Tải bản đầy đủ (.pdf) (168 trang)

Tiểu luận tác động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến ngành công nghiệp chế tác việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 168 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc
gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Từ khi giành được độc lập năm 1975 và đặc
biệt là từ sau năm 1986, khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, Đảng và Nhà
nước ta luôn đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên hàng đầu với định hướng đến năm
2020 Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại .
Để đạt được mục tiêu trên, Việt Nam cần phải tận dụng hiệu quả nhất các
nguồn lực hiện có đồng thời phải tăng cường hội nhập quốc tế để thu hút các nguồn
lực từ bên ngoài. Trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã tiến hành nhiều nỗ lực để
thu hút các nguồn lực từ bên ngoài trong đó có bộ phận chủ yếu là nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài FDI.
Lý luận và thực tiễn cho thấy nguồn vốn FDI là một trong các nhân tố và
nguồn lực rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Trước hết,
nguồn vốn FDI góp phần phát triển các ngành kinh tế thông qua bổ sung nguồn vốn,
chuyển giao công nghệ và chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế theo hướng hiện
đại hóa, công nghiệp hóa. Từ việc phát triển các ngành trong nền kinh tế sẽ tạo điều
kiện phát triển và tăng trưởng toàn bộ nền kinh tế như tốc độ tăng trưởng cao, tạo
nhiều công ăn việc làm, cải thiện chất lượng nguồn lao động, cơ sở hạ tầng, nâng
cao trình độ công nghệ....giúp cho vị thế của Việt Nam ngày càng được củng cố trên
thế giới.
Xét ở cấp độ quốc gia, đã có nhiều nghiên cứu về tác động của vốn FDI tới
tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu, cải thiện cơ sở
hạ tầng, chất lượng lao động ...như các nghiên cứu của Nguyễn Thị Tuệ Anh
(2005), Trần Ngọc Thìn (2010), Bùi Thúy Vân (2011) và Nguyễn Tiến Long
(2012). Tuy nhiên, xét ở cấp độ ngành, số lượng các nghiên cứu về tác động của
FDI tới các ngành trong nền kinh tế còn khiêm tốn.



2

Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển kinh tế chúng ta nhận thấy rằng việc phát
triển các ngành công nghiệp chế biến và chế tạo mà sau đây ta gọi là ngành công nghiệp
chế tác là một nhân tố chủ yếu nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bởi vì sự đóng góp
của ngành công nghiệp chế tác vào GDP là lớn nhất nên mức độ tăng trưởng của ngành
công nghiệp chế tác quyết định đến mức độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Như vậy có thể khẳng định cả FDI và sự tăng trưởng của ngành công nghiệp
chế tác là các nhân tố chủ yếu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Điều này đưa đến
cho chúng ta một câu hỏi: Có mối quan hệ nào giữa FDI và sự tăng trưởng của các
ngành công nghiệp chế tác hay không, mức độ ra sao và FDI có vai trò gì đối với sự
phát triển các ngành công nghiệp chế tác? Trả lời được những câu hỏi này giúp
chúng ta phân bổ và sử dụng FDI một cách hợp lý cũng như phát triển các ngành
công nghiệp chế tác, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu về tác động của vốn FDI tới các ngành
công nghiệp chế tác. Ở Việt Nam, có một số nghiên cứu định lượng về tác động của
vốn FDI tới ngành công nghiệp chế biến như các nghiên cứu của Lê Quốc Hội
(2008), Nguyễn Phi Lân (2008), Nguyễn Ngọc Anh (2008). Tuy nhiên, số lượng các
nghiên cứu ở Việt Nam về tác động của vốn FDI tới ngành công nghiệp chế tác
thường có xu hướng nghiêng hẳn về phân tích định lượng hoặc phân tích định tính.
Nói tóm lại, ở Việt Nam chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ
thống, kết hợp cả phương pháp định tính và định lượng về mối liên hệ, tác động
của FDI tới các ngành công nghiệp chế tác. Đó chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài
nghiên cứu “Tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tới các ngành công
nghiệp chế tác ở Việt Nam” cho luận án của mình.

2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án phân tích và đánh giá thực trạng tác
động của vốn FDI tới các ngành công nghiệp chế tác ở Việt Nam. Trên cơ sở
đó, đề xuất các giải pháp tận dụng tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu

cực của vốn FDI tới các ngành công nghiệp chế tác ở Việt Nam.


3

Cụ thể, việc nghiên cứu Luận án tập trung vào các mục đích chính sau dây:
- Hệ thống hóa lý luận về FDI, vốn FDI và tác động của vốn FDI tới các
ngành công nghiệp chế tác.
- Phân tích và đánh giá thực trạng tác động của vốn FDI tới các ngành công
nghiệp chế tác ở Việt Nam bằng việc sử dụng phân tích định tính và các mô hình
kinh tế lượng.
- Phân tích các nguyên nhân ảnh hưởng tới tác động của vốn FDI tới các
ngành công nghiệp chế tác ở Việt Nam.
- Dựa trên các kết quả nghiên cứu và phân tích để đề xuất các giải pháp nhằm
tận dụng các tác động tích cực và hạn chế các tác động tiêu cực của vốn FDI tới các
ngành công nghiệp chế tác ở Việt Nam.

3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là tác động của vốn FDI tới các ngành
công nghiệp chế tác ở Việt Nam.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Luận án nghiên cứu tác động của vốn FDI tới các ngành
công nghiệp chế tác ở Việt Nam.
- Phạm vi thời gian: Luận án nghiên cứu các ngành công nghiệp chế tác ở Việt
Nam: giai đoạn 1988 – 2013.

4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu

Để phù hợp với nội dung, yêu cầu và mục đích nghiên cứu mà luận án đã đề
ra, luận án sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học, bao gồm:
- Phương pháp thống kê: được sử dụng để thu thập dữ liệu thứ cấp, từ các
nguồn sách như sách, niên giám thống kê, tạp chí, kỷ yếu hội thảo khoa học, các báo
cáo của các ngành công nghiệp chế tác, các số liệu trên các trang web của các doanh
nghiệp, các bộ, ban, ngành, các cơ quan báo chí trong và ngoài nước. Tất cả các dữ
liệu sau khi thu thập đều được sắp xếp, điều chỉnh, phân loại một cách hợp lý.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Từ việc phân tích từng nội dung cụ thể


4

về thu hút vốn FDI và thực trạng tác động của vốn FDI tới các ngành công nghiệp
chế tác ở Việt Nam, Luận án đánh giá khái quát các kết quả đạt được, những mặt
hạn chế của quá trình thu hút FDI cũng như tác động của FDI tới các ngành công
nghiệp chế tác ở Việt Nam. Từ đó luận án đưa ra các giải pháp tận dụng tác động
tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của vốn FDI tới các ngành công nghiệp chế
tác ở Việt Nam
- Phương pháp mô hình hoá: Phương pháp này được sử dụng nhằm làm rõ
hơn những phân tích định tính bằng các hình vẽ cụ thể và làm cho các vấn đề trở
nên dễ hiểu hơn.
- Phương pháp phân tích kinh tế lượng: Luận án xây dựng mô hình kinh tế
lượng để ước lượng và kiểm định tác động của vốn FDI tới các ngành công nghiệp
chế tác ở Việt Nam. Để có thể sử dụng mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên (REM) và
mô hình ảnh hưởng cố định (FEM) đánh giá tác động FDI tới các ngành công
nghiệp chế tác ở Việt Nam, luận án đã sắp xếp các dữ liệu theo dạnh Panel Data để
phù hợp với cấu trúc dữ liệu đánh giá của hai mô hình trên, sau đó luận án có sử
dụng các phần mềm kinh tế lượng Eviews và Stata phân tích các dữ liệu trên. Luận
án còn đưa các biến số thể hiện mối liên kết ngang và mối liên kết dọc trong mô
hình kinh tế lượng, các biến số này được tính dựa trên bảng cân đối liên ngành I-O.

- Phương pháp tham khảo: Tham vấn ý kiến của các chuyên gia, các nhà quản
lý trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài thuộc Cục đầu tư nước ngoài, Bộ kế hoạch và
Đầu tư.
- Phương pháp thu thập số liệu: Các dữ liệu thứ cấp về các doanh nghiệp
trong ngành công nghiệp chế tác được thu thập dựa trên dữ liệu điều tra doanh
nghiệp của Tổng cục Thống kê từ năm 2003-2009.

5. Những điểm mới của Luận án
5.1. Những điểm mới về mặt học thuật và lý luận
Luận án chứng minh rằng vốn FDI tác động tới các ngành công nghiệp
chế tác ở cả hai khía cạnh trực tiếp và gián tiếp. Tác động trực tiếp gồm các
khía cạnh: (1) Tác động tới tổng vốn; (2) Tác động tới tăng trưởng trong


5

ngành công nghiệp chế tác; (3) Tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
ngành công nghiệp chế tác; (4) Tác động tới thúc đẩy xuất khẩu trong ngành
công nghiệp chế tác; (5) Tác động tới việc đóng góp vào nộp ngân sách nhà
nước và tạo việc làm cho nền kinh tế của ngành công nghiệp chế tác; (6) Tác
động tới việc hình thành những ngành công nghiệp mới trong ngành công
nghiệp chế tác; (7) Tác động tới hình thành và phát triển các ngành công
nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp chế tác. Tác động gián tiếp gồm 4 kênh
truyền dẫn(1) Kênh cạnh tranh bằng việc tạo áp lực cạnh tranh cho các doanh
nghiệp trong ngành công nghiệp chế tác; (2) Chuyển giao công nghệ và
nghiên cứu triển khai; (3) Đào tạo và di chuyển nguồn nhân lực; (4) Liên kết
của các doanh nghiệp theo chiều ngang và chiều dọc.
5.2. Những phát hiện, đề xuất mới rút ra từ kết quả nghiên cứu và khảo sát
của Luận án
Nguồn vốn FDI góp phần tăng trưởng sản lượng, thúc đẩy xuất khẩu và

chuyển dịch cơ cấu kinh tế của ngành công nghiệp chế tác theo hướng hợp lý.
Xét trên cấp ngành: ngành công nghiệp chế tác cấp 2, cấp 3, ngành công
nghiệp chế tác cấp 3 trình độ thấp và trung bình, liên kết xuôi và liên kết ngược giữa
các DN FDI và DN trong nước có tác động tiêu cực là làm giảm sản lượng của các
ngành này. Chỉ có ngành công nghiệp chế tác cấp 3 trình độ cao là không chịu tác
động tiêu cực, là do các DN trong nước thuộc các ngành này hợp tác với các DN
FDI hiệu quả hơn do có nội lực và khả năng tốt hơn các DN trong các ngành cấp 3
trình độ trung bình và thấp.
Luận án đã đề xuất các quan điểm về tận dụng tác động tích cực và hạn chế tác
động tiêu cực của vốn FDI đối với ngành công nghiệp chế tác, trong đó có các quan
điểm mang tính đột phá là: (1) nguồn vốn FDI là nguồn vốn chiến lược và quan
trọng của ngành công nghiệp chế tác; (2) ngành công nghiệp chế tác cần coi việc
được chuyển giao công nghệ hiện đại là một trong các lợi ích căn bản; (3) nguồn
vốn FDI trong ngành công nghiệp chế tác phải đóng vai trò quan trọng vào việc đào


6

tạo đội ngũ nhân lực; (4)không phân biệt DN FDI và doanh nghiệp trong nước; (5)
coi trọng mối liên kết giữa DN FDI và DN trong nước; (6)cụm công nghiệp hỗ trỡ
ngành công nghiệp chế tác có vai trò quan trọng tận dụng tác động tích cực của vốn
FDI;(7) cần coi trọng cả việc thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI trong ngành công
nghiệp chế tác; (8)chiến lược về FDI của ngành công nghiệp chế tác phải đặt trong
mối quan hệ với các chính sách kinh tế - xã hội khác.
Trên cở sở đó Luận án đề xuất hai nhóm giải pháp:
(i) Đề xuất các giải pháp tận dụng tác động tích cực tác động của vốn FDI tới các
ngành công nghiệp chế tác ở Việt Nam. Trong đó các giải pháp mang tính đột phá là:
(1) tăng cường sự hiệu quả của các mối liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp
trong các ngành công nghiệp chế tác; (2) phát triển các cụm công nghiệp hỗ trợ ngành
công nghiệp chế tác; (3) tăng cường công tác nghiên cứu và triển khai (R&D)

(ii) Đề xuất các giải pháp hạn chế tác động tiêu cực của FDI tới ngành công
nghiệp chế tác ở Việt Nam. Trong đó các giải pháp mang tính đột phá là: (1) chính
sách về FDI cần hạn chế tối đa thu hút FDI các ngành công nghệ thấp, giá trị gia
tăng ít ; (2) nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển giao công nghệ; (3) sự hỗ trợ của
nhà nước đối với các ngành công nghiệp non trẻ.

6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận án được chia làm 4 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan các công trình khoa học liên quan đến đề tài
Chương 2: Cơ sở lý luận về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và mô hình đánh
giá tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tới ngành công nghiệp chế tác
Chương 3: Thực trạng tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tới các
ngành công nghiệp chế tác ở Việt Nam
Chương 4: Quan điểm, giải pháp tận dụng các tác động tích cực và hạn chế tác
động tiêu cực của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tới các ngành công nghiệp chế tác
ở Việt Nam


7

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình trên thế giới
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và phát triển kinh tế trong các quốc gia
đang phát triển là một chủ đề đã và đang thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà
kinh tế trong suốt các nhiều thập kỷ qua. Ngành công nghiệp chế tác là ngành chủ
chốt của nền kinh tế và công nghiệp của các quốc gia trên thế giới. Do đó, các vấn
đề nghiên cứu về FDI trong ngành công nghiệp chế tác sẽ tiếp tục được nghiên cứu

và nhận được nhiều sự quan tâm, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển. Các
nghiên cứu về FDI trong ngành công nghiệp chế tác rất đa dạng, phong phú và ở
nhiều phương diện khác nhau.
Để tạo tiền đề cho các nghiên cứu, Luận án sẽ trình bày tổng quan các vấn đề
nghiên cứu chính về mối quan hệ, sự tác động của FDI tới các ngành công nghiệp chế
tác trên các khía cạnh chủ yếu như: công nghệ nhập khẩu, nghiên cứu và triển khai,
hiệu ứng tràn, liên kết tích hợp theo chiều dọc, sự lựa chọn công nghệ, đào tạo lao động
và tiền lương trong ngành công nghiệp chế tác trong các nước đang phát triển.
- FDI với công nghệ nhập khẩu và nghiên cứu triển khai ở địa phương
Nguồn vốn FDI là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho các doanh nghiệp
địa phương. Để tận dụng nguồn vốn này một cách hiệu quả, nguồn vốn FDI này
thường được kết hợp với công nghệ nhập khẩu và nghiên cứu triển khai ở địa
phương. Trong các nước đang phát triển, các nhà khoa học có nhiều nghiên cứu và
quan tâm tới sự kết hợp này. Tuy nhiên các nghiên cứu này có các quan điểm đối
lập nhau. Có quan điểm cho rằng, sự kết hợp giữa FDI và công nghệ nhập khẩu là
sự thay thế cho nghiên cứu và triển khai ở các doanh nghiệp địa phương. Quan điểm
khác lại cho rằng đây là sự kết hợp bổ sung, nghiên cứu và triển khai ở các doanh
nghiệp địa phương sẽ biến đổi công nghệ nhập khẩu trở nên phù hợp và thích ứng
hơn với điều kiện ở địa phương.


8

Ấn Độ là một quốc gia rất nhiều các nghiên cứu về mối quan hệ giữa nhập
khẩu công nghệ và R&D địa phương. Desai (1980) khi bàn về “nguồn gốc và các
phương diện của hoạt động nghiên cứu triển khai trong ngành công nghiệp” cho
thấy nhập khẩu công nghệ trong ngành công nghiệp chế tác sẽ khuyến khích các
doanh nghiệp địa phương tăng cường nghiên cứu triển khai và đồng thời các doanh
nghiệp địa phương sẽ trích một phần vốn bổ sung riêng cho hoạt động này [60].
Cùng với quan điểm trên, Lall (1983) khi nghiên cứu về “các nhân tố quyết định

đến R&D” cho rằng: mục đích của việc nghiên cứu triển khai trong các doanh
nghiệp địa phương là làm cho công nghệ nhập khẩu trở nên thích ứng hơn [78].
Trong một cuộc điều tra về nhập khẩu công nghệ đã tiến hành ở Ấn Độ, Alam
(1985) đã chỉ ra rằng khoảng 3/4 các doanh nghiệp địa phương liên quan tới
nhập khẩu công nghệ có các hoạt động R&D bổ sung [47]. Trong khi các nghiên
cứu khác như Katrak (1985, 1989) nghiên cứu về “nhập khẩu công nghệ ở các
nước đang trong quá trình công nghiệp hóa”, Siddhathan (1988) trong nghiên
cứu “công nghệ nhập khẩu và quy mô doanh nghiệp”, Siddhathan (1992) nghiên
cứu “khu vực tư nhân Ấn Độ về các vấn đề R&D và chuyển giao công nghệ” đã
quan sát và khẳng định bản chất bổ sung của mối quan hệ này [68], [69], [100],
[101]. Desai (1985) trong khi nghiên cứu về các nhân tố nước ngoài và bản địa
của sự thay đổi kỹ thuật trong ngành công nghiệp Ấn Độ đã chú ý tới bản chất
pha trộn của cả hai mối quan hệ là bổ sung và thay thế bởi vì các doanh nghiệp
địa phương chỉ tiến hành khi hợp đồng công nghệ hết hạn để đạt được sự đồng
thuận của chính phủ trong việc gia hạn thêm hợp đồng [61].
Trong một nghiên cứu khác ở Ấn Độ, Kumar (1987) trong nghiên cứu:“ Các
công nghệ nhập khẩu và nghiên cứu triển khai ở địa phương trong ngành công
nghiệp chế tác ở Ấn Độ” cho rằng, cách thức nhập khẩu công nghệ sẽ ảnh hưởng tới
mối quan hệ giữa công nghệ và nghiên cứu triển khai ở địa phương. Nếu các công
ty nhập khẩu là công ty con của các công ty đa quốc gia, các công ty mẹ sẽ không
khuyến khích việc nghiên cứu triển khai ở các công ty con vì hoạt động nghiên cứu
triển khai ở này đã được thực hiện một cách đầy đủ ở công ty mẹ và các công ty mẹ


9

muốn kiểm soát hoạt động này thông qua hình thức FDI kèm chuyển giao công
nghệ. Ngược lại các công ty nhập khẩu không phải là các chi nhánh của các công ty
đa quốc gia, các công ty này sẽ lo lắng về khả năng hấp thụ công nghệ, thời gian
của hợp đồng công nghệ do sự am hiểu kém hơn về công nghệ nên họ nhanh chóng

và gấp rút tiến hành các hoạt động nghiên cứu và triển khai ở địa phương để tận
dụng được công nghệ trong thời gian cho phép. Dựa trên quan điểm này, Kumar đã
sử dụng một bộ số liệu của ngành công nghiệp Ấn Độ cho giai đoạn 1978 – 1981,
đã chỉ ra rằng các giấy phép về tiền bản quyền và phí kỹ thuật miễn phí có tác động
tăng cường khả năng hấp thụ công nghệ và nghiên cứu triển khai ở địa phương,
trong khi đó FDI thì lại có tác động ngược lại khi mà FDI gây ra sự trì trệ hoạt động
nghiên cứu triển khai ở địa phương [74].
Dựa trên quan điểm trên của Kumar (1987) về mối quan hệ giữa hoạt động
nghiên cứu triển khai ở địa phương và vấn đề bảo hộ, Subrahmanian (1990) trong
nghiên cứu: “ Khả năng công nghệ dưới chế độ bảo hộ mậu dịch tự do: nghiên cứu
thực nghiệm trong ngành công nghiệp Ấn Độ ở thập niên 80” đã chỉ ra rằng, chế độ
bảo hộ hay tự do hóa sẽ tác động đến hoạt động nghiên cứu triển khai ở địa phương.
Dưới chế độ bảo hộ, việc nhập khẩu công nghệ trở nên khó khăn hơn, không thể
nhập khẩu công nghệ bất cứ lúc nào nên các doanh nghiệp địa phương dành nhiều
thời gian nghiên cứu, đổi mới, cải tiến công nghệ nhập khẩu [102].
Trong một nghiên cứu ở Ấn Độ, Deolalikar và Evenson (1989) trong một
nghiên cứu định lượng về : “ Sản xuất và mua sắm công nghệ trong ngành công
nghiệp Ấn Độ”, đã sử dụng hàm chi phí bậc hai tổng quát và giả định nghiên cứu
triển khai và mua sắm công nghệ phụ thuộc vào đặc trưng của ngành công nghiệp,
giá cả công nghệ và nguồn cung cấp công nghệ để đánh giá bộ số liệu của 50 ngành
công nghiệp Ấn Độ giai đoạn 1960 – 1970 [59]. Kết quả chỉ ra rằng, có mối liên hệ
bổ sung về các phát minh nội địa với công nghệ mua sắm. Sử dụng mô hình Logit
cho một nghiên cứu ở Bra-xin, Braga và Willmore (1991) trong nghiên cứu: “ Nhập
khẩu và các nỗ lực công nghệ” đã chỉ ra rằng các doanh nghiệp nhập khẩu, đa dạng
hóa và định hướng xuất khẩu có mối liên hệ có ý nghĩa với nghiên cứu và triển khai


10

công nghệ. Ngoài ra, trong nghiên cứu này cho thấy vấn đề sở hữu, bảo hộ không có

tác động nào tới nghiên cứu và triên khai công nghệ địa phương [51].
Các công trình trên đều thể hiện mối quan hệ giữa công nghệ nhập khẩu và
nghiên cứu triển khai ở địa phương vừa mang tính chất bổ sung vừa mang tính chất
thay thế. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu còn nhiều kết luận chồng chéo, chưa
tách bạch rõ ràng về mối quan hệ hai khía cạnh này. Để đưa ra được các chính sách
FDI hiệu quả, việc đánh giá mức độ quan hệ theo khía cạnh thay thế hay bổ sung rất
cần thiết trong các nghiên cứu của Việt Nam. Trong thời gian tới, các nghiên cứu về
FDI ở Việt Nam cũng cần tập trung và phân tích làm rõ hơn về vấn đề này.
- FDI và hiệu ứng tràn về kiến thức và năng suất
Caves là một trong những người đầu tiên nghiên cứu định lượng về hiệu
ứng tràn. Caves (1974) khi nghiên cứu tổng hợp về các vấn đề thương mại quốc
tế, đầu tư quốc tế và thị trường hoàn hảo và nghiên cứu tác động tràn trong các
ngành công nghiệp chế tác ở Ô-xtrây-li-a chỉ ra rằng thị phần nước ngoài có tác
động dương lên năng suất các doanh nghiệp địa phương. Với phương pháp
nghiên cứu mới và độc đáo nên sau này có rất nhiều nghiên cứu đánh giá tác
động tràn theo phương pháp của Caves [53]. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng Ô-xtrâyli-a là nước phát triển chứ không phải là nước đang phát triển. Từ sau nghiên cứu
này của Caves, có rất nhiều các nghiên cứu về tác động tràn của FDI ở các nước
đang phát triển gồm cả châu Á, Mỹ Latinh. Blomstom (1989) và Worff (1989)
trong nghiên cứu: “ Công ty đa quốc gia và hội tụ năng suất ở Mê-xi-cô”, đã sử
dụng phương pháp của Caves và áp dụng cho trường hợp trong ngành chế tác ở Mêxi-cô. Nghiên cứu này đã chỉ ra các tác động tích cực của tỷ trọng số công nhân
nước ngoài lên các doanh nghiệp sở hữu địa phương. Đồng thời trong nghiên cứu
này, hai tác giả đã chỉ ra sự hội tụ năng suất giữa doanh nghiệp địa phương với
doanh nghiệp nước ngoài [49].
Aitken và Harrison (1993), để trả lời câu hỏi: “Liệu các doanh nghiệp nội địa
có thu được lợi ích từ đầu tư trực tiếp nước ngoài? ” đã sử dụng dữ liệu panel của
các doanh nghiệp Venezuelea cho giai đoạn 1975 - 1989, và sử dụng một phương


11


pháp giống nhau để kiểm tra mối quan hệ giữa thị phần nước ngoài và năng suất
trong cả doanh nghiệp địa phương và doanh nghiệp nước ngoài [45]. Kết quả chỉ ra
rằng, các doanh nghiệp nội địa có mức năng suất, xuất khẩu, tiền lương thấp hơn
các doanh nghiệp nước ngoài. FDI có tác động âm lên năng suất các doanh nghiệp
nội địa trong khi đó có tác động tích cực lên các doanh nghiệp có sự tham gia của
phía nước ngoài. Hiệu ứng tác động lên các doanh nghiệp địa phương không đáp
ứng được kỳ vọng của nước chủ nhà.
Haddad và Harrison (1993), trong nghiên cứu để tìm “các bằng chứng về tác
động tràn tích cực về sự tác động của FDI lên năng suất lao động của các doanh
nghiệp địa phương” , đã sử dụng số liệu Panel giai đoạn 1985 – 1989 trong ngành
công nghiệp chế tác ở Marốc [65]. Nghiên cứu đã chỉ ra không có mối liên hệ đáng
kể nào giữa sự hiện diện tăng thêm của phía nước ngoài với tăng trưởng năng suất
các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế tác, đồng thời nghiên cứu cũng chỉ
ra rằng mức năng suất lao động trong các doanh nghiệp nước ngoài không cao hơn
doanh nghiệp sở hữu bởi địa phương, mặc dù các doanh nghiệp nước ngoài trả tiền
lương cao hơn.
Kokko (1994) sử dụng dữ liệu Mê-xi-cô để phân tích “các đặc tính về công
nghệ, thị trường và hiệu ứng tràn” đã phát hiện ra rằng sự hấp thụ công nghệ, tăng
trưởng năng suất trong các doanh nghiệp địa phương phụ thuộc vào đặc tính của
từng ngành công nghiệp. Ngành công nghiệp nào mà thị phần nước ngoài quá lớn,
nơi mà khả năng của doanh nghiệp địa phương yếu thì sẽ không có hoặc rất khó tạo
ra các hiệu ứng tràn về năng suất [72].
Goldar (1994), khi nghiên cứu về “tăng trưởng năng suất ở Ấn Độ”, đã sử
dụng số liệu ở cấp độ doanh nghiệp lớn của Ấn Độ trong sáu ngành công nghiệp
chủ chốt để giải thích sự tăng trưởng năng suất tổng hợp đạt được dưới dạng chi
tiêu cho R&D và công nghệ nhập khẩu. Mặc dù tác giả không tìm thấy sự tăng
trưởng năng suất nhưng tác giả cho rằng công nghệ nhập khẩu thúc đẩy xuất khẩu
và mở rộng sản xuất, và điều này có thể quan trọng hơn là tăng trưởng năng suất.
Để có sự tăng trưởng năng suất phải cần có thời gian và để phân tích được sự biến
đổi năng suất cần phải sử dụng chuỗi số liệu dài hơn [64].



12

Xét chung nhất, hầu hết tất cả các nghiên cứu trên đều thống nhất có sự tác
động tràn của FDI tới các ngành công nghiệp chế tác. Tuy nhiên, các kết luận trong
các nghiên cứu mẫu thuẫn nhau khi mà tác động tràn của FDI là tích cực hay tiêu
cực vẫn chưa được phân định rõ ràng. Tác động tràn phụ thuộc vào rất nhiều các
yếu tố như năng lực của DN địa phương, thị phần vốn đầu tư nước ngoài, các chính
sách của Nhà nước và DN..., và các nghiên cứu vẫn chưa thể đánh giá và so sánh
mức độ tạo ra tác động tràn của các yếu tố này. Khoảng trống nghiên cứu trong thời
gian tới cần tập trung là cần chỉ rõ trong các điều kiện nào thì có tác động tràn tích
cực, mức độ và quy mô của tác động tràn ra sao. Trả lời được các câu hỏi này là cơ
sơ đưa ra các giải pháp tận dụng tác động tràn tích cực của FDI cũng như ngăn chặn
và tránh các tác động tràn tiêu cực.
Tóm lại, các nghiên cứu về tác động của FDI và tác động tràn trong các quốc
gia đang phát triển chỉ ra rằng đây là một vấn để quan trọng và thu hút được sự quan
tâm rất lớn của các học giả. Nhập khẩu công nghệ và R&D nói chúng tạo ra tác
đông nhất định lên R&D địa phương và năng suất của các doanh nghiệp địa
phương. Điều này hàm ý rằng, có thể có hiệu ứng tràn lên nền kinh tế địa phương.
Tuy nhiên, mức độ của tác động tràn là không rõ ràng và kết luận về đánh giá mức
độ của hiệu ứng này là khác nhau trong các trường hợp.
- FDI với sự liên kết của các doanh nghiệp

Khi dòng vốn FDI vào một đất nước sẽ hình thành nên các doanh nghiệp FDI.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh sẽ có sự tương tác và nảy sinh các mối quan hệ
giữa các doanh nghiệp địa phương và doanh nghiệp FDI. Một trong các mối quan hệ
phổ biến giữa hai loại hình doanh nghiệp này là việc mua bán các nguyên vật liệu và
sản phẩm trung gian với nhau. Đây chính là mối liên kết dọc giữa các doanh nghiệp
trong nền kinh tế. Mối liên kết dọc được thể hiện rất rõ nét trong các ngành công

nghiệp chế tác, do đó đã có rất nhiều các nghiên cứu liên kết dọc của doanh nghiệp
nước ngoài với doanh nghiệp địa phương trong ngành công nghiệp chế tác.
Katz (1969) nghiên cứu về hàm sản xuất, đầu tư nước ngoài và tăng trưởng
trong các ngành chế tác của Ác-hen-ti-na đã chỉ ra rằng, FDI vào ngành công


13

nghiệp chế tác đã tác động rất lớn lên công nghệ địa phương. Các doanh nghiệp FDI
đã gây sức ép lên các doanh nghiệp địa phương buộc các doanh nghiệp này phải cải
tiến công nghệ để thay đổi không những về chất lượng sản phẩm mà cả các điều
kiện cung cấp hàng hóa như thời gian giao hàng. Do đó, các tiến bộ trong công nghệ
của phía nước ngoài sẽ thúc đẩy những đổi mới tích cực trong các doanh nghiệp địa
phương [70].
Cohen (1975) trong nghiên cứu: “Các công ty đa quốc gia và xuất khẩu của
các nước châu Á” ở Hàn Quốc, Đài Loan và Xin-ga-po, và Riedel (1975) khi nghiên
cứu về các nhân tố quyết định của đầu tư nước ngoài định hướng xuất khẩu ở Đài
Loan đã phát hiện rằng các doanh nghiệp nước ngoài có định hướng xuất khẩu có tỷ
lệ nhập khẩu đầu vào nhiều hơn các doanh nghiệp địa phương [57] [99]. Kellar
(1977) khi nghiên cứu về tác động của đầu tư tư nhân nước ngoài ở Ấn Độ đã chỉ ra
rằng, các doanh nghiệp nước ngoài tập trung vào thị trường nội địa được phát hiện
là phụ thuộc vào nhập khẩu nhiều hơn các doanh nghiệp địa phương. Subrahmanian
và Pillai (1979) khi nghiên cứu về các công ty đa quốc gia và xuất khẩu ở Ấn Độ
đưa ra kết luận tương tự [71],[103]. Để giải thích việc các doanh nghiệp nước ngoài
có tỷ lệ nhập khẩu nguyên vật liệu cao hơn các doanh nghiệp địa phương, Jo (1980)
nghiên cứu về lĩnh vực đầu tư nước ngoài ở Hàn Quốc, Newfarmer và Marsh (1981)
khi nghiên cứu sở hữu nước ngoài, cấu trúc thị trường ở ngành công nghiệp điện tử
Bra-xin cho rằng đó là do các doanh nghiệp nước ngoài thân thiết với nhà cung cấp
nước ngoài hơn và một điều rất quan trọng là các nhà cung cấp địa phương không
đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp nước ngoài [67] [88].

Các nghiên cứu trên đều cho rằng mối liên hệ giữa các DN nội địa với các DN
nước ngoài sẽ tác động đến sự tăng trưởng, năng suất, xuất khẩu... của DN. Tuy
nhiên, khoảng trống trong các nghiên cứu trên là chưa chỉ rõ mức độ liên kết ở mức
nào thì hiệu quả và ngưỡng nào cần phải đạt tới trong các mối liên kết để tận dụng
triệt để lợi ích mà vốn FDI mang lại. Nói riêng trong trường hợp của Việt Nam, các
nghiên cứu sắp tới cần tập trung hơn vào việc làm rõ mối liên kết giữa các DN nội
địa và DN FDI như cơ chế hình thành các mối liên kết, mức độ liên kết, hiệu quả


14

của các mối liên kết. Đây là cơ sở để đưa ra các chính sách phát triển ngành công
nghiệp một cách đồng bộ, có sự phối hợp liên hoàn, chặt chẽ và hiệu quả giữa các
ngành, DN trong ngành công nghiệp chế tác.
- FDI và xuất khẩu của ngành công nghiệp chế tác địa phương
Các công ty đa quốc gia có một vai trò quyết định trong việc tạo ra các dòng
chảy FDI trên thế giới. Do có lợi thế về công nghệ, thương hiệu, ảnh hưởng và hiểu
biết các thị trường trên thế giới, MNCs được xem xét là có tác động dương với
xuất khẩu của nền kinh tế địa phương. Một số giả thuyết cho rằng FDI và sự hiện
diện của MNCs có vai trò tích cực tới việc cải thiện khả năng xuất khẩu cũng
như mở rộng thị trường của ngành công nghiệp và doanh nghiệp địa phương. Các
nghiên cứu thực nghiệm đã tập trung để kiểm định giả thuyết này đồng thời đánh
giá tác động của MNCs và FDI tới hoạt động xuất khẩu của các ngành công
nghiệp chế tác ở địa phương. Tuy nhiên các kết quả nghiên cứu không rõ ràng và
có nhiều bất đồng về của sự tác động này.
Cohen (1975) khi nghiên cứu xuất khẩu của các nước châu Á như Hàn Quốc,
Đài Loan đã đi đến kết luận rằng các doanh nghiệp địa phương dường như xuất
khẩu nhiều hơn doanh nghiệp nước ngoài [57]. Riedel (1975) sử dụng số liệu của
Đài Loan cũng đã chỉ ra rằng có sự khác biệt không đáng kể trong xuất khẩu giữa
doanh nghiệp địa phương và doanh nghiệp nước ngoài, ngoại trừ ngành công nghiệp

điện tử [99]. Một số nghiên cứu khác, so sánh tỷ lệ xuất khẩu trong doanh số của hai
nhóm doanh nghiệp nước ngoài và địa phương như Subrahmanian và Pillai (1979) ở
Ấn Độ, đã phát hiện rằng các doanh nghiệp nước ngoài đã được kiểm soát phần lớn
sản xuất cho thị trường nội địa hoạt động kém hơn các doanh nghiệp địa phương
trong hoạt động xuất khẩu [103]. Lall và Streeten (1977) khi nghiên cứu về xuất
khẩu ở các quốc gia đang phát triển và chuyển đổi, Jenkins (1979) trong trường hợp
nghiên cứu về hoạt động xuất khẩu của các công ty đa quốc gia ở Mê-xi-cô cũng
đưa ra các kết luận tương tự [80], [66]. Trái lại, Morgenstern và Mueller (1976) cho
10 nước châu mỹ Latinh đã không tìm thấy một sự khác biệt đáng kể nào trong
hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp nước ngoài và địa phương, Fairchild


15

và Sosin (1986) khi đánh giá sự khác biệt trong hoạt động công nghệ giữa công ty
xuyên quốc gia và doanh nghiệp nội địa cho các quốc gia mỹ Latinh cũng có kết
luận tương tự [86], [62]. Reza (1986) trong trường hợp nghiên cứu về sự cân
bằng của đầu tư tư nhân nước ngoài ở Băng-la-đét, thậm chí còn đưa ra kết luận
rằng các doanh nghiệp nước ngoài đã thể hiện tốt hơn các doanh nghiệp địa
phương về mặt xuất khẩu và phụ thuộc cao hơn vào nhập khẩu từ công ty mẹ và
các doanh nghiệp chi nhánh khác [98] .
Các nghiên cứu ở một số nước châu Á và Mê-xi-cô đã chỉ ra rằng một tác
động rõ ràng của sở hữu nước ngoài lên cải thiện xuất khẩu. Chẳng hạn, Nayyar
(1978) nghiên cứu về xuất khẩu hàng chế tác từ các quốc gia nghèo, Blomstrom
(1990) xuất khẩu hàng chế tác từ các quốc gia đang phát triển, cùng phát hiện rằng
MNCs có một vai trò quan trọng trong mở rộng xuất khẩu các mặt hàng chế tác cho
các quốc gia chủ nhà của họ [87] [50]. Tambunlertchai và Ramstetter (1991) nghiên
cứu về sự ảnh hưởng của các công ty nước ngoài lên thay đổi cấu trúc công nghiệp
ở Thái Lan, cũng đã tìm một vai trò quan trọng của doanh nghiệp nước ngoài trong
cải thiện tăng trưởng xuất khẩu của Thái Lan và từ đó thay đổi cơ cấu, cấu trúc

ngành công nghiệp [104]. Trong khi ở Ấn Độ, Rao (1994) đã kết luận rằng các
doanh nghiệp nước ngoài đóng vai trò tương đối nhỏ trong mở rộng xuất khẩu với
thị phần có tỷ lệ không quá 7% trong xuất khẩu [97]. Lý do của sự phân kỳ này
trong xuất khẩu có thể do các đặc trưng định hướng của FDI. Nếu FDI được định
hướng xuất khẩu, nó sẽ giúp tăng trưởng xuất khẩu của các quốc gia chủ nhà thông
qua hoạt động của MNCs. Trong các quốc gia nơi mà các doanh nghiệp nước ngoài
được phát hiện có vai trò tích cực trong cải thiện xuất khẩu của nước chủ nhà, thị
phần của FDI được định hướng xuất khẩu thường cao hơn. Ở Ma-lai-xi-a và In-đônê-xi-a, chẳng hạn, các dự án, liên quan tới các FDI được định hướng xuất khẩu có
thể lên tới 70%. Do đó, trong khi FDI nói chung có thể có tác động không rõ ràng
lên xuất khẩu của nước chủ nhà, FDI định hướng xuất khẩu có thể có tác động mạnh
và tích cực lên xúc tiến xuất khẩu. Từ quan điểm rằng các doanh nghiệp nước
ngoài, đặc biệt các doanh nghiệp định hướng xuất khẩu, có tác động gián tiếp lên
xuất khẩu của nước chủ nhà thông quan việc tràn thông tin lên thị trường xuất khẩu


16

tiềm năng, Aitken (1994) đã kiểm định một giả thuyết rằng MNCs là một chất xúc
tác xuất khẩu trong các ngành công nghiệp chế tác ở Mê-xi-cô giai đoạn 1986 1990. Những ước lượng Logit của nghiên cứu này chỉ ra rằng sau khi kiểm soát chi
phí nhân tố, giá cả đầu ra và các biến khác mà tác động lên xuất khẩu, các doanh
nghiệp nước ngoài xuất khẩu ước chừng gấp hai lần doanh nghiệp nội địa. Quan
trọng hơn, nghiên cứu này phát hiện rằng một doanh nghiệp có thể tăng đáng kể khả
năng xuất khẩu nếu đặt trụ sở gần các nhà xuất khẩu của MNCs [46].
Tóm lại, các nghiên cứu về đánh giá vai trò của sở hữu nước ngoài lên hoạt động
xuất khẩu của ngành công nghiệp chế tác đưa ra các kết quả khá khác nhau. Để giải
thích điều này, hai điểm quan trọng có thể được nói đến: FDI được định hướng xuất
khẩu đóng một vai trò quan trọng trong cải thiện hoạt động xuất khẩu của nước chủ
nhà, và các quốc gia khác nhau có chính sách hoàn toàn khác nhau để thu hút FDI bao
gồm FDI định hướng xuất khẩu. Vì FDI được định hướng xuất khẩu, quốc gia mà thu
hút nhiều FDI được định hướng xuất khẩu có thể nâng cao hơn hoạt động xuất khẩu

của nó. Thực tế, FDI được định hướng xuất khẩu thỏa mãn nhu cầu lẫn nhau của hai
bên, bên cung cấp dòng FDI và bên nhận dòng FDI. Chiến lược thu hút FDI là phù hợp
không chỉ với nhu cầu và chính sách phát triển của các quốc gia đang phát triển hướng
ngoại mà còn với chiến lược và nhu cầu mở rộng của MNCs đối với các thị trường mới
ở các quốc gia đang phát triển. Do đó, chủ sở hữu nước ngoài có xu hướng liên kết tích
cực với FDI định hướng xuất khẩu, trong khi có lẽ là không như vậy với toàn bộ FDI.
Đối với các quốc gia mà có chính sách thu hút ít FDI, kết quả ngược lại được dự báo là:
mở rộng xuất khẩu bị hạn chế, tăng trưởng xuất khẩu nhỏ hơn, một phần nhỏ tác động
không đáng kể của chủ sở hữu nước ngoài lên tăng trưởng xuất khẩu.
Mặc dù các kết luận trong các công trình trên mang tính đa dạng, ở nhiều
khía cạnh khác nhau nhưng đều cho thấy các chính sách của mỗi quốc gia về FDI
có ảnh hưởng lớn tới hoạt động xuất khẩu, thúc đẩy xuất khẩu, mở rộng xuất
khẩu của quốc gia đó. Các nghiên cứu của Việt Nam trong thời gian tới cũng cần
quan tâm nhiều hơn đến các phân tích định lượng để đánh giá mức độ hiệu quả
của các chính sách về FDI liên quan tới xuất khẩu, từ đó có những điều chỉnh
chính sách thích hợp.


17

- FDI với sự lựa chọn công nghệ và ngành công nghiệp địa phương
Nguồn vốn FDI vào một quốc gia thường kèm theo việc chuyển giao công
nghệ, tuy nhiên không phải công nghệ nào tiên tiến hiện đại cũng phù hợp với đặc
tính công nghiệp của nước chủ nhà. Các doanh nghiệp nhập khẩu công nghệ thường
muốn nhập khẩu công nghệ có năng suất cao nhưng các công nghệ này thường tập
trung nhiều vốn, trong khi đó các quốc gia đang phát triển thường có nguồn lao
động rẻ và dồi dào nên các công nghệ chuyển giao là các công nghệ đòi hỏi nhiều
lao động, đó là một sự mâu thuẫn mà các doanh nghiệp nhập khẩu công nghệ vấp
phải. Do đó việc lựa chọn công nghệ phù hợp trở thành những vấn đề quan trọng
trong các chính sách về FDI.

Courtney và Leipziger (1979) trong khi nghiên cứu sự lựa chọn công nghệ của
các công ty đa quốc gia đã phát hiện rằng, mặc dù áp dụng các công nghệ khác
nhau, các chi nhánh MNCs ở các nước đang phát triển có xu hướng nhập khẩu lao
động chuyên sâu hơn các doanh nghiệp địa phương [58].
Forsyth và Solomon (1977) nghiên cứu về sự lựa chọn công nghệ của các
quốc gia đang phát triển cho ngành công nghiệp điện tử Bra-xin, Wells (1973)
nghiên cứu sự lựa chọn công nghệ ở các quốc gia thu nhập thấp cho rằng các doanh
nghiệp nước ngoài sử dụng công nghệ có cường độ tư bản cao hơn các doanh
nghiệp nội địa [63], [109]. Jo (1980) khi nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài,
kinh tế vĩ mô và sự phát triển công nghiệp ở Hàn Quốc, Chen (1983) nghiên cứu về
công ty đa quốc gia, công nghệ và việc làm cho In-đô-nê-xi-a và Thái Lan cũng có
chung quan điểm rằng các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng công nghệ có cường độ tư
bản cao hơn [67], [54]. Thống nhất với quan điểm này, Mahmood và Hussain
(1991) khi nghiên cứu hoạt động đồng thời của các doanh nghiệp nước ngoài và
doanh nghiệp địa phương, phát hiện ra rằng các doanh nghiệp nước ngoài có năng
suất lao động cao hơn doanh nghiệp địa phương do sử dụng công nghệ sâu sắc và
nhiều tư bản chuyên sâu khi so sánh 32 cặp doanh nghiệp nước ngoài và địa phương
trong 25 ngành công nghiệp chế tác ở Pa-ki-xtan năm 1981 [84].
Các nghiên cứu của Riedel (1975) trong trường hợp của Đài Loan [99], Cohen
(1975) trong trường hợp của Đài Loan, Hàn Quốc và Xin-ga-po [57], Jo (1980) cho


18

Hàn Quốc lại có cách nhìn khác khi mà họ so sánh giữa doanh nghiệp địa phương
và doanh nghiệp nước ngoài có cùng định hướng xuất khẩu [67]. Kết quả là, không
có sự khác biệt về việc tận dụng công nghệ giữa hai loại hình doanh nghiệp này.
Điều này có thể giải thích rằng, các doanh nghiệp địa phương có khuynh hướng ưu
tiên nhập khẩu các công nghệ sâu sắc, tư bản chuyên sâu nhằm sản xuất ra các sản
phẩm có thị cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên trong cách so sánh này,

cũng có các nghiên cứu đưa ra kết luận khác với trên như Chen và Tang (1986,
1987) nghiên cứu về đặc tính sản xuất của các công ty đa quốc gia, so sánh hiệu quả
kỹ thuật giữa công ty định hướng thay thế nhập khẩu và công ty định hướng xuất
khẩu, đã đưa ra kết luận rằng các doanh nghiệp nước ngoài lại là các doanh nghiệp
sử dụng công nghệ nhiều lao động và công nhân không có kỹ năng hơn các doanh
nghiệp địa phương khi nghiên cứu gần 200 doanh nghiệp MNCs ở ngành công
nghiệp điện tử Đài Loan năm 1980 [55], [56].
Mặc dù còn một số khác biệt trong các nghiên cứu song các nghiên cứu có
điểm chung là sự lựa chọn công nghệ của các doanh nghiệp có liên quan tới định
hướng thị trường của họ. Phần đa số các nghiên cứu đều cho rằng các doanh nghiệp
nước ngoài có năng suất cao hơn do họ sử dụng công nghệ có cường độ tư bản cao
hơn doanh nghiệp địa phương. Một số khác biệt trong các kết luận có thể giải thích
là do các doanh nghiệp có định hướng xuất khẩu muốn mở rộng xuất khẩu nên họ
chấp nhận cả công nghệ lạc nhiều lao động để giảm chi phí sản xuất từ đó giảm giá
bán và tăng khả năng cạnh tranh.
Các công trình nghiên cứu về sự lựa chọn công nghệ đều cho rằng có công
nghệ có ảnh hưởng tới xuất khẩu, tăng trưởng của ngành công nghiệp địa phương.
Tuy nhiên, mức độ tác động phụ thuộc nhiều vào chính sách công nghệ và khả năng
hấp thụ trong ngành công nghiệp của quốc gia chủ nhà. Các nghiên cứu ở Việt Nam
sắp tới cần thiết tập trung vào đánh giá thực trạng công nghệ, tác động của công
nghệ và chính sách công nghệ. Trên cơ sở này, đưa ra các chính sách về công nghệ
nhằm tạo điều kiện phát triển ngành công nghiệp Việt Nam.
- FDI với lao động và tiền lương
FDI không chỉ liên quan và tác động đến công nghệ mà còn có mối quan hệ


19

với việc làm và tiền lương. Do đó, các nghiên cứu về FDI trong ngành công nghiệp
chế tác cũng tập trung nhiều đến việc so sánh và đánh giá tiền lương và việc làm

trong DN nước ngoài cũng như DN nội địa. Hơn nữa, các nghiên cứu này quan tâm
tới cả lao động giản đơn và có kỹ năng. Tuy nhiên, các nghiên cứu này có các kết
quả và giải thích không đồng nhất, nhiều vấn đề còn bàn thảo. Một số nghiên cứu
cho rằng, vì mức sống và sự phát triển cao hơn, các DNNN thường có mức tiền
lương trung bình cao hơn mức tiền lương của các doanh nghiệp địa phương. Nhưng
nếu tiền lương quá cao, tổng chi phí sản xuất cũng sẽ cao, do đó giảm tính cạnh
tranh của sản phẩm này trên thị trường, các DN phải giảm quy mô sản xuất và cắt
giảm lao động.
Phần lớn các nghiên cứu đều cho có chung nhận định là mức tiền lương của
các doanh nghiệp nước ngoài cao hơn các doanh nghiệp địa phương. Tuy nhiên,
một số các nghiên cứu khác cho rằng kết luận trên có thể không đúng khi có sự xem
xét đến các đặc tính của lao động, như là lao động giản đơn và lao động có chuyên
môn . Chẳng hạn, Chen (1983) nghiên cứu về “việc làm ở các công ty đa quốc gia”,
đã phát hiện rằng trong khi có một sự khác biệt đáng kể tiền lương cho cán bộ quản
lý và công nhân có kỹ thuật giữa doanh nghiệp địa phương và doanh nghiệp nước
ngoài, không có sự khác biệt đáng kể trong trường hợp công nhân có chuyên môn
thấp trong cả hai loại hình doanh nghiệp [54]. Lim (1977) khi đánh giá “các nhân tố
quyết định tới tiền lương trung bình theo giờ ở các ngành công nghiệp chế tác Malai-xi-a” đã kết luận rằng các doanh nghiệp nước ngoài trả lương cao hơn vì cường
độ tư bản lớn hơn và năng suất cao hơn trong quá trình sản xuất của họ [81].
Balasubramanyam (1984) nghiên cứu “các nhân tố sản xuất và hiệu quả kỹ thuật
trong các hãng có vốn đầu tư nước ngoài trong ngành công nghiệp chế tác ở In-đônê-xi-a” đã giải thích sự khác biệt trong tiền lương của hai khu vực, doanh nghiệp
nước ngoài và địa phương, về mặt chất lượng vốn con người [48]. Bởi vì vốn nhân
lực đầu tư cho công nhân ở khu vực nước ngoài cao hơn trong khu vực địa phương
nên tiền lương trung bình được các chi nhánh MNCs trả cao hơn các doanh nghiệp
địa phương. Kumar (1986) cũng đã phát hiện các doanh nghiệp được kiểm soát bởi


20

nước ngoài trong các ngành công nghiệp chế tác Ấn Độ được trả lương cao hơn các

doanh nghiệp địa phương [73].
Nói chung, các nghiên cứu về lao động và tiền lương có nhận xét tương tự
nhau về sự khác biệt mức tiền lương trong các doanh nghiệp nước ngoài và địa
phương. Tuy nhiên, cách giải thích có thể khác nhau. Sự phân biệt lao động giản
đơn và lao động có chuyên môn đã cung cấp một cơ sở tốt cho việc giải thích sự
khác biệt này bởi vì nó giúp tính đến vốn nhân lực trong quá khứ. Sự phân biệt này
không chỉ là điều kiện cần thiết mà còn là điều kiện đủ bởi vì trong nhiều quốc gia
đang phát triển, vẫn còn nhiều sự khác biệt trong tiền lương giữa các hình thức lao
động và công nhân người mà có cùng mức đầu tư trong quá khứ như nhau nhưng có
mức lương khác nhau bởi vì họ làm việc trong các khu vực kinh tế khác nhau.
Các nghiên cứu về FDI trong các ngành công nghiệp chế tác ở các nước đang
phát triển là một bộ phận quan trọng trong nghiên cứu về FDI. Các nghiên cứu này
đã tập trung vào các mảng rất lớn, bao gồm nhiều khía cạnh từ tác động của các
công nghệ nhập khẩu, nghiên cứu và phát triển (R&D), tác động tràn, liên kết theo
chiều dọc, sự lựa chọn công nghệ, đào tạo lao động và tiền lương trong các ngành
công nghiệp chế tác ở các quốc gia phát triển. Một số đã được thống nhất nhưng còn
nhiều tranh luận và bất đồng vẫn đang diễn ra. Kết quả là trong các nghiên cứu thực
nghiệm vẫn còn khá xa sự đồng thuận. Một điều có thể chắc chắn là những vấn đề
này tiếp tục là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm khi thảo luận về vai trò của FDI
đối với nước chủ nhà trong các quốc gia đang phát triển.
Các nghiên cứu ở trên chỉ ra rằng có một khoảng trống cho các nhà nghiên
cứu để tiến hành lấp kín. Mối quan hệ giữa FDI và ngành công nghiệp chế tác
thường được quan tâm bởi vì chúng tạo nền một khu vực chủ chốt trong tiến
trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam. Ngoài ra, ngành công nghiệp chế
tác ở Việt Nam dường như là rất hứa hẹn trong thời gian tới. Trên cơ sở các
nghiên cứu định tính và nghiên cứu thực nghiệm, các kiến nghị về chính sách có
thể được rút ra để xây dựng chiến lược hợp lý cho sự phát triển các ngành công
nghiệp chế tác ở Việt Nam.



21

1.2. Các công trình trong nước
Từ khi luật đầu tư nước ngoài có hiệu lực vào năm 1988, các nghiên cứu về FDI
bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam. Đặc biệt, từ năm 2000 trở lại đây các nghiên cứu về FDI
tăng lên rất nhanh cả về các nghiên cứu định tính lẫn nghiên cứu định lượng.
Các nghiên cứu đánh giá tác động FDI tới tăng trưởng kinh tế, năng suất của
các ngành kinh tế (tác động tràn FDI)

Nguyễn Mại (2003), Nguyễn Thị Phương Hoa (2004) đã nghiên cứu tổng quát
hoạt động FDI ở Việt Nam cho tới năm 2002 và đều đi đến kết luận chung rằng FDI
có tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế thông qua kênh đầu tư và cải thiện
nguồn nhân lực. Tác động tràn của FDI cũng xuất hiện ở ngành công nghiệp chế
biến nhờ di chuyển lao động và áp lực cạnh tranh. Đoàn Ngọc Phúc (2003) phân
tích thực trạng của FDI trong thời kỳ 1988-2003 và kết luận tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam phụ thuộc nhiều vào khu vực có vốn FDI. Lê Xuân Bá, Nguyễn Thị Tuệ
Anh (2005) và cộng sự phân tích tương đối toàn diện về tác động của FDI tới tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam cả về định tính lẫn định lượng tuy nhiên số liệu chỉ
dừng lại ở năm 2005. Lê Thanh Thủy (2007) sử dụng hàm Cobb-Douglas để đánh
giá tác động của FDI lên năng suất các doanh nghiệp Việt Nam đã cho thấy khoảng
cách công nghệ là nhân tố quan trọng quyết định mức độ tác động từ FDI. Tác động
tiêu cực của FDI càng mạnh khi khoảng cách công nghệ giữa các doanh nghiệp nội
địa và các doanh nghiệp FDI càng lớn. Lê Quốc Hội (2008) phân tích định lượng bộ
số liệu ở cấp độ doanh nghiệp giai đoạn 2000-2004, kết quả cho thấy sự hiện diện
càng nhiều của các doanh nghiệp FDI trong ngành công nghiệp nào thì năng suất
của các doanh nghiệp trong nước trong các ngành đó tăng lên. Tuy nhiên, nghiên
cứu này cũng cho thấy FDI có tác động tiêu cực khi mà quy mô sản xuất của các
doanh nghiệp trong nước giảm do có sự cạnh tranh từ các doanh nghiệp FDI.
Nguyễn Ngọc Anh và cộng sự (2008), thông qua việc khai thác bộ số liệu ở cấp độ
doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo đã tìm thấy tác động tích

cực của FDI lên năng suất các doanh nghiệp thông qua kênh dịch chuyển lao động,
nhưng không tìm thấy bằng chứng tác động lên mức sản xuất của các doanh nghiệp


22

nội địa trong cùng lĩnh vực chế biến chế tạo với các doanh nghiệp FDI. Nguyễn Phi
Lân (2008) sử dụng số liệu ngành công nghiệp chế biến chế tạo giai đoạn 20002005, kết quả nghiên cứu cho thấy FDI có các tác động trái chiều nhau. Trong khi
FDI có tác động dương lên các mối liên kết ngang thì với các liên kết dọc FDI lại có
tác động âm. Nguyễn Khắc Minh (2009) sử dụng phương pháp bán tham số, ảnh
hưởng ngẫu nhiên và ảnh hưởng cố định cho bộ số liệu mảng ở cấp độ doanh
nghiệp giai đoạn 2000-2005, kết quả nghiên cứu chỉ ra chưa có bằng chứng tin cậy
về tác động của FDI lên năng suất các doanh nghiệp nội địa đồng thời chỉ ra rằng sở
hữu nhà nước có tác động tiêu cực lên năng suất các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó còn một số các nghiên cứu tiêu biểu khác về tác động tràn của
FDI như: Chuc D. Nguyen, Gary Simpson (2008); Sajid Anwar và Lan Phi Nguyen
(2010) về khả năng hấp thụ, tác động tràn của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt
Nam. Lê Quốc Hội (2011) về hiệu ứng tràn công nghệ từ đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở Việt Nam.
Các nghiên cứu liên quan tới thu hút và sử dụng FDI
Nguyễn Kim Bảo (1996) trên cơ sở phân tích đầu tư tiếp ngoài vào Trung
Quốc, đề xuất giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI. Nguyễn Huy Thám (1999)
sau khi phân tích kinh nghiệm thu hút đầu tư nước ngoài của các nước ASEAN, từ
đó ứng dụng vào Việt Nam. Nguyễn Thị Hường và Bùi Huy Nhượng (2003) rút ra
một số bài học cho Việt Nam bằng cách so sánh chính sách thu hút FDI ở Trung
Quốc và Việt Nam trong thời kỳ 1979-2002. Bùi Huy Nhượng (2006) trong luận án
tiến sỹ đã đưa ra một số biện pháp thúc đẩy việc thực hiện các dự án FDI tại Việt
Nam. Đinh Văn Ân – Nguyễn Thị Tuệ Anh (2008) chỉ ra các yếu tố tác động đến
thực hiện dự án đầu tư FDI qua kết quả điều tra phiếu hỏi các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở đó, đưa ra một số kiến nghị về chính sách nhằm triển

khai thực hiện FDI một cách có hiệu quả. Ngô Thu Hà (2009) trên cơ sở các bài học
kinh nghiệm rút ra từ chính sách thu hút FDI của Trung Quốc, đã đề xuất một số
giải pháp hoàn thiện chính sách thu hút FDI vào Việt Nam. Bùi Thúy Vân (2010) từ
việc phân tích tác động FDI tới chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của các tỉnh
đồng bằng Bắc Bộ trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp thu hút và sử dụng FDI để cải


23

thiện cơ cấu hàng xuất khẩu của các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Ngoài ra còn nhiều bài
báo, tạp chí, đề tài nghiên cứu khoa học khác về FDI ở Việt Nam.
Các nghiên cứu về tác động trực tiếp của vốn FDI (cơ cấu kinh tế, ngân
sách, việc làm..)
Nguyễn Trọng Hải (2009), đã vận dụng một số phương pháp và chỉ tiêu thống
kê để đánh đóng góp của FDI vào việc tăng vốn đầu tư, nộp ngân sách nhà nước và
tạo việc làm cho nền kinh tế. Trần Ngọc Thìn (2010), đã đánh giá tác động của vốn
FDI tới việc thúc đẩy xuất khẩu của các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Bùi Thúy
Vân (2010), đánh giá tác động của vốn FDI tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các
tỉnh khu vực đồng bằng Bắc Bộ. Trong khi đó Nguyễn Tiến Long (2012), đánh giá
tác động FDI tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Thái Nguyên. Ngoài ra các
công trình nghiên cứu của Đỗ Hoàng Long (2008) về tác động của toàn cầu hóa đối
với dòng vốn FDI vào Việt Nam, Nguyễn Thị Ái Liên (2011) về môi trường đầu tư
với thu hút vốn FDI vào Việt Nam đã chỉ ra và phân tích rõ một số nhân tố ảnh
hưởng đến tác động của vốn FDI.
Qua tổng quan các công trình nghiên cứu về FDI cho thấy các nghiên cứu về
FDI ở nước ta có rất nhiều cả về các nghiên cứu định tính lẫn các nghiên cứu định
lượng. Đã có một số các nghiên cứu định lượng đánh giá tác động của FDI tới năng
suất, tăng trưởng trong ngành công nghiệp chế tác. Tuy nhiên, do ngành công
nghiệp chế tác đã, đang và sẽ là ngành công nghiệp chủ chốt của Việt Nam nên cần
có một nghiên cứu toàn diện về tác động của vốn FDI trong ngành công nghiệp này.

Luận án này sẽ đánh giá một cách toàn diện tác động của FDI tới ngành công
nghiệp chế tác ở Việt Nam bằng cách sử dụng cả phân tích định tính lẫn định lượng
cùng với việc đánh giá tác động của FDI dưới cả hai góc độ là tác động trực tiếp và
gián tiếp. Từ việc phân tích, đánh giá tình hình thu hút sử dụng FDI, thực trạng tác
động của FDI trong ngành công nghiệp chế tác, kết hợp với việc nghiên cứu bối
cảnh hiện tại ở trong nước và quốc tế, luận án đưa ra đồng bộ các giải pháp nhằm
tận dụng tác tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của vốn FDI trong
ngành công nghiệp chế tác ở Việt Nam.


24

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương 1, luận án đã hệ thống tổng quan các công trình nghiên cứu về
tác động động của FDI tới các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Từ các nghiên
cứu trong nước cho đến các nghiên cứu nước ngoài, từ các nghiên cứu định tính cho
đến các nghiên cứu định lượng tác động của FDI tới một ngành, một nhóm ngành,
một quốc gia hoặc một nhóm các quốc gia.
Tác giả đi sâu vào các tổng quan nghiên cứu các công trình trong nước và
nước ngoài liên quan đến đánh giá tác động của vốn FDI tới các ngành công nghiệp
chế tác. Tổng quan các nghiên cứu cho thấy, các nghiên cứu thường tập trung vào
các vấn đề sau: Mối quan hệ và tác động giữa FDI và công nghệ nhập khẩu , nghiên
cứu triển khai ở địa phương; mối quan hệ và tác động giữa FDI và hiệu ứng tràn về
kiến thức, năng suất; mối quan hệ và tác động giữa FDI và sự liên kết doanh nghiệp;
mối quan hệ và tác động giữa FDI và xuất khẩu của các ngành công nghiệp; mối
quan hệ và tác động giữa FDI tới lao động và tiền lương. Đồng thời, luận án cũng
đã tổng quan đầy đủ các nghiên cứu liên quan tới tình hình thu hút và sử dụng FDI
ở Việt Nam trong thời gian qua.
Tóm lại, trong chương 1, luận án đã cung cấp một tổng quan chi tiết và đầy đủ
về các nghiên cứu liên quan tới tác động của vốn FDI tới các ngành công nghiệp

chế tác trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, tác giả xác định khoảng trống để lựa
chọn đề tài cho luận án này và đồng thời tác giả cũng minh chứng được sự cần thiết
của đề tài luận án.


25

CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI VÀ MÔ HÌNH ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA VỐN
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TỚI NGÀNH
CÔNG NGHIỆP CHẾ TÁC
2.1. Lý luận chung về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước (FDI) ngoài luôn gắn chặt với vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Do đó để có thể đưa ra các lý luận chung về vốn FDI, trước hết luận án sẽ tập
trung và làm rõ các vấn đề lý luận về khái niệm FDI.

2.1.1. Khái niệm FDI
Xét theo góc độ hẹp, đầu tư là việc các doanh nghiệp mua máy móc thiết bị,
xây dựng nhà xưởng để tiến tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Xét theo
góc độ rộng, đầu tư là việc mà nền kinh tế hy sinh các nguồn lực hiện tại để đạt
được mục tiêu hoặc kết quả gia tăng trong tương lai. Nguồn lực gồm có nguồn nhân
lực, tài nguyên thiên nhiên, vốn tư bản, tri thức công nghê. Kết quả gồm có sự gia
tăng về tài sản tài chính như giá trị sản xuất, doanh thu, lợi nhuận, tiền lương, thu
ngân sách …; tài sản vật chất như nhà máy, cơ sở hạ tầng, công nghệ tiên tiến hơn,
nguồn nhân lực có kỹ năng, trình độ và kỷ luật hơn.
Căm cứ vào nguồn gốc của vốn, đầu tư được chia thành đầu tư trong nước và
đầu tư nước ngoài.
Theo luật đầu tư Việt Nam (2005):
Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và các tài

sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu từ tại Việt Nam (Mục 13- Điều 3).
Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng
tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư (Mục 12- Điều 3).
Xét một cách khái quát, đầu tư nước ngoài là một quá trình di chuyển vốn từ
quốc gia này sang quốc gia khác nhằm những mục đích và mục tiêu nhất định.


×