Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

câu hỏi môn sinh thái học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (67.63 KB, 4 trang )

Câu 1: Trình bày mối quan hệ giữa ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm. Tại sao nói ánh
sáng là nhân tố sinh thái vừa có tác dụng giới hạn vừa có tác dụng điều chỉnh?
Trả lời:
Mối quan hệ giữa ánh sánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm:
Ánh sáng : Ánh sáng là một yếu tố sinh thái, ánh sáng có vai trò quan trọng đối
với các cơ thể sống. Ánh sáng là nguồn cung cấp năng lượng cho thực vật tiến
hành quang hợp. Một số vi sinh vật dị dưỡng (nấm, vi khuẩn) trong quá trình
sinh trưởng và phát triển cũng sử dụng một phần ánh sáng. Ánh sáng điều khiển
chu kỳ sống của sinh vật.
Đối với thực vật : Ánh sáng có ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống của thực vật từ
khi hạt nảy mầm, sinh trưởng, phát triển cho đến khi cây ra hoa kết trái rồi chết.
Ánh sáng có ảnh hưởng khác nhau đến sự nảy mầm của các loại hạt.
Ánh sáng có ảnh hưởng nhất định đến hình thái và cấu tạo của cây. Những cây
mọc riêng lẽ ngoài rừng hay những cây mọc trong rừng có thân phát triển đều,
thẳng, có tán cân đối. Những cây mọc ở bìa rừng hoặc trên đường phố có tường
nhà cao tầng, do có tác dụng không đồng đều của ánh sáng ở 4 phía nên tán cây
lệch về phía có nhiều ánh sáng. Đặc tính này gọi là tính hướng ánh sáng của cây.
Ánh sáng còn ảnh hưởng đến hệ rễ của cây. Đối với một số loài cây có rễ trong
không khí (rễ khí sinh) thì ánh sáng giúp cho quá trình tạo diệp lục trong rễ nên
rễ có thể quang hợp như một số loài phong lan trong họ Lan (Orchidaceae). Còn
hệ rễ ở dưới đất chịu sự tác động của ánh sáng, rễ của các cây ưa sáng phát triển
hơn rễ của cây ưa bóng.
Ngoài ra cây sinh trưởng trong điều kiện chiếu sáng khác nhau có đặc điểm hình
thái, giải phẫu khác nhau.Liên quan đến cường độ chiếu sáng, thực vật được chia
thành các nhóm cây ưa sáng, cây ưa bóng và cây chịu bóng. Liên quan đến độ
dài chiếu sáng, thực vật còn được chia thành nhóm cây ngày dài và cây ngày
ngắn. Cây ngày dài là cây ra hoa kết trái cần pha sáng nhiều hơn pha tối, còn
ngược lại, cây ngày ngắn đòi hỏi độ dài chiếu sáng khi ra hoa kết trái ngắn hơn.
Đối với động vật: Ánh sáng rất cần thiết cho đời sống động vật. Các loài động
vật khác nhau cần thành phần quang phổ, cường độ và thời gian chiếu sáng khác
nhau. Tùy theo sự đáp ứng đối với yếu tố ánh sáng mà người ta chia động vật


thành hai nhóm : nhóm động vật ưa sáng và nhóm động vật ưa tối. Ở một số loài
động vật có khả năng tiếp nhận những tia sáng khác nhau của quang phổ ánh
sáng mặt trời mà mắt người không tiếp thu được. Một số loài động vật thâm mềm
dưới nước sâu và Rắn mai gầm có thể tiếp thu tia hồng ngoại. Ong và một số loài
chim có thể phân biệt được mặt phẳng phân cực ánh sáng mà con người hoàn
toàn không nhận biết, ngoài ra chúng còn có thể nhìn thấy được quang phổ vùng


sóng ngắn trong đó có cả tia tử ngoại nhưng không nhận biết được tia sáng màu
đỏ (có độ dài sóng lớn). Nhiều loài động vật định hướng nhờ thị giác trong thời
gian di cư. Đặc biệt nhất là chim, những loài chim trú đông bay vượt qua hàng
ngàn kilômét đến nơi có khí hậu ấm hơn nhưng không bị chệch hướng.
Nhiệt độ:
Nhiệt độ trên trái đất phụ thuộc vào năng lượng mặt trời và thay đổi theo vĩ độ
(theo vùng địa lý và theo chu kỳ trong năm).
Nhiệt độ là nhân tố khí hậu có ảnh hưởng rất lớn đến sinh vật, nhiệt độ tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình sống của sinh vật (sự sinh trưởng, phát
triển, sinh sản...), đến sự phân bố của các cá thể, quần thể và quần xã.
Sự khác nhau về nhiệt độ trong không gian và thời gian đã tạo ra những nhóm
sinh thái có khả năng thích nghi khác nhau. Nhiệt độ còn ảnh hưởng đến các yếu
tố khác của môi trường như độ ẩm không khí, độ ẩm đất.
Đặc điểm: toàn bộ lượng nhệt bị ảnh hưởng của bức xạ mặt trời, nhiệt độ thay
đổi theo ánh sáng, chu kì, mùa, vĩ độ.
ảnh hưởng tới sinh vật: Ở sinh vật có hai hình thức trao đổi nhiệt :
+ Các sinh vật tiền nhân (vi khuẩn, vi khuẩn lam), Protista, nấm, thực vật, động
vật không xương sống, cá, lưỡng thê, bò sát không có khả năng điều hòa nhiệt
độ cơ thể, do đó nhiệt độ cơ thể phụ thuộc vào nhiệt độ môi trường và luôn biến
động. Người ta gọi nhóm sinh vật này là sinh vật biến nhiệt ( Poikilotherm) hay
nhóm ngoại nhiệt ( Ectotherm).
+ Các sinh vật có tổ chức cao như các loài động vật chim, thú nhỏ sự phát triển

hoàn chỉnh cơ chế điều hòa nhiệt độ và sự hình thành trung tâm điều hòa nhiệt ở
não đã giúp chúng duy trì được nhiệt độ cực thuận thường xuyên của cơ thể,
không phụ thuộc vào nhiệt độ của môi trường ngoài. Người ta gọi nhóm động vật
này là động vật đẳng nhiệt (động vật máu nóng) ( Homeotherm) hay nhóm nội
nhiệt (Endotherm), chúng điều hoà nhiệt nhờ sự sản sinh nhiệt từ bên trong cơ
thể của mình.
Trung gian giữa hai nhóm này có nhóm thứ ba, các loài sinh vật thuộc nhóm này
vào thời kỳ không thuận lợi chúng ngủ hoặc ngừng hoạt động, nhiệt độ cơ thể hạ
thấp nhưng không bao giờ xuống dưới 10 - 130C.Nhóm này gồm một số loài gặm
nhắm như sóc đất, sóc mác mốt, nhím, chuột sóc, chim én, dơi, chim hút mật.
Sự sinh sản của nhiều loài động vật chỉ tiến hành trong một phạm vi nhiệt độ
thích hợp nhất định. Nếu nhiệt độ môi trường không thích hợp (cao hoặc thấp)
so với nhiệt độ cần thiết sẽ làm giảm cường độ sinh sản hoặc làm cho quá trình
sinh sản đình trệ, là vì nhiệt độ môi trường đã ảnh hưởng đến chức năng của cơ
quan sinh sản. Nhiệt độ môi trường lạnh quá hoặc nóng quá có thể làm giảm quá
trình sinh tinh và sinh trứng ở động vật.


Độ ẩm:
Dưới tác dụng của nhiệt độ nước bốc hơi từ mọi bề mặt, kể
Độ ẩm ảnh hường nhiều đến sinh trường và phát triển của sinh vật. Có sinh vật
thường xuyên sổng trong nước hoặc trong môi trường ầm ướt như ven các bờ
sông suối, dưới tán rừng rậm, trong các hang động... Ngược lại, cũng có những
sinh vật sống nơi có khí hậu khô như ờ hoang mạc, vùng núi đá...
Tùy vào mức ảnh hưởng của độ ẩm đối với sinh vật mà ta chia thành: thực vật ưa
ẩm và thực vật chịu hạn. động vật ưa ẩm và động vật ưa khô.
 Như vậy, ánh sáng, nhiệt độ và độ ẩm đều là các yếu tố sinh thái vô sinh.

Các yếu tố không bao giờ tác động riêng lẻ mà luôn tác đọng kết hợp với
nhau. Nhân tố sinh thái nào cũng trở thành nhân tố hạn chế trong không

gian hoặc thời gian. Các mối quan hệ này đều có mối quan hệ mật thiết
với nhau, ánh sáng với các cường độ tác động khác nhau có thể làm tăng
hoặc giảm nhiệt độ môi trường, khi nhiệt độ thay đổi thì độ ẩm cũng thay
đổi. Ảnh hưởng phối hợp của nhiệt độ và độ ẩm có vai trò quyết định đến
sự phân bố của sinh vật. Có thể hai nơi có cùng lượng mưa, nhưng nhiệt
độ khác nhau thì phân bố các kiểu thảm thực vật hoàn toàn khác nhau. Và
ngay các cá thể trong cùng một loài nhưng ở các vùng địa lý khác nhau
cũng thích nghi những nơi sống khác nhau. Khả năng thích nghi của các
loài sống trong những điều kiện khí hậu khác nhau càng lớn thì ảnh hưởng
Khoa học môi trường DH08QM_Nhóm 2 Trang 16 của khí hậu ở những nơi
sống cụ thể tác động lên chúng càn yếu. Khi thay đổi chỗ ở, từng loài đã
chon tổ hợp các nhân tố phù hợp nhất với sinh thái trị của nó. Bằng cách
đó mới có thể khắc phục được những giới hạn của khí hậu.
Ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm ảnh hưởng mạnh đến quá trình sinh lí thực vật, và có
thể ảnh hưởng tới tập tính của các loài.
Ánh sáng là nhân tố sinh thái vừa có tác dụng giới hạn vừa có tác dụng
điều chỉnh đối với đời sông sinh vật, đặc biệt là động vật.
Ánh sáng trực tiếp tham gia vào quá trình quang hợp, là nguồn dinh dưỡng của
cây cỏ và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của động vật. Một số sinh vật dị
dưỡng trong quá trình sinh trưởng và phát triển cũng sử một phần ánh sáng. Ánh
sáng điều khiển chu kỳ sống của sinh vật. Tùy theo cường độ và chất lượng của
ánh sáng mà nó ảnh hưởng nhiều hay ít đến quá trình trao đổi chất và năng lượng
cùng nhiều quá trình sinh lí của các cơ thể sống. Ngoài ra ánh sáng còn ảnh
hưởng đến các nhân tố khác như nhiệt độ, độ ẩm, không khí đất và địa hình. Ánh


sáng phân bố không đều theo không gian và thời gian, cường độ và thành phần
phổ ánh sáng giảm dần từ xích đạo đến hai cực của trái đất.




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×