Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường và mối quan hệ giữa công bằng xã hội với phát triển kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.25 KB, 14 trang )

Mở đầu
Trong các thời đại khác nhau, dù ở phơng Đông hay phơng Tây con ngời
đều quan tâm đến công bằng xà hội và đà có rất nhiều cách hiểu và giải quyết
khác nhau đối với vấn đề công bằng xà hội. Nhất là đối với ngời Việt Nam, từ
xa xa công bằng xà hội bao giờ cũng đợc xem là một đạo lý sống của cộng đồng
cũng nh của mỗi cá nhân :
Công bằng là đạo ở đời
Cái ta không muốn thì ngời chẳng a
Đối với 1 nớc theo ®Þnh híng x· héi chđ nghÜa (XHCN) nh níc ta hiện
nay thì công bằng xà hội là một trong những mục tiêu phấn đấu của Đảng và
Nhà Nớc để đa đất nớc quá độ lên CNXH. Trong nền kinh tế thị trờng còn mới
và nhiều thành phần nh nớc ta thì việc thực hiện công bằng xà hội trớc hết là
công bằng kinh tế. Công bằng xà hội cũng là động lực thúc đẩy phát triển kinh
tế. Vậy công bằng xà hội phải hiểu đúng nh thế nào để không nhầm lẫn với cào
bằng bình đẳng ? Phát triển xà hội là gì ? Mối quan hệ biện chứng giữa
chúng ra sao ?..Thực trạng vấn đề về phát triển kinh tế và công bằng xà hội ở nớc ta đang đợc thực hiện nh thế nào?
Trong bài tiểu luận của mình , em xin trình bày những hiểu biết của mình
về công bằng xà hội trong điều kiện kinh tế thị trờng và mối quan hệ giữa công
bằng xà héi víi ph¸t triĨn kinh tÕ , cịng nh c¸c biện pháp để phát triển kinh tế
đồng thời đảm bảo c«ng b»ng x· héi níc ta hiƯn nay.

1


Nội dung

I) Lý luận chung: quan hệ giữa công bằng xà hội phát triển
kinh tế:

1) Công bằng xà hội là gì ?
Thực ra công bẵng xà hội là 1 khái niệm mang tính lịch sử, bị quy định


bởi hoàn cảnh lịch sử cụ thể . Có thể nói mỗi xà hội đều có chuẩn mực riêng
của mình về công bằng xà hội do hoàn cảnh lịch sử của xà hội đó quy định.
Trong chế độ xà hội công xà nguyên thuỷ thì công bằng xà hội có nghĩa là mọi
ngời đều tuân theo trật tự đà đợc cộng đồng thừa nhận, ai vi phạm sẽ bị trừng
phạt.
Khi cá nhân tách khỏi thị tộc thì công bằng chủ yếu có nghĩa là mọi ngời
đều bình đẳng trong việc sử dụng các quyền và phơng tiện sống.
Khi xuất hiện sở hữu t nhân thì nội dung của khái niệm công bằng xà hội
cũng thay đổi. Sự công bằng ở đây đợc xem xét trong mối quan hệ với địa vị xÃ
hội. Theo Arixtốt, công bằng là là sự bình đẳng giữa những ngời có cùng địa vị
xà hội. Còn sự bất bình đẳng những ngời không có cùng địa vị xà hội cũng đợc
Arixtốt coi là công bằng. Quan điểm này Arixtốt thực tế đà trở thành quan điểm
chủ đạo trong suốt lịch sử tồn tại của xà hội phân chia giai cÊp.
2


Sự xuất hiện sở hữu t nhân là tiền đề cho sự xuất hiện nền sản xuất hàng
hoá.Khi nền xản xuất hàng hoá ấy xuất hiện và ngày càng phát triển thì sự trao
đổi theo nguyên tắc ngang giá cũng ngày càng trở thành nguyên tắc chi phối
quan hệ trao ®ỉi trong x· héi. ThÝch øng víi t×nh h×nh Êy, nội dung của khái
niệm công bằng cũng thay đổi, đặc biệt là trong chủ nghĩa T Bản : về mối quan
hệ trao đổi đợc gọi là công bằng khi chúng thực hiện theo nguyên tắc ngang
giá ; còn trong lĩnh vực Chính trị và các quan hệ xà hội khác thì mọi ngời đợc
tuyên bố là bình đẳng trớc Pháp Luật, dĩ nhiên đó là một hệ thống Pháp Luật
nhằm bảo vệ trớc hết cho giai cấp thống trị đơng thời.
Riêng trong CNXH, C.Mác đề cập đến trong tác phẩm Phê phán cơng
lĩnh Gotha công bằng xà hội đợc thể hiện trong nguyên tắc phân phối lao
động. C.Mác chØ râ r»ng trong x· héi XHCN, sau khi ®· khấu trừ đi những
khoản cần thiết nhất để duy trì sản xuất, tái sản xuất cũng nh để duy trì đời sống
của cộng đồng, toàn bộ số sản phẩm xà hội còn lại sẽ đợc phân phối theo

nguyên tắc: mỗi ngời sản xuất sẽ nhận trở lại từ xà hội một số lợng vật phẩm
tiêu dùng trị giá ngang với số lợng lao động mà anh ta đà cung cấp cho x· héi
(sau khi ®· khÊu trõ sè lao ®éng của anh ta cho các quỹ xà hội )
Đây là một nguyên tắc phân phối công bằng vì ở đây tất cả những ngời
sản xuất đều có quyền ngang nhau tham dự vào quỹ tiêu dùng của xà hội khi
làm một công việc ngang nhau.
2) Phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế là sự tăng trởng kinh tế gắn liền với sự hoàn thiện cơ
cấu, thể chế kinh tế và nâng cao chất lợng cuộc sống.
Muốn phát triển kinh tế trớc hết phải có sự tăng trởng. Nhng không phải
tăng trởng kinh tế nào cũng dẫn tới phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế đòi hỏi
phải thực hiện 3 néi dung sau :

3


- Sự tăng lên của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và tổng sản phẩm quốc dân
(GNP) và tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu ngời. Nội dung này phản
ánh mức độ tăng trởng kinh tế của 1 quốc gia trong 1 thời kì nhất định.
- Sự biến đổi c¬ cÊu kinh tÕ theo híng tiÕn bé thĨ hiƯn ở tỷ trọng của ngành
dịch vụ và công nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân tăng lên, còn tỷ trọng
nông nghiệp ngày càng giảm xuống. Nội dung này phản ánh chất lợng tăng
trởng, trình độ kĩ thuật của nền sản xuất để có thể đảm bảo cho sự tăng trởng kinh tế bền vững.
- Mức độ thoả mÃn các nhu cầu cơ bản của xà hội thể hiện bằng sự tăng lên
của thu nhập thực tế, chất lợng giáo dục, y tếmà mỗi ngời dân đợc hởng.
Nội dung này phản ánh mặt công bằng xà hội của sự tăng trởng kinh tế.
3) Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và công bằng xà hội
Phát triển kinh tế bao hàm trong nó mối quan hệ biện chứng giữa tăng trởng kinh tế và công bằng xà hội. Phát triển kinh tế là điều kiện kiên quyết và cơ
bản để giải quyÕt c«ng b»ng x· héi. C«ng b»ng x· héi võa là mục tiêu để phấn
đấu của nhân loại vừa là ®éng lùc quan träng cđa sù phÊt triĨn kinh tÕ. Mức độ

ngày càng cao thì trình độ phát triển, trình độ văn minh của xà hội ngày càng
có cơ sở bền vững.
II) Quan hệ đó trong công cuộc đổi mới ở nớc ta:

1) Thực trạng nớc ta :
Trong thời kì tríc ®ỉi míi ë níc ta, chóng ta ®· cã cách hiểu không đúng
về công bằng xà hội: đồng nhất công bằng với bình đẳng, dẫn đến chính sách
bình quân trong phân phối làm triệt tiêu những yếu tố tích cực, năng động của
xà hội. Chính sách bình quân thực chất không phải là sự công bằng mà là sự bÊt

4


công. Chính sự bất công đó tăng dần lên đến mức ngời lao động thờ ơ với sở hữu
xà hội, không quan tâm đến kết quả lao động.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xớng và lÃnh đạo đà mang đến những
t duy mới, quan điểm mới về tăng trởng kinh tế và công bằng xà hội . Tất nhiên
những quan điểm đó đều bắt nguồn và dựa trên cơ sở đờng lối xây dựng CNXH
của Đảng Cộng Sản Việt Nam, thể hiện rõ trong cơng lĩnh của Đảng. Đại hội
Đảng VIII (tháng 6 năm 1996) đề ra quyết tâm tiếp tục nắm vững 2 nhiệm vụ
chiến lợc xây dựng CNXH và Bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện
đại hoá. Mục tiêu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá là biến nớc ta thành 1 nớc
có cơ sở vật chất - kĩ thuật hiện đại. Cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuát tiến
bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất, đời sống vật chất và
tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nớc mạnh, xà hội công
bằng, văn minh.
Công bằng xà hội ở nớc ta gắn liền với CNXH , là 1 trong những biểu
hiện đặc trng của CNXH. CNXH ở Việt Nam là sự thống nhất và phát triển
biệng chứng giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xà hội và
giải phóng con ngời.CNXH sẽ tiến tới xoá bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất công và

mu cầu hạnh phúc cho mọi ngời, mọi gia đình và toàn xà hội. Đó là công bằng
xà hội lớn nhất, triệt để nhất mà chúng ta phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nớc
mạnh, xà hội công bằng, văn minh. Bằng khẩu hiểu đó Đảng và Nhà Nớc phấn
đấu để ngời nghèo thì đủ ăn, ngời đủ ăn thì trở nên khá giả, ngời khá giả trở nên
giàu có. Chúng ta thừa nhận có 1 số bộ phận dân c giàu lên trớc, 1 số vùng giàu
lên trớc là điều cần thiết, để thúc đẩy cho sự phất triển và tiến bộ chung. Đồng
thời cũng phải có những chính sách kinh tế, xà hội đặc biệt để trợ giúp ngời
nghèo, vùng nghèo khá dần lên.
Hiện nay , ở nớc ta có tình trạng là những vùng nông thôn có nhiếu gia
đình chính sách có đóng góp cho kháng chiến và cho Cách mạng thì thì thu
nhập và đời sống của vùng đó khó khăn hơn, nghèo hơn các vùng khác, địa ph5


ơng khác. Trong những năm chuyển sang kinh tế thị trờng cha có chính sách
phù hợp để giải quyết vấn ®Ị ®ã thùc tÕ cho thÊy chóng ta cha thùc hiện đợc sự
công bằng và hởng thụ giữa các vùng nông thôn với nhau, giữa nông thôn với
thành phố. Hàng loạt chính sách kinh tế xà hội, nhất là chính sách phát triển
giáo dục nông thôn còn nhiều bất hợp lý, con em nông dân ít có điều kiện theo
học ở các bậc học cao. Sự mất cân bằng còn thể hiện ở chỗ những kẻ làm ăn bất
chính giàu lên nhanh chóng bằng những thủ đoạn bất hợp pháp nh tham nhũng,
buôn lậu, đặc quyền, đặc lợi, gian lận thơng mại, lừa đảo. Vẫn tồn tại tình trạng
trong XH vẫn có những ngời hoặc cả bộ phận cùng lao ®éng nh nhau nhng ai cã
lỵi thÕ vỊ nghỊ nghiƯp thì có thu nhập cao hơn nhiều so với những ngời lao
động khác trong các lĩnh vực khác, cao hơn hàng trăm lần so với phần đông
những ngời lao động trong nông nghiệp. Nhuững bất công đó đòi hỏi nhà nớc
phải đề ra những chính sách thích ứng để điều tiết thu nhập, đÃi ngộ thích đáng
những ngời đà cống hiến suốt cuộc đời mình, kể cả xơng máu cho cuộc đấu
tranh vì tự do độc lập.
Vấn đề quan trong và quyết định nhất hiện nay của chúng ta là giải quyết
mối quan hệ giữa ngời giàu và ngời nghèo trong quan hệ đổi mới. Chúng ta cần

đánh giá thực trạng và có cách nhìn mới khi chuyển sang nền kinh tế thị trờng.
Trong hoạt động kinh tế, chúng ta phải chấp nhận sự cạnh tranh lành mạnh để
tạo động lực thực sự tăng trởng kinh tế và do đó một bộ phận dân c nhất định sẽ
giàu lên, một bộ phận khác tơng đối sẽ ở tình trạng nghèo. Hơn nữa, những mặt
khiếm khuyết, mặt trái của nền kinh tế thị trờng là làm cho tình trạng thất
nghiệp, tệ nạn xà hội có xu hớng tăng lên. Vì vậy, chúng ta phấn đấu có chính
sách phát triển kinh tế theo đúng quy luật của nền kinh tế thị trờng, đồng thời
phải có chính sách xà hội để trợ giúp ngời nghèo duy trì hợp lý mối quan hệ
giữa phát triển kinh tế và giải quyết vấn đề xà hội.
2) Quan điểm của đảng và nhà nớc
6


Quan điểm của Đảng ta là gắn liền tăng trởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xà hội ngay từng bớc và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xà hội
phải thể hiện ở cả khâu phân phối kết quả sản xuất cũng nh ở việc tạo điều kiện
phát triển năng lực của mọi thành viên trong cộng đồng.
Để phát triển kinh tế, thực hiện công bằng xà hội, Đảng ta chủ trơng phát
triển nền sản xuất hàng hoá gồm nhiều thành phần kinh tế, thừa nhận nhiều hình
thức sở hữu khác nhau cùng tồn tại. Điều đó có nghĩa là về mặt kinh tế, chúng ta
thừa nhận ở một chừng mực nào đó còn tồn tại trong xà hội sự bất bình đẳng về
tài sản, về điều kiện sản xuất của thành viên do lịch sử để lại. Xoá bỏ bất bình
dẳng đó phải có quan điểm lịch sử, quan điểm phát triển sản xuất. Ngay cả đối
với t liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân thì các thành viên xà hội có quyền làm
chủ nh nhau. Trong quan hệ sở hữu đó mỗi ngời chỉ có quyền làm chủ t liệu sản
xuất trong chừng mực họ có việc làm và lợi ích tơng ứng. Đối tợng sở hữu cũng
trở nên đa dạng khi chuyển đổi sang kinh tế thị trờng: sở hữu t liệu sản xuất, sở
hữu hữu vốn, sở hữu sức lao động, sở hữu tài sản vô hình, sở hữu thị trờng,v..v..
Quan hệ sở hữu đa dạng nên quan hệ trong phân phối thu nhập cũng đa dạng.
Các Mác nói rằng phân phối sản phẩm sản xuất ra là kết quả phân phối chính

ngay những điều kiện của sản xuất. Kinh tế thị trờng đòi hỏi phải áp dụng nhiều
nguyên tắc phân phối và nhiều loại hình thu nhập khác nhau. Có những lao động
bằng thu nhập và có những thu nhập không bằng lao động. Sự chênh lệch trong
thu nhập có thể còn rất lớn: Công bằng xà hội ở đây không đi liền với việc bình
quân cào bằng trong phân phối thu nhập, mà nó đòi hỏi việc phân phối thu nhập
phải trong khuôn khổ luật pháp, không để cho tầng lớp này giàu có trên sự bần
cùng của tầng lớp khác. Nhà Nớc ta không chủ trơng hạn chế làm giàu hợp
pháp, không đặt giới hạn trên của sự giàu có, nhng rất cần thiết phải quan tâm
đến giới hạn thấp của sự nghèo, bảo đảm chỉ có ngời nghèo tơng đối so với ngời
giàu, đời sống của bộ phận nhân dân nghèo phải từng bớc đợc cải thiện nâng
lên.
7


Trong phân phối thu nhập có phân phối lần đầu và phân phối lại nhiều lần
dới nhiều hình thức đa dạng khác nhau.Nhà Nớc thông qua nhiều chính sách
kinh tế để điều tiết hợp lý thu nhập các tầng lớp dân c,các ngành,các vùng kinh
tế khác nhau.Đặc biệt là gắn liền với tăng trởng kinh tế mà tiến hành phân phối
qua các quỹ phúc lợi xà hội nhằm giảm bớt chênh lệch về điều kiện tái sản xuất
sức lao động trên 1 số nhu cầu cơ bản, thiết yếu của các thành viên trong xà hội.
3) Các giải pháp tăng truởng kinh tế va công bằng xà hội
*)Các chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện công bằng xÃ
hội
Tăng trởng kinh tế nớc ta đang hiện nay đòi hỏi phải sử dụng tối đa sức
lao động , hạn chế thất nghiệp. Đó cũng là yêu cầu của việc thực hiện công bằng
xà hội. Nhà nớc có các chính sách khuyến khích đầu t đa dạng hoá các loại hình
sản xuất kinh doanh để cho ngời lao động có cơ hội tìm kiếm việc làm kể cả
việc làm thuê. Những sai lầm ấu trĩ trong quá khứ đà cho chúng ta hiểu rằng xây
dựng một xà hội mà nhân dân lao động làm chủ là cả một quá trình lâu dài,
phải tạo ra những tiền đề cần thiết để làm chủ. Trong khi phát triển các thành

phần kinh tế t nhân và thành phần kinh tế T bản t nhân, nguời lao động còn phải
làm thuê cho các ông chủ t bản trong nớc và nớc ngoài thì Nhà nớc vẫn cần có
những quy định luật pháp, tăng cờng việc thực hiện luật pháp để quan hệ trong
thuê mớn lao động không mang hình thức quan hệ chủ tớ, quan hệ thống trị và
bị trị.
Để thúc đẩy tăng trởng kinh tế trong điều kiện vốn đầu t có hạn , cần đầu
t theo thứ tự u tiên vào những vùng căn cứ theo tiêu chuẩn hậu quả kinh tế.
Những vùng kinh tế trọng điểm của cả nớc , vì cả nớc cần đợc đầu t phát
triển đi trớc một bớc. Thực hiện quan điểm này nhằm hớng tới sự tăng trởng
kinh tế cao nền kinh tế quốc dân, nhng mặt khác cũng đa đến sự chênh lệch giữa
các vùng các địa phơng về tốc độ tăng trởng kinh tế , về thu nhập dân c và khả
8


năng cơ hội tìm kiếm việc làm. Tất nhiên , đến một lúc nào đó, theo đà phát
triển kinh tế, nguồn lực Nhà nớc và XH đủ lớn, Chính phủ sẽ có kế hoạch giảm
dần sự tách biệt giữa các vùng sinh thái. Về chênh lệch giữa thành thị và nông
thôn trong những năm trớc mắt, thực hiện chủ trơng công nghiệp hoá nông
nghiệp và nông thôn, tạo ra sự phân công lao động mới ở nông thôn, phát triển
tăng trởng nông thôn cả ở chiều rộng và chiều sâu, bằng mọi cách nâng cao mức
thu nhập của nông dân, lực luợng lao động đông đảo nhất ở nớc ta, từng bớc
xoá bỏ khoảng cách giữa thành thị và nông thôn.
Chiến lợc ổn định và phát triển kinh tế - XH đến năm 2000 và nghị quyết
Đại hội Đảng VIII của Đảng ta đà đề ra đờng lối, chủ trơng, chính sách tổng
quát phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc đến năm
2000 và chuẩn bị cho thời kì phát triển từ sau năm 2000 đến năm 2020 về cơ
bản nớc ta sẽ trở thành 1 nớc công nghiệp. Lực luợng sản xuất lúc đó sẽ đạt
trình độ tơng đối hiện đại, phần lớn lao động thủ công đợc thay thế bằng lao
động sử dụng máy móc, điện khí hoá toàn quốc cơ bẳn đợc thực hiện. Năng
suất lao động xà hội và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn nhiều hiện nay.

*)Biện pháp thực hiện:
1) Tăng cờng vai trò của Nhà nớc trong phân phối lại và cung cấp dịch
vụ xà hội ở nông thôn
Thực hiện tăng trởng kinh tế phải gắn kiỊn víi tiÕn bé c«ng b»ng x· héi
ngay trong tõng bớc và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xà hội phải
thể hiện ở cả khâu phối hợp lý t liệu sản xuất lẫn ở khâu ở khâu phân phối kết
quả sản xuất cũng nh ở việc tạo điều kiện phát triển năng lực của toàn thành
phần trong cộng đồng. Nhà nớc điều tiết qua các sắc thuế thu nhập các cá nhân
để giảm bớt chênh lệch thu nhập giữa các tằng lớp dân c và huy động góp của
những ngời có thu nhập cao vào sự phát triển cña x· héi .

9


Kinh nghiệm các nớc và lÃnh thổ Đông á nh Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài
Loan, Malaysia cho thấy rằng khu vc nông thôn có vai trò to lớn và biến đổi
mạnh mẽ thông qua các biện pháp tăng thu nhập ở nông thôn (giảm đói nghèo
và cải thiện phúc lợi xà hội ). Quá trình biến đổi nông thôn liên quan đến 1 loạt
yếu tố nh tăng năng suất lao động nông nghiệp, đẳy mạnh các hoạt động phi
nông nghiệp ở nông thôn và phát triển cơ sở hạ tầng đa thanh niên nông thôn
đến những nơi có cơ hội làm việc, cải thiện y tế xây dựng trờng học và cung cấp
nớc sạch. Một trong những vai trò dễ thấy nhất của chính phủ là cung cấp các
dịch vụ nông thôn cơ bản nh giáo dục tiểu học, chăm sóc sức khoẻ ban đầu , xây
dựng kết cấu hạ tầng cơ sở và cứu trợ xà hội. Nhà nớc có vai trò quan trọng
trong việc tạo ra một mạng lới bảo hiểm để bảo vệ các gia đình khỏi rủi ro, giữ
cho họ không lâm vào tình trạng khốn cùng và tạo điều kiện cho họ đóng góp
vào sự phát triển của đất nớc. Bảo đảm việc cung cấp các dịch vụ cơ bản này
một cách bình đẳng không những mang lại công bằng mà còn hiệu quả nữa.
Ngoài đầu t vào con ngời ta phải đầu t cả vào cơ sở hạ tầng nh đờng sá và cấp nớc. Cả 2 vốn đầu t con ngời và nhân tạo đó tạo nên cơ sở tăng trởng kinh tế.
Ngoài việc phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn trong những năm đầu của quá

trình phát triển nông thôn họ cũng đầu t nhiều vào con ngời ở khắp các vùng
nông thôn.Tỷ lệ chỉ tiêu công cộng dành cho khu vực Đông á cao hơn khu vực
khác:20% chỉ tiêu dành cho giáo dục (ở tất cả cac nớc đang phát triển là 13%).
Sự kết hợp giữa đầu t vào cơ sở hạ tầng nông thôn và nguồn nhân lực đà cải
thiện năng suất lao động, tăng cờng các cơ hội phi nông nghiệp và tiến hành
công nghiệp hoá nông thôn. Kết quả là các nớc Đông á đà không những đạt đợc
thành tựu tăng trởng kinh tế mạnh mẽ và bền vững trong 20-30 năm qua mà còn
giảm đói giảm nghèo một cách nhanh chóng. Những dịch vụ quan trọng nhất là
giáo dục tiểu học, y tế công cộng, chữa bệnh cơ bản cho ngời nghèo và nớc
sạch. Ngân sách Nhà nớc có vai trò chính yếu đối với cả 2 loại dịch vụ này, dù
các hộ gia đình có thể đóng góp một phần, đăc biệt là các dịch vô x· héi.
10


Thực tế cho thấy rằng các dịch vụ nông thôn ở Việt Nam, cũng giống nh
ở các nớc Đông Nam á khác, có vai trò quan trọng đối với tăng trởng kinh tế,
nhằm giảm đói nghèo và đảm bảo công bằng cho xà hội. Nhìn chung ở nông
thôn Việt Nam, những hộ gia đình tham gia vào các hoạt động kinh tế đa dạng
thờng có mức sống cao hơn các gia đình khác. Việc đa dạng hoá ngày càng đòi
hỏi có thông tin và kiến thức, cũng nh khả năng tiếp cận với công nghệ và thị trờng.
2) Chơng trình dân số kế hoạch hoá gia đình
Một nguyên nhân quan trọng dẫn đến nghèo đói và nhiều ngời dân, đặc
biệt là phụ nữ và trẻ em, không đợc chăm sóc y tế và học hành là các gia đình
quá đông con .Những gia đình này không đợc hởng thành quả của đổi mới thờng lao động nặng nề, vất vả kiếm sống mà thu nhập lại thấp, kiếm đợc việc làm
cũng là rất khó khăn. Vì vậy, làm cho các gia đình trở nên ít con là một yếu tố
cực kì quan trọng để có tăng trởng kinh tế gắn liền với tiến bộ xà hội và công
bằng xà hội.
Đảng và Nhà nớc ta đà ra nhiều chỉ thị, nghị quyết tập trung nhiều nguồn
lực nhằm hạ tỷ lệ phát triển dân số. Nhờ đó, phong trào thực hiện kế hoạch hoá
gia đình trong nhân dân cả nớc đang có những chuyển biến mạnh mẽ. Số con

trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đà giảm từ 3,8 con năm 1989
xuống 3,1 con năm 1994. Tuy vậy , kết quả và hiệu quả của công tác dân số kế
hoạch hoá giai đình còn thấp.
3) Chơng trình xoá đói giảm nghèo :
Xoá đói giảm nghèo là chính sách và lĩnh vực hoạt động thực tiễn cụ thể
và thiết thực nhất để giảm bớt bất công trong xà hội trong quá trình tăng trởng
kinh tế. Trong các kinh tế chính sách vĩ mô có liên quan trực tiếp đến ngời
nghèo phải kể đến các chính sách thể hiện qua chỉ thị khoán 100 và khoán 10,
11


luật đất đai năm 1993, hỗ trợ tín dụng cho nông dân, lập ngân hàng cho nghèo
Các nỗ lực đà tạo điều kiện đa dạng hoá sản xuất, thay đổi cơ cấu và bản chất
hợp tác xà nông nghiệp, tự do hoá thơng mại,giá cả, thị truờng lao động, vốn,
quản lý môi trờng..
Đến hết năm 1996, đà có trên 2 triệu lợt hộ nghèo đợc vay vốn sản xuất,
trong đó 1,2 triệu lợt hộ vay trên 1900 tỉ đồng từ nguồn ngân hàng phục vụ ngời
nghèo với lÃi suất thấp (1%/tháng) khong phải thế chấp. Khoảng 600 nghìn lợt
hộ nghèo đợc vay trên 3 tỉ đồng từ nguồn trích từ ngân sách ở các cấp chính
quyền địa phơng nhập quỹ xoá đói giảm nghèo, trên 600 nghìn lợt hộ nghèo vay
vốn từ quỹ của các tổ chức đoàn thể và 1 số lợng dáng kể đợc vay vốn xoá dói
giam nghèo từ các dự án hợp tác quốc tế.
Ngoài ra chúng ta cần tập trung giải quyết đồng bộ trên cả 2 phơng diện:
chính sách kinh tế vĩ mô liên quan đến xoá đói giảm nghèo, kiện toàn tổ chức
thực hiện xoá đói giảm nghèo từ trung ơng đến huyện xÃ.
4) Chơng trình giải quyết việc làm
Mục tiêu giâi quyết việc làm trong kế hoạch 5 năm 1996-2000 đợc đề ra
là: mỗi năm thu hút thêm từ 1,3 đên 1,4 triệu lao động có chỗ làm việc, giảm tỷ
lệ thất nghiệp ở thành thị xuống 5%. Nh vậy trong 5 năm, nớc ta giải quyết việc
làm cho hơn 6,5 triệu ngời .

Số lợng lao động không đủ việc làm ở khu vực nông thôn cả nớc trong
năm 1996 chiếm 26,58% so với dân số trong độ tuổi lao động khu vực nông
thôn. Khu vực thành thị vẫn còn từ 70 đến 80 vạn ngời không có việc làm,
chiếm 5,88% tổng số lao động thành thị. Hàng năm gần 2 triệu ngời trong độ
tuổi lao động ở nông thôn tràn ra thành thị tìm kiếm việc làm, đặc biệt ở Hà Nội
và TP.Hồ Chí Minh.Đến cuối năm 1997 quỹ Quốc gia đà giải quyết tạo việc làm
mới và ổn định việc làm cho hơn 1,8 triệu lao động. Nhà nớc đang đẩy mạnh
việc tìm kiếm thị trờng nớc ngoài, dự kiến thời kì 1996-2000 xuất khẩu hơn 10
12


vạn lao động, giải quyết việc làm cho các đối tợng tệ nạn xà hội khoảng 0,2
triệu ngời trong năm..v.v
5) Chơng trình phát triển đối với địa bàn xung yếu
Căn cứ vào mức độ phát triển, vùng dân tộc và miền núi của nớc ta đợc
phân định thành 3 khu vực, trong đó khu vực 3 là những vùng có khó khăn nhất.
Đây là nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc thiểu số. Kinh tế vùng này còn
mang tính tự cung tự cấp.Đồng bào phải làm ăn sinh sống trong điều kiện khắc
nghiệt, thờng du canh du c phá rừng làm rẫy.Đây là vùng có tỷ lệ đói nghèo cao
nhất so với các vùng trong cả nớc.Theo thống kê năm 1997, địa bàn miền núi có
khoảng 1,73 triệu hộ đói nghèo, gần 700 xà cha có đờng ô tô đến trung tâm.
Hầu hết các xà cha có điện líi, cha dïng níc s¹ch, trêng häc, tr¹m y tÕ còn sơ
sài. Số ngời mù chữ, thất học chiếm 60%... Vì vậy khu vực 3 là khu vực ẩn chứa
những nhân tố thiếu ổn định.Sự phân cực giàu nghèo giữa dân bản với dân mới
đến ngày càng tăng.
Trớc tình hình đó, tại phiên họp thờng kì tháng 3-1998, Chính phủ đà coi
chơng trình phát triển kinh tế xà hội của các xà đặc biệt khó khăn của miền núi
vùng sâu, vùng xa là 1 chơng trình đặc biệt quan trọng trong chiến lợc phát triển
kinh tế xà hội đất nớc. Nhiệm vụ chủ yếu của chơng trình này là phát huy tiềm
năng tại chỗ bảo đảm an toàn lơng thực ở những nơi có điều kiện, từng bớc phát

triển kinh tế hàng hoá.Quy hoạch dân c gắn với định canh định c, tạo điều kiện
cho sản xuất phát triển. Từng bớc tăng cờng cơ sở hạ tầng theo quy hoạch ổn
định, xây dựng và nâng cấp các công trình giao thông điện nớc, trờng học,trạm
y tế ,chợ, thuỷ lợi, phát triển giáo dục nâng cao dân trí.
6) Chống tham nhũng và buôn lậu
Tình trạng tham nhũng và chống buôn lậu ®ang diƠn ra kh¸ phỉ biÕn ë níc ta díi rất nhiều hình thức khác nhau. Tham nhũng không chỉ hoµnh hµnh ë
13


các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, ở các ngành, các
cấp, mà tệ nạn này còn ở cả các cơ quan quản lý hành chính và các cơ quan
chức năng thực thi pháp luật.
Tham nhũng và buôn lậu là các hoat động ảnh hởng tiêu cực rất lớn tới
công bằng xà hội, góp phần tăng nhanh sự phân hoá giàu nghèo trong xà hội .
Nhiều ngời do tham nhũng mà giàu lên nhanh chóng. Sự giàu của họ gắn liền
với hiện tợng ngân sách Nhà nớc bị thất thoát, khả năng tài trợ cho các dịch vụ y
tế, giáo dục giảm sút,v.vTham nhũng và buôn lậu đánh thẳng vào pháp luật,
xói mòn kỉ cơng, lung lay phép nớcvốn đợc coi là nền tảng, tiêu chuẩn công
bằng xà hội.
Tham nhũng và buôn lậu cũng ảnh hởng đến tốc độ tăng trởng kinh tế.
Buôn lậu trốn thuế làm hàng hoá sản xuất trong nớc không cạnh tranh đợc phải
thu hẹp sản xuất , nhiều ngành sản xuất non trẻ bị thui chột vì hàng nhập lậu
tràn lan.Tham nhũng làm thất thoát vốn đầu t và phát triển của Nhà nớc và làm
nản lòng các nhà đầu t nớc ngoài trong việc đầu t vào Viêt Nam. Tham nhũng và
buôn lậu là mặt trái của nền kinh tế thị trờng ; là biểu hiện đối đầu giữa tăng trởng kinh tế và công bằng xà hội .Nếu không có biện pháp ngăn chặn kịp thời sẽ
gây ra những căng thẳng xà hội.
7) Xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn
Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn ngày càng đợc chú
trọng ở nhiều nớc, trở thành một bộ phận quan trọng trong chiến lợc phát triển
quốc gia và kinh nghiệm nhiều nớc thấy xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn là

một điều kiện quan trọng để đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế xà hội một nớc. Đối với nớc ta, xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn là tiền đề
quan trọng để thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông thôn và cả nớc, góp
phần ổn định chính trị giải quyết công bằng xà hội, đa nông thôn lên cuộc sống
mới phồn vinh theo định hớng XHCN.
14


8) Phát triển giáo dục đào tạo ở nông thôn
Con em nông dân, đặc biệt là con em ngời nghèo ở nông thôn ít đợc đi
học, hoặc học ít, không đợc đào tạo nghề sẽ ít có cơ hội việc làm. Giáo dục
nông thôn ở nớc ta tuy có phát triển nhng vẫn còn rất nhều khó khăn. Bên cạnh
khó khăn về mặt giáo viên thì khó khăn về giải quyết lơng, hoạt động dạy và
học, trờng sở, thiết bị là khó khăn lớn nhất. Kinh phí ngân sách Nhà nớc cho
giáo dục đào tạo những năm qua dao động trong khoảng6%. Nghị quyết Trung ơng II đà chỉ rõ phải nâng tỷ lệ cho giáo dục đào tạo lên 17% đến năm 2000.
Nhng ngân sách Nhà nớc ta là quá nhỏ nên tỷ lệ đó cũng không đa lại sự cải
thiện mạnh mẽ cho giáo dục đào tạo nông thôn. Giải pháp là phải đẩy mạnh xÃ
hội hoá giáo dục, đào tạo.
9) Phát triển y tế nông thôn
Chuyển sang cơ chế thị trờng, y tế nông thôn gặp rất nhiều khó khăn, các
trạm xá xuống cấp trầm trọng. Y tế cơ sở không phát triển mà chỉ tập trung cho
bệnh viện tuyến trung ơng và cấp tỉnh. Bà con nông dân không có điều kiện đi
khám bệnh ở các tuyến trên. Giải pháp là phải phát triển y tế cơ sở, củng cố mở
rộng, nâng cấp các trạm y tế xÃ. Muốn thế phải có vốn đầu t lớn và có chính
sách thoả đáng cho cán bộ y tế. Luật ngân sách ra đời có hiệu lợc từ ngày 1-11997 đà quy định rõ nội dung phân cấp nhiệm vơ chi cho y tÕ cac cÊp, trong ®ã
y tÕ nông thôn sẽ đợc đảm bảo và ổn định.

15


Kết luận

Tăng trởng kinh tế và công bằng xà hội là một nội dung lớn và là quan hệ
cơ bản nhất của quá trình phát triển kinh tế xà hội .Tăng trởng kinh tế phải đi
liền với công bằng xà hội .Công bằng xà hội không chỉ là công bằng trong phân
phối thu nhập mà còn trong các điều kiện mà ở đó mỗi cá nhân đều có cơ hội
tham gia nh nhau vào các hoạt động của cộng đồng. Tuy nhiên trên thực tế, các
16


®iỊu kiƯn hiƯn nay rÊt kh¸c biƯt t theo giai đoạn lịch sử, điều kiện sinh sống,
tố chất cá nhân.Trên thùc tÕ ngêi ta chØ cã thĨ gi¶m bít bÊt bình đẳng, bất công
chứ không thẻ đạt đợc công bằng tuyệt đối. Quan hệ giữa tăng trởng kinh tế và
công bằng xà hội do vậy phải đợc hiểu là mức độ giảm bớt bất bình đẳng đạt đợc cùng với tăng trởng kinh tế .
Việt Nam đà đạt đơc những thành tựu bớc đầu nhng rất quan trọng trong
tăng trởng kinh tế trong suốt 12 năm đổi mới. Nhờ quá trình phi tập trung hoá
nền kinh tế, đặc biệt là chế độ khoán trong nông nghiệp, và tạo môi trờng cho 5
thành phần kinh tế cùng phát triển, chuyển sang cơ chế thị trờng, đời sống nhân
dân đợc cải thiện rõ rệt trên mọi mặt.Chế đọ phân phối gắn với lao động và kết
quả, hiệu quả lao động đà cho ra những động lực thúc đẩy tăng trởng và tạo ra
công bằng.
Những giải pháp , chính sách và chơng trình quốc gia đợc tiếp tục hoàn
thiện và triển khai sẽ tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa tăng trởng kinh tế và
giải quyết tốt hơn nữa tăng trởng kinh tế và công bằng xà hội, đa nớc ta trở
thành nớc công nghiệp hiện đại dân giàu, nớc mạnh, xà hội công bằng văn
minh

17




×