertagia
Trâu, bò, dê, cừu
Dạ múi khế
Marshallagia
Trâu, bò, dê, cừu
Dạ lá sách
Cooperia
Trâu, bò, dê, cừu

Dạ múi khế, ruột non
Nematodirus
Trâu, bò, dê, cừu
Ruột non
Gia súc nhai lại thường nhiễm hỗn hợp các giống này. Trong đó có hai
giống gây tác hại lớn là Haemonchus và Mesistocirrus.
1.3. Đặc điểm hình thái của một số loài giun xoăn chủ yếu ở dạ múi khế
1.3.1. Các loài thuộc giống Haemonchus
* Haemonchus contortus
Theo Nguyễn Thị Lê và cs (1996), loài Haemonchus contortus (Rudolphi,
1803) ký sinh ở dạ múi khế và ruột non của bò, trâu, dê trên phạm vi toàn quốc và
phổ biến trên toàn cầu. Tác giả đã mô tả hình thái H. contortus (theo Kamenskii,
1929): giun đực dài 18,7 - 22,3 mm, rộng nhất 0,352 - 0,416 mm.
Túi sinh dục có 3 thùy (hai thùy bên dài, thùy sau không đối xứng). Các sườn
bên hướng về phía sau, các sườn bụng cong về phía trước. Các sườn bên chung một
gốc lớn, mút cuối có sự phân nhánh. Gai sinh dục màu nâu, dài 0,448 – 0,544mm,
phần đuôi thắt nhỏ nhanh và kết thúc bằng một phần đặc trưng như chiếc kim. Gai
điều chỉnh dạng thuyện, dài 0,250 – 0,312mm, rộng 0,330 – 0,580mm, kích thước
0,080 – 0,085mm x 0,040 – 0,045mm.


Giun cái dài 25,0 - 34,2mm, rộng nhất 0,588 - 0,739mm. Lỗ sinh dục cách
mút đuôi 5,92 - 7,07mm. Vùng âm môn có một van hình lưỡi cày, dài 0,750 l,068mm, rộng 0,330 - 0,580mm. Túi nhận tinh dài 0,80 - 1,16mm. Buồng trứng
uốn khúc hình may xo. Trứng có vỏ mỏng, kích thước 0,080 - 0,085 X 0,040 0,045mm.
Đặc điểm hình thái cấu tạo cùa loài H. contortus mà Nguyễn Thị Lê mô tả ở
trên phù hợp với sự mô tả của nhiều tác giả khác (Skrjabin và cs, 1963; Trịnh Văn
Thịnh, 1978, 1982; Johannes Kaufmann, 1996; Urquharrt, 1996).
* Haemonchus similis
H. similis thân nhỏ, màu vàng sẫm, gai cổ rất rõ, lỗ bài tiết ở phía trước cách
đầu 0,231 mm. Túi miệng rất nhỏ có răng, quanh miệng có môi bao bọc, phần sau

thực quản phình to (dài 1,260 - 1,407mm, rộng 0,105 - 0,126mm). Giun đực dài 811 mm, rộng 0,232 - 0,265mm. Túi đuôi chia thuỳ, thuỳ lưng không đối xứng, sườn
lưng ngoài nhỏ và dài, sườn hông trước thẳng, sườn hông giữa và sau cong
về phía lưng, chia làm 2 nhánh, đoạn cuối mỗi nhánh lại chia làm 2 nhánh nhỏ. Có
một đôi gai giao hợp dài bằng nhau (0,370 - 0,420mm) và có móc nhỏ nhô ra, bánh
lái gai giao hợp to, kitin hoá ờ phần giữa, dài 0,168mm. Giun cái dài 12,500 - 2
l,000mm, rộng 0,315 - 0,378mm. Âm hộ cách đuôi 2,772 - 3,034mm. Âm đạo dài,
tử cung uốn khúc. Trứng hình bầu dục, kích thước 0,073 - 0,079 X 0,031 0,042mm (Nguyễn Thi Kim Lan và cs,1999). Vỏ trứng mỏng, có phôi bào (Trịnh
Văn Thịnh, 1982).
* Mecistocirrus digitatus:
Loài M digitatus (Linstow, 1906) được phát hiện ở nhiều tỉnh (Hà Nội, Hà
Tĩnh, Lâm Đồng) cùa Việt Nam và ờ nhiều nơi trên thế giói (châu Mỹ, SNG,
Indonesia). Giun ký sinh ở dạ múi khế và dạ lá sách của trâu, bò, dê, cừu.
Nguyễn Thị Lê (1996) đã mô tả: cơ thể giun mảnh, lớp biểu bì mỏng có vân
ngang. Nang miệng nhỏ, có 6 núm cutin, trên có răng lớn.
Con đực dài 17,8 - 27,8mm, rộng 0,35 - 0,51mm. Thực quản dài 1,40 1,78mm, rộng 0,130 - 0,168mm. Túi sinh dục có 3 thuỳ: 2 thùy bên lớn và dầy, thuỳ


lưng nhỏ nhưng đối xứng. Túi sinh dục dài 0,80 - l,00mm, rộng 0,70 - 0,85mm. Hai
gai sinh dục rất mành và dài, chiều dài 6,32 - 7,59mm.
Con cái dài 22,3 - 39,2mm, rộng 0,46 - 0,64mm. Thực quản dài 1,59 l,92mm, rộng 0,14 - 0,18mm. Lỗ sinh dục dạng rãnh ngang, có cơ dày, cách mút
đuôi 0,545 -0,743mm. Đuôi hình nón, dài 0,170 - 0,248mm. Trứng hình ô van, kích
thước 101 - 120x 51 -63 um.
1.3.2. Một số loài thuộc giống Trichostrongylus
* Trichostrongylns axei (Cobbold, 1879)
Được phát hiện ờ nhiều nơi trên thế giới. Ở Việt Nam, các nhà khoa học đã
tìm thấy loài giun này ở các tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn... Nhiều tác giả đã mô tà
(theo Ransom, 1911): Giun đực dài 3,4 - 4,5mm, rộng nhất 0,05 - 0,07mm. Sườn
bụng bên cùa túi sinh dục mảnh. Các sườn bụng sau, sườn bụng giữa và sườn bên
có độ dày như nhau. Sườn lưng dài và mảnh, chia 2 nhánh ở cuối, mỗi nhánh lại
chia thành 2 nhánh nhỏ. Gai sinh dục màu vàng nâu, kích thước khác nhau (chiếc

nhỏ dài 0,085 - 0,104mm, chiếc lớn dài 0,110 - 0,128mm). Mút cuối gai sinh dục có
hình tam giác. Gai điều chỉnh dài 0,705 - 0,720mm. Giun cái dài 4,6 - 5,5mm, rộng
0,055 - 0,075mm. Thực quàn dài 0,155 - 0,175mm. Lỗ sinh dục cách mút đuôi
0,800 -l,072mm. Đuôi thẳng, hình nón, dài 0,06 - 0,09mm. Nón sinh dục hẹp. Kích
thước trứng 90 - 92 X 35 - 42(xm (Drozdz và cs, 1967; Phan Thế Việt, 1977;
Nguyễn Thị Lê, 1996).
Theo Johannes Kauftnan (1996), T. axei thấy phổ biến ờ khắp nơi trên thế
giới. Giun đực dài 2,6 - 6mm; giun cái dài 3,5 - 8mm. Trứng có kích thước 79 - 92 x
31 – 41mm.
* Trichostrongylus colubriformis (Giles, 1892)
Theo nhiều tác giả thì loài giun này phổ biến ở bò, dê, cừu trên phạm vi toàn
cầu. Ở nước ta, phát hiện giun ở dạ múi khế và ruột non bò, dê ở các tỉnh phía Bắc.
Giun đực dài 4,0 - 6,0mm, rộng 0,078 - 0,095mm. Túi sinh dục phát triển
nhưng không cân đối. Các suờn bên chung một gốc lớn và mập hơn các sườn bụng.
Sườn lưng gần cuối hơi phình ra. Hai gai sinh dục dài bằng nhau, h.nh thuyền cong,


dài 0,118 - 0,145mm, mút cuối có mấu hình tam giác. Gai điều chỉnh dài 0,065 0,078mm.
Giun cái dài 5,0 - 6,0mm; rộng nhất ờ vùng lỗ sinh dục (0,080 - 0,100mm).
Thực quản dài 0,648 - 0,730mm. Lỗ bài tiết cách mút đầu 0,092 -0,129mm. Lỗ sinh
dục dạng rãnh dọc, có môi, cách mút đuôi 0,067 - 0,076mm. Túi nhận tinh hình cầu,
dài 0,375 - 0,500mm. Trứng có kích thước 73 - 76 X 40 - 43nm (Nguyễn Thị Lê và
cs, 1996; Phạm Văn Khuê và cs, 1996).
* Trichostrongylus probolurus
Theo nhiều tác giả thì loài giun này phổ biến ở bò và cừu trên phạm vi toàn
cầu. Ở nước ta loài giun này xuất hiện chủ yêu ở các tinh miền núi phía Bắc. Theo
mô tả của Skrjabin và cs (1934): Con đực cơ thê dài 4,3 - 5,5mm, rộng nhất 0,78 0,87mm. Túi sinh dục phát triển, sườn bụng sau dày hơn sườn khác, sườn bên sau
dày hơn sườn bên giữa. Sườn lưng ngắn và có sự phân nhánh như loài T.
colubriformis. Gai sinh dục màu xám tối, một chiếc dài 0,125 - 0,128mm, chiếc kia
dài 0,129 - 0,134mm; có 2 mấu tam giác ở mặt bụng. Gai điều chỉnh dài 0,072

-0,080mm.
Con cái dài 4,5 - 6,5mm, rộng nhất 0,078 - 0,090mm. Thực quản dài 0,850 0,940mm. Lỗ bài tiết cách mút đầu 1,089 - l,325mm. Lỗ sinh dục thẳng hoặc hơi
lồi, cách mút đuôi 0,067 - 0,076mm. Cơ thể sau lỗ huyệt mảnh dần, đuôi ngán và tù,
thẳng hoặc cong về mặt bụng. Túi nhận tinh dài 0,272 - 0,375mm. Trứng có kích
thước 0,076 - 0,092 x 0,037 - 0,046mm.
1.3.3. Một số loài thuộc giống Ostertagia
* Loài O. ostertagi (Stiles, 1892)
Con đực dài 6,5 - 7,5mm; rộng nhất 0,130mm. Vòng thần kinh cách mút đầu
0,265 - 0,280mm, lỗ bài tiết và các núm cổ 0,300 và 0,340mm, tương ứng. Túi sinh
dục nhỏ. Các cặp sườn bên dày như nhau, chỉ có sườn bên truớc dày hơn một chút.
Sườn lưng dài 0,050 - 0,060mm, cách gốc 0,035 - 0,045mm phân nhánh mảnh và
hẹp. Hai gai sinh dục dài 0,220 - 0,230mm, mút cuối mặt trong có 2 răng mảnh. Gai
điều chỉnh hình ôvan, dài 0,040mm, rộng 0,014mm.


Con cái dài 8,3 - 9,2mm; rộng 0,160mm. Vòng thần kinh cách mút đầu 0,260
- 0,295mm. Lỗ sinh đực cách mút đuôi 0,100 - 0,140mm. Túi nhận tinh dạng chiếc
bánh mì, dài 0,200 - 0,260mm; trứng dài 0,065 - 0,080mm, rộng 0,030 - 0,040mm.
*Loài O. circumcincta (Stadelmann, 1894)
Con đực dài 9,8 - 10,6mm; gai giao hợp dài 0,40 - 0,42mm, phần sau của
mỗi gai cách 0,1 mm phân ra làm hai nhánh bằng nhau, ngoài ra còn có 3 chồi ngắn
ở gần chỗ phân nhánh; bánh lái trong suốt dài 0,070mm.
Con cái dài 12 - 13,5mm; đuôi dài 0,18 - 0,19mm; âm hộ cách mút đuôi
2,37mm; trứng dài 0,089 - 0,93mm và rộng 0,050mm.
1.3.4. Một số loài thuộc giống Cooperia
Nhiều tác giả cho rằng, các loài thuộc giống Cooperia gây bệnh trên trâu, bò
gồm: C. laterouniformis, c. pectinata, C. oncophora, C. punctata và c. sumabada.
Các loài này xuất hiện ở khắp nơi trên thế giới, trong đó C. punctata và c. pectinata
thường phổ biến hơn ờ các vùng ôn đới và cận nhiệt đới ấm áp, còn C sumabada và
C. oncophora phổ biến hơn ở vùng mát mẻ. Hình thái cụ thể như sau:

* Loài C. laterouniformis (Chen, 1937)
Ký sinh chủ yếu ở dạ múi khế và ruột non của trâu, bò. Tại Việt Nam, bệnh
xuất hiện ở các vùng Bắc bộ và Hà Tĩnh. Theo mô tả của Chen (1937), C.
laterouniformis cơ thể thẳng, con đực phần trước cơ thể cong hình lò xo, có đầu
phình. Dọc cơ thể có nhiều tấm lược, phần trước cơ thể có 14 tấm, phần sau 22 tấm.
Không có núm đuôi và núm bên.
Con đực dài 4,8 - 5,5mm, rộng nhất 0,071mm. Phình đầu dài 0,013mm, rộng
0,028mm. Túi sinh dục lớn, 2 thùy bên to, thùy lưng nhỏ. 3 sườn bên có kích thước
như nhau và xuất phát từ 1 thân lớn. Gai sinh dục kitin hóa mạnh, dài 0,138mm.
Nón sinh dục lớn, phần bụng có 2 mấu bên, phần lưng kích thước như phần bụng
nhưng trơn và không có mấu lồi.
Con cái dài 5,5 - 6,5mm, rộng nhất 0,069mm. Phình đầu dài 0,011mm, rộng
0,023mm. Thực quản dài 0,297mm, rộng 0,11 - 0,026mm. V.ng thần kinh
cách mút đầu 0,188mm. Lỗ sinh dục dạng lưỡi liềm dọc và cách mút đuôi 0,20mm.


Túi nhận tinh dài 0,30mm. Đuôi dài 0,13mm. Trứng có kích thước 0,073 x
0,030mm.
*Loài C. pectinata (Ransom, 1907)
Ký sinh ở dạ múi khế và một non của trâu, bò. Bệnh được phát hiện trên toàn
thế giới. Ở Việt Nam bệnh xuất hiện ở các tinh miền núi phía Bắc.
Con đực dài 6,5 - 7,5mm, rộng nhất 0,130 - 0,160mm. Phình đầu rộng
0,032mm. Thực quản dài 0,40mm. Vòng thần kinh cách nút đầu 0,280mm. Các
sườn bên trước và sườn bụng sau dày hơn các nhánh sườn còn lại. Sườn lưng bao
gồm cả nhánh cuối dài 0,180mm. Hai gai sinh dục dài 0,240 - 0,280mm.
Con cái dài 7,5 - 9,0mm, rộng nhất 0,110 - 0,135mm. Phình đầu rộng 0,035 0,050mm. Thực quản dài 0,360 - 0,400mm. Vòng thần kinh cách mút đầu
0,250 - 0,280mm. Phần sau cơ thể mành và thường bị cong ờ chỗ gập lại của buồng
trứng và tử cung. Lỗ sinh dục cách mút đuôi 1,60 - 2,00mm. Đuôi dài 0,175mm.
Trứng có kích thước 0,070 - 0,080 x 0,036 - 0,042mm.
*Loài C. punctata (Linstow, 1906)

Ký sinh ờ dạ múi khế và ruột non của bò. Bệnh xuất hiện trên toàn thế giới.
Ở Việt Nam thấy tại các tỉnh phía Bắc và Lâm Đồng. Loài này có phình đầu dài
0,032 - 0,039mm. Thực quản dài 0,260 - 0,360mm.
Con đực dài 5,0 - 9,0mm, rộng nhất 0,080 - 0,140mm. Sườn lưng mảnh, dài
0,060 - 0,071, hình chữ Y. Sườn bên sau mảnh hơn các sườn bên khác nhưng dài và
thẳng, sườn bên giữa và bên trước dài bằng nhau. Gai sinh dục dài 0,125 0,145mm, mút đuôi có hốc sau. Có nón sinh dục.
Con cái dài 5,7 - 10,0mm, chỗ rộng nhất 0,20mm. Lỗ sinh dục có dạng rãnh
dọc, cách mút đuôi 0,99 - l,50mm. Từ cung ngắn và chứa ít trứng. Từ sau vùng thắt
lưng cơ thể hơi cong về mặt lưng, nhung từ lỗ huyệt cơ thể lại cong về mặt bụng.
Đuôi dài 0,135- 0,260mm. Túi nhận tinh dài 0,480mm.
1.4. Vòng đời của giun xoăn dạ múi khế
1.4.1. Vòng đời của loài Haemonchus contortus
Vòng đời (chu kỳ sinh học hay chu kỳ phát triển) của giun H. contortus đã
được nghiên cứu và có nhiều tác giả ghi nhận. Dinaburg (1944), Silverman và


Campbell (1959) đã nghiên cứu sự phát triển của trứng và ấu trùng Haemonchns.
Crofton (1963) và Levine (1963) nghiên cứu về sinh thái của ấu trùng trên đồng
cỏ...
Skrjabin và cs (1963) cho biết: Giun cái đẻ trứng, trứng được bài xuất cùng
phân ra môi trường bên ngoài. Nhiệt độ cùa môi trường bên ngoài thích hợp cho
trứng phát triển tiếp tục là 20 - 30°C. Trong phân, vào ngày thứ hai đã thấy có ấu
trùng giai đoạn I nở ra khỏi trứng. Những ấu trùng này ăn phân và sống trong phân
một thời gian, nhưng không cảm nhiễm được cho súc vật. Ở giai đoạn này, ấu trùng
kém bền vững hơn ở các giai đoạn sau: chúng chết khi phơi khô ở nhiệt độ trên
30°C. Sự thay đổi về nóng và lạnh cũng làm cho ấu trùng bị chết. Ở nhiệt độ 15 20°C, ấu trùng giai đoạn I chỉ sau 1 đêm đã ở giai đoạn tiềm sinh, kéo dài 12 - 15
giờ. Trong thời gian này, ấu trùng lột xác, sau đó sống trở lại và chuyển vào giai
đoạn II.
Ở giai đoạn II, ấu trùng mất đi khả năng ăn uống và cũng không thể ký sinh
được. Qua một ngày sau, đôi khi chưa đến 1 ngày, ấu trùng lại trở lại ở giai đoạn

tiềm sinh lần thứ hai. Trong thời gian này, ấu trùng lớn lên, nhưng tầng cutin bao
quanh vẫn giữ nguyên và tạo thành nắp. Sau khi hình thành nắp thì ấu trùng chuyển
vào giai đoạn III.
Lúc này, ấu trùng đã có khả năng cảm nhiễm cho động vật. Từ khi trứng ra
ngoài đến giai đoạn ấu trùng cảm nhiễm cần thời gian không dưới 4 - 5 ngày.
Những ấu trùng cảm nhiễm được súc vật nhai lại nuốt cùng thức ăn và nước
uống vào dạ dày. Ờ đây, chúng "vứt bỏ" vỏ và chuyển sang giai đoạn IV. Thực hiện
xong một lần lột xác nữa, ấu trùng có khả năng ký sinh và hút máu ký chủ. Sau 2 - 3
tuần, Haemonchus trở thành thành thục, con cái bắt đầu đẻ trứng.
Thời gian sống của Haemonchus trong cơ thể gia súc nhai lại chưa rõ, nhưng
người ta cho rằng, thời gian này không quá 1 năm. Càng về sau, giun càng già và
mất đi khả năng tiếp tục ký sinh.
Urquhart G. M. (1996) làm rõ thêm vòng đời của H. contortus: Ấu trùng cảm
nhiễm vào ống tiêu hoá súc vật nhai lại thực hiện hai lần lột xác trong ống dẫn
tuyến. Chi trước khi lột xác lần cuối chúng mới phát triển đến giai đoạn lấy máu ký


chủ từ những mao quàn ờ niêm mạc. Khi trưởng thành, chúng di chuyển tự do trên
bề mặt niêm mạc. Thời gian hoàn thành vòng đời ở dê, cừu là 2 - 3 tuần và ở đại gia
súc là 4 tuần.
Dẫn theo Nguyễn Thị Kim Lan (2008)
1.3.2. Vòng đời của một số loài thuộc giống Trichostrongylus
Các loài thuộc giống Trichostrongylus có vòng đời trực tiếp, không cần ký
chủ trung gian (nghĩa là không có sự thay đổi ký chủ). Trứng giun theo phân ra
ngoài, gặp điều kiện thích hợp (nhiệt độ và ẩm độ), sau 20 - 24 giờ nở ra ấu trùng
kỳ I. Ấu trùng này hình gậy thực quản hình ống và có ruột cấu tạo đơn giản, hoạt
động mạnh. Chúng dùng các loại vi sinh vật ở xung quanh làm chất dinh dưỡng, sau
10-30 giờ lột xác thành ấu trùng kỳ II to hơn ấu trùng kỳ I, cấu tạo tương đối giống
nhau. Ấu trùng này hoạt động rất mạnh và cũng lấy vi sinh vật xung quanh nuôi
sống bản thân. Sau 12-60 giờ thành ấu trùng kỳ III có sức gây nhiễm. Trước khi

thành ấu trùng kỳ III, ấu trùng kỳ II không lột xác, màng bọc ngoài trờ thành màng
ngoài của ấu trùng kỳ III. Lúc này ấu trùng kỳ III không thể lấy thức ăn ở bên ngoài
mà chi sống dựa vào thức ăn do ấu trùng kỳ II tích luỹ lại ở trong ruột.
Khi gia súc nhai lại ăn cỏ, uống nước có ấu trùng gây nhiễm, vào đường tiêu
hoá, ấu trùng mất màng ngoài, tiếp tục phát triển, lột xác thành ấu trùng kỳ IV, lại
tiếp tục phát triển, lột xác thành ấu trùng kỳ V và phát triển thành giun trưởng thành
(Skrjabin, 1963; Phạm Văn Khuê và cs, 1996).
1.3.3. Vòng đời của loai Mecistocirrus dỉgitatus
Nhiều tác giả cho rằng vòng đời của giun M.digitatus cơ bản giống vòng đời
của H.contortus. Hoàn thành vòng đời cần 59 - 82 ngày (Femando, 1965). Trứng
được bài xuất ra ngoài cùng với phân. Ờ nhiệt độ 26 - 30°C, sau 24 - 84 giờ trứng
nở ra ấu trùng giai đoạn I. Qua 3 ngày, ấu trùng lột xác lần đầu và biến thành ấu
trùng giai đoạn II. Sau 6 ngày kể từ khi trứng thải ra môi trường bên ngoài, ấu trùng
lột xác lần thứ hai và trở thành ấu trùng giai đoạn III có sức cảm nhiễm. Khi gia súc
nuốt phải ấu trùng qua thức ăn hoặc nước uống sẽ mắc bệnh.
Tuổi thọ cùa giun là 9 -12 tháng (Phạm Văn Khuê và, 1996; Phan Địch Lân
và cs, 2005). Dẫn theo Nguyễn Thị Kim Lan (2011)


1.3.4. Vòng đời của các loài thuộc giống Ostertagia
Theo Skrjabin K. I. và cs (1963), trứng Ostertagia thải ra môi trường bên
ngoài 16 - 32 phôi bào. Khi có nhiệt độ thích hợp (24 - 30°C) và đủ độ ẩm ấu trùng
giai đoạn I phát triển nhanh chóng, ấu trùng này trong vòng một ngày chui ra khỏi
vỏ trứng. Ờ môi trường bên ngoài, ấu trùng lột xác lần hai và sau 5 - 6 ngày đạt đến
giai đoạn cảm nhiễm. Trâu, bò và loài nhai lại khác bị bệnh Ostertagiosis là do nuốt
phải ấu trùng cảm nhiễm cùa Ostertagia cùng với thức ăn hay nước uống. Ấu trùng
Ostertagia không di chuyển theo máu trong cơ thể động vật nhai lại, mà phát triển ờ
dạ múi khế. Tại đây, chúng trải qua hai giai đoạn lột xác và sau 21-25 ngày
Ostertagia đạt đến giai đoạn trưởng thành. Ấu trùng cảm nhiễm của một số loài
Ostertagia, phát triển ờ trong niêm mạc hay dưới niêm mạc dạ múi khế.

Vòng đời phát triển của những loài giun này không cần vật chủ trung gian.
Trứng sau khi được thải từ vật chủ ra môi trường ngoài, tiếp tục lột xác phát triển
đến giai đoạn gây nhiễm (ấu trùng giai đoạn III) và nhiễm trực tiếp vào vật chủ.
(Abrams A. (2007), Ezenwa V. O . (2008), người có thể nhiễm Ostertagia khi ăn
rau sống bón phân trâu bò (Nguyễn Phước Tương (2002). Dẫn theo Nguyễn Thị
Kim Lan (2008).
1.3.5. Vòng đời của cácc loài thuộc giống Cooperia
Vòng đời của các loài giun này giống nhau và cơ bản giống các loài giun
trên, nghĩa là đều phát triển trực tiếp, không có sự thay đổi ký chủ. Hầu hết các giun
này trưởng thành và đẻ trứng sau khi nhiễm 3 tuần (Jorgen Hansen và cs, 1994).
Đây là đặc điểm sinh học của nhiều loài giun tròn ký sinh, chúng gây nên bệnh gọi
là bệnh truyền trực tiếp (hoặc còn gọi là bệnh giun truyền qua đất). Cũng do đặc
điểm này mà giun xoăn dạ múi khế hoàn thành vòng đời rất dễ dàng và việc phòng
trừ bệnh gặp nhiều khó khăn, vấn đề đặt ra là phải tìm hiểu tình hình dịch tễ của
bệnh để có biện pháp tác động có hiệu quả.
2. BỆNH GIUN XOĂN DẠ MÚI KHẾ
2.1. Đặc điểm dịch tễ
2.1.1. Những nhân tố ảnh hưởng tới sự xâm nhập và phát triển của giun xoăn dạ
múi khế trong cơ thể ký chủ


- Loài, giống: Sức chống đỡ cùa các loài gia súc nhai lại khác nhau đổi với
cùng một loại ký sinh trùng do sự khác nhau về trạng thái sinh lý của cơ thể (Par
Mlle, 2006).
- Tuổi: Gia súc trưởng thành thường có sức miễn dịch cao hơn so với gia súc
non và gầy yếu. Do gia súc non chưa phát dục đầy đủ, các chức năng sinh lý chưa
hoàn thiện, sức chống đỡ với bệnh kém.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) cho biết, bệnh giun xoăn dạ múi khế nhiễm ờ tất
cả mọi lứa tuổi của trâu, bò, dê, cừu, nhưng con non mắc bệnh nặng hơn. Chúng
gầy sút và suy yếu nhanh hơn, dẫn đến có tỳ lệ chết cao hơn.

Theo Trịnh Vàn Thịnh và cs (1978), lứa tuổi của trâu, bò cảm nhiễm hai loài
giun xoăn dạ múi khế như sau:
Tháng tuổi
1 -6
7 - 12
13 – 24
>24

Haemonchus
39 %
66 %
47 %
34 %

Mecistocinvs
28 %
53 %
58 %
23 %

Theo Nguyễn Hữu Vũ và cs (2000), bệnh giun xoăn dạ múi khế do H.
contortus và M. digitatus gây ra phổ biến ở bê, nghé từ 4 - 8 tháng tuổi.
- Tính biệt: không ảnh hường trực tiếp đến cường độ cảm nhiễm ký sinh
trùng, trừ một số trường hợp đặc biệt.
- Thời kỳ sinh dục: Trâu, bò cái có chửa hoặc đang cho con bú thường có sức
chống đỡ yếu hơn trâu, bò cái không chửa đẻ. Houdijk và cs (2003), Terefe và cs
(2005) cho biết: Gia súc cái thời kỳ mang thai và thời kỳ nuôi con làm tăng khả
năng sinh sàn ở giun cái H. contortus và tàng nguy cơ lây nhiễm cho bê nghé.
- Cảm nhiễm nhiều bệnh cùng một lúc: Gia súc khi mắc một bệnh đã gây ảnh
hưởng tới sức khoẻ và sức sản xuất, nếu mắc thêm một bệnh khác thì bệnh càng

nặng thêm.
- Chế độ dinh dưỡng và chăm sóc quản lý: Dinh dưỡng thiếu thốn, chuồng
chật chội, kém vệ sinh... là điều kiện thuận lợi cho sự phát sinh bệnh giun xoăn dạ
múi khế.


Thói quen ăn uống trên đồng cỏ, bãi chăn cũng giúp cho sự xâm nhập của
giun xoăn dạ múi khế vào cơ thể ký chủ. Mùa chăn ngoài đồng cỏ dài hay ngắn
cũng ảnh hường đến cường độ cảm nhiễm giun xoăn dạ múi khế. Trái lại, dinh
dưỡng đầy đủ có thể làm cho bệnh giun xoăn dạ múi khế phát nhẹ hay không phát
được, có thể làm cho tuổi thọ của giun xoăn dạ múi khế giảm, thậm chí bản thân
trâu, bò có thể tống giun xoăn dạ múi khế ra ngoài
Tính miễn dịch tự nhiên của gia súc cũng như tính miễn dịch thu được đối
với bệnh ký sinh trùng thường thay đổi theo hoàn cảnh môi truờng. Do đó cần phải
có các biện pháp chăn nuôi, phòng bệnh tốt, cải thiện chế độ dinh dưỡng nhằm tăng
cường sức miễn dịch của cơ thể gia súc với bệnh.
Giun xoăn dạ múi khế khi vào cơ thể ký chủ gặp phải hai loại tác động sau:
Một là, những tế bào di động cùa ký chủ tấn công ấu trùng và có thể tiêu diệt
chúng bằng cơ năng thực bào. Nếu hiệu quà thực bào không đầy đủ thì sinh ra
những phản ứng tế bào. Phản ứng thường thấy nhất là viêm và tăng sinh bạch cầu
Eosin. Những phản ứng khác là: tổ chức bị biến đổi, các tế bào nhiễm trùng to lên
hoặc phát triển quá mức gây thành những ung.
Phản ứng biến thái cho thấy sự đáp ứng của cơ thể với kháng nguyên: Lấy
giun trưởng thành chế kháng nguyên, cho vào nước sinh lý, thêm 0,5% clorofoc, lọc
qua rây lọc, bỏ cặn. Để nước sinh lý bốc hơi, lấy chất lắng cặn. Pha loãng 1:10. Lấy
0,2ml kháng nguyên tiêm dưới da gốc đuôi. Sau 15-20 phút chỗ tiêm sưng, sau 2 2,5 giờ đường kính chỗ tiêm sưng 2,0 - 3,6cm là dương tính, đường kính dưới 1cm
là âm tính.
Hai là, kháng nguyên (bản thân giun) kích thích cơ thể sản sinh kháng thể,
có thể gây cho ký chủ tính miễn dịch, hoặc trạng thái quá mẫn.
Hệ thống miễn dịch trong dạ dày và ruột gia súc bao gồm: Các tế bào thực

thể, các tế bào điều hoà miễn dịch, các tế bào đáp ứng miễn dịch. Lympho được tạo
ra từ nhiều tổ chức khác nhau như: hạch hạnh nhân, mảng payer... Mảng payer đóng
vai trò quan trọng trong việc tổng hợp IgA và tiểu quần thể lympho B là những
thành phần quan trọng trong việc điều tiết IgA. Các đại thực bào đóng vai trò hết
sức đặc biệt trong việc tạo ra miễn dịch đặc hiệu, nó tiếp nhận kháng nguyên, chia


cắt kháng nguyên thành siêu kháng nguyên, rồi trình diện cho các tế bào có thẩm
quyền miễn dịch. Các tế bào lympho B có vai trò quan trọng trong việc tạo ra kháng
thể dịch thể. Các tế bào lympho B sau khi nhận kháng nguyên chia ra làm hai nhóm:
một nhóm tạo ra kháng thể đặc hiệu để kháng ký sinh trùng, một nhóm sẽ có vai trò
là các tế bào có "trí nhớ miễn dịch” để khi ký sinh trùng xâm nhập vào lần sau thì
kháng thể được sinh ra nhanh hơn và nhiều hơn.
Từ những yếu tố trên cho thấy, cường độ miễn dịch với bệnh không đồng
đều, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Loài gây bệnh, hình thức xâm nhập vào cơ thể
và tình trạng sức khoẻ của vật nuôi. Vật nuôi trưởng thành khoẻ mạnh có đáp ứng
miễn dịch tốt hơn khi con non và ốm đau.
2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tồn tại cùa ẩu trùng giun xoăn dạ múi khế ở
ngoại cảnh và nhiễm vào vật chủ
Bệnh giun xoăn dạ múi khế có liên quan tới điều kiện thời tiết, khí hậu, mùa
vụ và tuổi con vật. Nginyi J. M. (2001), Peter J.W. và cs (2005), Lê Hữu Khương
(2005), Muhammad F. Q. (2007) cho biết, bệnh giun xoăn thường thấy vào những
năm mưa nhiều và súc vật chăn thà trên đồng cỏ ẩm ướt thì nhiễm nặng hơn súc vật
chăn thà trên đồng cỏ khô ráo.
Theo tài liệu cùa Ulianov X. D. (1953) và Bogdanov A. G. (1956), gia súc
mắc bệnh nhiều nhất vào mùa xuân, giảm dần vào các tháng mùa hè, rồi lại tăng lên
vào mùa thu. Súc vật tất cả các lứa tuổi đều nhiễm bệnh, nhưng cảm nhiễm nhiều
hơn ở gia súc non và duới 1 năm tuổi (Skrjabin và cs, 1963).
Dẫn liệu của Bexxonov A. X. (1958) cho thấy, ở trên đồng cỏ, trứng và ấu
trùng không cảm nhiễm của O. ostertagi sẽ chết vào mùa đông, còn ấu trùng cảm

nhiễm của giun này sẽ sống đuợc qua mùa đông và vẫn giữ được hoạt tính. Thời
gian duy trì khả năng sống cùa ấu trùng cảm nhiễm của O. ostertagi trên đồng cỏ có
thể tới 1 năm.
Skrjabin và cs (1963) cho biết: Ở giai đoạn III , ấu trùng có sức đề kháng đặc
biệt. Chúng chết trong môi trường ẩm khi nhiệt độ 50°C và trong môi trường khô
khi 60°C. Những ấu trùng này đặc biệt chịu được sự khô hạn. Khi khô hạn, chúng
có thể ở trong trạng thái tiềm sinh trên 1 năm rưỡi. Đối với các chất tiêu độc, ấu


trùng cũng rất bền vững: dung dịch creolin 2 - 3%, lizol và các chất khác không giết
đuợc ấu trùng. Ấu trùng chết trong dung dịch axit cacbonic 5% không tinh khiết.
Vào mùa đông, ấu trùng ở trên đồng cỏ thường bị chết. Mùa hè, ấu trùng
cũng có thể bị chết dưới tác động của ánh nắng mặt trời và nhiệt độ cao.
Nếu vào thời gian ấu trùng chui ra khỏi phân, môi trường xung quanh phân
ẩm thì ấu trùng có khả năng bò lên phía trên theo vật ẩm đó. Nếu phân ở trong cỏ
thì ấu trùng sẽ chuyển động theo những ngọn cỏ ở xung quanh. Quá trình chuyển
động thẳng đứng theo ngọn cỏ xảy ra càng nhanh hơn nữa ờ những nơi đồng cỏ
thấp, trong các mùa vụ ẩm ướt, trong thời gian mưa nhiều, trong sương mù và khi
có nhiều sương xuống. Để ấu trùng có thể bò theo ngọn cỏ không cần phải có lượng
ẩm nhiều, mà chỉ cần một lớp ẩm rất ít bọc trên cỏ cũng đã đủ cho ấu trùng chuyển
động. Khi độ ẩm cao, ấu trùng không có khả năng bám vào cỏ mà rơi xuống cùng
với nước và được nước mang đến những nơi thấp hơn. Bời vậy, tất cả những nơi
đồng cỏ thấp, đầm lầy và các vũng đọng nước mưa là những nơi chính làm cho trâu,
bò, dê, cừu nhiễm Haemonchus.
Trong những điều kiện bất lợi (khô hoặc quá ướt) thì ấu trùng cảm nhiễm
cuộn tròn lại. Nếu ấu trùng bị khô (mặc dù trong thời gian dài) được làm ẩm ướt thì
chỉ sau 20 - 30 phút, ấu trùng sẽ sống trở lại, duỗi thẳng và tiếp tục di chuyển theo
ngọn cỏ. Ấu trùng giai đoạn III, mặc dù không ăn uống gì, trong điều kiện môi
trường ẩm vẫn có khả năng sống tới 3 - 4 tháng.
Sousby (1982) cho rằng, nhìn chung, sự phát triển của các giun xoăn họ

Trichostrongylidae ở giai đoạn sống tự do (ngoài ngoại cảnh) phụ thuộc vào
điều kiện khí hậu. Ờ nước Anh, ấu trùng có thể phát triển đến giai đoạn gây nhiễm
trong 2 tuần, nhưng thường thì dài hơn và phụ thuộc vào khí hậu. Súc vật nhai lại
nhiễm giun ở tất cả các tháng trong năm, nhưng nhiễm nhiều và nặng hơn ờ những
tháng mùa hè ấm và ẩm.
Để biết sự phân bố giun xoăn theo mùa, Wahab đã đếm số lượng trứng giun
ờ phân dê tại các trang trại ở Penang (Malaysia). Tác già thấy giun xuất hiện cao
điểm ở những tháng có lượng mưa cao (những nhân tố khác như nhiệt độ, độ ẩm
thay đổi rất ít trong suốt thời gian nghiên cứu). Môi trường nhiệt đới ẩm ở vùng này


rất thuận lợi cho sự phát triển của giun Trichostrongylus, Haemonchus và một số
giun ký sinh ờ ruột (Oesophagostomum, Bunostomum). Trong đó, giống
Haemonchus là phổ biến nhất ở cả hai trang trại (Wahab A. Rahman, 1995).
Nghiên cứu về dịch tễ học các bệnh giun sán ờ gia súc nhai lại nhỏ, Teklye
Bekele (1993) cho biết, giun tròn đuờng tiêu hoá, giun phổi và sán lá gan là những
giun sán ký sinh chủ yếu ở gia súc nhai lại nhỏ tại những vùng sinh thái khác nhau
ở vùng Saharao - Châu Phi.
Vào mùa mưa, tỷ lệ lây nhiễm và tần số xuất hiện các loài H. contortus, O.
columbianum, Trichostrongylus spp., Coopería spp. thường cao trong năm. Bệnh
giun xoăn trở nên nghiêm trọng ở những vùng ẩm, nửa ẩm và vùng trung du - miền
núi của châu Phi.
Theo Owen J. (1989), tỷ lệ nhiễm giun xoăn dạ múi khế ờ trâu bò cao nhất
vào tháng 8, các loài phát hiện chủ yếu thuộc giống Cooperia và Ostertagia.
Những nơi tập trung vật nuôi và các đồng cỏ là những nơi bị ô nhiễm mầm
bệnh cao. Vì vậy, việc nghiên cứu dịch tễ học, chiến lược kiểm soát các loài giun
đường ruột của súc vật nhai lại cần được tiến hành để bào vệ vật nuôi trong các
tháng mùa hè ẩm ướt; đồng thời tẩy giun cho những vật nuôi trường thành và dưới 1
năm tuổi vào cuối mùa hè, đầu mùa đông để vật nuôi có thề không bị nhiễm giun,
hoặc tỷ lệ nhiễm tối thiểu trong các tháng mùa đông và mùa hè (Joshi BÒ R., 1996).

Sau hàng loạt những nghiên cứu trên đồng cỏ về dịch tễ học, Joshi thấy rằng:
trong 18 loài giun được phát hiện thì loài Trichostrongylus spp. và Ostertagia spp.
phổ biến nhất ở súc vật nhai lại chăn thả di trú theo mùa, còn loài Haemonchus spp.
phổ biến ở súc vật nhai lại chăn thả không di trú theo mùa. Tỷ lệ nhiễm giun ở vật
nuôi di trú theo mùa cao hơn ở vật nuôi không di trú theo mùa, nhưng số lượng
trứng giun/g phân nhìn chung lại thấp hơn. Số lượng trứng giun trong phân chỉ ra
rằng: giai đoạn truyền bệnh chủ yếu là từ tháng 4 - 1 0 (Joshi BÒ R., 1996).
Tiếp theo những công trình nghiên cứu trên, Joshi BÒ R., 1997 tiếp tục
nghiên cứu về dịch tễ học của sự lây nhiễm giun tròn đường ruột ở cừu và dê. Tác
giả cho biết: Ở Nepal có khoảng 65% số cừu và 35% số dê được chăn thả cùng đàn.
Chúng luôn được di chuyển nơi chăn thả theo mùa. Về mùa đông và những tháng hè


khô ráo, đàn dê cừu gặm cỏ ở các vùng rừng hoang, dưới thung lũng. Trong những
tháng mùa hè có mưa, chúng lại được chăn thà trên những đồng cỏ cao cùa dãy núi
Himalaya. Sau 1 năm nghiên cứu thấy tỷ lệ lây nhiễm trong năm thấp, trừ các tháng
mùa mưa (tháng 4 - 10). Khu vực chăn thả xung quanh Kharka và những đồng cỏ
trên núi là những ổ bệnh chính. Loài Trichostrongylus spp. và Osrertagia spp. có
khả năng sống cao hơn các loài khác. Loài H. contortus dễ bị nhiễm vào các tháng
đầu mùa hè. Khả năng nhiễm bệnh đối vói từng loài tuỳ thuộc vào mùa và vị trí
đồng cỏ. Ở những đồng cỏ cao hơn mặt nước biển 2.300m thì dê, cừu dễ bị lây
nhiễm cả 3 loài giun trên. Ở độ cao 2.300 - 3.500m thì dê, cừu dễ nhiễm bệnh giun
Trichostrongylus và Ostertagia. Ở độ cao hơn nữa chỉ thấy mắc bệnh do giun
Ostertagia.
Theo Phan Địch Lân và cs (2005): Ở nước ta bệnh giun xoăn dạ múi khế
phân bố rất rộng, các cơ sở chăn nuôi ờ miền núi, trung du, đồng bằng đều có. Tỷ lệ
nhiễm từ 30,7 - 100%. Đường truyền bệnh chủ yếu là ăn cỏ có lẫn ấu trùng hoặc
uống nước ở các vũng có ấu trùng. Bệnh nhiễm vào mọi lứa tuổi trâu, bò, dê, cừu;
nhưng nói chung trâu bò, dê, cừu non mắc bệnh nặng hơn, gầy sút và suy yếu nhanh
và dễ chết hơn. Trứng và ấu trùng có sức đề kháng mạnh, nhiệt độ thích hợp nhất

cho trứng phát triển là 33°C. Nhưng ờ nhiệt độ đó mà độ âm cao (96%) thì trứng
không phát triển được. DDT 1% không diệt được trứng; C11SO4 có thể diệt trứng
giun trong 8 giờ và diệt ấu trùng trong 3 giờ. Ngoài gia súc, các thú hoang nhai lại
hoặc một số loài gậm nhấm cũng nhiễm giun xoăn, vì vậy chúng có tác dụng gieo
rắc mầm bệnh rất rộng rãi trong thiên nhiên.
Nguyễn Thế Hùng (1994), Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1998, 2000) cho biết:
Tỷ lệ nhiễm giun xoăn dạ múi khế ở dê tăng lên vào vụ hè - thu, giảm đi vào vụ
đông - xuân; tỷ lệ nhiễm cao ở dê dưới 1 năm tuổi. Bệnh phân bố rộng, các cơ sở
nuôi dê ở vùng núi, trung du và đồng bằng đều có bệnh, tỷ lệ nhiễm từ 71,79 74,63%.
Nguyễn Thị Lan Anh và cs (2000) đã nghiên cứu tình hình nhiễm giun sán
đường tiêu hoá của bò tại Đông Anh, Hà Nội và cho biết: Gia súc nhai lại ở các lứa
tuôi đều mắc Trichostrongylidosis, nhưng mức cảm nhiễm nhiều hơn ở gia súc non


dưới 1 năm tuổi. Bệnh thường có liên quan đến điều kiện thời tiết, khí hậu, mùa vụ
và tuổi của con vật. Trâu, bò nhiễm giun ở tất cả các tháng trong năm, nhưng nhiễm
nhiều và nặng hơn ở những tháng mùa hè ấm và ẩm. Đường truyền bệnh chủ yếu là
do những con mắc bệnh thải trứng giun theo phân trên các đồng cỏ, bãi chăn. Khi
gia súc ăn cỏ, uống nước có lẫn ấu trùng thì dễ nuốt phải ấu trùng có sức gây nhiễm.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Đức Tân và cs (2004) cho thấy, khảo sát
708 bê ở các địa phương (Khánh Hoà, Phú Yên, Đắc Lắc, đại diện cho các vùng
sinh thái khác nhau). Tỷ lệ nhiễm giun xoăn dạ múi khế: Ờ Nha Trang (Khánh Hoà)
là 22,58%, Ninh Hòa (Khánh Hoà) la 28,67%, Khánh Vĩnh (Phú Yên) là 39,24%,
Eakar (Đắc LẮc) là 20,22% và Tuy Hoà (Phú Yên) là 26,42%. Tỷ lệ nhiễm chung
là 27,54%.
Nghiên cứu về tình hình nhiễm giun sán đường tiêu hoá của bò tại Đắc Lắc,
Nguyễn Văn Diên và cs (2006) cho biết, trong 29 bò mổ khám có 14 bò nhiễm H.
contortus, chiếm tỳ lệ 48,21%.
Theo Nguyễn Thị Giang Thanh và cs (2008), tỉ lệ nhiễm giun xoăn cao chủ
yếu ở bê dưới một năm tuổi. Tỉ lệ nhiễm tới 56,44%.

Giang Hoàng Hà và cs (2008) sau khi nghiên cứu về bệnh giun xoăn ở bò đã
cho biết: Tỷ lệ nhiễm giun xoăn ờ bò là 74,71%, ở bê là 69,49%.
Nghiên cứu về tỷ lệ và cường độ nhiễm giun xoăn dạ múi khế ữên đàn trâu
bò nuôi tại 9 huyện thành cùa tỉnh Thái Nguyên, Phan Thị Hồng Phúc và cs (2009)
thấy rằng: Trâu bò nuôi ở vụ hè - thu nhiễm giun xoăn dạ múi khế là 51,23%, cao
hơn vụ đông - xuân (39,11%).
Theo Nguyễn Thị Kim Lan, Phan Thị Hồng Phúc và cs (2010), các bãi chăn
thả trâu bò đều bị ô nhiễm trứng và ấu trùng giun xoăn dạ múi khế. Tỷ lệ mẫu thu
thập từ các vũng nước đọng có kết quả dương tính là 12,20%, mẫu đất bề mặt và
mẫu cỏ nhiễm với tỷ lệ 6,79% và 6,44%. Tác giả đã nhận xét: Mặc dù tỷ lệ mẫu
dương tính thấp nhưng đây là nguồn lây nhiễm giun xoăn dạ múi khế quan trọng đối
với trâu bò. Hầu hết các bãi chăn thả thường tập trung đông trâu, bò, mầm bệnh
được thải ra từ các trâu, bò mắc bệnh, khả năng phát tán trứng và ấu trùng giun
xoăn dạ múi khế.


Dẫn theo Nguyễn Thị Kim Lan (2008).
2.1.3. Ảnh hưởng của các yếu tố vật lý, hóa học đến sự phát triển của ấu trùng
giun xoăn dạ mui khế ở ngoại cảnh
- Ảnh hưởng cùa các tác nhân vật lý:
Nhiệt độ, ẩm độ và môi trường nói chung đều tác động vào sự tồn tại và phát
triển của ấu trùng giun xoăn dạ múi khế ở ngoại cảnh. Điều này có ý nghĩa trong
nghiên cứu dịch tễ học và phương pháp phòng chống bệnh do giun xoăn dạ múi khế
ờ gia súc nhai lại.
Nguyễn Thi Kim Lan và cs (1999) đã nghiên cứu về ảnh hưởng của nhiệt độ
đến khả năng nở của trứng giun xoăn dạ múi khế. Tác giả cho biết: Ở nhiệt độ khác
nhau thì số mẫu trứng nở ở các ngày nuôi cấy khác nhau. Trong 37 mẫu nở ở 13 16°C thì 20 mẫu nở sau 5 ngày, 15 mẫu nở sau 6 ngày, chỉ có 2 mẫu nở sau 4 ngày.
Trong 46 mẫu trứng nở ở 16 - 19°C thì 22 (47,8%) mẫu nở sau 4 ngày, 18 mẫu nở
sau 5 ngày (39,1), chỉ có 6% số mẫu nở sau 3 ngày và 6,5% số mẫu nở sau 6 ngày.
Trong 39 mẫu nở ở 19 - 23°C thì 35,9% nở sau 3 ngày; 41% nở sau 4 ngày; 32,1%

nở sau 5 ngày và không có mẫu nào nở sau 6 ngày.
Như vậy ờ nhiệt độ cao hơn (19 - 23°C) thì thời gian trứng nở thành ấu trùng
rút ngắn hơn. Ngược lại, ở nhiệt độ thấp (13 - 16°C) thời gian nở của ấu trùng kéo
dài hơn.
Nguyễn Thị Kim Lan (1999) đã nghiên cứu về sức đề kháng của ấu trùng
giun xoăn dạ múi khế với nhiệt độ. Kết quả cho thấy, ấu trùng 1 ngày tuổi chết
89,3% ở nhiệt độ 35 - 40°C, không có ấu trùng nào sống được ở trên 46°C. Ấu
trùng 2 ngày tuổi chủ yếu chết ở 41 - 45°C (80,3%), chỉ có 7,3% chết ở 35 - 40°C
và 12,3% chết ở 46 - 50°C. Ờ ngày tuổi thứ 3, ấu trùng chết chủ yếu ở 46 - 50°C
(70,5%), không có ấu trùng nào chết ở 35 - 49°C. Ấu trùng 4 ngày tuổi chết chủ yếu
ờ 51 - 55°C (74,6%), chết ít nhất ở 41 – 45oC và 46 - 50°C, không có ấu trùng nào
chết ờ 35 - 40°C.
Như vậy, kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Lan (1999) cho thấy, ấu
trùng giun xoăn dạ múi khế càng phát triển đến giai đoạn có sức gây nhiễm thì sức
sống càng cao và đề kháng với nhiệt độ càng tốt hơn.


Theo Phan Địch Lân và cs (2005), trứng và ấu trùng giun xoăn dạ múi khế có
sức đề kháng mạnh, nhiệt độ thích hợp nhất cho trứng phát triển là 33,3°C, nếu
nhiệt độ cao hơn mà ẩm độ là 96% thì trứng không phát triển được. Ấu trùng cảm
nhiễm ở nơi ẩm ướt, nhiệt độ 50°C mới chết, ở nơi khô ráo 60°C mới chết, ấu trùng
cảm nhiễm sống được ở nơi khô cạn một năm.
Dùng phương pháp ủ nhiệt sinh học, tập trung phân thành đống (cao khoảng
lm và rộng l,5m), đắp đất kín dày 10 - 15cm, để sau 3 - 4 tuần, nhiệt độ đống ủ tăng
lên 60 - 70°C sẽ làm chết trứng và ấu trùng. Có thể kết hợp thêm tro bếp, vôi và lá
xanh để làm tăng nhiệt độ của phân ủ (Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 2008).
Nghiên cứu của Phan Thị Hồng Phúc, Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2010) về
sức đề kháng của trứng và ấu trùng giun xoăn M. digitatus ờ ngoại cảnh cho thấy, ở
điều kiện tự nhiên, thời gian phát triền của trứng M. digitatus trong phân thành ấu
trùng kỳ I từ 3 - 5 ngày (mùa hè), 4 - 7 ngày (mùa đông), thìi gian phát triển đến

giai đoạn ấu trùng cảm nhiễm là 6 - 7 ngày (mùa hè), 7 - 8 ngày (mùa đông). Thời
gian phát triển của trứng và khả năng tồn tại của ấu trùng M. digitatus trong lớp đất
bề mặt phụ thuộc vào ấm độ đất. Ẩm độ thích hợp nhất cho trứng và ấu trùng phát
triển là 10 - 20%. Nếu ẩm độ đất quá thấp hoặc quá cao thì tỷ lệ trứng nở thấp và
thời gian sống cùa trứng và ấu trùng ngắn.
Ở trong nước đọng trên bãi chăn, trứng M. digitatus không phát triển được
đến giai đoạn ấu trùng có sức gây bệnh. Ấu trùng M. digitatus cảm nhiễm có thể tồn
tại trong nước đọng trên bãi chăn từ 3 - 4 ngày và có khả năng gây bệnh cho trâu,
bò.
Kết quả nghiên cứu về trứng và ấu trùng giun H. contortus ở ngoại cảnh
cũng cho thấy, trứng và ấu trùng giun H. contortus có sức đề kháng cao ở ngoại
cảnh tương tự M. digitatus (Phan Thị Hồng Phúc, Nguyễn Thị Kim Lan và cs,
2010).
- Ảnh hưởng của các nhân tố hóa học:
Để nâng cao kỹ thuật bảo quản lâu dài ấu trùng giun tròn (H. contortus, T.
circumcincta, T. colubriformis và C. curticei) để gây nhiễm với số lượng lớn ấu
trùng trên gia súc nhai lại, Jean Hubert và cs (1997) đã nghiên cứu cách bảo quản ấu


trùng trong dung dịch Sodium hypochlorite. Sau đó cho vào dung dịch đệm PBS
(pH = 7,2) làm lạnh bằng khí Nitơ lỏng ờ -10°C rồi xuống -50°C, tiếp theo đưa ấu
trùng bảo quản ờ -196°C. Khi cần sử dụng lấy ấu trùng ra, giữ ấm ở 30°C trong ít
nhất 12 giờ. Tác giả theo dõi và thấy có gần 85% số ấu trùng hoạt động trỏ lại và
tương đối ổn định về hoạt lực.
Phan Địch Lân và cs (2005) cho biết, dung dịch DDT 1% không diệt được
trứng, nhưng dung dịch CuS04 nồng độ 0,2 - 0,5% có thể diệt được trứng giun trong
8,5 giờ và diệt ấu trùng trong 3 giờ.
2.2. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng
2.2.1. Bệnh do Haemonchus contortus
Giun H. contortus gây tác hại lớn cho trâu, bò và các thú nhai lại khác. Điều

này đã được nhiều tác giả đề cập đến.
Khi trâu, bò bị nhiễm nặng, niêm mạc dạ múi khế bị phủ một lớp màng dày
lên, có những chỗ chảy máu. Các chất trong dạ múi khế thường loãng và có màu
nâu. Ở trâu, bò mắc bệnh thường thấy dạ múi khế viêm cata mãn tính, vì vậy lượng
thức ăn ờ đây không được thấm đầy đủ dịch vị. Thức ăn chuyển từ dạ múi khế vào
ruột ờ dạng bán nhuyễn thể nên mức hấp thu vào máu cũng giảm đi. Độc tố của
giun làm con vật bệnh bị kiệt sức, thiếu máu và bị phù thũng. Con vật chết vì suy
mòn do thiếu máu.
Những biến đổi bệnh lý và lâm sàng ở trâu, bò bệnh còn chịu ảnh hưởng của
chế độ chăm sóc nuôi dưỡng. Xominxki z. F. (1952) chỉ rõ, triệu chứng và những
biến đổi bệnh lý ở Haemonchosis thể hiện ở những trâu, bò được nuôi dưỡng kém
rõ rệt hơn là ở những trâu, bò được nuôi dưỡng bình thường.
Mất máu nên cơ thể bị thiếu máu nghiêm trọng là triệu chửng thấy rất rõ ở
trâu, bò mắc bệnh do Haemonchus. Qua nghiên cứu cho thấy, 2000 giun H.
contortus hút mất 30ml máu một ngày, đồng thời gây xuất huyết ở dạ dày con vật.
Andrews (1942) đã xác định được khối lượng máu thải theo phân ở hai cừu non gây
nhiễm liều chí tử ấu trùng Haemonchus. Sau khi nhiễm 6 - 1 0 ngày, phân bắt đầu
có máu. Trong 10 ngày tác giả tính được ờ một con mất 1,5 lít máu, còn con kia mất


2,4 lít máu trong phân (dẫn theo Trịnh Văn Thịnh và cs, 1982; Phạm Văn Khuê và
Phan Lục, 1996).
Quá trình tiến triển của Haemonchosis càng nặng hơn khi con vật bị bệnh
ghép cùng với những Trichostrongylus khác. Điều này hầu như thường xuyên xảy
ra, vì theo nguyên nhân bệnh, người ta thường gọi những bệnh đó là
Trichostrongylidosis (nghĩa là vật bị Haemonchosis ghép với các bệnh giun xoăn
khác).
Trâu, bò, dê, cừu bị Haemonchus thường mệt mỏi, chậm chạp, kiệt sức, niêm
mạc thiếu máu, có thể bị ỉa chảy xen lẫn táo bón. Súc vật non thường đứng không
vững, phải nằm dệt. Vật dễ chết nếu mắc bệnh nặng.

Nguyễn Trọng Nội (1967) báo cáo về bệnh giun xoăn ở dạ dày và ruột dê
giống Mông Cồ nhập nội, do các loài H. contortus, Trichostrongylus và
Oesophagostomum. Có trường hợp đã thấy 1200 - 1500 Haemonchus ở dạ múi khế
1 dê (cao nhất có thể đến 4 - 5 nghìn giun). Theo tác giả, khi có đến 600 giun trong
cơ thể dê đã thấy các triệu chứng: thiếu máu, gầy sút, rối loạn tiêu hoá, lúc đi tả, lúc
đi táo, kém ăn, đi tụt lại sau đàn; con đực nhảy kém.
Theo Johannes Kaufmann (1996)[], H. contortus là một trong những ký sinh
trùng phổ biến nhất ở súc vật nhai lại. Giun này với số lượng lớn có thể giết chết rất
nhanh những con vật non. Khi nhiễm nặng, con vật có thể chết đột ngột khi thể
trạng vẫn khoẻ - "bệnh cấp tính". Mặc dù chưa có trứng giun trong phân, nhưng có
một số lượng lớn giun chưa trưởng thành hút máu làm cho ký chủ chết trước khi
chúng phát triển thành giun trưởng thành. Những bệnh tích chù yếu là: Xác con vật
gầy còm, nhợt nhạt, trong xoang ngực và xoang bụng thường có nước màu vàng.
Trong dạ múi khế có số lượng lớn Haemonchus (trên 1000) phủ kín niêm mạc nhu
một màng dày, hoặc giun lẫn trong các chất chứa ờ dạ múi khế làm cho chất chứa
có màu nâu. Ngoài số lượng Haemonchus tìm thấy, trong dạ múi khế còn thấy nhiều
Trichostrongylus khác có kích thước rất nhỏ (0,5 - l,5cm).
Có thể gặp Haemonchosis ở ba dạng hay là ba giai đoạn. Skrjabin (1963) đã
phân biệt ba giai đoạn đó như sau:


- Trong giai đoạn đầu, ở dạ múi khế có số lượng Haemonchus không nhiều
lắm (một con đến một vài trăm con). Trường hợp này triệu chứng lâm sàng không
xuất hiện.
- Trong giai đoạn hai, triệu chứng lâm sàng và bệnh tích (biến đổi giải phẫu
bệnh lý) cũng chưa thể hiện rõ rệt. Số luợng giun nhiều hơn ờ giai đoạn một.
Giai đoạn một và hai của Haemonchosis không thể coi là nguyên nhân làm
vật chết, nếu như không ghép cùng với các bệnh khác.
- Giai đoạn ba là giai đoạn con vật thể hiện triệu chứng điển hình, số lượng
giun nhiều hơn hai giai đoạn trên.

Nguyễn Thị Kim Lan (1998) đã theo dõi 41 dê bị bệnh giun xoăn dạ múi
khế, thấy: 82,93% thiếu máu nặng; 100% gầy xơ xác; 63,41% ỉa lỏng liên miên;
36,59% ỉa chảy xen táo bón từng đợt; 39,02% bị thuỷ thũng ở ngực, bụng và bốn
chân. Mổ khám dê chết do giun xoăn dạ múi khế thấy, niêm mạc dạ múi khế phủ
màng dầy, có nhiều chỗ chảy máu. Chất chứa trong dạ múi khế loãng, màu nâu. Dạ
múi khế và ruột non viêm cata mãn tính, niêm mạc thuỷ thũng, có nhiều mụn loét.
Trong chất chứa dạ múi khế và trên niêm mạc có nhiều giun xoăn ký sinh.
Để xác định đặc điểm gây bệnh của giun xoăn H. contortus, Nguyễn Thị
Kim Lan, Phan Thị Hồng Phúc và cs (2010) đã gây nhiễm ấu trùng cảm nhiễm H.
contortus cho 2 bê và 2 nghé 4,5 - 5 tháng tuồi. Kết quả cho thấy, bê nghé bắt đầu
thải trứng giun ở ngày thứ 23 - 25 sau gây nhiễm với số trứng/g phân tương đối ổn
định cho đến khi mổ khám (60 ngày sau gây nhiễm). Biểu hiện lâm sàng chù yếu là:
ăn kém, gầy, da khô, lông xù, dễ rụng, niêm mạc nhợt nhạt, ỉa chảy kéo dài, thuỷ
thũng ngực, bụng. Xét nghiệm máu thấy: số lượng hồng cầu và hàm lượng huyết
sắc tố giảm, số lượng bạch cầu tăng, tỷ lệ bạch cầu trung tính giảm, tỷ lệ bạch cầu ái
toan tăng cao. Bệnh tích đại thể và vi thể có ở cả dạ múi khế và ruột non, song tập
trung ờ dạ múi khế là chủ yếu.
2.2.2. Bệnh do các loài giun xoăn khác ở dạ múi khế
Một số loài giun thuộc giống Trichostrongylus, Ostertagia, Cooperia,
Mecistocirrus ký sinh ở dạ dày trâu, bò có thể gây bệnh cho trâu, bò hoặc hỗn hợp
nhiều loài hoặc riêng lẻ từng loài.


Bệnh lý của Trichostrongylosis phụ thuộc vào cường độ cảm nhiễm. Gia súc
bi chết khi nhiễm tới 60 - 120 nghìn ấu trùng cảm nhiễm Trichostrongylus axei.
Những con vật non nhiễm mức độ nặng chậm lớn và kém phát triển. Bệnh chia làm
hai thời kỳ. Thời kỳ thứ nhất - cấp tính, kéo dài gần 6 tuần (ở thời kỳ này một số
con non bị cảm nhiễm nặng, ngừng phát triển, sút cân và chết. Mổ khám thấy dạ
múi khế bị viêm cấp tính có kèm theo những nốt loét). Thời kỳ thứ hai - mãn tính,
triệu chứng giảm dần, con vật lên cân, những nốt loét trong dạ múi khế dần dần lành

sẹo. Giun Trichostrongylus gây bệnh yếu hơn Haemonchus (Skrjabin và cs, 1963).
Trong bệnh do Cooperia gây ra, quá trình viêm ở ruột non dẫn đến tổn
thương niêm mạc, trên niêm mạc hình thành những hạt màu trắng. Tuyến lâm ba
bên cạnh bị teo. Tác động toàn thân của Cooperia, theo Andrews (1938) biểu hiện
bằng sự trao đổi vật chất tăng nhanh ở súc vật bệnh, kèm theo giảm đồng hoá thức
ăn làm con vật bị giảm thể trọng. Những gia súc gây nhiễm thực nghiệm dù nuôi tốt
hơn những con đối chứng nhưng vẫn tăng ưọng ít hơn (Drozdz và cs, 1967; Phạm
Văn Khuê và cs, 1996).
Theo Skrjabin và cs (1963), khi con vật bị bệnh nặng, Cooperia có thể gây ra
viêm niêm mạc ruột. Một số giun Cooperia (C. punctata) có thể xâm nhập vào
thành ruột, gày viêm và tạo thành áp xe ruột. Các hạch lâm ba gần đó bị sưng, thoái
hoá thành bã đậu. Ấu trùng giun khi cư trú trong niêm mạc ruột tạo thành những
hạt, kích thước từ 3 - 5mm. Vật nhiễm Cooperia nặng rối loạn chức năng tiêu hoá,
ỉa chảy và kiệt sức, có thể chết vi bệnh quá nặng.
Bệnh lý và lâm sàng của bệnh do Ostertagia ở loài nhai lại còn được nghiên
cứu ít. Khi phát triển ở trong thành dạ múi khế, ấu trùng Ostertagia tạo thành các
hạt trong niêm mạc. Ostertagia trưởng thành cũng có thể phá huỷ độ nguyên vẹn
cùa niêm mạc dạ múi khế. Những tổn thương về cơ học của niêm mạc dạ múi khế,
cũng như tác động của độc tố ký sinh vật đã dẫn đến những quá trình viêm và gây
rối loạn chức năng của cơ quan tiêu họá. Triệu chứng bệnh phụ thuộc vào cường độ
cảm nhiễm. Trường hợp mắc bệnh nhẹ, triệu chứng có thể không thể hiện. Khi
nhiễm nặng thấy có hiện tượng viêm dạ dày ruột do hàng chục nghìn Ostertagia gây
ra. Thường thấy có hiện tượng ỉa chảy, mệt mỏi, thiếu máu niêm mạc, kiệt sức. Con


×