Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Biến đổi khí hậu và ảnh hưởng đối với du lịch sinh thái biển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1001.37 KB, 27 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HCM
VIỆN KHCN & QLMT


ĐỀ TÀI :

GVHD : TSKH.LÊ HUY BÁ
SVTH : PHẠM THỊ TUYẾT NHUNG
MSSV : 0772710

TP. HỒ CHÍ MINH – 2009


LỜI MỞ ĐẦU
Ở thời điểm hiện nay còn có ý kiến khác nhau về nguyên nhân của sự biến
đổi khí hậu toàn cầu thì việc khí hậu trên hành tinh Trái Đất đang nóng lên, kéo
theo nó là việc tan băng ở Bắc và Nam Cực cũng như mực nước biển trung bình
đang dâng lên từ hơn một thế kỷ qua là một thực tế mà nhân loại phải ứng phó.
Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về phát triển bền vững tại Johannesburg
(Cộng hòa Nam Phi) năm 2002 đã nhận định rằng những hậu quả của biến đổi
khí hậu toàn cầu trực tiếp tác động đến sự sinh tồn của loài người, cụ thể đến Tài
nguyên nước, Năng lượng, Sức khỏe con người, Nông nghiệp và an ninh lương
thực và Đa dạng sinh học. Năm lĩnh vực này lại có liên quan mật thiết với nhau.
Là một quốc gia nằm trên bao lơn của Biển Đông thông ra Thái Bình Dương,
với hơn 75% dân số sống dọc theo một bờ biển dài hơn 3200 km và tại hai đồng
bằng sông Hồng và sông Cửu Long, Việt Nam thuộc vào loại các nước bị uy hiếp
nhiều nhất bởi sự biến đổi khí hậu toàn cầu và mực nước biển dâng. Câu hỏi hiện
nay không còn là “Liệu các hiện tượng có ảnh hưởng đến đất nước ta hay
không?”mà là “Ứng phó như thế nào để giảm thiểu thiệt hại, bảo vệ tối đa thành
quả lao động quá khứ và tiếp tục phát triển bền vững”. Đặc biệt , trong lĩnh vực


du lịch sinh thái biển cần phải dược quan tâm nhiều hơn nữa.
Trước những vấn đề nóng bỏng của khoa học môi trường đồng thời để nâng
cao vốn kiến thức của mình em xin trình bày về : Biến đổi khí hậu và ảnh hưởng
của nó đối với du lịch sinh thái biển.
Được sự tận tình giúp đỡ cuả thầy TSKH. Lê Huy Bá , cùng với những cố
gắng trong việc thu thập thông tin nhưng không tránh khỏi những sai sót . Mong
thầy và các bạn đóng góp ý kiến để bài làm được hoàn thiện hơn.

1


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................1
MỤC LỤC......................................................................................................2
PHẦN MỘT....................................................................................................2
GIỚI THIỆU CHUNG......................................................................................2
1.Biến đổi khí hậu là gì?.............................................................................2
2.Nguyên nhân gây biến đôi khí hậu:..........................................................4
3.Hậu quả.................................................................................................4
4.Tình hình biến đổi khí hậu trên thế giới ...................................................5
5.Biến đổi khí hậu ở Việt Nam.....................................................................9
PHẦN HAI...................................................................................................11
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐỐI VỚI DU LỊCH SINH THÁI BIỂN VIỆT NAM.................11
1.Hệ sinh thái Biển và Vùng bờ.................................................................11
2. Ảnh hưởng của BĐKH đối với du lịch sinh thái biển................................15
3.Những lỗ lực của nhân loại....................................................................22
PHẦN BA ....................................................................................................25
KẾT BÀI......................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................26


PHẦN MỘT
GIỚI THIỆU CHUNG
1.Biến đổi khí hậu là gì?

2


Nhiệt độ mặt đất trung bình toàn
cầu
từ 1856 đến 2005.
Sự nóng lên của khí hậu toàn cầu (tiếng Anh: global warming) là hiện
tượng tăng nhiệt độ trung bình của không khí và các đại dương trên Trái đất mà
người ta đã quan sát được trong các thập kỷ gần đây. Trong thế kỉ 20, nhiệt độ
trung bình của không khí gần mặt đất đã tăng 0,6 ± 0,2 °C (1,1 ± 0,4 °F) .
Theo Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu (triển
khai thực hiện Nghị quyết số 60/2007/NQ-CP ngày 3 tháng 12 năm 2007 của
Chính phủ Việt Nam): Biến đổi khí hậu là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so
với trung bình và/hoặc dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian
dài, thường là vài thập kỉ hoặc dài hơn. Biến đổi khí hậu có thể là do các quá

3


trình tự nhiên bên trong hoặc các tác động bên ngoài, hoặc do hoạt động của con
người làm thay đổi thành phần của khí quyển hay trong khai thác sử dụng đất
Theo Công ước khung về Biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc UNFCCC :
Biến đổi khí hậu là một sự thay đổi trong khí hậu do tác động trực tiếp hay gián
tiếp của các hoạt động con người làm thay đổi thành phần của khí quyển toàn
cầu, bên cạnh sự biến động của khí hậu tự nhiên, được quan sát qua nhiều thời kỳ
(theo Công ước khung về Biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc UNFCCC).


2.Nguyên nhân gây biến đôi khí hậu:
Những nghiên cứu gần đây cho thấy việc phát xả khí nhà kính (chủ yếu là
CO2 và Metan CH4) là nguyên nhân hàng đầu của BĐKH, đặc biệt kể từ 1950
khi thế giới đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa và tiêu dùng, liên quan với điều
đó là sự tăng cường sử dụng nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ, sản xuất
xi măng, phá rừng và gia tăng chăn nuôi đại gia súc (phát xả nhiều phân gia súc
tạo ra nguồn tăng Metan), khai hoang các vùng đất ngập nước chứa than bùn..
Với sự tăng lên không ngừng của các loại khí gây hiệu ứng nhà kính, Trái
đất trở thành một quả cầu giữ nhiệt, và từ đó nhiệt độ của nó không ngừng tăng
lên theo thời gian

Các nhân tố ảnh hưởng tới biến đổi khí hậu

3.Hậu quả
Sự nóng lên của khí hậu toàn cầu có thể gây ra những hậu quả nghiêm
trọng. Dưới đây là một số ví dụ:
4


• Băng tan tại hai cực làm nước biển dâng cao, dẫn đến nguy cơ mất

đi vĩnh viễn của những đảo quốc có độ cao xấp xỉ mực nước biển và
những vùng đất thấp ven biển.
• Nguy cơ tuyệt chủng của nhiều loài động thực vật trước giờ chỉ

quen sống trong khí hậu lạnh giá,....
• Nhiệt độ tăng từ 0,1-0,2oC mỗi 10 năm, làm cho các quốc gia Châu

Phi sẽ rơi vào tình trạng thiếu nước ngọt trầm trọng


Băng tan ở hai cực

Gấu Bắc Cực nhịn đói

4.Tình hình biến đổi khí hậu trên thế giới
Một cuộc nghiên cứu mới về khí hậu cho thấy trong 25 năm qua vành đai
nhiệt đới của Trái đất đã mở rộng thêm vài trăm km về phía hai cực của trái đất,
khiến cho các khu vực cận nhiệt đới càng trở nên khô hạn.
Bằng cách sử dụng bốn phương pháp đánh giá khí tượng khác nhau, các
nhóm nghiên cứu độc lập đã phát hiện thấy từ năm 1979, vành đai áp thấp nhiệt
đới đã tăng từ 2 đến 4,8 vĩ độ. Kết quả là vành đai nhiệt đới mở rộng về phía cực
Nam và Bắc tổng cộng từ 225 đến 530 km.
Phương pháp chính xác định vành đai nhiệt đới là theo dõi các dòng gió
xoáy đánh dấu rìa của vùng nhiệt đới. Các nhà khí tượng nhận thấy các dòng gió
xoáy nhiễu loạn nhiệt đới đang hoạt động trên diện rộng hơn so với hai thập niên
trước, chứng tỏ vành đai nhiệt đới đã mở rộng.

5


Ngoài ra, các nhà khí tượng còn xác định sự mở rộng của vành đai nhiệt đới
thông qua việc đánh giá lượng ozone trong khí quyển, độ sâu của tầng đối lưu, và
mức độ khí hậu khô hạn tại những vùng cận nhiệt đới.
Các nhà khí tượng từ lâu đã dự đoán do tác động của của sự biến đổi khí
hậu mà con người gây ra, vành đai nhiệt đới có xu hướng mở rộng cho tới cuối
thế kỷ 21, song đã phải bất ngờ trước mức độ mở rộng hơn so với dự kiến của họ.
Khí hậu là trạng thái khí quyển ở nơi nào đó, được đặc trưng bởi các trị số
trung bình nhiều năm về nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, lượng bốc thoát hơi nước,
mây, gió...Như vậy, khí hậu phản ánh giá trị trung bình nhiều năm của thời tiết và

nó thường có tính chất ổn định, ít thay đổi. Trong lịch sử địa chất của trái đất
chúng ta, sự biến đổi khí hậu đã từng nhiều lần xẩy ra với những thời kỳ lạnh và
nóng kéo dài hàng vạn năm mà chúng ta gọi là thời kỳ băng hà hay thời kỳ gian
băng. Thời kỳ băng hà cuối cùng đã xãy ra cách đây 10.000 năm và hiện nay là
giai đoạn ấm lên của thời kỳ gian băng. Xét về nguyên nhân gây nên sự thay đổi
khí hậu này, chúng ta có thể thấy đó là do sự tiến động và thay đổi độ nghiêng
trục quay trái đất, sự thay đổi quỹ đạo quay của trái đất quanh mặt trời, vị trí các
lục địa và đại dương và đặc biệt là sự thay đổi trong thành phần khí quyển.
Trong khi những nguyên nhân đầu tiên là những nguyên nhân hành tinh, thì
nguyên nhân cuối cùng lại có sự tác động rất lớn của con người mà chúng ta gọi
đó là sự làm nóng bầu khí quyển hay hiệu ứng nhà kính.Có thể hiểu sơ lược là:
nhiệt độ trung bình của bề mặt trái đất được quyết định bởi sự cân bằng giữa hấp
thụ năng lượng mặt trời và lượng nhiệt trả vào vũ trụ. Khi lượng nhiệt bị giữ lại
nhiều trong bầu khí quyển thì sẽ làm nhiệt độ trái đất tăng lên. Chính lượng khí
CO2 chứa nhiều trong khí quyển sẽ tác dụng như một lớp kính giữ nhiệt lượng tỏa
ngược vào vũ trụ của trái đất. Cùng với khí CO 2 còn có một số khí khác cũng
được gọi chung là khí nhà kính như NOx, CH4, CFC. Với những gia tăng mạnh
mẽ của nền sản xuất công nghiệp và việc sử dụng các nhiên liệu hoá thạch (dầu
mỏ, than đá..), nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy nhiệt độ toàn cầu sẽ gia
tăng từ 1,4oC đến 5,8oC từ 1990 đến 2100 và vì vậy sẽ kéo theo những nguy cơ
ngày càng sâu sắc đối với chất lượng sống của con người.

6


Có thể thấy tác hại theo hướng nóng lên toàn cầu thể hiện ở 10 điều tồi tệ
sau đây: gia tăng mực nước biển, băng hà lùi về hai cực, những đợt nóng, bão tố
và lũ lụt, khô hạn, tai biến, suy thoái kinh tế, xung đột và chiến tranh, mất đi sự
đa dạng sinh học và phá huỷ hệ sinh thái. Những minh chứng cho các vấn đề này
được biểu hiện qua hàng loạt tác động cực đoan của khí hậu trong thời gian gần

đây như đã có khoảng 250 triệu người bị ảnh hưởng bởi những trận lũ lụt ở Nam
Á, châu Phi và Mexico. Các nước Nam Âu đang đối mặt nguy cơ bị hạn hán
nghiêm trọng dễ dẫn tới những trận cháy rừng, sa mạc hóa, còn các nước Tây Âu
thì đang bị đe dọa xảy ra những trận lũ lụt lớn, do mực nước biển dâng cao cũng
như những đợt băng giá mùa đông khốc liệt. Những trận bão lớn vừa xẩy ra tại
Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ...có nguyên nhân từ hiện tượng trái đất ấm
lên trong nhiều thập kỷ qua. Những dữ liệu thu được qua vệ tinh từng năm cho
thấy số lượng các trận bão không thay đổi, nhưng số trận bão, lốc cường độ
mạnh, sức tàn phá lớn đã tăng lên, đặc biệt ở Bắc Mỹ, tây nam Thái Bình Dương,
Ân Độ Dương, bắc Đại Tây Dương. Số lượng các trận bão lớn, lốc xoáy cường
độ mạnh tăng gấp đôi, trùng hợp với nhiệt độ bề mặt đại dương tăng lên. Trận
sóng thần ở Ấn Độ Dương (2004) cướp đi sinh mạng 225 000 người thuộc 11
quốc gia, hay cơn bão Katrina đổ bộ vào nước Mỹ (2005) gây thương vong lên
đến hàng ngàn người và thiệt hại kinh tế ước tính 25 tỷ USD, và gần đây nhất
siêu bão Nargis đánh vào Myanmar (2008) là thảm họa thiên nhiên tàn khốc nhất
năm qua tính theo số lượng người thiệt mạng. Trận bão này giết chết hơn
135.000 người và đẩy hơn một triệu người vào cảnh không nhà cửa. Tính ra,
thiên tai đã cướp đi mạng sống của hơn 220.000 người trong năm 2008 và gây
thiệt hại khoảng 200 tỷ USD, biến nó thành một trong những năm đáng sợ nhất
trong lịch sử loài người tính theo tổn thất thiên tai về người và của. Diễn biến
mới nhất của thiên tai là trận cháy rừng khủng khiếp do thời tiết quá khô hạn vừa
xãy ra ở nước Úc (2/2009) đã giết chết ít nhất 210 người và làm bị thương hơn
500 người cùng những thiệt hại nặng nề về vật chất. Một nghiên cứu với xác suất
lên tới 90%.cho thấy sẽ có ít nhất 3 tỷ người rơi vào cảnh thiếu lương thực vào
năm 2100, do tình trạng ấm lên của Trái đất.


Dự báo về mực nước biển dâng
7



Nhiều nghiên cứu trong khuôn khổ Tổ chức liên chính phủ về Biến đổi khi
hậu (IPCC) đã đánh giá thực tế quá trình mực nước biển dâng trên thế giới trong
120 năm qua, từ 1880 đến năm 2000, và từ đó đã dự báo các kịch bản mức nước
biển dâng đến cuối thế kỷ XXI, tuỳ theo các kịch bản về hiệu ứng nhà kính và tan
băng
Mức độ nghiêm trọng của biển dâng tác động lên các châu thổ trên thế giới, tình
hình xâm thực của các bờ biển, và tác động lên cư dân ở những nơi này cũng đã
được dự báo.
Đối với khu vực Đông Dương, IPCC dự báo nhiệt độ sẽ gia tăng +1°C vào
2010 - 2039, và +3° đến +4°C vào 2070 – 2099; vũ lượng sẽ giảm 20 mm vào
2010 – 2039, rồi sau đó tăng +60 mm vào 2070 – 2099; mực nước biển dâng cao
6 cm/năm, đạt mức 20 cm vào 2030, và 88 cm vào 2100.
Qua các đo đạc đã được tiến hành, IPCC đã ghi nhận những biến đổi về
nhiệt độ nước biển bề mặt và mực nước biển ở Đông Nam Á. Hình 4 và Hình 5.
Qua các dự báo trên, Việt Nam được liệt vào các địa bàn bị uy hiếp nghiêm trọng
nhất.

Hình 3. Dự báo ảnh hưởng của biển dâng đến bờ biển và cư dân ven biển
8




Dự báo tác động của biển dâng lên môi tường tự nhiên.

Khi mực nước biển dâng, hậu quả dễ thấy nhất là nhiều vùng sẽ bị ngập.
Nhưng hậu quả của biển dâng không phải chỉ có ngập tĩnh.
Động lực biển vùng ven bờ và cửa sông, sóng vỡ khi tiếp cận bờ sẽ tác
động mạnh hơn lên đường bờ, bãi triều. Bờ biển bị xâm thực và cơ sở hạ

tầng ven biển bị đe dọa lớn hơn.
Ở các đồng bằng ven biển, độ ngập sâu hơn, thời gian ngập kéo dài hơn.
Xâm nhập mặn sẽ vào sâu hơn, nguồn nước ngọt khan hiếm hơn. Chế độ thủy
văn, thủy lực trên từng địa bàn và trên cả đồng bằng sẽ có những thay đổi, khiến
cho động thái bồi xói bờ sông, cù lao, cồn bãi, bồi lắng phù sa trên hệ thống sông
chính và vùng cửa sông cũng

5.Biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề của BĐK.
Một số phác thảo kịch bản BĐKH ở Việt Nam đã được công bố tại Hội thảo
BĐKH toàn cầu và giải pháp ứng phó của Việt Nam tại Hà Nôi tháng 2/2008,
được trình bày tóm tắt dưới đây.
Bảng 1.Thông báo Quốc gia về Biến đổi khí hậu ở Việt Nam (so với năm
1990)
Năm
2010
2050
2100

Nhiệt độ tăng thêm(0C)
0,3-0,5
1,1-1,8
1,5-2,5

Mực nước biển tăng thêm (cm)
9
33
45

Chú ý: rằng số liệu trên chưa tính đến tính ì của khí hậu và đặc điểm sụt hạ

địa chất địa phương
Bảng 2.Kịch bản BĐKH các vùng của Việt Nam (nhiệt độ tăng thêm 0C so
với năm 1990)
Năm

Tây

Đông

Đồng

Bắc
9

Nam

Tây

Nam


2050
2100

Bắc

Bắc

1,41
3,49


1,66
4,38

bằng

Trung

Trung

BB
1,44
3,71

Bộ
1,68
3,88

Bộ
1,13
2,77

nguyên

Bộ

1,01
2,39

1,21

2,80

Bảng 3. Kịch bản nước biển dâng ở Việt Nam so với năm 1990
Kịch bản / năm
2050
2100
A1F1
13,7
39,7
A2
12,5
33,1
A1B
13,3
31,5
B2
12,8
28,8
A1T
12,7
27,9
B1
13,4
26,9
Chú ý: số liệu chưa tính đến biên độ sụt hạ địa chất địa phương
Tính trung bình của cả 6 kịch bản thì đến cuối thế kỷ 21 nhiệt đô có khả
năng tăng thêm 2,80C, mực nước biển dâng cao thêm 37cm chưa tính đến sự tan
băng mà chỉ tính đến sự dãn nở nước đại dương. IPCC cũng dự báo rằng cuối thế
kỷ 21 mực nước biển có thể tăng thêm tối đa 81 cm .Tuy nhiên các nhà khoa học
Anh cho rằng con số đó chưa phản ánh đúng, nước biển cuối thế kỷ 21 có thể

tăng thêm đến 163 cm- tức là gấp đôi số liệu dự báo của IPCC.
Xu thế chung của BĐKH ở Việt Nam:
Nhiệt độ ở các vùng phía Bắc tăng nhanh hơn các vùng phía Nam
Nhiệt độ ở các vùng ven biển tăng chậm hơn các vùng sâu hơn trong lục địa
Đến cuối thế kỷ 21 nhiệt độ có thể tăng thêm từ 4,0 đến 4,5 0C theo kịch bản
cao nhất và 2,0 đến 2,20C theo kịch bản thấp nhất
Biên độ dâng cao mực nước biển ở nước ta là khá lớn theo tất cả các kịch
bản, măc dù vậy vẫn chỉ là tương đương hoặc thấp hơn chút ít so với dự báo của
IPCC năm 2007

10


- BĐKH kéo theo hiện tượng El Nino, làm giảm đến 20-25% lượng mưa ở
khu vực miền Trung-Tây Nguyên, gây ra hạn hán không chỉ phổ biến và kéo dài
mà thậm chí còn gây khô hạn thời đoạn ngay trong thời gian El Nino. Tác động
này ở Nam Trung Bộ lớn hơn Bắc Trung Bộ, Bắc Tây Nguyên lớn hơn Nam Tây
Nguyên
Những nhận định trên đây là cơ sở để nhận diện một số tác động của
BĐKH đối với biển Việt Nam.

PHẦN HAI
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐỐI VỚI DU LỊCH SINH THÁI BIỂN
VIỆT NAM
1.Hệ sinh thái Biển và Vùng bờ
Biển Đông (vùng biển đông Việt Nam) là một biển rìa lục địa (marginal
sea), một phần của Thái Bình Dương, bao phủ một diện tích từ Singapore tới
eo biển Đài Loan với diện tích áng chừng khoảng 3.500.000 km². Đây là một
hình thể biển lớn nhất sau năm đại dương. Các đảo ở Biển Đông có số lượng
nhiều, tập hợp thành một số quần đảo. Vùng biển này và phần lớn các đảo

không có người ở của nó là mục tiêu tranh chấp chủ quyền của nhiều quốc gia
xung quanh. Những tranh chấp đó cũng thể hiện ở số lượng tên gọi được sử dụng
để chỉ vùng biển này.

11


Biển Đông là một vùng biển có ý nghĩa địa chính trị vô cùng quan trọng.
Nó là đường hàng hải đông đúc thứ hai trên thế giới, trong khi nếu tính theo
tổng lượng hàng hoá thương mại chuyển qua hàng năm, hơn 50% đi qua Eo biển
Malacca, Eo Sunda, và Eo Lombok. Hơn 1.6 triệu m³ (10 triệu barrel) dầu thô
được chuyển qua eo biển Malacca hàng ngày, nơi thường xảy ra các vụ hải tặc,
nhưng hiện đã giảm nhiều so với giữa thế kỷ 20.
Vùng này đã được xác định có trữ lượng dầu mỏ khoảng 1.2 km³ (7.7 tỷ
barrel), với ước tính tổng khối lượng là 4.5 km³ (28 tỷ barrel). Trữ lượng Khí
gas tự nhiên được ước tính khoảng 7.500 km³ (266 nghìn tỷ feet khối).
Theo những nghiên cứu do Sở môi trường và các nguồn lợi tự nhiên
Philippine, vùng biển này chiếm một phần ba toàn bộ đa dạng sinh học biển thế
giới, vì vậy nó là vùng rất quan trọng đối với hệ sinh thái.
Việt Nam được thiên nhiên ưu ái cho
một bờ biển dài, có rất nhiều đảo và giàu
tài nguyên; các hệ sinh thái biển chủ yếu
được phân bố dọc theo vùng lãnh hải gần
bờ và gồm có các rặng san hô, tảo biển và
rừng ngập mặn.
Các hệ sinh thái có năng suất sinh học
cao được phân bố dọc theo vùng lãnh hải
gần bờ mặc dù chúng nhỏ hơn rất nhiều lần so với các hệ sinh thái ở xa bờ.
Trong số những hệ sinh thái đó có các vùng đầm lầy thủy triều, các khu rừng
ngập mặn, vùng cửa sông, các khu đầm phá, vịnh nhỏ, những rặng san sô, các

vùng châu thổ, các bãi cát ven biển, đảo, bãi đất lầy theo thủy triều, thềm lục địa
mềm và cung, các đìa nuôi trồng thủy sản nước lợ. Những khu hệ sinh thái này
có các cấu trúc và chức năng khác nhau, như điều hòa khí hậu, nhưng là nơi cư
trú vô cùng quan trọng và là nơi sinh sản của hàng ngàn loài sinh vật biển và các
loài chim nước.
Việt Nam có 3.260 km bờ biển, đứng thứ 27 trong 156 quốc gia có biển trên
thế giới; với vùng biển rộng gần 1 triệu km2 và khoảng 3.000 hòn đảo lớn nhỏ...,
Việt Nam có quá nhiều lợi thế để phát triển du lịch biển, đảo so với nhiều nước
12


trong khu vực. Việt Nam có đủ các điều kiện tự nhiên phát triển đa dạng các loại
hình du lịch biển đảo như du lịch sinh thái, khoa học, lặn ngầm, tắm biển, nghỉ
dưỡng, chữa bệnh, thể thao giải trí, lặn biển, du ngoạn... lặn biển...
Đánh giá về tiềm năng phát triển du lịch biển, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn
Chu Hồi, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam cho rằng:
Du lịch biển Việt Nam có nhiều lợi thế phát triển hơn so với du lịch trên đất liền.
Vì nước ta có nhiều bãi biển khá bằng phẳng, nước biển trong, sóng gió vừa phải,
không có chỗ nước xoáy, không có sinh vật gây hại. Sự kết hợp hài hoà giữa
cảnh quan thiên nhiên biển-đảo, hang động ngầm, cảnh quan ngầm của các rạn
san hô với phong cảnh thiên nhiên và các giá trị văn hoá xã hội vùng ven biển...
Các giá trị vốn có nói trên rất thích hợp cho việc phát triển các cụm hoặc
khu du lịch tập trung với các loại hình đa dạng như du lịch sinh thái, khoa học,
lặn ngầm, tắm biển, thể thao giải trí, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, mạo hiểm du ngoạn,
du lịch lặn... Hiện nay, các loại hình du lịch biển này đã bắt đầu phát triển ở Nha
Trang dựa trên cơ sở khai thác các giá trị dịch vụ của rạn san hô. Bên cạnh đó,
nước ta còn có lợi thế phát triển du lịch biển là do có vùng biển rộng, bờ biển dài,
nhiều đảo khí hậu nhiệt đới gió mùa, bãi biển đẹp, lại giàu đa dạng sinh học,
nhiều phong cảnh đẹp, và di tích lịch sử ven biển.
Dọc ven biển nước ta đã xác định được khoảng 126 bãi cát biển có thể chứa

khoảng vài chục đến vài trăm ngàn người, trong đó có khoảng 20 bãi cát biển đạt
tiêu chuẩn quốc tế, dài 16km. Đó là chưa kể đến hàng trăm bãi biển nhỏ, đẹp,
nằm ven các vụng, vũng tĩnh lặng, ven các đảo hoang thuộc quần đảo Tây Bắc
vịnh Bắc Bộ, quần đảo Cát Bà, Cù Lao Chàm, cụm đảo Hòn Mun, Lý Sơn, Côn
Đảo, Phú Quốc. Tuy sức chứa khách không lớn, nhưng rất thích hợp với loại
hình du lịch picnic, du ngoạn của các nhóm nhỏ du khách yêu thiên nhiên.

13


Những phong cảnh đẹp, kỳ thú trên biển cũng là lợi thế thu hút khách du
lịch đến với Việt Nam như: năm 1994, vịnh Hạ Long được công nhận là Di sản
Thiên nhiên Thế giới; năm 2003, vịnh Nha Trang (năm 2003), vịnh Lăng Cô
(năm 2009) được công nhận là một trong 30 vịnh đẹp nhất thế giới. Việt Nam
còn có 17 khu bảo tồn biển đang được quy hoạch trình Chính phủ phê duyệt sẽ
góp phần phát triển du lịch sinh thái biển và là nơi phát triển các nghề mới cho
người dân như câu cá, đánh cá giải trí, nuôi cá cảnh san hô; hai thành phố ven
biển là Huế và Hội An được công nhận là Di sản văn hoá Thế giới. Ngoài ra, các

khu di sản thế giới Thánh địa Mỹ Sơn và Động Phong Nha đều nằm ven biển.
Tất cả, không chỉ để duy trì nguồn lợi đa dạng sinh học cho vùng biển, mà còn là
"cơ sở tài nguyên" để phát triển thành những cụm du lịch liên hoàn và du lịch
sinh thái biển trong tương lai.
Du lịch sinh thái biển Việt Nam

14


2. Ảnh hưởng của BĐKH đối với du lịch sinh thái biển
Trong lịch sử xa xôi hàng trăm, ngàn triệu năm trái đất đã trải qua những

biến động kiến tạo dữ dội với sự trao đổi năng lượng – nhiệt độ khổng lồ giữa
các lớp dung nham bên trong và lớp vỏ thạch quyển, thủy quyển, khí quyển trên
mặt: làm dung nham trào và phun ra ngoài; làm hình thành, chia tách, xô đẩy,
xoay chuyển các lục địa và mảng lục địa; Làm biến mất các đại dương cổ, xuất
hiện đại dương mới; tạo các dãy núi cao, hẻm vực sâu ở đại dương và trên lục địa
v.v…
Gần ngày nay nhất, Kỷ Đệ tứ (từ năm triệu năm đến nay) được coi là thời
kỳ tương đối yên tĩnh song các vận động của quả đất cũng đã trải qua nhiều thời
kỳ biến động lớn khí hậu bề mặt địa cầu. Tính từ 1,6 triệu năm đến nay đã có 5-6
chu kỳ biến động lớn.
Đó là các thời kỳ băng hà kéo theo mực nước biển hạ thấp (biển lùi) và các
thời kỳ gian băng (băng tan) kéo theo mực nước biển dâng cao (biển tiến). Vào
các thời kỳ băng hà nhiệt độ bề mặt trái đất khô lạnh.
Vào các thời kỳ gian băng nhiệt độ bề mặt trái đất đan xen giữa nóng ẩm và
khô hạn. Vào các thời kỳ đó, biên độ giao động của mực nước biển (dâng, hạ) lên
đến hàng chục, hàng trăm mét. Mỗi chu kỳ kéo dài hàng vạn, chục vạn năm. Mỗi
chu kỳ như vậy còn được chia ra các chu kỳ ngắn hơn với thời gian kéo dài nhiều
trăm năm đến nghìn năm với biên độ giao động mực nước biển 2-3 mét hoặc
hơn. Các chu kỳ biến động không phải đều đặn liên tục mà có những thời đoạn
ngừng nghỉ hoặc đột biến.
Việt Nam và nhiều nước ở khu vực Đông Nam Á với vị trí địa lý của mình,
không phải làvùng có băng vĩnh cửu kể cả trong hiện tại và quá khứ song cũng là
vùng chịu tác động của các thời kỳ băng hà, gian băng với các dấu tích của biển
lùi, biển tiến, và biến động khí hậu lớn có tính toàn cầu khá rõ rệt.
Trong thế kỷ XX, nhất là trong nửa cuối thế kỷ XX hàng loạt các công trình
nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam, các nước trong khu vực và quốc tế
trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là địa chất học, khảo cổ học, hải dương học, cổ sinh
vật học… về Kỷ Đệ tứ đã đưa ra nhiều kết luận quan trọng về những vấn đề nêu
trên. Nhưng kết luận rất đáng chú ý là:
15



- Thời kỳ băng hà cuối cùng của địa cầu trong Kỷ Đệ tứ- băng hà Uôc 2
(Wurm 2) đạt đỉnh cao cách đây khoảng 18.000 năm. Thời đó, biển lùi xa về phía
biển Đông. Dấu vết đường bờ biển thời đó hiện nằm ở độ sâu 100-120m so với
mực nước biển hiện tại trên thềm lục địa. Thời đó toàn bộ vùng vịnh Bắc Bộ và
thêm Sunda (nối liền Nam bộ Việt Nam với Indonesia), Vịnh Thái Lan còn là đất
liền.
- Thời kỳ gian băng lớn nhất gần ngày nay (thời kỳ biển tiến Flandrian)
diễn ra vào khoảng 6.000 – 4.000 năm trước đây. Vào thời kỳ này mực nước biển
dâng cao hơn 4 –5 m so với mực nước biển hiện tại. Vào thời đó vịnh Hạ Long
và vịnh Thái Lan mới bị ngập nước như ngày nay.
Biển còn lấn sâu và phủ trùm gần như toàn bộ đồng bằng châu thổ sông
Hồng và sông Cửu Long cũng như các đồng bằng châu thổ các sông ven biển
miền trung Việt Nam. Các đồng bằng này như chúng ta thấy được ngày nay chỉ
được hình thành và được con người chiếm lĩnh, khai thác dần khi biển rút bắt đầu
từ khoảng 4.500 năm đến nay.
-Những tài liệu nghiên cứu chi tiết về địa chất học và khảo cổ học còn cho
biết, từ cách đây 4.000 năm đến nay, xu hướng chung là biển lùi song vẫn có một
số chu kỳ tiến, lùi với biên độ giao động mực nước biển 2 – 3 m vào khoảng
trước 3.000 năm, trước 2.000 năm, sát trước và sau công nguyên. Thời đoạn từ
1.000 – 1.200 năm sau công nguyên đến nay, toàn vùng đang nằm trong chu trình
biển tiến.
- Có thời đoạn có dấu hiệu của biển dâng đột biến khiến cư dân tiền sử phải
dịch chuyển địa bàn cư trú không bình thường, rõ nhất là ở khoảng giao thời hậu
kỳ đá mới sang sơ kỳ kim khí ở ven rìa đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng sông
Mã, ở ven biển cũng như ở ven đồng bằng sông Cửu Long.
Những điều trình bày sơ lược trên đây cho thấy nếu theo chu kỳ biển tiến,
biển lùi với biên độ thời gian khoảng 800 - 1.000 năm thì hiện tại chúng ta đang
ở đoạn cuối của chu kỳ biển tiến hiện đại, không loại trừ tốc độ sẽ nhanh lên

hoặc có đột biến.
Như vậy, mực nước biển dâng đang xảy ra nằm trong chu trình chung của
biển tiến cộng thêm tác động nhanh do hiệu ứng nhà kính gây ra chỉ càng làm
16


chúng ta phải nhìn nhận vấn đề một cách cảnh giác hơn, chứ không phải ngược
lại. Dù nguyên nhân nào thì việc nhận thức được để có kế hoạch ứng phó vì sự
tồn tại và phát triển bền vững cho mỗi quốc gia dân tộc cũng như cho toàn nhân
loại là điều con người có thể và phải làm được
Biến đổi khí hậu đến nay là một thực tế đã được khoa học khẳng định. Việt
Nam, với bờ biển dài 3.260 km và có hai trong số các châu thổ lớn nhất thế giới,
là một trong những nước dễ bị ảnh hưởng bởi thay đổi khí hâu nhất. Khoảng 20%
dân số Việt Nam sống dưới mức chuẩn nghèo. Hầu hết trong số họ sống trong
các vùng giàu tài nguyên nhưng nhiều biến động chịu nhiều rủi ro liên quan đến
khí hậu.
Thay đổi khí hậu không thể bỏ qua trong khi chúng ta đang nỗ lực gìn giữ
thiên nhiên và hỗ trợ người nghèo và dễ bị tổn thương. Những thay đổi khí hậu
được dự đoán gồm tăng quay vòng gió mùa, tăng nhiệt độ bề mặt, tăng mức độ
và tuần suất của những đợt mưa lớn, và mực nước biển dâng cao. Những thay đổi
này có thể dẫn tới những tác động to lớn tới các hệ sinh thái quốc gia và khu vực;
tới thủy học và tài nguyên nước; tới nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; tới các
vùng núi và duyên hải; tới những nơi cư trú và sức khỏe của con người. Thích
ứng với thiên tai giờ không phải là sự lựa chọn nữa, mà là sự bắt buộc, nếu chúng
ta muốn tránh những tác động tồi tệ nhất của thay đổi khí hậu. Chính phủ Việt
Nam đã đề cao ưu tiên đối với các vấn đề thay đổi khí hậu mới nảy sinh. IUCN
coi thay đổi khí hậu là một trong những trọng tâm quan trọng của mình và đang
xây đựng những kiến thức sâu rộng về những tác động tiềm tàng của thay đổi khí
hậu, đặc biệt chú trọng tới đa dạng sinh học và các mối liên kế.
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình hàng năm

thường vượt quá 20oC, lượng mưa trung bình 1500mm. Mùa lạnh và khô từ
tháng 11-4, còn mùa nóng và mưa diễn ra từ tháng 5-10. Tuy nhiên các chỉ số
này thay đổi theo chiều dài đất nước và theo cả địa hình cho nên mùa mưa với lũ
lụt và mùa khô với hạn hán thưòng mang tính cực đoan và gây nhiều hậu quả
nghiêm trọng. Việt Nam nằm dọc theo đường di chuyển bão Tây-Bắc Thái Bình
Dương và là một trong 10 nước trên thế giới được coi là dễ bị tổn thương nhất
trước áp thấp nhiệt đới. Trung bình mỗi năm có 6-7 trận bão hay áp thấp nhiệt
17


đới ảnh hưởng đến vùng bờ biển của Việt Nam, đặc biệt là miền Bắc và miền
Trung.
Nghiên cứu về biến đổi khí hậu ở Việt Nam cho thấy, từ năm Từ 1900 đến
2000, nhiệt độ trung bình năm tăng 0.1°C một thập kỷ. Mùa hè nóng hơn với
nhiệt độ trung bình các tháng hè tăng từ 0.1°C đến 0.3°C một thập kỷ. nếu so với
năm 1990, nhiệt độ chắc sẽ tăng trong khoảng từ 1.4-1.5°C vào năm 2050 và từ
2.5-2.8°C vào năm 2100. Điều này cho thấy xu thế tăng nhiệt độ cứ qua 10 năm
lại lớn lên. Mùa nóng sẽ khắc nghiệt, và lượng mưa cùng với cường độ mưa sẽ
tăng lên đáng kể ở phía Bắc. Sự biến đổi thất thường của thời tiết còn được thể
hiện qua đợt mưa lớn trái mùa tại các tỉnh miền Bắc. Ví dụ: từ ngày 30/10 đến
chiều 01/11/2008. Tại thủ đô Hà Nội lượng mưa lên tới gần 500mm đã gây ra
cảnh úng lụt trầm trọng, thiệt hại cả về người và tài sản của nhân dân. Mùa khô
sẽ càng sâu sắc và có nguy cơ biến các vùng dễ bị tổn thương như Nam Trung bộ
thành bán hoang mạc. Phần lớn diện tích vùng ven bờ của Việt Nam bị đe doạ
ngập lụt hàng năm, trong đó đồng bằng Sông Cửu Long chiếm 75% tổng diện
tích, và 10% diện tích của đồng bằng Sông Hồng. Ở một số khu vực như các tỉnh
miền Trung và đồng bằng Sông Cửu Long, lũ xuất hiện với cường độ ngày càng
tăng. Các trận bão gần đây mà Việt Nam phải hứng chịu đã trở nên khốc liệt và
quỹ đạo các trận bão dường như đã chuyển hướng về phía Nam, vốn là những
mảnh đất an toàn, trong những năm gần đây. Theo Chương trình môi trường

LHQ (1993) mực nước biển bao quanh Việt Nam đã dâng cao 5cm từ giữa 1960
đến những năm 1990. Tổng cục Khí tượng-Thuỷ văn ước tính mực nước biển
đang dâng cao với tốc độ trung bình là 2mm/năm. Xói lở bờ biển cũng đã và
dang xãy ra, ví dụ ở Cà Mau có một số địa phương bị xói lở 600 ha, với các dải
đất rộng 200m bị mất.
Mực nước biển dâng cao chắc chắn còn làm cho tình trạng xâm mặn ở các
vùng ven biển trở nên tồi tệ, gây nên sự khó khăn trong khai thác nước ngọt phục
vụ tưới và sinh hoạt. Đồng bằng Sông Cửu Long, vựa lúa cả nước với hơn 1.5
triệu ha đất nhiễm mặn, chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng lớn nhất. Biến đổi khí hậu
chắc chắn có tác động đáng kể đến nghề cá và nuôi trồng thuỷ sản của Việt Nam,
với sự biến mất các loài cá quý hiếm, làm suy giảm mạnh sinh vật phù du sẽ dẫn
18


đến tình trạng di cư và giảm mạnh khối lượng lớn cá. Do mực nước biển dâng
cao, các trại nuôi trồng thuỷ sản buộc phải di dời và kéo theo đó là việc phải tái
đầu tư vốn, thay đổi tập quán cũng như định cư sản xuất. Miền Trung Việt Nam
là khu vực hay bị thiên tai nhất ở Việt Nam và có tỷ lệ nghèo cao. Hàng năm, khu
vực này phải đương đầu với mọi loại hình thiên tai, đặc biệt là lũ lụt. Chỉ riêng
trận lụt lịch sử diễn ra vào cuối năm 1999 đã cướp đi 800 sinh mạng và gây thiệt
hại hơn 300 triệu USD. Thêm vào đó, chúng ta hẳn vẫn còn nhớ đến sự tàn phá
của cơn bão Xangsane (tháng 10/2006) với sức gió mạnh lên đến trên cấp 13
(149km/h), gió giật lên đến 205km/h làm sóng biển dâng cao 7m. Trận bão này
hầu như đã làm các tỉnh miền Trung “xơ xác”, đặc biệt là các địa phương như
Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi với
hơn 20 vạn người chạy đi lánh nạn, hàng trăm người chết và bị thương,
thiệt hại về tài sản do cơn bão lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng.
Vùng duyên hải miền Trung
được cấu tạo bởi một dải đất kẹp
giữa dãy Trường Sơn về phía Bắc,

và vùng cao Nguyên Nam Trung Bộ
(Tây Nguyên) về phía Nam, và Biển
Đông. Dải đất bị chia cắt bởi nhiều
nhánh núi Trường Sơn vươn ra đến
tận biển, và một số con sông ngắn mà lưu vực chuồi về phía Biển Đông.
Từ vài thập kỷ gần đây, rừng đầu nguồn phía Tây bị tàn phá nhiều, địa mạo
vùng duyên hải Trung Bộ trở nên ngày càng không ổn định, thể hiện rõ nhất là lỡ
núi, lòng các hồ đập bị lấp dần , các cơn lũ tràn và lũ quét đổ ra Biển Đông. Lòng
sông, địa mạo các cửa sông thay đổi nhiều sau mỗi mùa lũ. Hậu quả của các cơn
bão, các trận lũ quét đối với hạ tầng cơ sở là khá nặng nề .
Với mực nước biển dâng, sự không ổn định của địa mạo còn đến từ phía
Biển Đông nghĩa là đến từ hai phía của dãi đất hẹp miền Trung. Những năm gần
đây, tình hình bờ biển bị xâm thực xảy ra nhiều hơn. Khác với hậu quả của các
cơn bão hay lũ quét thường xảy ra vào mùa mưa bão hàng năm, sự đe dọa của

19


biển dâng lên hạ tầng cơ sở dọc bờ biển theo mùa, theo kỳ triều và thường xuyên
hơn.
Bờ biển miền Trung dài 1200 km và gồm các tỉnh từ Thanh Hoá đến Bình
Thuận. Dảy Trường Sơn chạy suốt theo bờ biển, nên đồng bằng ở miền Trung rất
hạn hẹp. Có nhiều sông tương đối khá lớn, như Sông Gianh ở Quảng Bình, Sông
Thạch Hản ở Quảng Trị, Sông Hương ở Huế- Thừa Thiên, Sông Thu Bồn ở
Quảng Nam, Sông Trà Khúc ở Quảng Ngãi. Sông, suối nhiều nhưng chiều dài
các sông đa số ngắn và có độ dốc lớn. Lưu vực các sông thường là đồi núi nên
nước mưa đổ xuống rất nhanh. Các cửa sông lại hay bị bồi lấp làm cản trở việc
thoát lũ cho vùng đồng bằng
Hàng năm những trận bão biển và gió mùa Đông Bắc đã gây nên những
trận mưa lớn ở miền Trung. Những năm gần đây, do ảnh hưỡng của biến động

thời tiết trên toàn thế giới như dòng nước El Nino và La Nina, những trận bão
biển và mưa lớn xảy ra càng khốc liệt hơn. Mùa bão thường kéo dài từ tháng 8
đến tháng 11, và trung bình hàng năm có 4 cơn bão. Trong những năm 19951999, miền Trung đã chịu ảnh hưỡng của 13 cơn
bão, 5 áp thấp nhiệt đới và 23 đợt gió mùa Đông
Bắc. Những cơn bão biển và áp thấp nhiệt đới
này thường xuất phát từ Phi Luật Tân rồi 3-4
ngày sau sang đến bờ biển nước ta.
Đặc biệt vào 1999, những trận mưa liên tục từ 18 tháng 10 đến 6 tháng
11 đã nâng mực nước các sông lớn ở miền Trung đến độ cao chưa từng thấy.
Gần 1.4 m (1384 mm) nước mưa đã đổ xuống thành phố Huế trong vòng 24 giờ
(từ 7 giờ sáng ngày 2 đến 7 giờ sáng ngày 3 tháng 11) , làm mực nước Sông
Hương lên cao gần 6 m, cao hơn mực nước trận lụt năm 1953 đến 0.46 m.
Lượng nước mưa vào ngày 2 tháng 11 tại Huế là lượng nước mưa lớn thứ nhì
trên thế giới, sau kỷ lục 1870 mm đo được tại Cilaos, đảo Réunion vào ngày 16
tháng 3 năm 1952. Tiếp đến là các trận mưa lớn đã xãy ra từ ngày 1 đến 7 tháng
12, nhất là ở hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi. Lượng nước mưa lên đến 2192
mm ở thượng lưu Sông Tam Kỳ và 2011 mm ở gần Ba Tơ. Đặc điễm của trận

20


lụt năm 1999 là nước lũ dâng cao rất mau nhưng xuống chậm, làm nhiều nơi bị
lụt ngập đến 3-4 ngày.
Do tính không ổn định của địa mạo, hơn những địa bàn khác, ở vùng duyên
hải miền Trung tác động về mặt tự nhiên và kinh tế xã hội gắn chặt và trực tiếp
với nhau, từ phía đồi núi phía Tây cũng như từ phía Biển Đông.
Những địa bàn bị ảnh hưởng mạnh nhất là các đồng bằng ven biển và ở
cuối các con sông, nơi mật độ dân số rất cao và phải chịu sức ép từ hai phía biển
và núi.
Sa cấu, độ phì của đất, xâm nhập mặn thay đổi sẽ ảnh hưởng đến năng suất

và sản lượng cây trồng.
Kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật, xã hội, văn hóa và du lịch tập trung phần
lớn ở vùng đồng bằng và ven biển, các cảng biển đã xây dựng dọc miền Trung sẽ
chịu sự uy hiếp mạnh mẽ từ mực nước biển dâng.

Hình 9. Ảnh vệ tinh vùng Duyên hải miền Trung

21


Nhìn tổng thể, kinh tế - xã hội vùng duyên hải miền Trung sẽ chịu sự tác
động trên các mặt:
- Biến động về mặt tự nhiên tác động lên kết cấu hạ tầng, lên kinh tế biển và
du lịch; sức hút đầu tư cho khu vực II và khu vực III có thể bị ảnh hưởng.
- Xây dựng và bảo vệ kết cấu hạ tầng tốn kém hơn;
- Sẽ diễn ra sự dịch chuyển dân cư, lao động, các đô thị và cơ sở kinh tế
trong nội vùng từ vùng thấp lên vùng cao, và ra ngoài vùng. Biến động này, đến
lượt nó, có thể tác động đến sự ổn định địa mạo nếu không tính toán và chuẩn bị
kỹ vị trí các địa bàn tiếp nhận.
Những biến động sâu sắc về môi trường tự nhiên và về kinh tế-xã hội nêu
lên trên đây có ảnh hưởng đến sự bền vững của sự phát triển của vùng duyên hải
miền Trung, mà còn đối với cả nước trong chừng mực mà kết cấu hạ tầng nối liền
Bắc Nam hiện nay đều đi qua vùng này.

3.Những lỗ lực của nhân loại

Cát Bà –Hải Phòng

22



Siêu máy tính mới dự đoán về sự nóng lên của trái đất
Các nhà nghiên cứu trường ĐH California ở
Irvine (Mỹ) sẽ sử dụng siêu máy tính mới IBM để
dự báo về ảnh hưởng của sự nóng lên toàn cầu trên
trái đất trong 300 năm tới. Siêu máy tính mang tên
Earth System Modeling Facility (hay ESMF).
Hệ thống sẽ cho phép các nhà nghiên cứu Trung tâm Khoa học Hệ thống
Trái đất (ĐH California) mô phỏng những gì đang làm thay đổi khí hậu hành
tinh, từ ô nhiễm, chất hóa học đến sự tan băng và sự nóng lên của toàn cầu.
Siêu máy tính ESMF tích hợp 7 máy chủ pSeries 655 (mỗi máy này trang bị
8 CPU Power4+) và một máy IBM eServer p690 bao gồm 32 CPU Power4+. Hệ
thống này chạy hệ điều hành AIX Unix, có thể đạt tốc độ tối đa 528 gigaflops
(mỗi gigaflop bằng một tỷ phép tính dấu phẩy động).
Cấu hình máy còn bao gồm hệ thống lưu trữ RAID5 x335 32TB đang sử
dụng hai máy chủ IBM xSeries 335 chạy hệ điều hành Red Hat Linux và Global
File System của Sistina Software. ESMF giá hơn 1 triệu USD
Tăng lượng sắt trong nước biển có thể ngăn chặn sự nóng lên:
Sắt sunfat hoà trong nước biển sẽ tạo điều kiện cho thực vật phù du sinh
sôi, rút khí cacbonic khỏi bầu khí quyển. Từ phát hiện này, các nhà khoa học
đang xác định xem có đúng việc xử lý nước biển bằng sắt sunfat là một phương
pháp ngăn chặn sự nóng lên toàn cầu hay không.Các nhà khoa học Mỹ đã nhận
thấy điều này khi xem xét kết quả thu được từ thí nghiệm thực hiện vào giữa thập
niên 90: trồng tảo dưới đáy biển. Tảo mọc dày đã tạo ra sắt sunfat trên một diện
tích xấp xỉ 260 km2. Nước biển qua xử lý bằng sắt sunfat nhanh chóng tạo ra
những thực vật rất nhỏ gọi là thực vật phù du. Chúng có khả năng hấp thụ
cacbonic trong bầu khí quyển (một loại khí nhà kính gây hiện tượng nóng lên
toàn cầu).
Trước Kenneth Coale, một nhà khoa học khác là John Martin cũng đã đề
xuất thí nghiệm này. Tuy nhiên, Martin mất trước khi kiểm chứng được giả định

của ông là các sinh vật ăn thực vật phù du có thể hút hết ôxy trong nước đại
dương và làm chết cá. Ngoài ra, khi theo dõi thí nghiệm, phòng Năng lượng Mỹ
23


cho rằng cacbon có thể bị giữ lại và đưa xuống đáy đại dương, hoặc được giải
phóng trở lại khí quyển, không rõ sẽ bị thải đi đâu. Giới nghiên cứu cho rằng
chừng nào điều này còn chưa được làm sáng tỏ, sẽ rất nguy hiểm nếu tăng cường
trồng thực vật phù du để hạ thấp nhiệt độ trái đất.
Nhóm nghiên cứu của ông Coale sẽ trở lại với thí nghiệm này trong tương
lai. Trong khi đó, giới doanh nghiệp đã bắt tay vào việc. Công ty cổ phần
Greensea và kỹ sư hoá chất Michael Markels sẽ rải hỗn hợp sắt sunfat trên
vùng đáy biển có diện tích 13 km2, trong một thí nghiệm mà tổng chi phí lên tới
7 triệu đôla. Theo Markels, xử lý nước biển bằng sắt sẽ huỷ được khoảng 2 tấn
khí nhà kính và ngành công nghiệp khử cacbonic sẽ mở ra một thị trường trị giá
hàng tỷ đôla.

24


×