Tải bản đầy đủ (.pdf) (152 trang)

Tiểu luận nâng cao chất lượng đào tạo đại học qua hợp tác giữa các trường đại học chuyên ngành kinh tế và doanh nghiệp tại hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 152 trang )

1
PHẦN MỞ ĐẦU VÀ TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Giới thiệu đề tài
Sự hình thành ý tưởng nghiên cứu: Vấn đề chất lượng đào tạo của sinh viên
sau khi ra trường là mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý và toàn xã hội.
Trước thực tế, các sinh viên tốt nghiệp tìm được việc phù hợp là không dễ dàng,
sinh viên tốt nghiệp phải có năng lực chuyên môn có thể đáp ứng được yêu cầu của
cơ quan tuyển dụng. Các trường đại học nói chung và trường đại học khối kinh tế
nói riêng đều nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng đào tạo
đáp ứng được những yêu cầu thực tiễn. Câu hỏi đặt ra việc phối hợp, hợp tác với
các đơn vị sử dụng lao động - đó là các doanh nghiệp có nâng cao chất lượng đào
tạo trình độ đại học hay không? Trong những năm gần đây, một số trường ở thành
phố Hồ Chí Minh, Hà Nội... đã tiến hành các hoạt động phối hợp với một số doanh
nghiệp về hỗ trợ đào tạo, thực tập tốt nghiệp, tuyển dụng sinh viên ra trường. Đặc
biệt trong bối cảnh Bộ Giáo dục và Đào tạo đang thực hiện vận động “Nói không
với đào tạo không đạt chuẩn và không đáp ứng nhu cầu sử dụng của xã hội” thì vấn
đề phối hợp đào tạo giữa nhà trường với doanh nghiệp càng trở nên cấp thiết. Đây
là những tiền đề đầu tiên để tác giả suy nghĩ cần có một nghiên cứu khoa học về
mức độ tác động của việc hợp tác này, cụ thể là các cách thức hợp tác giữa nhà
trường và doanh nghiệp, với chất lượng đào tạo trình độ đại học. Hơn nữa, việc
nghiên cứu thực trạng hợp tác đào tạo giữa nhà trường và doanh nghiệp là cần thiết
để đề xuất các giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng đào tạo thông qua
hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp.
Về kết cấu tổng thể của luận án: ngoài phần mở đầu và tổng quan các vấn đề
nghiên cứu gồm 8 mục, phần nội dung gồm 4 chương. Trong đó luận án có 35 bảng,
7 hình, 4 biểu đồ và 15 hộp.
Về các kết quả của luận án: Luận án đã làm sáng tỏ các định nghĩa về chất
lượng đào tạo trình độ đại học qua các cách tiếp cận khác nhau, trong đó cách tiếp
cận thông qua khách hàng làm thay đổi các khái niệm truyền thống về chất lượng
đào tạo trình độ đại học. Trong đó luận án xác định được thêm một yếu tố - hợp tác
với doanh nghiệp - bổ sung vào hệ thống các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào




2
tạo đã được đề cập trong các nghiên cứu trước đây. Hơn nữa, luận án đã đưa ra
được các biến hợp tác cụ thể bao gốm: Trao đổi thông tin, tham gia đào tạo và hỗ
trợ tài chính, thước đo cho các yếu tố này được phát triển mới dựa trên quá trình
tổng quan tài liệu và kết quả nghiên cứu định tính. Luận án khẳng định sự ảnh
hưởng của các yếu tố hợp tác trên cơ sở kết quả kiểm định thực nghiệm trên 176
doanh nghiệp (thành viên của VCCI ) trên địa bàn Hà Nội từ đó các bên liên quan
thấy rõ sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học thông qua
hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp. Luận án cho rằng, mối quan hệ hợp tác
giữa nhà trường và doanh nghiệp là điều có ý nghĩa rất quan trọng, được coi là động
lực cốt yếu để nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học khối kinh tế đáp ứng
nhu cầu xã hội. Luận án xác định và chỉ ra mức độ tác động cụ thể của từng yếu tố
ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, từ đó giúp nhà trường và doanh nghiệp kiểm
soát các yếu tố này theo tỷ lệ tác động để nâng cao chất lượng đào tạo. Nhà nước
cần đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, gắn chặt giữa nhà trường với doanh
nghiệp từ việc xây dựng chương trình, nội dung đào tạo, tham gia đào tạo, hướng
dẫn thực hành, thực tập đến việc hỗ trợ cơ sở vật chất thông qua các hợp đồng. Nhà
trường coi doanh nghiệp như là những khách hàng đặc biệt, vừa tham gia tiêu dùng,
vừa tham gia sản xuất. Các trường đại học cần chủ động hơn nữa trong việc xây
dựng các mối quan hệ với các doanh nghiệp. Doanh nghiệp cùng với nhà trường tổ
chức các diễn dàn nghề nghiệp, tuyển dụng, quảng bá thông tin tuyển dụng, đặt
hàng trường đại học trong việc đào tạo.

2. Lí do chọn đề tài
Trong những năm gần đây ngành giáo dục và các trường ĐH, CĐ đã triển
khai một số biện pháp để nâng cao chất lượng đào tạo. Năm 2004 Bộ GD-ĐT đã
thành lập Cục khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục, hướng dẫn các trường tự
đánh giá chất lượng đào tạo. Triển khai chủ trương đào tạo theo nhu cầu xã hội bằng

các hội thảo quốc gia đào tạo nhân lực cho các ngành kinh tế chủ lực như công nghệ
thông tin, đóng tàu, tài chính - ngân hàng, du lịch, chế biến nông sản, y tế, qua đó có
hơn 600 hợp đồng, thỏa thuận đào tạo đã được ký kết giữa các trường ĐH, CĐ và
các doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước. Mặc dù các giải pháp nói trên là đúng


3
đắn, song thực tế chưa tạo được chuyển biến đáng kể trên diện rộng trong việc nâng
cao chất lượng đào tạo [8].
Ngày 6-1-2010, Ban cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Nghị quyết
về Đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010 - 2012. Ngày 11 - 1-2010, Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chương trình hành động đổi mới quản lý giáo dục
đại học giai đoạn 2010 - 2012. Và ngày 27-2-2010, Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ
thị về đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010 - 2012. Thủ tướng Chính
phủ đã yêu cầu: "Cần quán triệt nhận thức: Phát triển quy mô giáo dục đại học phải
đi đôi với bảo đảm và nâng cao chất lượng đào tạo. Kiên quyết chấm dứt tình trạng
không kiểm soát được chất lượng đào tạo. Cần tạo ra cơ chế và động lực trong quản
lý nhà nước và quản lý của các cơ sở đào tạo để thực hiện mục tiêu bảo đảm và
nâng cao chất lượng đào tạo" [11, trang 1].
Vấn đề đào tạo theo nhu cầu xã hội được Bộ GD&ĐT quan tâm, phối hợp
với các bộ ngành liên quan tổ chức một số Hội thảo quốc gia về “Đào tạo đáp ứng
nhu cầu xã hội”, với mục tiêu tìm ra những định hướng và giải pháp cho đào tạo
nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội cả về số lượng và chất lượng [5]. Theo Phó thủ
tướng Nguyễn Thiện Nhân, việc chuyển từ đào tạo dựa theo khả năng sẵn có của
mình sang đào tạo theo nhu cầu xã hội là chuyển biến quan trọng nhất, cơ bản và
bức bách trong giai đoạn hiện nay [8].
Hội thảo Hợp tác hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tài
chính-kế toán đáp ứng yêu cầu xã hội được Diễn đàn giáo dục ACCA Việt Nam tổ
chức ngày 6-5-2010, tại Hà Nội. Đại diện nhiều doanh nghiệp và các trường đã
cùng nhau bàn thảo các giải pháp hợp tác trong thời gian tới. Đại diện nhiều doanh

nghiệp phát biểu ý kiến, cho rằng chất lượng sinh viên mới tốt nghiệp còn kém,
không sử dụng được ngay. Để sử dụng được, các doanh nghiệp đã phải tốn kém chi
phí và thời gian để đào tạo lại. Đại diện Học viện Tài Chính, Học viện Ngân hàng,
Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội phát biểu ý kiến đều cho rằng, chất
lượng đào tạo nhân lực chưa cao cũng có một phần “lỗi” của chính doanh nghiệp,
các nhà tuyển dụng. Để sự hợp tác, phối hợp giữa doanh nghiệp và nhà trường trong
việc đào tạo nguồn nhân lực có hiệu quả, nhiều đại biểu cho rằng, đã đến lúc cần có
một chế tài, có thể đưa vào Luật giáo dục về trách nhiệm của cả hai bên[8].


4
Công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta được tiến hành năm 1986 từ Đại hội
Đảng lần thứ VI. Đi cùng với sự nghiệp đổi mới, nền giáo dục nước ta cũng đã có
sự thay đổi đáng kể, trong đó có hệ thống đào tạo khối các trường kinh tế. Từ cơ
chế kế hoạch hóa tập trung, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
việc đào tạo đại học khối các trường kinh tế gần như đã được thay đổi cơ bản về nội
dung, chương trình, giáo trình, cơ cấu ngành nghề và chuyên ngành đào tạo [4].
Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu của bước ngoặt lịch sử, khi nước ta đã chính
thức gia nhập WTO, việc đào tạo trình độ đại học khối các trường kinh tế đang
đứng trước những thách thức lớn. Chúng ta cần tiếp tục đổi mới đào tạo trình độ đại
học khối các trường kinh tế để đáp ứng yêu cầu cạnh tranh của nền kinh tế thị
trường khu vực và thế giới [16]. Yêu cầu hội nhập kinh tế của nước ta với WTO,
AFTA là phải cạnh tranh với các nước có nền giáo dục chất lượng cao, hiện đại
nhưng các cơ sở giáo dục đại học khối kinh tế lại chưa theo kịp về nội dung chương
trình, trang thiết bị. Hơn nữa, yêu cầu của thị trường lao động cạnh tranh lớn cả thị
trường lao động trong nước, khu vực và quốc tế nhưng đào tạo chưa đáp ứng yêu
cầu xã hội về chất lượng [10].
Trong quá trình đổi mới, khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, các trường đại học khối kinh tế đã đóng góp đáng kể vào sự nghiệp
đào tạo nguồn nhân lực. Nhưng trong giai đoạn mới khi nước ta gia nhập WTO,

việc đào tạo trình độ đại học lại đứng trước những thử thách lớn, đòi hỏi các trường
đại học khối kinh tế phải đối mặt để vượt qua [20].
Nguồn nhân lực là nhân tố trung tâm, có vai trò quyết định đối với tăng
trưởng và phát triển của nền kinh tế. Nguồn nhân lực con người với tiềm năng là tri
thức là lợi thế cạnh tranh của các công ty, ngành và nền kinh tế [15]. Cùng với việc
trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới, Việt Nam như một
con rồng châu Á đang vươn mình với nhiều lợi thế như tốc độ kinh tế cao, nguồn
nhân lực dồi dào trong đó có đến 50% lao động trẻ đưới 30 tuổi [18]. Tuy nhiên,
“nguồn nhân lực Việt Nam tuy thừa mà vẫn thiếu-thừa lượng, thiếu chất”. Hiện nay
hệ thống đào tạo của chúng ta chưa tuân thủ quy luật cung-cầu, đào tạo chưa gắn
được với nhu cầu của thị trường lao động nên gây tình trạng vừa thừa lại vừa thiếu
lao động kỹ thuật [8]. Đây là một vấn đề quan tâm hàng đầu và cũng là một thách


5
thức to lớn từ cả hai phía nhà truờng và doanh nghiệp để có thể nâng cao chất lượng
đào tạo. Hơn nữa, trong điều kiện hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam
còn nhiều hạn chế, như trình độ chuyên môn lành nghề thấp so với yêu cầu phát
triển kinh tế, sự mất cân đối về cơ cấu đào tạo giữa các loại trình độ, sự lệch pha
giữa đào tạo và sử dụng [30]
Trước sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ và xu hướng hội
nhập quốc tế về kinh tế, văn hoá và các hoạt động khác như hiện nay, giáo dục nói
chung và giáo dục đại học nói riêng đang đứng trước những thời cơ và thách thức lớn
[16]. Yêu cầu cung cấp nhân lực có trình độ phục vụ phát triển kinh tế-xã hội của
đất nước ngày càng được xác định là nhiệm vụ tối quan trọng, là trọng trách của
giáo dục - đào tạo [15]. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam hiện nay cho thấy việc gắn
kết giữa đào tạo nhân lực và nhu cầu của xã hội về nhân lực còn rất hạn chế. Hiện
tại, cung nhân lực chưa đáp ứng được cầu đang là vấn đề rất được dư luận quan tâm.
Đa số các trường đại học chủ yếu tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo sẵn có,
không nắm bắt được nhu cầu về nhân lực theo trình độ, ngành nghề của thị trường

lao động nên nhiều người tốt nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu của người tuyển
dụng [2]. Vậy làm thế nào để gắn đào tạo với sử dụng, để nâng cao chất lượng đào
tạo trình độ đại học đáp ứng được nhu cầu nhân lực của nhà sử dụng, của các bộ,
ngành, các cơ quan, doanh nghiệp là vấn đề lớn không chỉ đặt ra đối với ngành giáo
dục- tác nhân chính, mà còn là đối với Nhà nước và các ban, ngành khác. Câu hỏi
này đã được “bàn” trong rất nhiều hội thảo để tìm ra giải pháp nâng cao chất lượng
đào tạo nhưng dường như chưa có hồi kết thúc, chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài
“Nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học thông qua hợp tác giữa các
trường đại học khối kinh tế và doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội” ngoài việc
đóng góp thực tiễn còn đóng góp về lý luận nhằm hoàn thiện hơn nữa các khái
niệm chất lượng, chất lượng đào tạo, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực và hợp
tác đào tạo.

3. Tổng quan tình hình nghiên cứu
- Các nghiên cứu nước ngoài:
Trong nghiên cứu của mình Harvey & Green (1993) cho rằng chất lượng đào
tạo trình độ đại học được thể hiện ở các khía cạnh: (1) Sự xuất chúng, tuyệt vời, ưu


6
tú, xuất sắc; (2) Sự hoàn hảo; (3) Sự phù hợp, thích hợp; (4) Sự thể hiện giá trị; (5)
Sự biến đổi về chất [45]. Còn Philip, B. (1980) cho rằng chất lượng là sự phù hợp
với yếu cầu [57].
Astin (1991) đã đề xuất mô hình Đầu vào – Ngoại cảnh – Đầu ra (I-E-O) và
được nhiều nhà nghiên cứu dùng để đánh giá mối quan hệ giữa các yếu tố đầu vào,
yếu tố ngoại cảnh và chất lượng đầu ra của sinh viên [33]. Nghiên cứu tiếp theo,
Kerr, C (1987) đánh giá sự phát triển, chất lượng đào tạo và xác định các yếu tố ảnh
hưởng đến các biến phụ thuộc này [47]. Ngoài ra còn có Clark, NR. (1983), Harman,
G. (1998), Ellis, R. (1993), Soutar, G. and McNeil, M (1996). Tất cả các biến được
phân thành 3 khối: Đầu vào, Ngoại cảnh và Đầu ra. Giả thuyết đưa ra là các đặc

điểm đầu vào của sinh viên đồng thời ảnh hưỏng đến quá trình và chất lượng đào
tạo [37], [44], [65]. Theo Astin (1993), các yếu tố đầu vào có thể là nhân thân, nền
tảng giáo dục, định hướng chính trị, kiểu hành vi, khát vọng học tập, động cơ chọn
trường, tình trạng tài chính, tình trạng thể chất, lựa chọn nghề nghiệp, lĩnh vực
chuyên ngành, mục tiêu cuộc đời...Các yếu tố ngoại cảnh có thể là chương trình,
giảng viên, cán bộ, môi trường học thuật, thiết bị, môn học, phương pháp giảng dạy,
bạn bè và các hoạt động ngoại khoá...Và đầu ra là chất lượng giáo dục được thể hiện
qua kết quả kiểm tra sau khoá học, kết quả tốt nghiệp [33].
Wong, Poh-Kam, Yuen-Ping Ho (2006) đưa ra các mô hình mô tả mối quan
hệ giữa kinh doanh và chất lượng nguồn nhân lực. Mô hình đã đưa ra 5 mức độ kết
hợp giữa chiến lược kinh doanh và chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của
doanh nghiệp [71]. Nhu cầu của người sử dụng lao động được biểu hiện bằng mong
muốn của họ có được những lao động được đào tạo với những kiến thức và phẩm
chất con người đáp ứng được yêu cầu của những vị trí công việc mà những lao động
này phải đảm nhiệm trong các cơ quan, tổ chức cũng như trong doanh nghiệp. Bằng
cách đó, các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp có được nguồn lực quan trọng, thậm
trí là quan trọng bậc nhất để làm tròn sứ mạng của mình, để tồn tại và phát triển;
đặc biệt là trong điều kiện thời đại của kinh tế tri thức ngày càng chiếm vai trò chủ
đạo [34].
Nghiên cứu về mối quan hệ hợp tác nhà trường – doanh nghiệp (University
Business Cooperation- UBC), các tác giả tổng kết: Mối quan hệ hợp tác giữa nhà


7
trường và doanh nghiệp được hiểu như là những giao dịch giữa các trường đại học
và các tổ chức sản xuất kinh doanh vì lợi ích của cả hai bên. Mối quan hệ này đang
chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố trong đó có nhận thức về lợi ích của sự hợp tác,
cũng như những rào cản và động lực của sự hợp tác đó [60], [67], [69] . Hơn nữa,
theo Carayon (2003); Gibb & Hannon (2006) những nhân tố thuộc về hoàn cảnh
như tuổi tác, giới tính, số năm học đại học, số năm làm việc trong giới doanh nghiệp,

đặc điểm của nhà trường và của quốc gia…cũng ảnh hưởng tới phạm vi của việc
hợp tác [38], [42].
- Các nghiên cứu trong nước:
Nguyễn Hữu Châu (2008) đưa ra mô hình (I-P-O-C) kết hợp giữa các yếu tố
chất lượng của các thành phần tạo nên một cơ sở giáo dục, mô hình bao gồm: chất
lượng đầu vào, chất lượng quá trình, chất lượng đầu ra và hoàn cảnh cụ thể. Các
tiêu chí và chỉ số cụ thể cần được xác định để chỉ rõ mức độ đạt được của các thành
phần này [14]. Trong đào tạo, chất lượng đào tạo trình độ đại học được đánh giá
qua mức độ đạt được mục tiêu đào tạo đã đề ra đối với một chương trình đào tạo
[20]. Cụ thể hơn, chất lượng đào tạo là kết quả của quá trình đào tạo được phản ánh
ở các đặc trưng về phẩm chất, giá trị nhân cách và giá trị sức lao động hay năng lực
hành nghề của người tốt nghiệp tương ứng với mục tiêu, chương trình đào tạo theo
các ngành cụ thể [27]. Một cách khái quát có thể hiểu chất lượng đào tạo trình độ
đại học được đánh giá qua mức độ đạt được mục tiêu đào tạo đề ra đối với chương
trình đào tạo [14]. Qua các quan điểm trên ta có thể thấy, chất lượng đào tạo trình
độ đại học thể hiện cả hai khía cạnh: khía cạnh thứ nhất là đạt được mục tiêu (phù
hợp với tiêu chuẩn) do nhà trường đề ra, ở khía cạnh này chất lượng đào tạo được
xem là chất lượng bên trong [33]. Ở khía cạnh thứ hai, chất lượng được xem là sự
thoả mãn nhu cầu của người sử dụng lao động, ở khía cạnh này chất lượng được
xem là chất lượng bên ngoài. Như vậy, mỗi cơ sở đào tạo luôn có một nhiệm vụ
được uỷ thác, nhiệm vụ này thường được do các chủ sở hữu quy định, điều này chi
phối mọi hoạt động của nhà trường. Vấn đề đặt ra là, nhà trường làm thế nào để xác
định các mục tiêu của mình sao cho phù hợp với nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp
- đạt chất lượng bên ngoài. Về chất lượng, nhu cầu về chất lượng đối với sản phẩm
đào tạo là những kiến thức, các kỹ năng và phẩm chất con người mà người học đòi


8
hỏi phải có được sau khi kết thúc quá trình đào tạo hoặc sử dụng lao động mong
muốn ở những người lao động mà họ sẽ tuyển dụng [27]. Trong thực tế, bấy lâu nay

chúng ta vẫn đào tạo theo chỉ tiêu được Bộ GDĐT giao và theo yêu cầu của nhà
trường. Còn nó có phù hợp với yêu cầu cụ thể của xã hội hay không thì thực ra
chúng ta cũng không biết rõ. Bao nhiêu phần trăm sinh viên ra trường có việc làm,
có phù hợp với nghề đào tạo hay không, chất lượng đào tạo có đáp ứng yêu cầu thực
tế không...là những câu hỏi mà các cơ sở đào tạo khó có câu trả lời chính xác [25].
Để đào tạo và nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực trình độ đại học đáp ứng
NCXH thì phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa CLĐT và NCXH về đào tạo. Cần có
sự hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp để giải quyết một loạt các vấn đề cả hai
phía đều quan tâm [24]. Như vậy, các nghiên cứu trong và ngoài nước thường đề
cập đến mục tiêu của từng phía hoặc nhà trường hay doanh nghiệp (người sử dụng
lao động), chưa đi sâu vào nghiên cứu làm thế nào để gắn kết nhà trường và doanh
nghiệp, nhất là chưa có nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của nhân tố hợp tác với
doanh nghiệp đối với chất lượng đào tạo trình độ đại học. Mặc dù đã có các nghiên
cứu trên thế giới đưa ra các hình thức hợp tác cho riêng trường của mình phù hợp
với điều kiện kinh tế xã hội của họ. Nhưng chưa có nghiên cứu một cách tổng thể
các hình thức hợp tác một cách có hiệu quả giữa nhà trường và doanh nghiệp đặc
biệt là các hình thức nào phù hợp và có thể áp dụng ở Việt Nam.

4. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa các quan điểm về chất lượng, chất lượng đào tạo trình độ đại
học. Phát triển lý luận hợp tác đào tạo trình độ đại học giữa các trường đại học với
doanh nghiệp.
- Xác định yếu tố tác động đến chất lượng đào tạo trình độ đại học thông qua
hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp. Mức độ các yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng đào tạo. Yếu tố hợp tác với doanh nghiệp được cụ thể hóa bằng các hình thức
hợp tác có mức độ tác động như thế nào trong nhóm các yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng đào tạo.
- Phân tích thực trạng chất lượng đào tạo của các trường đại học khối kinh tế
- Khuyến nghị các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học
thông qua hợp tác giữa trường đại học khối kinh tế và doanh nghiệp.



9
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Do những hạn chế về thông tin, dữ liệu, lý luận, phương pháp nghiên cứu,
thời gian, kinh phí,…nghiên cứu xác định phạm vi nghiên cứu như sau:
- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng sẽ được giới hạn trong thời kỳ 2000 – 2012.
- Về không gian: Nghiên cứu được xác định khảo sát các trường đại học khối kinh
tế và doanh nghiệp trên phạm vi Hà Nội là chủ yếu.
Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng đào tạo trình độ đại học thông qua hợp tác
giữa nhà trường và doanh nghiệp.

6. Những đóng góp mới của đề tài
Thông qua nghiên cứu của mình tác giả đã có một số đóng góp tri thức mới
cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Cụ thể:
- Về mặt lý luận: Luận án có những đóng góp mới về mặt lý luận về chất
lượng đào tạo trình độ đại học: (1) Đưa ra 6 yếu tố tác động đến chất lượng đào tạo
trình độ đại học đáp ứng yêu cầu của xã hội. Trong đó yếu tố hợp tác với doanh
nghiệp được cụ thể hóa thành các yếu tố: Trao đổi thông tin, tham gia đào tạo và hỗ
trợ tài chính (2) Nghiên cứu chỉ ra được việc hợp tác hiệu quả giữa nhà trường và
doanh nghiệp là nhân tố then chốt trong việc nâng cao chất lượng đào tạo trình độ
đại học. Đồng thời, luận án cũng đưa ra các nhân tố hợp tác và xác định mức độ tác
động cụ thể của những nhân tố này đến chất lượng đào tạo trình độ đại học.
- Về mặt thực tiễn: Việc thực hiện hợp tác giữa trường đại học khối kinh tế
và doanh nghiệp nhằm tận dụng nguồn nội lực và ngoại lực để nâng cao hiệu quả
hoạt động của từng tổ chức trong đào tạo nguồn nhân lực. Từ kết quả nghiên cứu
luận án đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học thông qua
hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp thông qua các hình thức: (1) Tham gia đào
tạo, (2) Hỗ trợ tài chính, (3) Trao đổi thông tin.


7. Câu hỏi và phương pháp nghiên cứu
7.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Các yếu tố nào tác động đến chất lượng đào tạo trình độ đại học?
- Bên cạnh những yếu tố đã được xác định là có ảnh hưởng đến chất lượng
đào tạo, mức độ ảnh hưởng của yếu tố hợp tác đến chất lượng đào tạo trình độ đại
học như thế nào?


10
- Hợp tác giữa các trường đại học với doanh nghiệp như thế nào thì sẽ nâng
cao chất lượng đào tạo trình độ đại học?
- Thực trạng chất lượng đào tạo trình độ đại học của các trường đại học khối
kinh tế thông qua hợp tác với các doanh nghiệp?
- Giải pháp nào để nâng cao chất lượng đào tạo thông qua hợp tác giữa nhà
trường và doanh nghiệp?
7.2. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được tiến hành qua các bước nghiên cứu chính như: (1) Thiết kế mô
hình nghiên cứu. (2) Nghiên cứu định tính. (3) Nghiên cứu định lượng.
+Thiết kế mô hình nghiên cứu:
Trên cơ sở các lý thuyết và các nghiên cứu trước tác giả đưa ra mô hình
nghiên cứu và các thang đo.
+ Nghiên cứu định tính:
Dựa trên cơ sở lý luận và những nghiên cứu trước đây, tác giả đã đề xuất mô
hình nghiên cứu gồm 6 biến độc lập tương ứng với 6 yếu tố tác động đến biến phụ
thuộc chất lượng đào tạo trình độ đại học. Tác giả dựa vào phương pháp nghiên cứu
điển hình tại một trường đại học khối kinh tế (ĐH Thương Mại) và tham khảo ý
kiến 6 nhà quản lý tại các trường đại học khối kinh tế trên địa bàn Hà Nội. Khi áp
dụng phương pháp này tác giả dùng công cụ phỏng vấn sâu, kết hợp thu thập dữ
liệu thứ cấp với mục đích là xem xét, đánh giá sự phù hợp của mô hình đã đưa ra
trong điều kiện thực tế tại một trường đại học, tác giả chọn trường đại học Thương

Mại vì trường đã và đang triển khai một số hoạt động liên quan đến hợp tác đào tạo
giữa nhà trường và doanh nghiệp. Đầu tiên tác giả tiến hành thu thập các tài liệu,
báo cáo của các hội thảo, hội nghị tổng kết tại trường ĐH Thương Mại cũng như
các trường có phỏng vấn sâu lãnh đạo. Đối tượng phỏng vấn sâu bao gồm: (1) Lãnh
đạo trường đại học khối kinh tế phụ trách mảng đào tạo (2) Lãnh đạo các khoa và
giảng viên các khoa có các hoạt động, đang triển khai hoặc quan tâm tới hợp tác đào
tạo giữa nhà trường và doanh nghiệp (3) Sinh viên của trường đã tốt nghiệp đang
làm việc trong các doanh nghiệp. Kết quả của nghiên cứu này giúp tác giả có thể
điều chỉnh lại mô hình. Từ đó, tác giả có thể điều chỉnh câu hỏi phục vụ cho nghiên
cứu định lượng.


11
+ Nghiên cứu định lượng
Nghiên cứu định lượng được tiến hành nhằm kiểm định lại các giả thuyết
trong mô hình nghiên cứu. Nghiên cứu này được thực hiện thông qua phương pháp
khảo sát. Phiếu điều tra dựa trên cách đo lường các biến được thực hiện ở các
nghiên cứu trước đây. Tác giả có bổ sung các biến được rút ra từ nghiên cứu định
tính. Thử nghiệm phiếu điều tra được tiến hành trên một bộ phiếu hỏi gồm 300
phiếu hỏi sẽ được phát ra cho các DN thành viên của VCCI đang hoạt động trên địa
bàn Hà Nội. Các dữ liệu thu thập dùng để kiểm định mô hình, đánh giá thang đo
cũng như là kiểm định giả thuyết.
Xử lý số liệu: Tác giả dùng phần mềm SPSS để phân tích tương quan nhằm
đánh giá sự tác động của các nhân tố hợp tác và các nhân tố chất lượng đào tạo.
Trước tiên, dùng phương pháp đo độ tin cậy của các biến (reliability) thông qua hệ
số Cronbach Alpha và các hệ số tương quan biến - tổng (item-to-total correlation)
và giá trị tương quan bội bình phương (squared multiple correlation). Do mỗi biến
trong mô hình được đo lường bằng một thước đo có nhiều tiêu chí nên phân tích
nhân tố khám phá (exploratory factor analysis – EFA) được thực hiện để kiểm tra
tính đơn hướng (udinimentionality) của thước đo nhằm loại bỏ một số tiêu chí đo

lường không phù hợp. Sau khi phân tích EFA cho từng biến, trước khi sử dụng cho
các phân tích tiếp theo, thước đo của các biến được kiểm tra lại cùng một lúc, thực
hiện thao tác varimax rotation với tiêu chí egenvalue > 1.0 cho toàn bộ các tiêu chí
đo lường. Sau khi thực hiện phân tích độ tin cậy EFA cho các thước đo đo lường
cho các biến độc lập và phụ thuộc sẽ phân tích tương quan theo cặp, cuối cùng là
phân tích hồi quy đa biến (regression) để kiệm định lại giả thuyết và mối tương
quan giữa biến độc lập và biến phụ thuộc. Ngoài ra, phương pháp phân tích thống
kê mô tả sẽ được dùng để phân tích các đánh giá của các nhà quản lý, giảng viên và
sinh viên.

8. Kết cấu của luận án
Luận án bao gồm 3 phần chính, có bố cục như sau:
- Phần mở đầu gồm 8 mục:


12
Giới thiệu đề tài; Lý do chọn đề tài; Tổng quan tình hình nghiên cứu; Mục
đích nghiên cứu; Đối tượng và phạm vi nghiên cứu; Những đóng góp mới của đề
tài; Câu hỏi và phương pháp nghiên cứu; Kết cấu của luận án.
- Phần nội dung gồm 4 chương:
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ
ĐẠI HỌC THÔNG QUA HỢP TÁC GIỮA TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHỐI KINH TẾ
VÀ DOANH NGHIỆP
Chương 2: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH MÔ HÌNH.
Chương 3: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ ĐẠI
HỌC THÔNG QUA HỢP TÁC GIỮA TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHỐI KINH TẾ VÀ
DOANH NGHIỆP
Chương 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC THÔNG QUA HỢP TÁC GIỮA
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHỐI KINH TẾ VÀ DOANH NGHIỆP

- Phần kết luận gồm 2 mục: Tổng kết các kết quả đạt được của đề tài luận
án và những hạn chế của đề tài luận án
Ngoài ra, luận án còn bao gồm những nội dung sau:
- Các công trình đã công bố của tác giả liên quan đến luận án
- Tài liệu tham khảo
- Phụ lục


13
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO TRÌNH
ĐỘ ĐẠI HỌC THÔNG QUA HỢP TÁC GIỮA TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KHỐI KINH TẾ VÀ DOANH NGHIỆP
1.1. Một số vấn đề lý luận về chất lượng đào tạo trình độ đại học
1.1.1. Khái niệm về chất lượng và đào tạo
- Khái niệm về chất lượng:
Trong các nghiên cứu chất lượng là một khái niệm được xem xét từ các
tiếp cận khác nhau:
Với cách tiếp cận tiên nghiệm về chất lượng thì chất lượng là sự xuất sắc
bẩm sinh, tự nó (là cái tốt nhất). Điều này chỉ có thể hiểu được, cảm nhận được nếu
so sánh với những sự vật có cùng đặc tính với sự vật đang được xem xét [14]. Nếu
với cách tiếp cận dựa trên sản phẩm khi xem xét chất lượng thì chất lượng được
xem xét trên cơ sở thuộc tính đo được. Điều đó có nghĩa là chất lượng được đo
lường khách quan và chính xác. Một sự vật có thuộc tính nào đó “cao hơn” cũng có
nghĩa là nó “tốt hơn” và do đó cũng “đắt hơn”. Còn tiếp cận dựa trên sản xuất thì
chất lượng được xem là sự phù hợp với nhu cầu. Các sản phẩm và dịch vụ được
“sản xuất” một cách chính xác với những “đặc tính kĩ thuật” đã định; mọi sự lệch
lạc đều dẫn đến giảm chất lượng [14]. Nguyễn Hữu Châu (2008) cho rằng chất
lượng là sự phù hợp với mục đích (mục tiêu); là đáp ứng được nhu cầu khách hàng.
Chất lượng được xem xét đơn giản chỉ trong con mắt của người chiêm ngưỡng sự
vật hoặc sử dụng chúng [14, trang 6]

Theo tiêu chuẩn Pháp – NFX 50-109, chất lượng là tiềm năng của một sản
phẩm hay dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng. Trong khi đó tiêu
chuẩn Việt Nam (TCVN – ISO 8402) thì đưa ra khái niệm chất lượng là tập hợp các
đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho thực thể (đối tượng) đó khả năng thỏa
mãn những nhu cầu đã nêu ra hoặc nhu cầu tiềm ẩn. Ở cách tiếp cận đa dạng hơn
Harvey & Green (1993) cho rằng chất lượng được thể hiện ở các khía cạnh sau: Sự


14
xuất chúng, tuyệt vời, ưu tú, xuất sắc; Sự hoàn hảo; Sự phù hợp, thích hợp; Sự thể
hiện giá trị; Sự biến đổi về chất [45].
- Khái niệm về đào tạo:
Trong Đại từ điển Tiếng Việt Nguyễn Như Ý (1999) đã đưa ra thuật ngữ
"Đào tạo" là dạy dỗ, rèn luyện để trở nên người có hiểu biết, có nghề nghiệp; Đào
tạo thành người có tri thức, chuyên môn nghiệp vụ.
Theo Trần Xuân Cầu & Mai Quốc Chánh (2008). Để hiểu rõ về đào tạo,
trước hết, cần hiểu một số khái niệm liên quan:
• Trình độ lành nghề của nguồn nhân lực thể hiện mặt chất lượng của nguồn
nhân lực. Nó biểu hiện ở sự hiểu biết lý thuyết về kỹ thuật sản xuất và kỹ năng lao
động để hoàn thành những công việc có trình độ phức tạp nhất định thuộc về một
nghề hoặc chuyên môn nào đó.
• Nghề là một hình thức phân công lao động, nó đòi hỏi kiến thức lý thuyết
tổng hợp và thói quen thực hành để hoàn thành những công việc nhất định.
• Chuyên môn là một hình thức phân công lao động sâu sắc hơn do sự chia
nhỏ của nghề. Nó đòi hỏi kiến thức lý thuyết và thói quen trong phạm vi hẹp hơn và
sâu hơn.
• Giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực là con đường duy nhất hình thành và
phát triển vốn nhân lực. Mỗi quốc gia có quy định chính thức về hệ thống giáo dục
quốc dân và chiến lược phát triển nguồn nhân lực thích hợp xuất phát từ tình hình
và điều kiện cụ thể của mỗi giai đoạn phát triển.

• Giáo dục đại học đào tạo hai trình độ là trình độ cao đẳng và trình độ đại
học; giáo dục sau đại học đào tạo hai trình độ là trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ.
• Giáo dục và đào tạo cung cấp sức lao động có chất lượng, năng suất cao là
một yếu tố quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện tiến bộ khoa học
công nghệ hiện nay, khi môi trường luôn thay đổi tác động đến tổ chức, đến ngành,
giáo dục và đào tạo đáp ứng những thay đổi đó và con người có trình độ sẽ nhận
biết được sự thay đổi, làm chủ sự thay đổi [29, trang 111].


15
• Cán bộ chuyên môn là những người được đào tạo ở các trường đại học,
cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, có trình độ học vấn cao, có khả năng lãnh đạo,
quản lý, chỉ đạo một chuyên môn nghiệp vụ nào đó. Căn cứ vào trình độ đào tạo cán
bộ chuyên môn có thể chia thành các loại sau: cán bộ trung cấp; cán bộ chuyên môn
có trình độ cao đẳng; cán bộ chuyên môn có trình độ đại học; cán bộ chuyên môn có
trình độ trên đại học (thạc sĩ và tiến sĩ) [29, trang 122].
Như vậy, đào tạo trình độ đại học là quá trình chuẩn bị cho sinh viên kiến
thức làm việc trong một thế giới nối kết, liên thông toàn cầu hóa. Các trường đại
học đóng một vai trò to lớn trong việc truyền bá và phát triển kiến thức. Bên cạnh
chức năng truyền thụ kiến thức, một trong những đặc trưng quan trọng nhất của
trường đại học là kết hợp được việc giảng dạy và nghiên cứu [14]. Tuy nhiên,
trường đại học không phải là trung tâm nghiên cứu, cũng như không phải trường
dạy nghề đơn giản. Tính tự chủ của các cơ sở đào tạo trình độ đại học rất cao.
Trường đại học vừa là nơi giảng viên chia sẻ các kết quả nghiên cứu của mình với
sinh viên, tổ chức cho sinh viên làm nghiên cứu mới. Trường đại học cũng vừa là
nơi kết nối với doanh nghiệp, với thị trường lao động trong quá trình đào tạo,
nghiên cứu và cung ứng nguồn nhân lực.

1.1.2. Các quan điểm về chất lượng đào tạo trình độ đại học
Hiện nay, chất lượng không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của ngành giáo

dục và đào tạo mà là mối quan tâm hàng đầu của mọi hệ thống. Chất lượng là yếu tố
quyết định sự tồn tại và phát triển của một tổ chức [1]. Chất lượng là một vấn đề rất
trừu tượng, không ai nhìn thấy được và cảm nhận trực tiếp bằng các giác quan của
mình, không thể đo lường bằng những công cụ đo thông thường [13]. Về bản chất,
khái niệm chất lượng đào tạo trình độ đại học là một khái niệm mang tính tương đối.
Với mỗi người quan niệm về chất lượng khác nhau và vì thế chúng ta thường dặt
câu hỏi “chất lượng của ai”. Ở mỗi vị trí, người ta nhìn nhận về chất lượng đào tạo
trình độ đại học ở những khía cạnh khác nhau. Các sinh viên, nhà tuyển dụng, giảng
viên, chính phủ, các nhà chuyên môn đánh giá đều có định nghĩa riêng của họ cho
khái niệm chất lượng [13]. Chất lượng đào tạo được đánh giá qua mức độ đạt được


16
mục tiêu đào tạo đã đề ra đối với một chương trình đào tạo [14, trang 6]. Cũng có
nghiên cứu cho rằng chất lượng đào tạo là kết quả của quá trình đào tạo được phản
ánh ở các đặc trưng về phẩm chất, giá trị nhân cách và giá trị sức lao động hay năng
lực hành nghề của người tốt nghiệp tương ứng với mục tiêu, chương trình đào tạo
theo các ngành nghề cụ thể [27, trang 23].
Dưới đây là các trường phái nghiên cứu định nghĩa về chất lượng đào tạo
trình độ đại học:
- Trường phái thứ nhất cho rằng chất lượng đào tạo trình độ đại học là sự
vượt trội. Tiêu biểu cho trường phái này là Harvey và Green (1993). Quan điểm này
cho rằng chất lượng không được định nghĩa thông qua việc đánh giá những gì được
cung cấp mà dựa trên cơ sở cho rằng chính bản thân tính nổi trội. Chất lượng là cái
sẵn có nằm trong trường đại học, và do vậy không cần có cơ quan nào bên trong hay
bên ngoài trường đại học để làm nhiệm vụ đảm bảo chất lượng mà công việc đó
được thực hiện bởi chính đội ngũ học thuật trong mọi thứ họ làm. McDowell, L.
and Sambell, K. (1999), Meister B. (2004) thì nhấn mạnh vào đầu vào, đầu ra, chất
lượng là sự xuất sắc để chỉ khái niệm của một nhóm sinh viên ưu tú giới hạn trong
“tháp ngà” của một số ít trường đại học.

- Trường phái thứ hai cho rằng chất lượng đào tạo trình độ đại học là sự hoàn
hảo nhất quán. Nghiên cứu của Harman, G. (1998), Crosby, B. (1985) chỉ ra sự xuất
sắc trở thành hoàn hảo “khiếm khuyết bằng không”. Đồng tình với quan điểm này
còn có Gudmund, H (2000) và Connolly, M (2010). Hoàn hảo đảm bảo rằng không
xảy ra sai sót ở từng giai đoạn thay vì chờ kiểm tra đến đoạn cuối cùng mới phát
hiện ra sai sót (Oldfield and Baron, 2000).
- Trường phái thứ ba cho rằng chất lượng đào tạo trình độ đại học là sự phù
hợp với mục tiêu. Cách tiếp cận này cho rằng chất lượng đào tạo chỉ có ý nghĩa
trong mối liên hệ với mục tiêu (Bowles, 1976; Ramsden, 1991; Scott, 2001). Các
nghiên cứu xác định chất lượng mức độ sản phẩm hay dịch vụ đáp ứng yêu cầu của
khách hàng. Giả thuyết cho rằng một sản phẩm chất lượng khi khi đạt được yêu cầu


17
của khách hàng. Chất lượng đào tạo trình độ đại học theo nghĩa phù hợp mục tiêu
được đánh giá bằng đầu ra chứ không phải bằng quá trình .
- Trường phái thứ tư cho rằng chất lượng đào tạo trình độ đại học là giá trị
chuyển đổi. Quan niệm này dựa trên hiện tượng thực tế: Băng tan ra thành nước và
cuối cùng bốc hơi nếu trài qua một sự tăng nhiệt độ. Trong khi sự tăng nhiệt độ có
thể đo đếm được, sự chuyển đổi đòi hỏi một thay đổi về chất. Đào tạo có chất lượng
nghĩa là đào tạo gây ảnh hưởng tới thay đổi ở những người tham gia (Astin, 1985,
1991; Kwek, Lau, Tan, 2010).
- Tiếp cận chất lượng đào tạo trình độ đại học thông qua khách hàng
Cách tiếp cận khái niệm chất lượng thông qua khách hàng làm thay đổi quan
điểm về chất lượng đào tạo trình độ đại học (Ellis, 1993). Trước đây, theo cách tiếp
cận truyền thống, khái niệm chất lượng đào tạo trình độ đại học được thiết lập bởi
các trường ĐH hay bởi các chuyên gia, các nhà nghiên cứu giáo dục. Nhiệm vụ các
trường ĐH là quản lý theo kế hoạch nhằm đảm bảo sản phẩm đào tạo đáp ứng được
chuẩn chất lượng đã thiết kế mà không lưu tâm đến nhu cầu của khách hàng, không
tiến hành đánh giá, lấy ý kiến phản hồi của khách hàng về chất lượng sản phẩm đào

tạo [40]. Đây là cách tiếp cận chưa toàn diện bởi lẽ khách hàng hiện nay không chỉ
đơn thuần mong chờ họ được cung ứng cái gì, mà được cung ứng như thế nào, bao
giờ và ở đâu với những kỹ năng và con người cung ứng như thế nào. Vì vậy, khái
niệm chất lượng đào tạo trình độ đại học cần được đề cập với cách tiếp cận mới toàn
diện và phù hợp với bối cảnh, xu thế phát triển đào tạo trình độ đại học hiện nay đó
là tiếp cận thông qua khách hàng (Olsen, 2004).
Cách tiếp cận chất lượng đào tạo trình độ đại học thông qua khách hàng thể
hiện khái niệm chất lượng đào tạo trong đó vấn đề đáp ứng nhu cầu, kì vọng của
khách hàng được ưu tiên hàng đầu. Chất lượng sản phẩm được thể hiện qua các tính
năng của sản phẩm và phải thỏa mãn nhu cầu sử dụng của khách hàng. Trong sản
xuất, nếu thiết kế không đúng ngay từ đầu, không xuất phát từ yêu cầu của khách
hàng và người tiêu dùng để thiết kế sản phẩm thì sẽ dẫn đến việc sản xuất ra những
sản phẩm không phù hợp, những sản phẩm sẽ tồn đọng hoặc phải bỏ đi. Trong giáo


18
dục, với tính chất sản phẩm giáo dục là sản phẩm “không mắc lỗi” điều này càng có
ý nghĩa quan trọng [49, trang 78].
Khách hàng là quan tòa của chất lượng. Vì vậy, các trường ĐH bên cạnh
đảm bảo chất lượng sản phẩm đào tạo, quan tâm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng
sẽ là yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đầu vào cũng như uy tín, thương hiệu của
một trường ĐH. Chất lượng sản phẩm đào tạo của các trường ĐH phải được đánh
giá bởi khách hàng và kết quả đánh giá là cơ sở để các trường ĐH xây dựng kế
hoạch và tiến hành cải tiến nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo của nhà
trường [42, trang 33]. Quan điểm tiếp cận chất lượng đào tạo trình độ đại học thông
qua khách hàng được tác giả sử dụng xuyên suốt luận án như là một lý thuyết nền.

1.2. Một số vấn đề lý luận về hợp tác nhà trường và doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm về hợp tác
Trong Pricipal Regional Omce for Asie and the Pacific 2001; Khi bàn đến sự

khác nhau về "Hợp tác" và "Mạng lưới" ở mức độ cam kết của các bên đối tác,
UNESCO giải thích khái niệm hợp tác như sau: Hợp tác (co-operation) là sự liên
kết giữa các tổ chức A, B, C. Mỗi tổ chức có những mục đích, mục tiêu khác nhau.
Loại hợp tác này có thể là tạm thời hay lâu dài. Hợp tác là sự liên kết với nhau từ
nhiều thành phần hoặc tổ chức riêng rẽ nhằm một mục đích nào đó [12, trang 13].
Tham khảo một số nguồn khác: hợp tác được hiểu là hợp lại với nhau hay là
mối quan hệ bền chắc, hợp lý và có trật tự của các thành phần. Hợp tác giữa nhà
trường và doanh nghiệp trong đào tạo trình độ đại học đang được hiểu với nhiều ý
nghĩa, khía cạnh khác nhau ở những mức độ khác nhau. Trong phạm vi luận án này,
khái niệm hợp tác được hiểu là mọi quan hệ tương tác giữa nhà trường và doanh
nghiệp, hợp thành một hệ thống đào tạo trình độ đại học thống nhất và phù hợp,
trong đó chức năng của hệ thống được tích hợp từ hai bộ phận tạo thành là nhà
trường và doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học.
Do đó, hợp tác đào tạo trình độ đại học với doanh nghiệp có thể được hiểu là
gắn bó, tạo được mối quan hệ chặt chẽ, hài hòa giữa đào tạo trình độ đại học và nhu
cầu sử dụng nhân lực của thị trường lao động.


19
Mối quan hệ hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp được hiểu như là
những giao dịch giữa các trường đại học và các tổ chức sản xuất kinh doanh vì lợi
ích của cả hai bên. Đẩy mạnh việc hợp tác này và khai thác giá trị của nó có thể
giúp nhà trường tháo gỡ những khó khăn về tài chính, và giúp các doanh nghiệp đạt
được hoặc duy trì ưu thế cạnh tranh trong thị trường năng động ngày nay, đồng thời
đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia và đáp ứng đòi hỏi của thị trường
lao động (Carayon, 2003; Gibb & Hannon, 2006; Suttisprasit, 2003; Meister, 2004;
Scott, 2001; Sander, Stevenson, King and Coates, 2000).
Như vậy, có thể định nghĩa hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp là tất cả
mọi hình thức tương tác trực tiếp hay gián tiếp, có tính chất cá nhân hay tổ chức
giữa trường đại học và các doanh nghiệp nhằm hỗ trợ lẫn nhau vì lợi ích của cả hai:

hợp tác trong nghiên cứu và phát triển, kích thích sự vận động năng động qua lại
của giảng viên, sinh viên và các nhà chuyên môn đang làm việc tại các doanh
nghiệp; thương mại hóa các kết quả nghiên cứu; xây dựng chương trình đào tạo;
trao đổi thông tin; hỗ trợ tài chính và quản trị tổ chức.
Để có thể nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực trình độ đại học cho phát
triển kinh tế thì vai trò của cơ sở đào tạo đại học có ý nghĩa quyết định. Có rất nhiều
các nội dung, yếu tố trong quá trình đào tạo ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm
như đội ngũ, cơ sở vật chất, tuyển sinh, nội dung, phương pháp giảng dạy, công tác
quản lý vv.. Tuy nhiên đề tài này chỉ tập trung đến các khái niệm liên quan đến chất
lượng đào tạo trình độ đại học và các nhân tố ảnh hưởng, từ đó đề tài nêu ra mối
quan hệ hợp tác giữa cơ sở đào tạo với sử dụng nhân lực, bởi đây được xem như
mắt xích thể hiện sự gắn kết giữa sản phẩm đầu ra với thực tiễn xã hội đòi hỏi đối
với đào tạo trình độ đại học trong bối cảnh hiện nay.

1.2.2. Các hình thức hợp tác
- Hợp tác tham gia quá trình đào tạo: tổ chức, thiết kế và xây dựng mục tiêu,
chương trình đào tạo [14].
Tổ chức đào tạo cho sinh viên sẽ được thực hiện bởi cả hai chủ thể là nhà
trường và doanh nghiệp. Nội dung, thời gian đào tạo mà mỗi chủ thể phải thực hiện


20
tuỳ thuộc vào sự thoả thuận, phân công ban đầu. Chương trình đào tạo của từng
môn học, nguồn lực về tài chính, nhân sự, cơ sở vật chất của từng chủ thể là căn cứ
để phân chia công việc mà nhà trường hay doanh nghiệp phải thực hiện trong toàn
khoá đào tạo.
Thiết kế, xây dựng mục tiêu, chương trình đào tạo phải đảm bảo sự quản lý,
điều phối và sử dụng của Nhà nước, đảm bảo yêu cầu thực tiễn của sản xuất, kinh
doanh và thị trường lao động. Việc xây dựng chương trình đào tạo sát hơn với yêu
cầu thực tiễn của nền sản xuất hiện đại làm cho chất lượng đào tạo trình độ đại học

được đánh giá là cao hơn. Nhà trường cần phối hợp chặt chẽ với doanh nghiệp trong
việc xây dựng chương trình đào tạo. Mỗi chương trình đào tạo phải được xây dựng
với sự tham gia của các chuyên gia về phát triển tài liệu, cán bộ có nghiệp vụ
chuyên môn, giáo viên có trình độ - kinh nghiệm giảng dạy và các chuyên gia thực
tiễn của các doanh nghiệp.
- Hợp tác về tài chính
Hợp tác về tài chính là phía doanh nghiệp sẽ hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp
cho nhà trường một phần hoặc toàn bộ kinh phí đào tạo cho sinh viên, nâng cấp cơ
sở vật chất [28].
Trên thế giới hiện nay, việc doanh nghiệp đóng góp kinh phí cho đào tạo rất
phổ biến, thậm chí là bắt buộc ở một số nước nếu doanh nghiệp muốn sử dụng lao
động đã qua đào tạo. Mức độ hợp tác hỗ trợ về tài chính giữa nhà trường và doanh
nghiệp trong đào tạo nhân lực trình độ đại học tuỳ thuộc quy định của từng quốc gia
và khả năng tài chính cũng như nhu cầu về nhân lực của doanh nghiệp. Căn cứ nhu
cầu sử dụng lao động của mình, doanh nghiệp đặt hàng với nhà trường và chi trả
toàn bộ kinh phí đào tạo cho nhà trường. Sinh viên tốt nghiệp sẽ làm việc cho doanh
nghiệp, việc tuyển sinh có thể do nhà trường thực hiện hoặc do doanh nghiệp tuyển
người và gửi đến trường để học tập.
- Hợp tác về trao đổi thông tin
Hợp tác về trao đổi thông tin tức là phải thiết lập các kênh thông tin giữa nhà
trường và doanh nghiệp. Các thông tin về nhu cầu thực tế của các doanh nghiệp về


21
số lượng, chất lượng lao động cũng như ngành nghề đào tạo là một trong những căn
cứ để các trường xác định qui mô, cơ cấu đào tạo, nội dung đào tạo. Đồng thời, các
trường cũng dựa vào các thông tin phản hồi của doanh nghiệp khi sử dụng lao động
được đào tạo bởi nhà trường để có những điều chỉnh phù hợp chương trình đào tạo
cũng như kịp thời cải tạo nâng cấp trang thiết bị phục vụ công tác đào tạo của nhà
trường với mục tiêu đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo [25].


1.2.3. Mối liên hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp
Chúng ta có thể thấy, giáo dục đại học nước ta trong giai đoạn vừa qua đã có
những bước phát triển tích cực cả về quy mô, số lượng và chất lượng góp phần vào
những thành tựu chung về phát triển kinh tế - xã hội [10]. Tuy nhiên, trong quá trình
phát triển của mình trước những đòi hỏi ngày một khắt khe hơn từ thực tiễn, giáo
dục đại học đã và đang bộc lộ những mặt hạn chế nhất định ảnh hưởng đến chất
lượng đào tạo nhân lực có trình độ đại học cho nền kinh tế. Một trong những biểu
hiện đó chính là sự thiếu gắn kết giữa cơ sở đào tạo và sử dụng nhân lực dẫn đến
hiệu quả đào tạo không như mong muốn, sản phẩm đào tạo chưa đáp ứng được thị
trường lao động [16].
Có thể nêu ra một số vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa hai bên liên
quan nhà trường và doanh nghiệp:
Thứ nhất, các cơ sở đào tạo trình độ đại học mang nặng tư tưởng đào tạo theo
năng lực được thiết kế và trên cơ sở những gì là thế mạnh hoặc sẵn có: cơ sở vật chất,
con người, uy tín, tài chính.v.v. mà chưa chuyển sang đào tạo theo những gì xã hội cần.
Thứ hai, các cơ sở sử dụng nhân lực chưa chủ động trong việc đề xuất
nhu cầu về nhân lực (số lượng, kỹ năng, trình độ, chuyên môn) với các cơ sở
đào tạo; việc tuyển dụng nhân lực hoàn toàn phụ thuộc vào số sinh viên đã tốt
nghiệp ra trường.
Thứ ba, chưa có sự phối kết hợp giữa cơ sở đào tạo và sử dụng nhân lực
trong thiết kế chương trình, nội dung giảng dạy, kiểm tra đánh giá, thực tập và đào
tạo các học phần thực tiễn.


22
Thứ tư, vai trò hợp tác, cơ chế hợp tác giữa đào tạo và sử dụng nhân lực từ
phía cơ quan quản lý nhà nước còn hạn chế. Việc quản lý nhà nước còn nặng về thủ
tục hành chính chẳng hạn như phân bổ chỉ tiêu tuyển sinh, chưa trao quyền tự chủ
cho các cơ sở đào tạo trình độ đại học.

Như vậy, chúng ta không thể quy trách nhiệm duy nhất cho bất cứ bên nào:
nhà trường, doanh nghiệp hay cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo. Do
đó, cả ba chủ thể này phải nhìn nhận và đánh giá đúng mức về vai trò và trách
nhiệm của mình, cần có nghiên cứu làm thế nào tăng cường hợp tác giữa nhà trường
và doanh nghiệp để nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo nhân lực trình độ đại học
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế đất nước.

1.3. Kinh nghiệm nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại học thông qua
hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp ở một số quốc gia
Để củng cố thêm cơ sở lý luận cho nghiên cứu của mình, tác giả đã chọn lựa
Mỹ và Singapore là hai quốc gia điển hình để nghiên cứu kinh nghiệm nâng cao
chất lượng đào tạo trình độ đại học thông qua hợp tác giữa nhà trường và doanh
nghiệp bởi vì: Mỹ cũng là từng một đất nước khó khăn, đã từng bước củng cố vị thế
của mình và vươn lên vị trí siêu cường với một nền giáo dục, đặc biệt là GDĐH
được cả thế giới đánh giá cao. Cũng như Mỹ, Singapore có được chất lượng đào tạo
trình độ đại học được đánh giá cao trong khu vực và trên thế giới bởi đã thực hiện
được sự gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và người sử dụng lao động.

1.3.1. Kinh nghiệm của Singapore
- Đối với cấp quản lý Nhà nước
Giáo dục Singapore đề cao sự can thiệp của Nhà nước. Nhà nước Singapore
không chỉ đóng vai trò hoạch định chính sách phát triển giáo dục, hỗ trợ tài chính
mà còn kiềm soát chặt chẽ sự phát triển của GDĐH. Thông qua các vai trò chủ yếu
này, Nhà nước Singapore đã đưa giáo dục nói chung và GDĐH của Singapore phát
triển mạnh mẽ, gắn chặt với nhu cầu nhân lực phát triển đất nước [6], [52].
+ Định hướng và có chiến lược cụ thế phát triển GDĐH đáp ứng nhu cầu xã
hội phát triển kinh tế


23

Chính phủ luôn xác định rằng các sinh viên tốt nghiệp đại học phải đáp ứng
được các yêu cầu nghề nghiệp. Vì vậy, từ những năm 80, Chính phủ tạo ra sự thay
đổi quan trọng nhất là việc thành lập Hội đồng Giáo dục kỹ thuật và đào tạo nghề
nghiệp (Council for Professional and Technical Education) bao gồm các cơ quan
của chính phủ về giáo dục và đào tạo với mục đích chính là đảm bảo sao cho nguồn
nhân lực bao gồm các chuyên gia, kỹ thuật viên và công nhân lành nghề luôn đáp
ứng yêu cầu phát triển của nền công nghiệp về mọi mặt: số lượng, chất lượng cũng
như trình độ [52].
Bên cạnh đó, Chính phủ định hướng phát triển chương trình đào tạo trình độ
đại học và sau đại học trong các trường đại học bách khoa mở rộng đột phá nhằm
đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về nhân lực có trình độ kỹ thuật và cán bộ quản lý
cấp trung. Sự mở rộng theo hai hướng: (i) số lượng sinh viên tuyển mới vào các
ngành khác nhau như kỹ sư, máy tính, kinh doanh và quản lý trong các trường đại
học Bách khoa hiện có như Đại học Bách khoa Singapore (ii) Thành lập mới một số
trường Đại học Bách khoa nhằm hoàn thiện hơn các chương trình hiện có và mở
rộng phạm vi đào tạo trong các lĩnh vực cụ thể. Chẳng hạn trường Đại học Bách
khoa Nanyang mở các khóa học cụ thể về khoa học sức khỏe như y tế, điều trị bệnh
nghề nghiệp, điều trị tâm lý.
Với việc xác đinh rõ chiến lược phát triển GDĐH cả ở tầm vĩ mô và vi mô
của chính phủ, GDĐH Singapore đã phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng đáp ứng nhu
cầu về nguồn nhân lực cho một nền kinh tế năng động trong giai đoạn toàn cầu hóa.
+ Đầu tư dựa trên chất lượng và hiệu quả đào tạo
Chính phủ Singapore đã xác định rằng với ngân sách hạn hẹp nếu chia đều
cho nhiều trường thì mỗi trường nhận được quá ít ngân sách sẽ không làm nên sự
thay đổi. Trên thực tế, khi sử dụng nguồn lực trong đổi mới GDĐH đòi hỏi chống tư
tưởng bình quân. Đổi mới GDĐH của Singapore thành công một phần quan trọng là
do những người chịu trách nhiệm ra quyết định đã nhìn ra được nơi có tiềm năng
xứng đáng để lựa chọn đầu tư trọng điểm, để đạt chuẩn quốc tế sớm hơn. Sau đó
mới tiếp tục đầu tư cho các trường tiếp theo vươn tới chuẩn quốc tế. Chính phủ



24
Singapore đã tập trung đầu tư nâng từng trường ĐH lên đạt chuẩn quốc tế với
mục tiêu đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển từng giai đoạn của đất nước:
năm 1965 tập trung cao độ cho Trường ĐH Quốc gia Singapore để đào tạo
nguồn nhân lực đa ngành có chất lượng phục vụ phát triển kinh tế xã hội, năm
1985 tập trung xây dựng ĐH Công nghệ Nanyang để đào tạo nhân lực khoa học
kỹ thuật, giúp chiếm ưu thế trong các lĩnh vực công nghệ mới, công nghệ mũi
nhọn. Từ năm 2000 đến nay đầu tư tập trung cho Trường ĐH Quản lý (SMU) để
đào tạo các nhà quản lý [52].
+ Kiểm soát chặt chẽ việc mở trường và xây dựng chương trình đào tạo mới
Trường đại học ở Singapore không tùy tiện khi thay đổi hay điều chỉnh cơ
cấu đào tạo các trường công thuộc sự quản lý của Bộ giáo dục và được hỗ trợ tài
chính bởi Chính phủ nên việc mở ra một ngành học mới hay thành lập một trường
mới luôn phải qua nhiều khâu khác nhau, khó khăn nhất là nguồn tài chính cho hoạt
động của trường hoặc cho ngành học mới. Đầu tiên là xác định nhu cầu ngân sách
và tiến trình ngành học mới được mở ra, dù ở trường công hay trường tư, ngoài việc
đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường, còn phải đáp ứng đầy đủ những yêu cầu về
chất lượng của nền giáo dục Singapore. Chẳng hạn, muốn mở ngành đào tạo bác sĩ,
chắc chắn phải có đủ số lượng giáo sư giảng dạy trong ngành y tế, có đủ cơ sở vật
chất cho sinh viên nghiên cứu.
Các trường tư thì đơn giản hơn về mặt thủ tục vì họ tự túc về mặt tài chính.
Tuy nhiên, để mở ra những ngành học mới, thành lập những trường mới, các tổ
chức giáo dục tư nhân phải nghiên cứu kĩ, thăm dò và dự đoán được những ngành
học có khả năng thu hút sinh viên dựa trên nhu cầu của xã hội, của nền kinh tế và xu
hướng giáo dục trong nước cũng như của thế giới. Quá trình này luôn được tính
toán và cân nhắc rất cẩn thận. Bản thân ngành học của trường khi mở là được xét
trên nhu cầu thực tế của xã hội.
Ngoài ra, số sinh viên tuyển hàng năm vào các trường đại học đều được giám
sát chặt chẽ bởi Hội đồng Giáo dục kỹ thuật và đào tạo nghề nghiệp. Qui định này

nhằm đảm bảo rằng số lượng sinh viên tốt nghiệp các ngành liên quan là phù hợp


25
với sự tái cấu trúc của nền kinh tế và phù hợp với năng lực công nghệ của
Singapore. Không chỉ giám sát về số lượng sinh viên theo ngành học, mục tiêu đào
tạo cho từng ngành, những chuẩn nhất định về kiến thức và kỹ năng đối với sinh
viên tốt nghiệp các trường ĐH theo từng ngành nghề cũng được xác định cụ thể.
Nhìn chung, các tiêu chí để mở ngành hay thành lập trường được quản lý
chặt chẽ đối với cả trường công hay trường tư và đầu ra của GDĐH cũng được kiểm
soát rất nghiêm túc. Kết quả của sự kiểm soát chặt chẽ này là sự phát triển của
GDĐH Singapore với đầu ra bền vững là những sinh viên tốt nghiệp các ngành
nghề đa dạng nhưng đều phù hợp với nhu cầu thực tế.
+ Tạo điền kiện để doanh nghiệp tham gia vào đào tạo
Mặc dù chính phủ kiểm soát giáo dục song luôn thu hút và khuyến khích sự
tham gia của tư nhân và doanh nghiệp vào giáo dục. Điều này được thể hiện ở sự
gia tăng thành lập các trường đại học tư, các viện kỹ thuật nằm trong doanh nghiệp
và các khóa đào tạo do doanh nghiệp liên kết với trường đại học tổ chức.
Chính phủ luôn tìm cách tạo điều kiện cho sinh viên kết hợp học và hành
bằng các buổi ngoại khóa thực tập tại các xí nghiệp, công ty trong nước cũng như
nước ngoài; đồng thời còn kết hợp với các công ty tổ chức các chương trình đào tạo
khác nhau. Hình thức này không chỉ có tác dụng làm giảm bớt gánh nặng đào tạo
của chính phủ mà còn tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên thực hành ngay tại môi
trường làm việc cũng như cập nhật những tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Các học viên
sẽ tham gia thực tập và được trả lương ngay tại công ty trong khi quá trình học lý
thuyết sẽ diễn ra tại các trường đại học. Nội dung học thực hành được mở rộng đến các
lĩnh vực như kỹ năng cụ thể như bán hàng, chăm sóc sức khỏe và du lịch.
Ngoài ra, người sử dụng lao động từ cả hai khu vực công và tư nhân được
thường xuyên tham khảo ý kiến thông qua cơ chế của Ban tư vấn đối với việc xem
xét các chương trình giảng dạy nhằm đáp ứng với thay đổi nhu cầu thực tế của thị

trường lao động. Những điều này giúp cho đào tạo trình độ đại học của Singapore
gắn với thực tiễn hơn và chất lượng đào tạo được nâng cao hơn.


×