Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG ÁP DỤNG SẢN XUẤT SẠCH HƠN CHO LÀNG NGHỀ DỆT NHUỘM VẠN PHÚC- HÀ ĐÔNG- HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 71 trang )

UBND TỈNH QUẢNG BÌNH

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
GIỚI, ĐÓI NGHÈO VÀ DÂN TỘC THIỂU SỐ
TẠI CÁC XÃ VÙNG ĐỆM
VƯỜN QUỐC GIA PHONG NHA - KẺ BÀNG,
TỈNH QUẢNG BÌNH

Berlin, tháng 12 năm 2011
Ts. Rita Gebert &
Ông Trang Hiếu Tường

published by


i
LỜI NÓI ĐẦU
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ của những người cung cấp thông tin tham gia vào
đợt nghiên cứu này. Chúng tôi đánh giá cao sự cởi mở trong các cuộc thảo luận. Chúng tôi xin
cảm ơn các thành viên nam giới và nữ giới tại 13 thôn bản của 5 xã đã cung cấp cho chúng tôi
nhiều thông tin về hoạt động sinh kế của họ. Chúng tôi cũng xin cảm ơn các cán bộ xã đã hỗ trợ
chúng tôi sắp xếp các cuộc phỏng vấn tại các thôn bản. Cuối cùng, chúng tôi xin cảm ơn sự hỗ
trợ đối với đợt nghiên cứu này từ phía Ông Nguyễn Trung Thực - Giám đốc dự án - và Ông Tiến
sĩ Jens Kallabinski, Cố vấn trưởng hợp phần GIZ, dự án “Bảo tồn và quản lý bền vững nguồn tài
nguyên thiên nhiên khu vực Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (VQG PNKB), tỉnh Quảng
Bình, Việt Nam”. Xin cảm ơn Ông Nguyễn Minh Đức - Cán bộ phiên dịch hợp phần GIZ - đã hỗ
trợ phiên dịch trong quá trình Nhóm tư vấn tiến hành khảo sát tại thực địa.
Chúng tôi thu thập được nhiều thông tin từ các cuộc thảo luận với các bên liên quan từ cấp tỉnh
đến các thôn bản. Tuy nhiên, trách nhiệm về các ý kiến được nêu trong báo cáo này thuộc về
các tư vấn, đặc biệt là tác giả chính - Tiến sĩ Rita Gebert. Những ý kiến trong báo cáo này không
nhất thiết phải đại diện cho các ý kiến của GIZ, KfW hay của các thành viên của UBND tỉnh


Quảng Bình.


ii
Danh mục các t ừ v iết tắt
Ban QLDA
Bộ BMZ
Bộ LĐ-TB-XH
Bộ NN&PTNT
CEDAW
Chính phủ CHLB Đức
Chính phủ CHXHCN Việt Nam
Chương trình ODA
DTTS
CT
Dự án khu vực PNKB

Tổ chức GIZ
Green VDP/CDP
HĐND
Hội LHPNVN
KfW
MDG
NHCSXHVN
NHNN&PTNTVN
PCT
PES
QHPTVĐ
Sở LĐ-TB-XH
Tổ chức NGO

TP. HCM
UBND
UNESCO
VDP
VDP/CDP
VQG PNKB

Ban Quản lý dự án
Bộ Hợp tác và Phát triển Kinh tế Liên bang Đức
Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Công ước Liên Hợp Quốc loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử với phụ nữ
Chính phủ nước Cộng hòa liên bang Đức
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Chương trình hỗ trợ phát triển chính thức
Dân tộc thiểu số
Chương trình
Dự án “Bảo tồn và quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên
nhiên khu vực Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (VQG
PNKB), tỉnh Quảng Bình, Việt Nam”
Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức
Kế hoạch phát triển thôn bản/xã theo hướng bảo tồn
Hội đồng nhân dân
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Ngân hàng Tái thiết Đức
Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ
Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
Phó Chủ tịch

Chi trả dịch vụ môi trường
Quy hoạch phát triển vùng đệm
Sở Lao động - Thương binh - Xã hội
Tổ chức phi chính phủ
Thành phố Hồ Chí Minh
Ủy ban nhân dân
Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên Hợp Quốc
Kế hoạch phát triển thôn bản
Kế hoạch phát triển thôn bản/xã
Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng

Tỉ lệ hối đoái bình quân (Tháng 11/2011):
EUR – VND = 1:29.000
USD – VND = 1:20.000


iii

Mục lục
Lời nói đầu .......................................................................................................................... i
Danh mục các từ viết tắt ................................................................................................... ii
1.

THÔNG TIN CƠ SỞ.................................................................................................... 1

1.1

Điều khoản tham chiếu ............................................................................................. 1

1.2


Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 2

2

KHUNG CHÍNH SÁCH VỀ GIỚI, ĐÓI NGHÈO VÀ DÂN TỘC THIỂU SỐ ................... 5

2.1

Chính sách về Giới .................................................................................................... 5

2.1.1 Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ................................................................................ 6
2.2

Chính sách về đói nghèo .......................................................................................... 7

2.3

Chính sách về dân tộc thiểu số ................................................................................ 8

3

CÁC VẤN ĐỀ VỀ GIỚI TẠI CÁC XÃ VÙNG ĐỆM .................................................... 10

4

TÌNH HÌNH ĐÓI NGHÈO TẠI CÁC XÃ VÙNG ĐỆM .................................................. 14

4.1


Ai là người nghèo trong các xã vùng đệm? .......................................................... 17

5

RỪNG VÀ ĐA DẠNG SINH HỌC TẠI CÁC XÃ VÙNG ĐỆM .................................... 18

6

TÓM TẮT TÌNH HÌNH SINH KẾ TRONG CÁC XÃ VÙNG ĐỆM ĐÃ KHẢO SÁT ...... 26

7

CÁC VẤN ĐỀ GẮN VỚI QUY HOẠCH PHÁT TRIẺN VÙNG ĐỆM ........................... 31

8

CÁC Ý KIẾN ĐỀ XUẤT ............................................................................................. 33

8.1

VQG PNKB và Lâm trường quốc doanh ................................................................ 33

8.2

Các biện pháp hỗ trợ sinh kế ................................................................................. 34

8.3

Các đề xuất kiến nghị khác..................................................................................... 35


8.4

Các nhu cầu khác về thông tin và nghiên cứu ...................................................... 35

9

NGUỒN TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 36


iv

Danh sách các bảng
Bảng 1

Thông tin dân số các nhóm dân tộc thiểu số tại các xã vùng đệm

Bảng 2

Đất trồng cây hằng năm tại các xã vùng đệm

13

Bảng 3

Các hộ nghèo và cận nghèo tại vùng đệm và vùng lõi

14

Bảng 4


So sánh các hộ nghèo vùng đệm - Những thay đổi qua thời gian

15

Bảng 5

Chăn nuôi gia súc tại vùng đệm - Những thay đổi qua thời gian

17

Bảng 6

Đất rừng thuộc sự quản lý của xã, VQG PNKB, Lâm trường quốc doanh và
Ban quản lý rừng phòng hộ

23

4

Danh sách các bảng và các hình
Hộp 1

Một vấn đề về nhận thức: Cách các đồng bào dân tộc thiểu số được nhìn
nhận tại Việt Nam

10

Hình 1

So sánh vùng đệm VQG PNKB và các khu vực do Lâm trường quản lý


22

Các phụ lục
Phụ lục 1

Điều khoản tham chiếu

39

Phụ lục 2

Các cá nhân đã gặp và chương trình công tác tại Quảng Bình

46

Phụ lục 3

Thông tin thêm về Nhóm dân tộc thiểu số trong vùng đệm Quảng Bình

49

Phụ lục 4

Khung câu hỏi thảo luận nhóm tập trung tại thôn bản

52

Phụ lục 5


Một số các ý kiến thảo luận ghi nhận trong chuyến công tác thực địa
Lồng ghép các vấn đề về Giới, Đói nghèo và Dân tộc thiểu số vào
QHPTVĐ
Trang thông tin về Giới, Đói nghèo và Dân tộc thiểu số

55

Phụ lục 6
Phụ lục 7

60
63


Dự án Khu vực PNKB: Nghiên cứu giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số

1

1. THÔNG TIN CƠ SỞ
Dự án “Bảo tồn và quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên khu vực Vườn Quốc gia
Phong Nha - Kẻ Bàng (VQG PNKB), tỉnh Quảng Bình, Việt Nam” là dự án hợp tác giữa Ủy
ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (UBND tỉnh) (thay mặt Chính phủ Việt Nam) và Tổ chức Hợp
tác Quốc tế Đức (GIZ) và Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW) (thay mặt Chính phủ CHLB Đức).
Chủ dự án là UBND tỉnh Quảng Bình. Dự án được tài trợ thông qua nguồn ngân sách cấp tỉnh
(phía Việt Nam) và nguồn quỹ được cấp từ Bộ Hợp tác Phát triển Kinh tế Đức ( BMZ) thông
qua 2 tổ chức là KfW và GIZ. Dự án được lập kế hoạch thực hiện trong vòng 08 năm qua
nhiều giai đoạn. Giai đoạn 2 hiện tại được bắt đầu thực hiện từ 10/2010 và sẽ kết thúc vào
09/2013.
Khu vực dự án bao gồm vùng lõi của VQG PNKB với diện tích 125.498 ha và vùng đệm
225.000 ha.1 Vùng đệm VQG PNKB bao gồm 11 xã vùng đệm thuộc 3 huyện gồm Bố Trạch (5

xã), Minh Hóa (5 xã) và Quảng Ninh (1 xã) nằm về phía tây tỉnh Quảng Bình. Ngoài ra, huyện
Bố Trạch còn có 2 xã nằm trong vùng lõi của VQG PNKB. Dân số của 13 xã hiện ước ước tính
trên 62.000 người và phần lớn là người dân nông thôn. Người dân địa phương tác động vào
VQG PNKB và nguồn tài nguyên thiên nhiên trong vườn ở các mức độ khác nhau, phụ thuộc
vào cách người dân kiếm nguồn sinh kế của mình như thế nào và phụ thuộc vào khoảng cách
giữa khu vực nơi người dân sinh sống với VQG PNKB. Dân số của 13 xã chủ yếu là người
Kinh, nhưng nếu so với toàn tỉnh Quảng Bình, tỉ lệ phần trăm người dân tộc thiểu số chiếm tỉ
lệ cao hơn nhiều (khoảng 19% so với mức 2.4% - xem Bảng 1 dưới đây). Thực tế, số liệu dân
số cho thấy khoảng 63% tổng dân số người đồng bào dân tộc thiểu số của toàn tỉnh sống tại
chính 13 xã vùng đệm và vùng lõi nói trên.2
Một hoạt động quan trọng của hợp phần Hỗ trợ kỹ thuật GIZ trong giai đoạn hiện tại chính là
hỗ trợ xây dựng Quy hoạch phát triển vùng đệm định hướng bảo tồn (QHPTVĐ) đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030 trong bối cảnh ưu tiên bảo tồn VQG PNKB. Hiện tại, quá trình
lập kế hoạch đang được tiến hành để xây dựng nội dung của QHPTVĐ cũng như các bản kế
hoạch đầu tư cho QHPTVĐ trong tương lai. UBND tỉnh đã phê duyệt nội dung Đề cương
QHPTVĐ vào tháng 09/2011. Đợt nghiên cứu về giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số được tiến
hành nhằm hỗ trợ cung cấp thêm thông tin cho quá trình xây dựng QHPTVĐ, và sẽ nêu ra một
số giải pháp lồng ghép một số vấn đề có liên quan vào bản quy hoạch tổng thể để đạt được
các mục tiêu bảo tồn vầ phát triển đã được xác định.
1.1 Điều khoản tham chiếu
Ban đầu, Điều khoản tham chiếu (xem Phụ lục 1) của đợt nghiên cứu này được xây dựng tập
trung cho các vấn đề liên quan đến giới trong khu vực vùng đệm. Tuy nhiên, sau đó, Điều
khoản tham chiếu đã được điều chỉnh để lồng ghép nhằm thể hiện thêm các nội dung liên
quan đến các vấn đề về đói nghèo và dân tộc thiểu số, dù rằng bản Điều khoản tham chiếu
“chính thức” chỉ đề xuất đến các vấn đề về giới. Tuy nhiên, nhóm tư vấn nhận thức tầm quan
trọng của các vấn đề về đói nghèo và dân tộc thiểu số, đối với Việt Nam và đối với vùng đệm
VQG PNKB, nên nhóm tư vấn sẵn sàng tập trung nỗ lực nghiên cứu về những vấn đề xuyên
suốt nói trên trong đợt nghiên cứu lần này.
Mục tiêu chính của đợt nghiên cứu này như sau:
Tiến hành phân tích về các tác động của phát triển sinh kế gắn với bảo tồn đa dạng sinh học

và nguồn tài nguyên thiên nhiên đối với vấn đề bình đẳng giới; xác định các cơ hội để cải thiện
vấn đề bình đẳng giới trong khuôn khổ QHPTVĐ, và xác định các cơ hội để nữ giới tham gia
1

Tài liệu dự án đưa ra số liệu khác so với số liệu Tư vấn nêu ra. Theo đó, VQG PNKB có diện tích
116.824 ha và vùng đệm 217.908,44 ha. Các nguồn thông tin khác cũng đưa ra các số liệu hơi khác.
2
Số liệu từ các bảng thống kê của Ban dân tộc và Văn phòng Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2009.
Số đồng bào người dân tộc thiểu số sống tại 13 xã nói trên khoảng 13.200 trong khi toàn tỉnh có khoảng
20.427 người.


Dự án Khu vực PNKB: Nghiên cứu giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số

2

vào quá trình ra quyết định, xây dựng chính sách và thiết kế chính sách trong phạm vi của
QHPTVĐ theo định hướng bảo tồn này;
Các câu hỏi liên quan bao gồm:
Làm thế nào để có thể tránh được bất bình đẳng giới trong quá trình phát triển sinh kế
trong vùng đệm (phân tích rủi ro)?
Làm thế nào để có thể cải thiện bình đẳng giới và các kết quả phân tích giới được thực
hiện trong QHPTVĐ?
Xây dựng khung theo dõi giám sát và đánh giá như thế nào đối với các khuyến
nghị và các chiến lược về bình đẳng giới đã được thực hiện trước kia (có nghĩa là cách
thức xây dựng và giám sát các chỉ số nhạy cảm về giới)?
Do quy mô chung của đợt nghiên cứu đã được mở rộng mà không thay đổi khung thời gian
thực hiện (thêm các khía cạnh bổ sung về đói nghèo và dân tộc thiểu số), Tư vấn không có đủ
thời gian để trả lời sâu và chi tiết các câu hỏi nêu trên. Thay vào đó, Báo cáo nghiên cứu này
tập trung vào việc nêu lên phần thông tin tổng quan về sinh kế của người dân địa phương nhấn mạnh về các vấn đề liên quan đến giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số - và cách người

dân gây ra hoặc không gây ra các tác động lên khu vực VQG PNKB. Các câu hỏi ngược cũng
được đặt ra: Việc bảo tồn đa dạng sinh học của khu vực PNKB và các khu vực vùng đệm đã
được xác định có những tác động như thế nào - tích cực hoặc tiêu cực - lên vấn đề sinh kế
của người dân địa phương (phân biệt theo giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số)? Nếu có các
tác động tiêu cực, có hay không các giải pháp để giảm thiểu các tác động đó?
Cuối cùng, trong quá trình nghiên cứu khảo sát, Nhóm tư vấn nhận ra ở một số vùng, các bên
tham gia lớn nhất vốn dĩ có và sẽ tiếp tục có các tác động nhiều hơn về đa dạng sinh học của
vùng đệm so với người dân địa phương đó chính là các Công ty Lâm nghiệp và các Lâm
trường Quốc doanh. Các Công ty Lâm nghiệp và Lâm trường quốc doanh có quy mô và phạm
vi ảnh hưởng lớn, tuy nhiên, các đối tượng này vẫn chưa được xem xét, đánh giá hợp lý trong
nội dung của QHPTVĐ (xem phần thảo luận trong Phần 5 dưới đây).
1.2 Phương pháp nghiên cứu
Đợt nghiên cứu được thực hiện tại tỉnh Quảng Bình với hai tư vấn, gồm:
 Tiến sĩ Rita Gebert, chuyên gia phát triển kinh tế-xã hội với hơn 20 năm kinh nghiệm
về phân tích giới và đói nghèo tại các khu vực vùng núi và cao nguyên ở Đông Nam Á.
 Ông Trang Hiếu Tường, chuyên gia phát triển kinh tế địa phương và chuỗi giá trị với
nhiều năm kinh nghiệm tại Quảng Bình và các tỉnh khác.
 Ông Nguyễn Minh Đức, cán bộ phiên dịch của Dự án được cử làm việc cùng với Nhóm
tư vấn.
Nhóm tư vấn dành một vài ngày đầu tại Đồng Hới để rà soát nhanh các vấn đề tại Dự án, và
Nhóm đã nhận được các ý kiến chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng chung và sự hỗ trợ từ phía
ông Nguyễn Trung Thực - Giám đốc Dự án và ông Tiến sĩ Jens Kallabinski - Cố vấn trưởng
Hợp phần GIZ. Cũng trong những ngày đầu tiên, Nhóm đã tham vấn các ý kiến với cán bộ phụ
trách của Dự án và đã tiến hành lựa chọn các xã để tiến hành khảo sát. Đề cương bảng câu
hỏi khảo sát cho thảo luận nhóm trọng tâm đã được xây dựng. Nhóm đã có các cuộc họp với
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (Sở LĐ-TB-XH), các đại diện của Hội Liên hiệp Phụ nữ
tỉnh và Ban dân tộc tỉnh Quảng Bình. Ba cơ quan này đại diện cho các bên liên quan được
nhắc đến đầu tiên khi nói về các vấn đề về đói nghèo, giới và dân tộc thiểu số tại Việt Nam.
Nhóm cũng muốn gặp đại diện của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Tài nguyên
và Môi trường, và Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) tỉnh, song không thể thực hiện

được do không có thời gian. (Xem Lịch làm việc của Nhóm tại Quảng Bình thể hiện các thôn
đã tiến hành khảo sát và Danh sách các cá nhân đã gặp tại Phụ lục 2).
Nhiệm vụ chính đầu tiên của Nhóm là chọn các xã để tiến hành khảo sát. Do thời gian hạn chế
trong phạm vi 09 ngày để tiến hành khảo sát các huyện - xã - thôn bản, Nhóm quyết định khảo
sát 5 xã (không khảo sát tại 2 xã vùng lõi do khoảng cách địa lý quá xa), như vậy theo kế


Dự án Khu vực PNKB: Nghiên cứu giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số

3

hoạch Nhóm sẽ khảo sát 2 xã tại mỗi huyện Bố Trạch và Minh Hóa (2/5 xã tại Bố Trạch và 2/5
xã tại Minh Hóa) và xã còn lại thuộc về huyện Quảng Ninh. Nhóm đưa ra lựa chọn trên chủ
yếu dựa trên các kết quả của đợt nghiên cứu “Đánh giá nhanh các mối đe dọa” được thực
hiện trong năm 2010 bởi Tư vấn Hoàng Thị Thanh Nga và cán bộ phụ trách của Dự án. Đợt
nghiên cứu trên đã xác định các xã dựa trên “các mối đe dọa” mà các xã gây ra cho khu vực
VQG PNKB theo mức độ đe dọa từ cao xuống thấp, chủ yếu dựa trên các cuộc khảo sát
phỏng vấn ở cấp xã được thực hiện tháng 11/2010. Nhóm đã lựa chọn các xã dựa trên các
mức độ đe dọa đã được xác định đối với VQG PNKB. Kết quả là, Hưng Trạch và Xuân Trạch
(huyện Bố Trạch) được xác định là các xã có mối đe dọa cao, trong khi Thượng Hóa (huyện
Minh Hóa) được xác định ở mức độ đe dọa trung bình-cao, còn Dân Hóa (Minh Hóa) được
xác định là mối đe dọa thấp giống như xã Trường Sơn của huyện Quảng Ninh.
Xã Trường Sơn được lựa chọn chủ yếu vì đây là xã vùng đệm duy nhất của huyện Quảng
Ninh. Nhóm cũng tiến hành lựa chọn các xã khác dựa trên tỉ lệ đồng bào người dân tộc thiểu
số sống tại từng xã cụ thể. Do vậy, Xuân Trạch và Hưng Trạch không có đồng bào dân tộc
thiểu số (đại diện cho 06 xã có tỉ lệ người dân tộc thiểu số dưới 10%); Dân Hóa và Trường
Sơn có phần lớn dân số là đồng bào người dân tộc thiểu số (đại diện cho 06 xã), trong khi
Thượng Hóa đồng bào người dân tộc thiểu số chiếm một phần tư dân số. Tập hợp các xã
được lựa chọn như trên đã cung cấp một phạm vi đủ lớn về các điều kiện liên quan để tiến
hành phân tích, khảo sát các vấn đề liên quan, ví dụ như vấn đề mối liên hệ giữa đói nghèo,

dân tộc thiểu số với công tác bảo tồn đa dạng sinh học.
Trên thực tế, tại Việt Nam, tỉ lệ đói nghèo thường cao hơn đối với các đồng bào dân tộc thiểu
số, chính vì vậy, Nhóm đã đối chiếu với các thôn bản người dân tộc thiểu số tại các xã vùng
đệm - trong số 13 xã đã đến khảo sát, 6 xã có người dân tộc thiểu số chiếm phần lớn dân số
xã. Các nhóm dân tộc thiểu số gồm Bru-Vân Kiều, Khùa, Sách, Rục, và Arem. Trong các
nhóm này, nhóm người Bru-Vân Kiều và Khùa sống chủ yếu tại 02 xã (Trường Sơn và Dân
Hóa), trong khi dân tộc Sách sống thành một nhóm nhỏ tại xã Dân Hóa (phần lớn dân tộc
Sách sống tại Hóa Sơn, xã này không nằm trong danh sách Nhóm tư vấn tiến hành khảo sát).
Nhóm dân tộc Rục tập trung chủ yếu với số lượng đáng kể ở xã Thượng Hóa, trong khi tộc
người Arem chỉ còn lại một nhóm nhỏ hiện sống duy nhất tại xã Tân Trạch với tổng số hộ gia
đình chỉ còn 64 hộ (xem Bảng 1 và Phụ lục 3 để biết thêm chi tiết về các nhóm dân tộc thiểu
số tại Quảng Bình).
Danh sách chính thức 53 nhóm dân tộc thiểu số của Việt Nam được chia thành các nhóm
chính, trong đó các nhóm dân tộc thiểu số của Quảng Bình thuộc về hai nhóm chính là BruVân Kiều (bao gồm nhóm dân tộc Khùa) và nhóm dân tộc Chứt (bao gồm các nhóm dân tộc
Sách, Rục và Arem). Trong hai nhóm dân tộc chính nói trên, nhóm Bru chiếm phần đông
(chiếm 72% tổng số đồng bào dân tộc thiểu số của Quảng Bình), các nhóm dân tộc thuộc
nhóm Chứt chiếm 25%, trong khi với các nhóm nhỏ còn lại, mỗi nhóm có không đến 100
người.3 Số liệu điều tra dân số năm 2009 còn cho thấy rằng tổng dân số là người dân tộc thiểu
số của Quảng Bình chỉ có 20.427 người, tương đương với 2,4% tổng dân số của Quảng Bình
(844.893 người) như đã nói ở trên. Các nhóm dân tộc thiểu số phần đông sống ở vùng nông
thôn (94%).
Việc lựa chọn các thôn bản được thực hiện cùng với các cán bộ của các xã được chọn. Tại
các xã có các thôn bản có và không có ruộng lúa, Nhóm Tư vấn cố gắng lựa chọn khảo sát tại
cả 2 loại thôn bản nói trên. Nhóm cũng đã cố gắng lựa chọn các thôn bản có mức độ tác
động/đe dọa thấp hơn hoặc cao hơn đến VQG PNKB. Do bị hạn chế về mặt thời gian, Nhóm
không đi khảo sát tại các thôn bản có khoảng cách đi/về (bằng xe ô tô/thuyền đò) hơn 30 – 40
phút tính từ trụ sở trung tâm các xã. Mặc dù Nhóm rất muốn khảo sát tại 2 xã nằm trong vùng
lõi của VQG PNKB, song do không có thời gian nên không thể thực hiện cuộc khảo sát tại 2
xã này, vì vậy, Nhóm đề xuất Dự án tiến hành một đợt khảo sát tương tự đối với 2 xã vùng lõi
này.


3

Xem Văn phòng Tổng cục thống kê, Số liệu điều tra dân số và hộ gia đình 2009, Bảng 5.


Dự án Khu vực PNKB: Nghiên cứu giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số

4

Vì thế, trong khoảng thời gian từ 17/11 - 25/11, Nhóm đã đi khảo sát tại 3 huyện, 5 xã và 13
thôn bản. Các cuộc họp với các Ban điều phối Dự án ở cấp huyện đã được tổ chức tại các
huyện Bố Trạch và Minh Hóa, trong khi các cuộc họp ở cấp xã được tiến hành tại tất cả 5 xã.
Nhóm đã đi khảo sát tại tất cả các thôn bản được lựa chọn, thường là có các cán bộ xã đi
cùng với Nhóm. Nhìn chung, Nhóm dành nửa ngày để phóng vấn khảo sát tại mỗi thôn bản.
Quá trình phỏng vấn khảo sát được thực hiện với quy trình: đầu tiên Nhóm gặp gỡ các lãnh
đạo của thôn/bản để có các thông tin tổng quát về thôn/bản, về dân số và về các nguồn tài
nguyên của thôn/bản đó, sau đó, hai tư vấn chia ra khảo sát hai nhóm người dân trong
thôn/bản - một tư vấn khảo sát nhóm nam giới và một tư vấn khảo sát nhóm nữ giới. Sử dụng
khung câu hỏi đã xây dựng từ trước khi đi thực địa (xem tại Phụ lục 4), Nhóm tiến hành các
cuộc thảo luận nhóm tập trung với các nhóm dân của các thôn bản với số người dân tham gia
khảo sát là 267 người.4 Thông qua việc lắng nghe cẩn thận và đặt các câu hỏi mở rộng dựa
trên các nội dung thảo luận, một số thông tin thú vị và không dự tính trước đã được đưa ra
thông qua các cuộc thảo luận nhóm tập trung. Trên thực tế, ở một số thôn bản, người dân khá
thẳng thắn khi khẳng định rằng tài nguyên rừng gần như là nguồn sinh kế duy nhất của họ.
Bảng 1: Thông tin về các nhóm dân tộc thiểu số (DTTS)
tại các xã vùng đệm




Nhóm dân
tộc

Số hộ
gia đình
DTTS

Số hộ gia
đình
người
Kinh

Số
người
DTTS

Tổng số
hộ gia
đình

% số hộ gia
đình DTTS
so với tổng
số hộ gia
đình

Huyện Minh Hóa
Trung Hóa

Dân Hóa


Trọng Hoa
Hóa Sơn

Thượng Hóa

Sách (Chứt)
Mường
Bru Khùa
Mày (Chứt)
Sách (Chứt)
Bru Khùa
Mày (Chứt)
Sách (Chứt)
Tho
Rục (Chứt)
Sách, Mày
(Chứt)

19

105

1,205

1,224

1.6

663


2,941

50

713

92.9

653

3,390

32

685

95.3

235

1,084

122

357

65.8

180


771

535

715

25.2

0
0
140
283

2,725
2,498
2,521
3

2,725
2,498
2,549
64

0
0
1.1
95.3

Huyện Bố Trạch

Hưng Trạch
Phúc Trạch
Sơn Trạch
Tân Trạch

Bru Macoong
Arem (Chứt)

0
0
28
61

Thượng Trạch

Bru Macoong

416

2,090

24

440

94.5

0
0


0
0

682
1,310

682
1,310

0
0

549

2,407

390

939

58.5

2,804

13,211

12,097

14,901


18.8

Phú Định
Xuân Trạch

Huyện Quảng Ninh
Trường Sơn

TỔNG

Bru-Vân Kiều

Ghi chú: Số liệu dân số được thu thập từ nhiều nguồn, một phần từ Ban Dân tộc tỉnh (số liệu 2009),
được cập nhật thông qua các số liệu dân số của các huyện và xã Nhóm tiến hành khảo sát.

4

Số người thảo luận ở nhóm phụ nữ: 107 người, nhóm nam giới: 69 người và nhóm cả nam và nữ: 91 người.


Dự án Khu vực PNKB: Nghiên cứu giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số

5

Về phần thu thập số liệu, Nhóm chú trọng sử dụng các phương pháp định tính. Tuy nhiên, với
những số liệu định lượng ví dụ như các số liệu về nhân khẩu học và đói nghèo, và các số liệu
thống kê về sử dụng đất, Nhóm sẽ sử dụng những số liệu này để mô tả thực trạng khảo sát
một cách đầy đủ hơn. Do vậy, các số liệu định tính sẽ được bổ sung bởi các số liệu thứ cấp
định lượng và định tính hiện có. Cũng cần phải lưu ý rằng cùng với các phương pháp thu thập
số liệu định tính, các phương pháp khảo sát tam giác đã được sử dụng để kiểm chứng các

thông tin nêu trong báo cáo. Có nghĩa là, tư vấn sử dụng các dạng câu hỏi giống nhau cho các
nhóm đối tượng khác nhau, từ đó có thể đánh giá liệu thông tin được cung cấp có phản ánh
thực tế hiện có hay không. Nếu các câu trả lời quá “đơn nhất” hoặc không thể được xác nhận
từ các nguồn khác, các câu trả lời này sẽ được coi là không đáng tin cậy để đưa vào trong
báo cáo hoặc được ghi nhận là các trường hợp cá biệt.
Là một phần của đợt tư vấn, Nhóm đã hai lần trình bày kết quả của đợt tư vấn: lần đầu tại
Đồng Hới báo cáo chủ yếu cho Ban QLDA khu vực PNKB (2 tư vấn cùng báo cáo), lần thứ hai
là cho các cố vấn và các cán bộ dự án của GIZ đang làm việc trong lĩnh vực quản lý nguồn tài
nguyên thiên nhiên (Bà Rita Gebert báo cáo). Ở hai lần trình bày báo cáo, các đại biểu đã
cung cấp các ý kiến phản hồi hữu dụng và những ý kiến này cũng sẽ được phản ánh trong
phần báo cáo sau đây.
2

KHUNG CHÍNH SÁCH V Ề GIỚI, ĐÓI NGHÈO VÀ DÂN TỘC
THIỂU SỐ

Việt Nam có khung chính sách được xây dựng tốt và toàn diện bao phủ các vấn đề về bình
đẳng giới, giảm nghèo và dân tộc thiểu số. Việt Nam còn có các khung chính sách khác về
phân loại và sử dụng rừng, về giao đất bao gồm đất rừng và đất nông nghiệp, chi trả các dịch
vụ môi trường rừng, về việc sắp xếp đổi mới các Lâm trường quốc doanh theo hướng bảo vệ
môi trường và về quản lý rừng cộng đồng có liên quan tới các khung chính sách về giới, giảm
nghèo và dân tộc thiểu số. Các khung chính sách này được xây dựng từ các tài liệu thuộc
nhiều nguồn khác nhau, bao gồm các bộ luật, các chiến lược Quốc gia, các Nghị định và
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, và các Thông tư của các Bộ ngành và các bản Kế
hoạch Phát triển Kinh tế - Xã hội. Riêng đối với tỉnh Quảng Bình, các tài liệu chính sách có liên
quan bao gồm Đề cương QHPTVĐ5 VQG PNKB (được UBND tỉnh Quảng Bình phê duyệt
trong năm 2011) cùng với Quy hoạch tổng thể Phát triển Kinh tế - Xã hội của tỉnh Quảng Bình
giai đoạn 2011 – 2020 (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong năm 2011).
Việc thực hiện các chính sách hoặc chương trình có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới
việc tiếp cận đất đai, rừng và các nguồn tài nguyên nước của phụ nữ và nam giới cũng sẽ gây

ra các tác động đối với vấn đề sinh kế và an ninh sinh kế của họ. Hơn nữa, việc thực hiện các
chính sách hoặc chương trình nói trên cũng sẽ mang lại các tác động khác biệt đối với phụ nữ
và nam giới. Việc tiếp cận và kiểm soát khác nhau đối với các nguồn tài nguyên giữa phụ nữ
và nam giới (chưa kể đến vị thế xã hội khác nhau giữa hai giới) ảnh hưởng khác nhau đến
phạm vi hưởng lợi của họ từ các chính sách khác nhau. Do đó, việc kết hợp các khung chính
sách với các điều kiện tự nhiên và kinh tế-xã hội sẽ quyết định vấn đề an ninh sinh kế hộ gia
đình. Trái lại, an ninh sinh kế hộ gia đình tại các xã vùng đệm cũng sẽ ảnh hưởng đến mối
quan hệ giữa phụ nữ và nam giới với môi trường tự nhiên và ảnh hưởng đến cách hộ sử dụng
các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
2.1 Chính sách về Giới
Vấn đề bình đẳng giới được thừa nhận theo Hiến pháp của Việt Nam. Việt Nam đã phê chuẩn
Công ước loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (viết tắt: CEDAW) của Liên Hợp
Quốc năm 1982, và Luật Bình đẳng giới cũng đã được ban hành năm 2006.
Luật bình đẳng giới bao gồm các nguyên tắc quan trọng, quy định nguyên tắc bình đẳng giới
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình, biện pháp bảo đảm bình đẳng giới, trách
5

Các đề xuất về cách lồng ghép các vấn đề về giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số vào trong QHPTVĐ được nêu
tại Phụ lục 5.


Dự án Khu vực PNKB: Nghiên cứu giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số

6

nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện bình đẳng giới. Luật quy
định quyền và nghĩa vụ ngang nhau giữa vợ và chồng đối với đất đai và các tài sản khác (“Vợ,
chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng
nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình”), và quyền
của phụ nữ được đối xử bình đẳng về việc làm, về tiền công, tiền thưởng. Liên quan đến

quyền sử dụng đất, các giấy chứng nhận được cấp không có đầy đủ cả tên vợ và tên chồng
sẽ phải được cấp lại. Việc này áp dụng cho mọi loại hình đất đai. Dĩ nhiên, một yếu tố quan
trọng đó là đảm bảo vấn đề an ninh sinh kế của phụ nữ, và từ đó, đảm bảo an ninh sinh kế
của con cái họ.
Dựa trên Luật Bình đẳng giới, Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới (2011 - 2020) đã được
Thủ tướng Chính phủ ban hành vào tháng 12 năm 2010 (2351/QD-TTg) với 07 mục tiêu và 22
chỉ tiêu; trong đó, Mục tiêu 2, Chỉ tiêu 4 quy định rằng phụ nữ nghèo và phụ nữ dân tộc thiểu
số có quyền được nhận ưu đãi về tín dụng: Tỷ lệ nữ ở vùng nông thôn nghèo, vùng dân tộc
thiểu số có nhu cầu được vay vốn ưu đãi từ các chương trình việc làm, giảm nghèo và các
nguồn tín dụng chính thức đạt 80% vào năm 2015 và 100% vào năm 2020. Dựa trên Chiến
lược quốc gia về bình đẳng giới, UBND tỉnh Quảng Bình đã ban hành Quyết định số 1841/QĐUBND ngày 02/08/2011 phê duyệt chính thức bản kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia về
Bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015.
2.1.1 Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (Hội LHPNVN) là một tổ chức đoàn thể với tổ chức được cơ
cấu xuống đến tận các thôn bản của Việt Nam. Không chỉ có các cán bộ được sắp xếp hoạt
động từ cấp trung ương tới cấp xã, Hội LHPNVN còn có các đại diện làm việc cho tất cả các
Bộ ngành. Trong khi phạm vi của Hội LHPNVN trong thực tế là rất rộng, song các ảnh hưởng
và các tác động thực tế của Hội đối với vấn đề sinh kế và quyền của phụ nữ, đặc biệt là của
phụ nữ dân tộc thiểu số nghèo còn gặp nhiều hạn chế. Tổ chức có ngân sách hạn chế, nhưng
có xu hướng nhận được hằng năm nhiều chương trình hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) do
chức năng quan trọng nhất của hội gắn liền với phụ nữ và trẻ em. Trong khi Hội phụ nữ hiển
nhiên được xem là cơ quan điều phối với các sở, ban ngành liên quan trong việc lồng ghép
định hướng về giới, thì công tác này thường ít khi thực hiện được vì không có hỗ trợ ngân
sách đặc biệt.
Hội LHPNVN đã có thời gian dài tham gia vào các chương trình tín dụng vi mô hướng tới các
đối tượng chủ yếu là các nhóm phụ nữ, trong đó có các nhóm phụ nữ của Quảng Bình. Ngoại
trừ trường hợp Hội LHPNVN nhận được nguồn viện trợ từ từ các dự án ODA hoặc các tổ
chức phi chính phủ (NGO) quốc tế có thể giải ngân cho các nhóm hội các cấp, thông thường
Hội LHPNVN sẽ hợp tác với Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXHVN) và với quy
mô nhỏ hơn với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (NHNN&PTNTVN)

thành lập các nhóm đồng trách nhiệm để nhận các khoản vay từ các tổ chức tín dụng nói trên.
Hiện Nhóm không biết rõ các tác động mà các khoản vay này mang lại cho phụ nữ/hộ gia đình
nông thôn Quảng Bình khi nói về vấn đề sinh kế của họ. Ở một số thôn bản mà Nhóm đến
thăm, một số nhóm người dân nói rằng họ gặp nhiều khó khăn về vấn đề trả nợ ngân hàng
(xem phần thảo luận ở phần sau), tuy nhiên cũng ở các thôn bản nói trên, một số nhóm khác
nói rằng họ có thể tận dụng tốt các khoản tín dụng nhận được từ các ngân hàng.
Nói chung, các vấn đề về giới tại Việt Nam - dù có nhiều nỗ lực, chính sách và chiến lược
khác nhau - vẫn chưa được định hướng và lồng ghép một cách đầy đủ, và phụ nữ và trẻ em
gái vẫn tụt hậu so với nam giới trong nhiều chỉ tiêu phát triển chủ chốt, đặc biệt là trong lĩnh
vực giáo dục và biết đọc biết viết. Tỉ lệ nữ giới biết đọc biết viết ở các nhóm dân tộc thiểu số
còn thấp tại Quảng Bình, cơ hội cho họ đến trường ở tại và gần các thôn bản của mình vẫn
còn hạn chế, do vậy họ thường không học quá lớp 5 (cấp tiểu học).6
6

Ban Dân tộc gần đây vừa tổ chức một đợt khảo sát tại Quảng Bình trong năm 2011 với 966 người dân tộc thiểu
số trên độ tuổi 06 tuổi và kết quả khảo sát cho thấy 34% trẻ em gái và phụ nữ (185/470 được khảo sát) bị mù chữ
so với nam giới 18% (89/496). Những con số này cao hơn rất nhiều so với người Kinh.


Dự án Khu vực PNKB: Nghiên cứu giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số

7

2.2 Chính sách về đói nghèo
Việt Nam, với đà phát triển kinh tế mạnh mẽ của mình trong vòng một thập kỷ qua, đã có
những nỗ lực mạnh mẽ trong công tác xóa đói, giảm nghèo và mức thu nhập tính trên đầu
người đã tăng 228% trong khoảng thời gian từ 1990 đến 2011, và Việt Nam hiện là một trong
những quốc gia có mức tăng trưởng nhanh nhất thế giới.7 Tuy nhiên, trong khoảng thời gian
đó, các nhà nghiên cứu và các nhà quan sát cũng đã ghi nhận một số khó khăn thách thức
gắn với vấn đề công bằng mà nền kinh tế bền vững, ổn định và liên tục của Việt Nam đang

gặp phải. Thách thức lớn nhất chính là tính hiệu quả của các chương trình và chính sách giảm
nghèo đối với đồng bào người dân tộc thiểu số và đối với các xã có hoàn cảnh cực kỳ khó
khăn (xã miền núi, vùng sâu, và vùng biên giới). Theo một số tài liệu, mặc dù đồng bào các
dân tộc thiểu số chỉ chiếm khoảng 14.5% dân số Việt Nam, song họ chiếm trên 50% số người
nghèo của cả nước.8 Mục tiêu thiên niên kỷ tổng thể về đói nghèo là giảm tỉ lệ đói nghèo trên
đầu người xuống 50% so với tỉ lệ đói nghèo năm 1990. Trên thực tế, trên toàn Việt Nam, mục
tiêu thiên niên kỷ này đã đạt được tốt hơn so với dự kiến, nhưng không thành công với đồng
bào dân tộc thiểu số. Và thực tế này cũng diễn ra tại Quảng Bình.
Ở Việt Nam, quyết định chính thức về mức đói nghèo chính là mức trần đói nghèo tính trên
thu nhập theo đầu người hằng tháng được Bộ LĐ-TB-XH xác định trên cơ sở định kỳ. Mức
trần đói nghèo được quyết định qua Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Mức nghèo trước
đây được xác định cho giai đoạn 2006 – 2010 là 200.000 đồng/người/tháng cho khu vực nông
thôn. Do tỉ lệ lạm phát cao xảy ra tại Việt Nam, đến nay, một mức chuẩn nghèo mới ở khu vực
nông thôn đã được ấn định ở mức 400.000 đồng/người/tháng cho giai đoạn 2011 - 2015. Mức
nghèo mới ở khu vực thành thị được xác định ở mức 500.000 đồng/người/tháng. Quyết định
của Thủ tướng Chính phủ số 09/2011/QD-TTg cũng đặt mức “cận nghèo” là 401.000 đến
520.000 đồng/người/tháng (khu vực nông thôn) và 501.000 – 650.000 đồng/người/tháng (khu
vực thành thị). Nếu một hộ gia đình được xác định là hộ nghèo, điều này cho phép hộ gia đình
đó được hưởng nhiều lợi ích từ các chính sách của chính phủ, và hưởng lãi suất ưu đãi từ
NHCSXHVN (0.32% mỗi tháng thay vì 0.65%).
Hiện tại, có 62 huyện của 20 tỉnh thành của Việt Nam được nhận thêm các nguồn quỹ trợ cấp
đói nghèo trong thời gian 12 năm (2009 – 2020) theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP được phê
duyệt vào tháng 12/2008. Theo Nghị quyết này, huyện Minh Hóa được liệt vào danh sách các
huyện nghèo do tỉ lệ nghèo của huyện đạt trên 50%. Các hoạt động dựa trên Nghị quyết 30a
đã được tiến hành trong hai năm qua và huyện đã chi gần 82 tỉ đồng (khoảng 2,8 triệu EUR)
cho các hạng mục thuộc ngân sách 30a.9 Hiện có một Nghị quyết tiếp theo Nghị quyết 30a
được ban hành tháng 05/2011, chính là Nghị quyết 80/NQ-CP về giảm nghèo bền vững giai
đoạn 2011 - 2020.
NHCSXHVN là một công cụ quan trọng của Việt Nam để thực hiện các chính sách về đói
nghèo. NHCSXHVN là một đơn vị quốc doanh và hoạt động trên nguyên tắc cho người nghèo

vay các khoản vay ưu đãi. Điều này có nghĩa là người nghèo được vay các khoản vay có tỉ lệ
lãi suất thấp hơn so với NHNN&PTNT hoặc các ngân hàng thương mại khác mà không cần
phải thế chấp tài sản. Sau khi thông qua Nghị quyết 30a và Hướng dẫn 867/NHCS-TD của
NHCSXHVN được ban hành tháng 04/2009, NHCSXHVN cam kết cung cấp các khoản vay với
lãi suất bằng 0% cho các huyện thuộc diện 30a, trong đó có huyện Minh Hóa. Mức vay tối đa
cho các khoản vay lãi suất 0% là 05 triệu đồng (thời hạn 02 năm, ví dụ dùng để mua gia súc).
Thông thường, phần lớn các khoản vay của NHCSXHVN là cho các “nhóm tín dụng” được Hội
nông dân Việt Nam các cấp hoặc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp thành lập. Thông tin
7

Xem Báo cáo chỉ số phát triển con người mới nhất (2011) của UNDP. Có thể tìm thấy bài viết về vấn đề này trên
báo Thanh niên hằng ngày ngày 11/11/2011 tại />8
Ngân hàng Thế giới, Phân tích xã hội quốc gia: Tình hình dân tộc và quá trình phát triển tại Việt Nam (2009: 1)
“Trong năm 2006, các hộ gia đình người Việt hay còn gọi là người Kinh, và người Hoa có tỉ lệ nghèo đói chỉ là 10%,
trong khi với các nhóm dân tộc thiểu số khác, tỉ lệ này bình quân là 52%.”
9
Nguồn: Cán bộ phòng LĐTBXH huyện Minh Hóa.


Dự án Khu vực PNKB: Nghiên cứu giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số

8

mà Nhóm thu thập được trong quá trình đi thực địa cho thấy khái niệm về “cho vay nhóm” hiện
chưa được hiểu một cách rõ ràng ở cấp cơ sở, bởi cái gọi là “nhóm” đôi khi lại là 01 nhóm có
các thành viên thuộc nhiều thôn bản và có số thành viên lên đến 50 người. Một số “nhóm” chỉ
tồn tại trong một vòng quay tín dụng trước khi bị giải thể. Nhóm chưa có thông tin cụ thể về
điều gì sẽ xảy ra với nhóm trong tình huống các thành viên của nhóm không thể thanh toán
được các khoản vay của mình; Nhóm nhận được phản hồi từ một số người dân cho biết họ
phải bán số gỗ buôn bán bất hợp pháp để có thể trả các khoản “nợ xấu” - một tác động hết

sức tiêu cực chưa được dự báo trước! NHCSXHVN cũng hỗ trợ cho chính sách “xuất khẩu lao
động” của Chính phủ, và đã tiến hành cho các cá nhân sẵn sàng ra nước ngoài lao động vay
với khoản vay 25 triệu đồng/người. Tại các huyện mà Nhóm đến thăm, đã có một số trường
hợp cá nhân được nhận khoản vay này để đi lao động ở nước ngoài (xem thêm phần về sinh
kế dưới đây).
Nhìn chung, các nỗ lực của Việt Nam trong công cuộc giảm nghèo đã được thúc đẩy mạnh
mẽ nhờ quá trình phát triển kinh tế, song quá trình này vẫn chưa thực sự nhấn đủ mạnh đến
các vấn đề chính sách gắn với tăng trưởng “vì người nghèo”. Do đó, các chính sách hỗ trợ
như Nghị quyết 30a đã được ban hành, song không vì thế mà các chính sách tăng trưởng
kinh tế hướng nhiều hơn đến người nghèo. Hơn nữa, một số thành tựu về tăng trưởng kinh tế
mà Việt Nam đạt được trong hai thập kỷ qua đã phải đánh đổi bởi sự mất mát về môi trường
và tài nguyên thiên nhiên của chính Việt Nam.10 Do đó, trong quá trình đánh giá các tác động
của người dân địa phương đối với đa dạng sinh học và nguồn tài nguyên thiên nhiên và đánh
giá bức tranh phát triển kinh tế vĩ mô cùng những động lực của nó, chúng ta luôn luôn phải
đánh giá liệu các hoạt động bảo tồn đã được tiến hành một cách hiệu quả hay chưa.
2.3 Chính sách về dân tộc thiểu số
Căn cứ theo Hiến pháp Việt Nam, Việt Nam là một đất nước gồm nhiều dân tộc và tất cả các
dân tộc đều bình đẳng trước pháp luật và được bảo vệ tránh bị phân biệt đối xử.11 Như đã nêu
ở trên, cuộc điều tra dân số năm 2009 đã liệt kê 53 nhóm dân tộc thiểu số khác nhau và các
nhóm này chỉ chiếm 2,4% dân số của Quảng Bình, song chiếm tới 19% dân số vùng lõi, vùng
đệm khu vực VQG PNKB. Chính quyền tỉnh đã và tiếp tục có các chính sách ưu đãi hỗ trợ cho
các nhóm dân tộc thiểu số, đặc biệt là các nhóm sống tại vùng núi và vùng biên giới. Tuy
nhiên, dù đã rất nỗ lực, song các chính sách này hiện vẫn chỉ có thể tạo ra những tác động
khá khiêm tốn trong công tác giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến thực trạng này, trong đó có một nguyên nhân đó là các chính sách chưa nhìn
nhận một cách đầy đủ các khó khăn về kinh tế-xã hội và về cơ cấu chính trị có thể ảnh hưởng
đến các nhóm dân tộc thiểu số và khả năng của họ như thế nào. Một vấn đề lớn khác gắn với
việc các chính sách không thường xuyên được thực hiện tốt ở cấp địa phương đó là việc ngân
sách không đủ để thực hiện các nhiệm vụ và việc bản thân các chính sách không đủ toàn diện
để giải quyết các vấn đề cụ thể xảy ra trong thực tế.

Một số chính sách, quyết định và chương trình chính ảnh hưởng đến đồng bào dân tộc thiểu
số gồm:
Chương trình 33 (“Chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số định canh định cư - đối với
các xã được lựa chọn thuộc diện Chương trình (CT) 135, từ 2008 – 2012”): hỗ trợ đồng bào
dân tộc thiểu số có chỗ ở ổn định, phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo; góp phần bảo vệ
rừng, môi trường sinh thái và duy trì an ninh chính trị và trật tự xã hội (chính sách định cư).
Chương trình 134 (kéo dài đến 2010 theo Quyết định số 1592): bao gồm việc giao đất nông
nghiệp cho đồng bào người dân tộc thiểu số, bao gồm cả công tác cải tạo đất; chuyển đổi đất
rừng nghèo sang mục đích nông nghiệp; hỗ trợ xây dựng/sửa chữa nhà cửa; cất đất ở và cấp
10

Xem Báo cáo Phát triển Việt Nam, 2011: 5 - 6. “Phần lớn các hoạt động tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào
việc khai thác mạnh các nguồn tài nguyên thiên nhiên. . . . kết quả ròng đang làm tăng thêm các áp lực lên các
nguồn tài nguyên và vấn đề ô nhiềm.”
11
Hiến pháp Việt Nam (1992, điều chỉnh 2001), Điều 5: “Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc”


Dự án Khu vực PNKB: Nghiên cứu giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số

9

nước hộ gia đình.
Chương trình 135 (đối với các xã được lựa chọn, Giai đoạn II chính thức kết thúc trong năm
2010):12 bao gồm một khoản ngân sách đặc biệt lớn sử dụng cho việc xây dựng các công trình
cơ sở hạ tầng khác nhau cho các xã “đặc biệt khó khăn”, bao gồm cả các xã vùng biên và các
xã “anh hùng”. Hầu hết các xã thuộc diện CT135 (164/2006/QD-TTg) đều là các xã có tỉ lệ người
dân tộc thiểu số cao, và đối với Quảng Bình, 9/13 xã vùng đệm thuộc diện CT135 (ngoài trừ các
xã: Sơn Trạch, Hưng Trạch, Phú Định và Phúc Trạch, tất cả các xã này thuộc huyện Bố Trạch).

Chương trình 139 (đang được thực hiện): Khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe miễn phí
thông qua “thẻ bảo hiểm y tế”.
Chương trình 167 (đang được thực hiện): Chương trình xây dựng nhà cửa cho các hộ gia đình
nghèo, trong đó có các hộ gia đình người dân tộc thiểu số;
Đối với Quảng Bình, tỉnh đã thực hiện Chương trình Phát triển Kinh tế-xã hội khu vực dân tộc
thiểu số (2006 – 2010) do UBND tỉnh phê duyệt năm 2006. Nhóm không có thời gian và cơ hội
để kiểm tra nội dụng và tình hình thực hiện của Chương trình này;
Với một số chương trình được nêu ở trên và với các nguồn ngân sách khác, các cấp tỉnh,
huyện và xã của Quảng Bình cũng đã cấp gạo cho các xã nghèo, trong đó có cả các xã người
dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, các xã mà Nhóm đến thăm không được nhận gạo một cách ổn
định. Tại một thôn bản được phỏng vấn, các hộ gia đình được khảo sát cho biết năm trước đó
được nhận gạo cho 04 đến 06 tháng, nhưng năm nay chỉ được nhận 01 tháng. Thông tin mà
Nhóm nhận được qua thảo luận với các thôn bản đó là người dân được nhận tối đa 15 kg
gạo/người/tháng với thời gian không quá 06 tháng.
Các chính sách nhất định của Việt Nam - ví dụ các chính sách trực tiếp hoặc gián tiếp liên
quan đến việc giảm tình trạng du canh - trên thực tế được xây dựng hướng tới đồng bào
người dân tộc thiểu số (CT 33 nêu ở trên). Tình trạng du canh trong phần lớn các trường hợp
xuất phát từ tập quán sản xuất lạc hậu của các nhóm dân tộc thiểu số: phần lớn các nhóm dân
tộc thiểu số sống ở các vùng cao, địa hình dốc nơi phương thức canh tác du canh gần như là
phương thức canh tác duy nhất, trong khi đó, người Kinh sống ở các khu vực thấp hơn, bằng
phẳng hơn và có thể trống lúa. Điều này cũng là một thực tế đối với 13 xã vùng đệm: không ít
thì nhiều có thể nói rằng ở các khu vực càng có ít đất đai bằng phẳng để canh tác, thì thông
thường tỉ lệ người dân tộc thiểu số sinh sống ở các khu vực đó càng cao hơn. Điều này ảnh
hưởng trực tiếp đến các phương án sinh kế và cách thức sử dụng các nguồn tài nguyên thiên
nhiên của người dân địa phương.
Các chính sách của Việt Nam nhìn chung nhằm mục đích định hướng cho đồng bào người
dân tộc thiểu số đến việc định canh định cư và ổn định trong sử dụng tài nguyên. Đồng bào
dân tộc thiểu số được khuyến khích chuyển từ các khu vực vùng núi xa xôi đến sinh sống tại
các khu vực thấp hơn và gần với các tuyến đường giao thông. Cũng đã có trường hợp hợp
nhất các xóm, cụm dân cư để hình thành các thôn bản. Trong khi người dân hài lòng với sự

thuận tiện mà các khu vực mới chuyển đến mang lại, ví dụ như việc nhận được các dịch vụ tốt
hơn về giáo dục và y tế, song điều này không đồng nghĩa với việc các hoạt động sinh kế của
họ được cái thiện hơn so với trước kia, bởi vì vấn đề thiếu đất đai trở thành một vấn đề khá
bức bối tại các khu vực mới. Liên quan đến việc cấp quyền sử dụng đất, các gia đình người
dân tộc thiểu số thường không được cấp quyền sử dụng đất đối với các khu vực đất hoang
hóa, mặc dù đối với các trường hợp này hoàn toàn thích hợp khi cấp quyền sử dụng đất cho
cộng đồng. Hiện tại có một sự bất hợp lý trong quản lý và sử dụng đất đai ở một số khu vực
trong vùng đệm đó là người dân tộc thiểu số thiếu đất canh tác nông nghiệp, trong khi đó các
công ty lâm công nghiệp và các lâm trường quốc doanh đang được Nhà nước giao quản lý sử
dụng một diện tích đất đai rộng lớn. Điều đó dẫn đến việc người dân địa phương canh tác một
12

Ban Dân tộc tỉnh đã đệ trình xin giai đoạn mới của CT 135, 2012 – 2015. Nhóm không thể tìm thấy tài liệu nào
nói về việc Thủ tướng Chính phủ có tiếp tục cho thực hiện CT 135 nữa hay không, bởi đến giữa 2011 vẫn chưa có
quyết định nào được ban hành.


Dự án Khu vực PNKB: Nghiên cứu giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số

10

cách bất hợp pháp trên diện tích các Công ty lâm nghiệp quản lý trong khi về bản chất khu
vực đất đai đó đã được tổ tiên họ sử dụng trong thời gian dài.
Hộp 1: Một câu hỏi về thái độ: Đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam đang được
nhìn nhân như thế nào
Các xã vùng đệm có sự đa dạng về các đặc điểm xã hội, kinh tế nông nghiệp, thậm chí là cả
về sinh thái. Trong khi sự đa dạng về văn hóa-xã hội này và cùng với nó là các hệ thống kiến
thức bản địa khác nhau - nên được nhìn nhận như là một thế mạnh, tuy nhiên, trên thực tế sự
đa dạng này luôn bị cho là một điểm yếu. Các nhóm dân tộc thiểu số tại Quảng Bình bị người
Kinh coi là “lạc hậu về kiến thức” và “kém phát triển”. Trên hết, các cán bộ thường nhìn nhận

rằng các nhóm đồng bào dân tộc thiểu số nên sống gần với người Kinh hơn để có thể phát
triển, trở nên tân tiến hơn và “giống người Kinh” hơn.
Các cán bộ chính quyền người Kinh ở các cấp khác nhau ít khi thừa nhận các điểm tích cực
của các cộng đồng dân tộc thiểu số khác nhau. Một cán bộ đã từng đề cập rằng các khái niệm
và các cơ chế kinh tế-xã hội của các nhóm dân tộc thiểu số thường theo khuynh hướng đảm
bảo các nhu cầu sinh hoạt, nhưng người cán bộ này nghĩ rằng điều này có ý nghĩa tiêu cực
hơn là tích cực. Trong bối cảnh đa dạng sinh học, các hoạt động sinh kế bao gồm các phương
pháp truyền thống về quản lý đất đai và nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể thực sự giúp bảo
tồn đa dạng sinh học nông nghiệp và tự nhiên, nhưng đối với người vùng thấp, việc du canh
du cư được coi là có hại. Không có sự thừa nhận về việc kiến thức bản địa cũng là những kiến
thức năng động và có sự điều chỉnh. Do đó, các đồng bào dân tộc thiểu số luôn bị coi là chậm
phát triển.
Có nhiều khái niệm chưa phù hợp về hành vi, tín ngưỡng và các chiến lược sinh kế của các
đồng bào dân tộc thiểu số, từ đó định hình các chính sách đối với họ, như các chính sách về
phân bố lại/sát nhập, giảm du canh du cư và hàng loạt các chính sách bảo trợ xã hội khác.
Tuy nhiên, những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới sự suy giảm đa dạng sinh học một cách rõ
ràng tại Quảng Bình lại chính là những mối quan tâm về thương mại liên quan đến phát triển
trồng rừng (ví dụ: phá rừng tự nhiên để trồng keo), khai thác gỗ trái phép và săn bắt động vật
hoang dã. Những nguyên nhân này dựa vào việc khai thác người dân vùng cao và các đối
tượng khác - những người có quá ít các nguồn sinh kế (xem phần thảo luận bên dưới).
Ghi chú: Ngân hàng thế giới - World Bank (2009: 46) Phân tích xã hội quốc gia - Country Social
Analysis cũng chỉ ra các khó khăn thách thức cho các đồng bào dân tộc thiểu số do các khái niệm sai
lầm và sự rập khuôn tiêu cực của người Kinh về người dân tộc thiểu số gây ra. Xem thêm tài liệu của F.
Clement (2006: 10), tác giả này cũng thể hiện mối quan hệ giữa các thái độ tiêu cực với việc hình thành
chính sách và các hệ quả.

3

CÁC V ẤN ĐỀ VỀ GIỚI TẠI CÁC XÃ VÙNG ĐỆM


Trong quá trình khảo sát tại 13 thôn bản, Nhóm đã tiến hành các cuộc thảo luận với cả hai
nhóm phụ nữ và nam giới. Trên thực tế, có một vài “sự thiên lệch ngược chiều về giới” trong
các thông tin cung cấp cho nhóm bởi vì trong hầu hết các cuộc thảo luận nhóm tập trung, số
lượng phụ nữ thường nhiều hơn số lượng nam giới tham gia vào các cuộc thảo luận nhóm,
trong nhiều trường hợp, số lượng phụ nữ nhiều gấp đôi so với số lượng nam giới. Nhóm cũng
đã đến thăm một số thôn bản nơi không dễ chia số lượng người dân tham gia thành hai nhóm
riêng biệt, và một điều đáng chú ý là phụ nữ thường ít phát biểu khi họ ở trong nhóm hỗn hợp
hơn là khi họ ở riêng trong nhóm phụ nữ. Xu hướng này ít xảy ra đối với nhóm phụ nữ người
Kinh hơn nhóm phụ nữ dân tộc thiểu số. Một yếu tố quan trọng dẫn đến thực trạng này
thường không phải là do sự khác biệt về quan hệ giới tính trong các nhóm khác nhau mà là do
yếu tố ngôn ngữ gây ra - phụ nữ người dân tộc thiểu số ở độ tuổi lao động thường ít có cơ hội
học tập vượt quá cấp tiểu học hơn là phụ nữ người Kinh.
Do vậy, phụ nữ dân tộc thiểu số cảm thấy e ngại hơn khi phát biểu trước đám đông, một phần
vì thông thường trong các cuộc họp, ngôn ngữ được yêu cầu sử dụng là tiếng Kinh. Rào cản
ngôn ngữ này mang lại những hệ lụy không tốt đối với khả năng phụ nữ người dân tộc thiểu
số tiếp cận được với các dịch vụ và thông tin, dẫn đến việc các cơ hội mà họ có được để cải


Dự án Khu vực PNKB: Nghiên cứu giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số

11

thiện vấn đề an ninh sinh kế cũng bị ảnh hưởng. Vấn đề này cũng gây ra các hệ lụy xấu ảnh
hưởng đến sự tham gia chủ động của họ trong các cuộc họp lập kế hoạch và các cuộc thảo
luận khác tại địa phương có ảnh hưởng lớn đến sinh kế của họ. Nói cách khác, họ có thể tham
gia các cuộc họp của thôn bản mình nhưng không thể đưa ra các ý kiến của mình (và người
khác không thực sự chú ý đến điều này do thông thường nam giới là người đưa ra nhiều ý
kiến hơn phụ nữ). Việc thiếu tự tin khi sử dụng các kỹ năng ngôn ngữ tiếng Kinh cũng ảnh
hưởng đến tính linh hoạt của phụ nữ cũng như việc họ sẵn sàng tham gia các hoạt động ví dụ
như các cuộc họp cấp xã hay các đợt tập huấn được tổ chức bên ngoài thôn bản của họ.

Các vấn đề mà Nhóm đặt ra cho các nhóm phụ nữ và nam giới liên quan chủ yếu đến vấn đề
sinh kế của họ, đặc biệt chú trọng đến mối quan hệ giữa họ với rừng và các nguồn tài nguyên
rừng. Chúng tôi phát hiện ra thông qua các câu hỏi khảo sát rằng các nhóm phụ nữ xác định
mình là những người đồng ra quyết định về các vấn đề trong gia đình, tuy nhiên đối với các
nhóm người Bru (Bru-Vân Kiều và Khùa), nam giới quyết định về việc lựa chọn vùng đất để
canh tác theo từng mùa nhất định. Trong nhóm Bru, nam giới cũng là người ra quyết định
chính khi bàn đến các vấn đề của cộng đồng, và thông thường phụ nữ có ít quyền lợi hơn
nam giới khi nói đến vấn đề cưới xin và quyền lợi đối với con cái khi ly hôn.
Đối với các nhóm dân tộc thiểu số, “thủ quỹ” của hộ gia đình là phụ nữ. Khi cần ra quyết định
về các vấn đề như chi tiêu hằng ngày, cần vay tiền hay không, hoặc có cần bán một tài sản
lớn trong nhà (như gia súc) hay không, hay có tiếp tục cho con cái đến trường (chi trả tiền học
phí), thì cả phụ nữ và nam giới trong nhà sẽ cùng thảo luận và ra quyết định. Tuy nhiên, Nhóm
cũng nhận được thông tin là các khoản vay sẽ được cấp theo tên của “chủ hộ gia đình”. Và
thuật ngữ này thường dẫn đến việc nam giới sẽ tự động được gán tên là “chủ hộ gia đình”, và
đồng thời làm giảm đi vai trò quan trọng của phụ nữ trong việc duy trì sinh hoạt của hộ gia
đình và dẫn đến lối suy nghĩ khó thay đổi là gia đình nên do người này hay người khác “lãnh
đạo”. Trong quá khứ, việc tự động “gán tên” một người là chủ hộ gia đình đã dẫn đến việc giấy
chứng nhận sử dụng đất thường chỉ được cấp cho chủ hộ và thông thường, chỉ có nam giới
đứng tên trong loại giấy tờ này. Và hiện vẫn còn xu thế áp dụng vị thế “chủ hộ gia đình” trong
các cuộc họp thôn bản.
Nói về các hệ thống sinh kế của đồng bào Kinh hay dân tộc thiểu số, lao động nam giới và lao
động nữ giới được sử dụng kết hợp khá cao. Điều này có nghĩa là, mặc dù có những công
việc nam giới làm nhiều hơn nữ giới hoặc nữ giới làm nhiều hơn nam giới, nhưng phần lớn
những người dân chúng tôi khảo sát đều nói rằng phụ nữ và nam giới cùng làm việc với nhau
trên đồng ruộng và trong rừng. Tuy vậy, khi vào rừng, phụ nữ thường chú ý nhiều hơn đến
các lâm sản ngoài gỗ. Phụ nữ đi vào rừng tìm kiếm lá nón để làm nón nhiều hơn nam giới.
Phụ nữ, đặc biệt là người dân tộc thiểu số, có vẻ như có nhiều kiến thức về các loại thức ăn
từ rừng cho gia đình và cho vật nuôi. Phụ nữ Kinh chủ yếu thu hái các loài lâm sản ngoài gỗ
có thể đem ra chợ bán. Dựa trên tình trạng nghèo đói của các hộ gia đình tại các thôn bản,
Nhóm không thể đưa ra một bức tranh rõ ràng về việc liệu có hay không sự khác biệt rõ nét về

sự phụ thuộc của phụ nữ vào các loại lâm sản ngoài gỗ nhằm đáp ứng cho nhu cầu thực
phẩm và nhu cầu tạo thu nhập của họ. Dường như trong cùng một thôn bản, vấn đề này
thường không có sự khác biệt lớn lắm, dù rằng những người được phỏng vấn thường cho
rằng việc thu hái lâm sản ngoài gỗ cần lao động “mạnh khỏe”, có nghĩa là những người già và
những người yếu sẽ không thể leo lên/xuống các đồi núi dốc có rừng để tìm lâm sản ngoài gỗ.
Phụ nữ bày tỏ mối quan ngại của họ nhiều hơn nam giới về việc các loại lâm sản ngoài gỗ và
củi đốt càng ngày càng khan hiếm trong khu vực họ sinh sống. Một số phụ nữ Kinh cho biết họ
đã giảm (ví dụ: tại thôn 3, thôn 9 xã Xuân Trạch, và thôn Đông Giang xã Hưng Trạch) hoặc đã
từ bỏ (thôn 6, xã Xuân Trạch) việc thu thập các lâm sản ngoài gỗ do số lượng các loại lâm sản
ngoài gỗ quanh khu vực họ sinh sống đã giảm đáng kể. Những người phụ nữ này đã đưa ra
một khía cạnh mới về đói nghèo mà Nhóm trước đó chưa tính đến: phụ nữ thuộc các hộ gia
đình người Kinh khá giả hơn vẫn có thể tiếp tục thu hái các loại lâm sản ngoài gỗ do họ có thể
đạp xe đạp hoặc đi xe máy đến các khu vực thu hái tốt hơn, không giống như các hộ nghèo
không có điều kiện phải đi bộ trên một quãng đường xa. Đối với các hộ nghèo, nếu họ có thể


Dự án Khu vực PNKB: Nghiên cứu giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số

12

tìm được các cơ hội kiếm thu nhập gần khu vực họ sinh sống thì họ sẽ không bỏ công bỏ sức
để đi bộ một quãng đường xa như vậy.
Trong khi việc thu thập lâm sản ngoài gỗ (chủ yếu là lá nón và mây tre) là một công việc khá
mệt nhọc, song chị em phụ nữ vẫn muốn thu gom các loại sản phẩm này do vẫn có thị trường
tiêu thụ các loại lâm sản ngoài gỗ đó. Nguyên nhân chính là các hộ cần có các nguồn thu
nhập ổn định hơn để có thể mua thực phẩm cho gia đình. Tại các khu vực mà Nhóm đến
thăm, có khá it những nguồn thu nhập ổn định như đề cập ở trên, bởi ở đây người dân thường
chỉ trồng trọt một vụ/năm, trong khi các vật nuôi nhỏ thường được nuôi không phục vụ mục
đích tạo thu nhập (xem thêm phần thảo luận ở phần sau). Trên thực tế, một ý kiến phản hồi
chung từ phụ nữ xã Xuân Trạch và các xã khác đó là thu nhập từ nông nghiệp quá thất

thường. Mặc dù họ đã được tham gia vào các lớp tập huấn làm nón là và đan lát mây tre,
song họ cho biết giá trị tăng thêm từ các hoạt động này không đáng để họ bỏ thời gian thực
hiện, trong khi họ còn cần phải làm các hoạt động khác.13
Việc kết hợp lao động nữ giới và lao động nam giới trong canh tác nông nghiệp cùng với việc
các hoạt động cần sức lao động trong nông nghiệp ngày càng giảm đã góp phần dẫn đến sự
thay đổi vai trò trong nông nghiệp. Nhóm tư vấn rất ngạc nhiên khi thấy một số không nhỏ phụ
nữ đi ra đồng cày bừa cùng với trâu hoặc bò. Trong quá khứ, việc cày bừa là trách nhiệm của
nam giới và ít khi thấy phụ nữ đi cày. Việc chia sẻ vai trò và nhiệm vụ truyền thống giữa nam
giới và nữ giới ngày xưa đi theo hướng nam giới làm các nhiệm vụ “nặng nhọc” hơn (cày bừa
và làm đất) và phụ nữ làm các công việc nhẹ nhàng hơn, lặp đi lặp lại (làm cỏ, cấy lúa).
Các khoảnh đất nhỏ để canh tác hằng năm (xem bảng 2) đồng nghĩa với việc cày bừa không
còn được xem là một công việc “nặng nhọc” nữa. Nếu nam giới không ở nhà nghỉ ngơi trong
khi phụ nữ ra đồng đi cày để nghỉ ngơi, vậy thì giờ đây họ đang làm gì? Câu trả lời thường là
nam giới sử dụng sức lao động của mình một cách “có hiệu quả” hơn, đặc biệt là để kiếm thu
nhập tiền mặt. Trong một số trường hợp, điều này có nghĩa là nam giới sẽ lựa chọn đi vào các
khu vực rừng để khai thác hoặc mang vác gỗ trái phép (không nhất thiết phải từ khu vực VQG
PNKB, các khu rừng có thể thuộc các Lâm trường quốc doanh hoặc các Ban quản lý rừng
phòng hộ). Trong một số trường hợp, nam giới không phải lúc nào cũng vào rừng chặt gỗ,
thay vào đó họ thu lượm củi đốt cho gia đình hoặc đi làm thuê ăn lương ngày ở các địa
phương khác (đôi khi làm thuê cho các Lâm trường quốc doanh gần đó). Rõ ràng, các nhu
cầu sinh kế bức thiết của gia đình gây ra bởi sự thiếu hụt về đất đai đã làm thay đổi vai trò về
giới trong nông nghiệp. Điều này cũng có nghĩa là nếu có thể, lao động nam vẫn được sử
dụng cho các công việc “nặng nhọc” như khai thác gỗ.
Khuôn mặt của những người nông dân - dù là nam hay nữ - đặc biệt là những người nông dân
sống tại các xã dự án đang ngày càng già đi, và một số phụ nữ nói đùa với Nhóm tư vấn về
điều này. Họ nói rằng công việc đi rừng nói trên là cho những người trẻ hơn, như họ đã từng
làm 05 đến 10 năm trước. Nhóm cũng nhận thấy rằng việc rời thôn bản đi kiếm việc làm ngắn
hạn hoặc dài hạn đang diễn ra ngày càng nhiều tại các thôn bản người Kinh. Trong khi tình
hình này vẫn chưa diễn ra một cách ồ ạt, nhưng hiện nay việc thanh niên nam nữ rời thôn bản
tìm việc đang diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh. Tại xã Xuân Trạch và Hưng Trạch, tình

hình này được thể hiện khá rõ qua số các trẻ nhỏ hiện đang được ông bà nuôi dạy sau khi các
bà mẹ trẻ rời thôn bản đi kiếm cơ hội việc làm. Chúng tôi ghi nhận thực trạng rằng lứa trẻ rời
thôn bản ở độ tuổi 14-15 sau khi kết thúc lớp 9 (cấp trung học cơ sở) và ở độ tuổi này, thường
là nữ nhiều hơn nam. Ở các độ tuổi lớn hơn (20 – 30), cả hai nhóm nam giới và nữ giới phần
lớn đều rời làng quê vào miền Nam tìm việc. Ở đó có nhiều cơ hội làm việc trong các ngành
nghề hơn là tại Đồng Hới hoặc Quảng Bình nói chung, nhưng người dân cũng nói rằng cơ hội
cho phụ nữ là nhiều hơn (làm việc cho các công ty may mặc) so với nam giới. Khi chúng tôi
hỏi sao lại để cho lứa trẻ đi kiếm việc làm ở các địa phương khác, câu trả lời chung nhất
thường là “nếu chúng ở lại thì không có đủ để ăn”. Một câu trả lời khác là “nếu ở lại thì không
kiếm được gì”.
13

Một vấn đề khác được đề cập tại Xuân Trạch và Hưng Trạch đó là thương nhân mua mây trước kia mong muốn
mua các loại sản phẩm mây tre đan nay không còn đến thu mua tại 02 xã này nữa.


Dự án Khu vực PNKB: Nghiên cứu giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số

13

Có nhiều hệ quả khác nhau cho nữ giới và nam giới xuất phát từ các mô hình di cư tìm việc
hiện nay. Thứ nhất, các em gái trẻ rời địa phương ở độ tuổi khá trẻ 14 và 15 tuổi. Trong khi
chúng tôi được cho biết rằng số trẻ gái này sẽ vào làm việc cho các nhà máy hoặc đi giúp việc
nhà - “làm ô-sin”, song có một rủi ro khá lớn rằng những cô gái trẻ, không có trình độ, kỹ năng
này có thể kết thúc quá trình “du Nam” trong các đường dây buôn bán tình dục nếu họ gặp
khó khăn không thể thực hiện công việc tại các công ty hoặc cơ hội làm việc nhà như đã được
hứa hẹn không thể hiện thực hóa được. Mặc dù bản thân việc di cư tìm việc làm bên ngoài
các khu vực canh tác nông nghiệp không hiệu quả không phải là một hiện tượng tiêu cực - về
mặt kinh tế, đây là một lựa chọn khá phù hợp - cái cách mà xu hướng này diễn ra như hiện
nay có khả năng gây ra những tác động hủy hoại cho cấu trúc gia đình và xã hội trên phạm vi

lớn, đặc biệt là đối với những em gái trẻ không được giáo dục đầy đủ và không được đạo tạo
nghề đầy đủ để có thể kiếm được các công việc ổn định và được trả lương cao, xứng đáng
với những nỗ lực thoát ra khỏi các hoạt động nông nghiệp như hiện nay.
Bảng 02: Đất trồng cây hằng năm tại các xã vùng đệm (ha) 14
Huyện

Minh Hóa

Bố Trạch

Quảng Ninh


Trung Hóa
Dân Hóa
Trọng Hóa
Hóa Sơn
Thượng Hóa
Hưng Trạch
Phúc Trạch
Sơn Trạch
Tân Trạch
Thượng Trạch
Phú Định
Xuân Trạch
Trường Sơn

Số hộ
gia đình


Diện tích canh
tác hằng năm

Diện tích cho
mội hộ gia đình

1,224
713
685
357
715
2,725
2,498
2,549

556.0
190.0
174.0
217.2
462.2
748
862
737

0.45
0.27
0.25
0.60
0.65
0.27

0.35
0.29

504

535

1.06

682
1,310

589
654

0.86
0.50

939

268.3

0.29

Ghi chú: Nguồn: Niên giám thông kê huyện. Không có số liệu các khu vực nhỏ trồng tiêu hoặc
cây ăn quả. Không có số liệu về các khu vực du canh (được phân loại là “rừng”)
Mặc dù phụ nữ tham gia vào các hoạt động nông nghiệp ngang bằng hoặc thậm chí nhiều hơn
nam giới, nhưng họ không nhận được sự hỗ trợ hiệu quả từ hệ thống dịch vụ khuyến nông.
Theo những thông tin chúng tôi có từ các vùng khác của Việt Nam, có rất ít các cán bộ khuyến
nông là nữ giới, và với sự miễn cưỡng và/hoặc rụt rè của phụ nữ người dân tộc thiểu số với

các kỹ năng tiếng Việt (tiếng Kinh) khá thấp khi tham gia vào các cuộc họp nói tiếng Kinh, họ ít
khi nhận được các thông tin trực tiếp từ các dịch vụ khuyến nông của chính quyền hoặc của
Hội nông dân. Điều này cũng có nghĩa là một vài quyết định liên quan đến gia đình của họ bị
hạn chế thông tin ví dụ như về trồng vụ mùa nào, giống cây nào, v.v...
Nói chung, mặc dù được công nhận trong Hiến pháp cộng thêm các bộ luật và các chiến lược
liên quan ở cả cấp quốc gia và cấp tỉnh, nhưng bình đẳng giới trong thực tế vẫn chưa được
định hướng một cách rõ ràng. Hội phụ nữ ở các địa phương có ngân sách quá nhỏ không thể
làm gì hơn ngoài việc cung cấp thông tin liên quan. Các quan điểm và các vấn đề của phụ nữ
vẫn chưa được xem xét một cách nghiêm túc trong hai lĩnh vực chính có ảnh hưởng đến vấn
đề sinh kế của họ, đó là: nông nghiệp và lâm nghiệp. Hai lĩnh vực này vẫn chú trọng vào nam
giới và các định hướng về giới vẫn chưa được thực hiện. Một dự án ODA như dự án Khu vực
PNKB có thể giúp hỗ trợ điều chỉnh sự mất cần bằng về giới một cách thực tế và khả thi nhất
14

Số liệu trong bảng này dựa trên số liệu của các cuốn Niên giám thống kê từ 2007 đến 2010. Từ hai năm trước,
các khu vực được dùng để trồng các vụ mùa hằng năm (lúa, ngô, lạc, sắn, đậu xanh và khoai lang) hoặc chỉ
trồng lúa và ngô đã được thể hiện trong bảng.


Dự án Khu vực PNKB: Nghiên cứu giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số

14

và có thể tiến hành các mô hình hỗ trợ các ban ngành, đơn vị các cấp thực hiện công việc của
hộ một cách hiệu quả, tiết kiệm chi phí hơn trong quá trình định hướng lại các vấn đề về giới
(xem Các đề xuất kiến nghị trong Chương 8 ở phần sau).
4

TÌNH HÌNH ĐÓI NGHÈO TẠI CÁC XÃ VÙNG ĐỆM


Tại 05 xã khảo sát, tỉ lệ đói nghèo đều tăng lên so với trước khi mức trần đói nghèo nông thôn
được thay đổi từ 200.000 đồng lên 400.000/người/tháng. Trên thực tế, trong số 12 xã có số
liệu đói nghèo, chỉ có 01 xã có tỉ lệ đói nghèo được cải thiện đôi chút, tuy nhiên, tại xã đó tỉ lệ
nghèo tổng thể quá cao đến nỗi sự cải thiện nói trên không thể tạo ra sự khác biệt đáng chú ý
(xã Thượng Trạch giảm từ 98% xuống 96% - xem Bảng 4).
Ban Dân tộc không thể cung cấp số liệu cập nhật về tỉ lệ nghèo của các nhóm dân tộc thiểu
số, nhưng từ số liệu các xã cung cấp cho Nhóm tư vấn, rõ ràng rằng hầu hết các xã có tỉ lệ
người dân tộc cao đều có tỉ lệ nghèo đói cao. Chúng tôi tiến hành so sánh và thấy rằng tại 06
xã nơi có tỉ lệ đồng bào dân tộc thiểu số thấp hơn 10% tổng dân số, tỉ lệ nghèo đói chỉ khoảng
46%, trong khi tại 06 xã cỏ tỉ lệ người dân tộc thiểu số tổi thiểu là 50%, tỉ lệ đói nghèo là 78%.
Tuy nhiên, do có sự biến thiên khá cao về tỉ lệ đói nghèo ở các xã vùng đệm - từ 17% đến
100%, thực tế này đòi hỏi có các hướng tiếp cận khác nhau trong QHPTVĐ và trong các kỳ
lập kế hoạch phát triển thôn bản/xã (VDP/CDP) tiếp theo. Tuy nhiên, có 01 điểm cần so sánh,
tỉ lệ đói nghèo tổi thiểu 17% được ghi nhận ở các xã vùng đệm vẫn cao hơn mức trung bình
của cả nước trong năm 2011 là 14% (Bộ LĐ-TB-XH) mặc dù vẫn thấp hơn tỉ lệ đói nghèo của
Quảng Bình trong năm 2011 là 25% (Sở LĐ-TB-XH).
Bảng 03: Số hộ nghèo và cận nghèo tại vùng đệm và vùng lõi , 2011
Tổng số
Hộ
Hộ cận
Hộ cận
Hộ nghèo
Huyện

hộ gia đình
nghèo
nghèo
nghèo
(Số hộ)
(Số hộ)

(%)
(Số hộ)
(%)
Trung Hóa
1,224
710
58.0
392
32
Dân Hóa
716
649
91
7
1.0
Minh Hóa
Trọng Hóa
685
608
89
18
3.0
Hóa Sơn
347
235
68
72
21
Thượng Hóa
702

552
79
70
10
Tổng vùng đệm
3,674
2,754
75
559
15
Tổng các xã huyện Minh Hóa
11,129
7,283
65
1,895
17
Hưng Trạch
2,725
776
28
469
17
Phúc Trạch
2,498
1,709
68
528
21
Sơn Trạch
2,549

852
33
400
16
Tân Trạch
64
64
100
0
0
Bố Trạch
Thượng Trạch
440
425
97
5
1.0
Phú Định
682
112
16
36
5
Xuân Trạch
1,309
869
66
237
18
Tổng vùng đệm

10,267
4,807
47
1,675
16
Tổng các xã huyện Bố Trạch
42,500
9,241
22
4,505
11
Vùng đệm
Trường Sơn
Quảng Ninh
911
481
53
0
0
Tổng các xã huyện Quảng Ninh
22,523
5,435
24
5,068
23
Tổng các xã vùng đệm
14,852
8,042
54
2,234

15
Ghi chú: Nguồn: Sở LĐTBXH. Tất cả các số % đã được làm tròn lên hoặc xuống (các số liệu gốc
được cung cấp với 02 số thập phân). Số liệu dân số là số liệu được thu thập vào tháng 01/2011, không
phải là số liệu điều tra dân số chính thức.

Khi chúng tôi nhận thấy rằng tỉ lệ nghèo của tổng các xã vùng đệm chiếm 54%, chúng tôi giả
định rằng các xã này chắc hẳn phải chịu những bất lợi nào đó về mặt tự nhiên mới khiến họ
chịu tỉ lệ nghèo cao như vậy. Trong các cuộc thảo luận ở các xã và các thôn bản, vấn đề được


Dự án Khu vực PNKB: Nghiên cứu giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số

15

nhắc đến một cách thường xuyên nhất và là nguyên nhân của các vấn đề khác chính là việc
thiếu đất canh tác nông nghiệp. Các nhóm phụ nữ và nam giới đều thường xuyên nói rằng
“đất càng ngày càng chật, người càng ngày càng đông”. Tại 05 xã mà Nhóm đến thăm, chỉ có
một nhóm nhỏ các thôn bản có đất ruộng. Hơn nữa, ở một số thôn bản của các xã Hưng
Trạch, Xuân Trạch và Trường Sơn, Nhóm nghe được thông tin rằng các thôn bản này bị mất
một phần đất nông nghiệp ở vùng thấp do lũ quét và do xói mòn bờ sông. Do vậy, không chỉ
quyền sử dụng đất bị hạn chế, về thực chất, đất đai cũng ngày càng bị thu hẹp lại. 15 Đối với
các thôn bản đồng bào dân tộc thiểu số, đất du canh cũng bị hạn chế; người dân cho biết phải
quay về canh tác tại mảnh đất cũ chỉ sau thời gian không quá 05 năm, và điều này có thể gây
ra tình hình năng suất cây trồng thấp và các vấn đề về sâu bệnh.
Bảng 4: So sánh các hộ nghèo vùng đệm - Sự thay đổi qua thời gian
Hộ nghèo (%)

2011
2010
2009

2007
2006
2005
Huyện Minh Hóa
Trung Hóa
60
54
58
39
53
54
Dân Hóa
88
95
91
85
87
95
Trọng Hóa
87
94
89
88
93
94
Hóa Sơn
52
57
68
43

50
57
Thượng Hóa
49
49
79
49
54
49
Huyện Bố Trạch
Hưng Trạch
21
24
28
17
22
24
Phúc Trạch
46
26
68
19
23
26
Sơn Trạch
34
28
33
19
26

28
Tân Trạch
93
92
100
90
100
92
Thượng Trạch
98
97
97
99
100
97
Phú Định
17
15
16
12
16
15
Xuân Trạch
54
49
66
34
45
49
Huyện Quảng Ninh

Trường Sơn
53
n/a
n/a
67
77
67
Ghi chú: Nguồn: Sở LĐ-TB-XH. Tỉ lệ % đã được làm tròn lên nếu phần thập phân là .50 và cao hơn;
làm tròn xuống nếu là .49 và thấp hơn. Bảng này cho thấy ở hầu hết tất cả các xã, tỉ lệ nghèo trong năm
2011 cao bằng hoặc thậm chí cao hơn tỉ lệ nghèo trong năm 2005.

Những người dân trong khi nói chuyện với chúng tôi dường như đều xác định việc thiếu hụt
đất đai là nguyên nhân chính dẫn tới sự không đảm bảo về sinh kế. Tình trạng thiếu hụt về đất
đai do nhiều yếu tố gây ra, trong đó có các yếu tố về áp lực dân số, đất rừng được quản lý bởi
các công ty lâm nghiệp, các lâm trường quốc doanh hay các ban quản lý rừng phòng hộ, việc
cắt đất cho VQG PNKB (ở một số khu vực có diện tích lớn hơn các khu vực khác), và việc
thực hiện hỗn hợp các chính sách nhằm giảm hoặc ổn định hoạt động du canh (cố gắng
chuyển hoạt động này sang hoạt động canh tác xoay vòng có giới hạn dựa trên các loài cây
trồng thu hoa lợi).
Trong khi việc không có đủ đất đai là một vấn đề nghiêm trọng, một vấn đề khác phát sinh đó
là thiếu các phương án sinh kế thay thế khả thi cho đa số các hộ gia đình. Trên thực tế, hầu
hết những người Kinh được chúng tôi phỏng vấn dường như đều cho rằng hướng cải thiện
duy nhất đó là cho con em họ rời làng và tìm công việc ở những địa phương khác. Dĩ nhiên,
các bậc cha mẹ đều muốn con cái họ có công ăn việc làm tại thôn bản mình và tại xã, nhưng
nhiều người cũng nhận ra rằng điều này không khả thi. Các hoạt động dựa vào đất đai dường
như không có quá nhiều tương lai tại các xã vùng đệm, và việc khai thác rừng (ví dụ khai thác
gỗ quý) cũng là một hoạt động không có nhiều tiềm năng và trên thực tế mang lại nhiều rủi ro.
15

Các thung lũng karst điển hình cho phần phía Tây Quảng Bình và của vùng đệm khá dốc và hẹp với các nhánh

sông chảy xuyên qua thung lũng. Do vậy, khi có mưa to, nước sông sẽ dâng lên nhanh, và mạnh, và cuốn đi
mọi thứ theo dòng chảy của sông. Do nền thung lũng hẹp khiến người dân vùng thập buộc phải trồng các loại
mùa màng trên vùng đất cao hơn, an toàn hơn.


Dự án Khu vực PNKB: Nghiên cứu giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số

16

Hầu hết mọi người đều nói rằng an ninh sinh kế của họ bị đe dọa do giá cả các mặt hàng thực
phẩm, bao gồm cả gạo, và chi phí đầu vào trong nông nghiệp ngày càng tăng cao. Vì thế,
người dân kết luận rằng thu nhập ròng từ mùa màng đang ngày càng giảm đi. Về vấn đề này,
cho dù là các nhóm người Kinh hay là người dân tộc thiểu số, mọi người đều nói rằng hoạt
động canh tác của họ “chịu ảnh hưởng nhiều từ điều kiện thời tiết”. Đó là, gió Lào khô, nóng,
và mưa to, thời tiết lạnh mùa đông gây ra những tác động xấu cho mùa màng. Các dạng thối
rễ được xem là nguyên nhân gây thất thu đối với vụ lạc mà vốn là vụ hoa màu chủ yếu của
vùng.
Việc xúc tiến một phần nào đó chưa hợp lý các hoạt động và/hoặc các vụ mùa của chính
quyền cũng góp phần làm tăng thêm các khó khăn ngoài các khó khăn đã nêu ở trên. Ví dụ,
Nhóm trong quá trình khảo sát ở xã Xuân Trạch biết rằng 180ha cao su hộ gia đình được
huyện và xã xúc tiến thực hiện. Tuy nhiên khu vực trồng cây cao su không thoát nước tốt, gây
ngập úng trong một thời gian dài, gây hại cho cây cao su ở giai đoạn đầu. Các hoạt động chăn
nuôi của người dân không được kiểm soát tốt, kèm theo đó là các điều kiện thời tiết khắc
nghiệt đã dẫn đến việc diện tích cây cao su gần như bị thiệt hại hoàn toàn. Chính vì vậy, một
số lượng lớn các hộ gia đình nông dân hiện giờ phải gánh các khoản nợ với NHNN&PTNT
hoặc với NHCSXHVN và gần như không có khả năng chi trả. Việc xúc tiến các hoạt động
chưa hợp lý tại các khu vực không phù hợp không nhất thiết phải là nguyên nhân gây đói
nghèo, nhưng nó làm sâu thêm thực trạng này bởi vì khoảng cách giữa sinh kế bền vững và
sinh kế khiến người dân trở nên nghèo đói đôi khi không phải là một khoàng cách quá lớn.
Cuối cùng, một yếu tố góp phần dẫn đến tình trạng đói nghèo của các xã đó là vật nuôi bị

chết. Nhiều hộ gia đình người Kinh cho biết rằng bây giờ họ có ít vật nuôi, đặc biệt là gia súc
hơn so với trong quá khứ (xem Bảng 5). Việc nuôi vật nuôi lớn có thể đem lại lợi nhuận cho
các hộ gia đình trong một số điều kiện, tuy nhiên, với số lượng đàn nhỏ, việc bán vật nuôi
không thể mang lại một nguồn thu nhập ổn định cho hầu hết các hộ gia đình (họ có thể chỉ bán
một con vật nuôi trong vòng 01 năm), do vậy, họ đỏi hỏi các nguồn thu nhập nhỏ hơn nhưng
ổn định hơn để bù đắp các chi phí sinh hoạt hằng ngày và các chi phí khác.
Nhóm nhận được thông tin từ người dân về “các loại bẫy đói nghèo” đối với các hộ gia đình
người Kinh cũng như người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại các xã vùng đệm. Những
chiếc bẫy này dẫn đến khả năng dễ bị tổn hại nghiêm trọng cho một số hộ gia đình và gây ra
tình trạng đói nghèo trong thời gian dài hoặc trở thành căn bệnh kinh niên không lối thoát. Như
đã nêu ở trên, những cái bẫy này có nguyên nhân gốc rễ liên quan đến tình trạng sẵn có về
đất đai cũng như chất lượng đất. Cái bẫy đất đai này trở nên nghiêm trọng hơn khi đi kèm với
các điều kiện thời tiết khắc nghiệt xuất hiện ngày càng nhiều cùng với hiện tượng biến đổi khí
hậu. Những cái bẫy này cũng dẫn đến các vấn đề khác liên quan đến “nghèo” tiền mặt. Việc
sinh sống ở các vùng sâu, vùng xa cũng là một cái bẫy khó giải quyết, và nó kéo theo các vấn
đề khác ví dụ như các khó khăn về tiếp cận với thị trường. Việc “nghèo” tiền mặt cũng khiến
người dân chịu các khoản nợ tại các cửa hàng bán thực phẩm, trong khi các khoản vay tín
dụng chính thức có thể khiến họ nghèo hơn nếu các hoạt động sử dụng vốn vay bị thất bại
(cây con chết, vật nuôi chết, mùa màng thất bát, ong bỏ tổ, v.v...).
Đối với phần đông người dân sống tại các xã dân tộc thiểu số và một phần dân tộc thiểu số
sống tại các xã mà người Kinh là chủ yếu, thì việc sống trong nghèo đói và dễ bị tổn thương
đối với các nhóm dân tộc thiểu số trở thành một thực tế dễ nhận ra. Một số người, đặc biệt là
người dân tộc thiểu số, nói với Nhóm rằng “chúng tôi luôn sống trong cảnh nghèo như vậy” khi
nói về tình cảnh nghèo đói kinh niên và kéo dài mà họ đang phải chịu đựng. Đối với các thôn
bản dân tộc thiểu số được sát nhập hay chuyển địa điểm trong vòng 10 năm qua, những khó
khăn của việc chuyển địa điểm sinh sống qua hình thức sát nhập vẫn chưa thể được bù đắp
hoàn toàn qua việc tiếp cận tốt hơn các dịch vụ của chính phủ như giáo dục hay thị trường
(chợ). Như đã nêu, tình trạng nghèo đói trong các nhóm dân tộc thiểu số vẫn chưa thực sự
được cải thiện nhiều trong vòng 10 năm qua, cho dù về tổng thể các con số thống kê đã cho
thấy nỗ lực giảm nghèo khá ấn tượng của Việt Nam.



Dự án Khu vực PNKB: Nghiên cứu giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số

17

Vấn đề dĩ nhiên đặt ra ở đây là tại sao các đầu tư được thiết kế tốt và đôi khi ở quy mô lớn
của chính phủ nhằm giảm nghèo lại có tác động khá khiêm tốn đối với các khu vực nói trên.
Câu trả lời có thể được tìm thấy trong vô số các cạm bẫy đã được đề cập ở phần trên. Dĩ
nhiên, một vấn đề khác nữa được đặt ra đó là các dịch vụ khuyến nông của chính phủ không
thể đủ sức đối phó với tất cả các vấn đề phát sinh tại các địa phương, đặc biệt là các vấn đề
về sâu bọ và dịch bệnh hại mùa màng, bệnh tật đối với vật nuôi, và việc xuất hiện ngày càng
thường xuyên các hiện tượng thiên tai. Vấn đề về đất đai, cấp thiết hơn những vấn đề khác,
khiến người dân phải lựa chọn giữa hai hướng đi: một là cho các lao động trẻ thử vận may
của mình tại các thị trường lao động khác, và hai là cố gắng tận dụng những nguồn tài nguyên
thiên nhiên còn lại trong khu vực.
Bảng 05: Chăn nuôi gi a súc tại vùng đệm - Những tha y đổi qua thời gian

Huyện

Gia súc (đầu gia súc)

2010
Trung Hóa

Bố Trạch

2008

2007


2,479

2,649

2,541

2,732

812

719

571

530

Trọng Hóa

1,016

1,027

639

619

Hóa Sơn

1,250


1,250

1,155

1,197

Thượng Hóa

1,278

1,442

1,273

1,468

Hưng Trạch

2,243

2,721

2,938

2,995

Phúc Trạch

2,975


3,229

3,447

3,268

Sơn Trạch

1,788

2,304

2,236

1,263

1,783

1,774

1,368

875

Phú Định

1,128

1,268


1,307

1,311

Xuân Trạch

1,492

1,607

1,742

1,694

20,254

21,999

21,225

19,959

514

-

-

1,870


Dân Hóa
Minh Hóa

2009

Tân Trạch
Thượng Trạch

Tổng hai huyện
Quảng Ninh

Trường Sơn
Tổng

Ghi chú: Nguồn từ Niên giám thống kế của các huyện. Trong số 05 xã mà Nhóm đến khảo sát, 04 xã có
ít gia súc hơn so với năm 2007 (chỉ có xã Dân Hóa là có số liệu tăng).

4.1 Ai là người nghèo trong các xã vùng đệm ?
Một sự thật khá rõ là người nghèo tại tỉnh Quảng Bình chủ yếu là những người sống ở các
khu vực vùng cao cho dù họ có là người dân tộc thiểu số hay người Kinh. Các hộ gia đình
nghèo tại 13 xã vùng lõi và vùng đệm sinh sống theo các hình thức cộng đồng và tại các dạng
cảnh quan khác nhau. Họ có thể sinh sống dọc theo các tuyến đường, hay các khu vực xa xôi
hẻo lánh, hay tại các cộng đồng “già” (được thiết lập ít nhất là 35 năm), hoặc tại các thôn bản
vừa mới được sát nhập hoặc tái định cư. Họ có thể sống thành các cộng đồng đơn nhất về
nhóm dân tộc, hay có thể sống tại các cộng đồng được hòa trộn nhiều nhóm dân tộc là hệ quả
của việc nhiều nhóm dân tộc chuyển đến sinh sống trong cùng một khu vực.


Dự án Khu vực PNKB: Nghiên cứu giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số


18

Có một số điểm tổng quát chúng ta có thể nói về “người nghèo”, dù vậy, có một điểm chung
mà chúng ta thường đề cập, đó là: họ gặp các vấn đề về tiếp cận với đất đai và rừng. Đồng
thời, họ cũng thường thiếu các kỹ năng và không được đào tạo để có thể tham gia với các
điều kiện thuận lợi hơn vào các hoạt động phi nông nghiệp của nền kinh tế. Điều này buộc họ
phải tìm kiếm các công việc trong mảng lao động chưa qua đào tào, với mức lương thấp nhất
của nền kinh tế, ví dụ làm thuê ngày trong lĩnh vực nông nghiệp, làm thuê cho các Lâm trường
quốc doanh, làm thợ xây và các công việc liên quan, làm việc nhà hay làm thuê cho các công
ty với công lao động rẻ mạt cho các lao động chưa qua đào tạo tại các khu phát triển kinh tế ở
miền Nam. Vấn đề này đã được đề cập đến trong Kế hoạch Phát triển Kinh tế-xã hội của tỉnh
Quảng Bình, giai đoạn 2011 – 2020 khi bản kế hoạch này nêu lên việc cần phải mở ra nhiều
cơ hội đào tạo nghề tại tỉnh nhà.
Bản thân những người nghèo và những người khác trong các thôn bản đã xác định một vài
tiêu chí để mô tả các hộ gia đình nghèo. Các chỉ tiêu nghèo được xác đinh tại các địa phương
như sau:







Là hộ gia đình có các đối tượng phụ thuộc không mong muốn trong độ tuổi lao động
(có nghĩa là một gia đình có nhiều trẻ em, không có người lớn nam giới trong nhà, có
nhiều người già, có nhiều thành viên bị bệnh ốm kinh niên);
Là hộ gia đình có quá ít đất để canh tác và/hoặc có quá ít đất đai có chất lượng phù
hợp (khiến lao động không hiệu quả);
Là hộ gia đình không có vật nuôi;

Là hộ gia đình không có vốn đầu tư;
Tại các thôn bản trồng lúa, là hộ gia đình thiếu lúa nghiêm trọng (thiếu trong 09 tháng
hoặc hơn)
Là các hộ gia đình chịu những khó khăn liên tiếp (trong gia đình có thành viên bị chết
bất ngờ, thời tiết xấu, sâu bệnh tấn công, giá cả mùa màng bị giảm mạnh, mất đất đai
do xói mòn, không có người mua các loài lâm sản ngoài gỗ, không có khả năng hoàn
trả khoản vay do vật nuôi bị chết).

Ngày nay, khả năng dễ bị tổn thương của các hộ gia đình trước các vấn đề về giá cả và thời
tiết hay trước những khó khăn (do các thảm họa thiên nhiên gây ra hoặc do có các thành viên
trong gia đinh bị đau bệnh) ngày càng lớn. Điều này một phần được phản ánh trong các số
liệu đói nghèo của Sở LĐTBXH liên quan đến các hộ gia đình “cận nghèo” tại các xã. Trên
thực tế, khi cộng tỉ lệ phần trăm của số hộ nghèo và hộ cần nghèo, có 10 trên 13 xã có tỉ lệ đạt
trên 50% (xem Bảng 3 ở trên).
Hiện có khả năng gia tăng khoảng cách giàu-nghèo trong các thôn bản vùng đệm, do những
chuẩn mực xã hội truyền thống gắn với sinh hoạt cộng đồng của các khu vực có đồng bào dân
tộc thiểu số đã bị thay đổi. Các chuẩn mực truyền thống đang dần bị thay thế bởi các mô hình
hướng về hộ gia đình nhiều hơn dựa trên việc cấp đất cho cá nhân hộ gia đình, và các biện
pháp bảo trợ xã hội dành cho hộ gia đình (như cấp phát gạo). Nhưng mô hình “có tính chất
chủ nghĩa cá nhân” gắn với an ninh sinh kế hộ giá đình cũng kéo theo việc khai thác mạnh mẽ
hơn các nguồn tài nguyên hạn chế của các khu rừng, do các phần sản phẩm dư thừa không
còn được chia sẻ với những người khác trong cộng đồng.
5

RỪNG VÀ ĐA D ẠNG SINH HỌC TẠI CÁC XÃ VÙNG Đ ỆM

Mối quan hệ giữa sinh kế và đa dạng sinh học dựa trên một mạng lưới phức tạp các tác động
qua lại được phát triển trong nhiều năm.16 Tỉnh Quảng Bình chịu ảnh hưởng khá nặng nề bởi
chiến tranh và những sự dịch chuyển do chiến tranh gây ra; những sự dịch chuyển này có tác
động lớn đến cách con người tác động qua lại với môi trường khi một số buộc phải di chuyển

để tránh các trận chiến đấu, một số trốn trong các hang động tại các khu vực đá vôi. Cách
16

Xem Peter Bille Larsen (2008) “Kết nối sinh kế với công tác bảo tồn các khu bảo tồn của Việt Nam: Di sản thế
giới Phong Nha Kẻ Bàng, tương lai của người địa phương?”. Ông cung cấp phần tổng quan lịch sử về các đồng
bào dân tộc thiểu số và các khái niệm về bảo tồn tại khu vực PNKB.


Dự án Khu vực PNKB: Nghiên cứu giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số

19

thức con người tác động đến cảnh quan dựa một phần vào cách họ nhìn nhận các cơ hội về
sinh kế, và dựa vào việc các chính sách và các chương trình hỗ trợ hiện có sẽ tạo ra hay cản
trở các nguồn sinh kế khác.
Có rất nhiều các câu hỏi lớn được đặt ra ở đây, nhưng là các câu hỏi mà Nhóm không thể giải
đáp một cách đầy đủ do thời gian có hạn, đó là: có mối quan hệ nào giữa nghèo đói và mất đa
dạng sinh học, và đâu là các giải pháp khả thi để hỗ trợ về vấn đề sinh kế cho những người
nghèo và những người dễ bị tổn thương trước tình trạng đói nghèo mà không cần gây ra các
ảnh hưởng xấu đến đa dạng sinh học? Ở mức độ nào sinh kế của người dân vẫn phụ thuộc
trực tiếp vào các khu rừng? Và liệu mức độ phụ thuộc vào rừng của những người nghèo có
lớn hơn so với những người không nghèo? Dĩ nhiên, có một câu hỏi (về lý thuyết) khác được
đặt ra đó là sẽ có những tác động gì ảnh hưởng đến đa dạng sinh học nếu đột nhiên người
dân địa phương ngừng tất cả các hoạt động liên quan đến rừng? Với những ảnh hưởng lớn từ
những người ngoài và từ các công ty lâm nghiệp, chúng ta có thể phóng đoán rằng người dân
địa phương sẽ tiếp tục sinh sống dựa vào rừng và đa dạng sinh học của khu vực vẫn bị ảnh
hưởng một cách tiêu cực.
Đầu tiên, một điều quan trọng cần làm đó là phân biệt rõ giữa người Kinh và người dân tộc
thiểu số về thái độ và mối quan hệ giữa hai nhóm với rừng. Một nghiên cứu nhanh về cách
thức sinh hoạt của người dân tộc thiểu số truyền thống cho thấy trên tất cả các lãnh thổ của

Việt Nam, các nhóm người dân tộc thiểu số đều sinh sống dựa vào rừng. Các hoạt động sinh
kế của họ dựa nhiều vào sự đa dạng về môi trường và nông nghiệp. Do vậy, toàn bộ cuộc đời
của họ hướng đến bảo tồn đa dạng sinh học để đảm bảo nhu cầu sinh sống của mình. Các
cộng đồng duy trì với số lượng người nhỏ (tránh tạo áp lực quá lớn lên môi trường) và hoạt
động du canh du cư dựa trên việc xoay vòng sử dụng đất rừng trong thời gian đủ dài để đất
rừng có thể tự khôi phục (quá trình chặt và đốt rừng làm nương rẫy được thực hiện theo
hướng khuyến khích tái sinh tự nhiên nhanh). Các cộng đồng không hướng tới việc sản xuất
dư thừa để các cá nhân có thể bán tại các khu chợ, mà hướng tới nhu cầu sinh hoạt của cộng
đồng. Các sản phẩm thừa được chia sẻ giữa các thành viên trong các dịp lễ hội.
Người Kinh là chủ yếu làm nghề nông dựa vào cây lúa nước và họ coi rừng là khu vực có thể
chuyển đổi lâu dài sang thành đất nông nghiệp. Điều này xung đột với hệ thống du canh du cư
được thực hiện trong rừng trong thời gian dài. Ngoài ra, đối với người Kinh - đặc biệt là sau
khi tiến hành những cải cách lớn về thị trường và có những sự tăng trưởng cuối những năm
1980 - rừng và các sản phẩm từ rừng trở thành các hàng hóa bổ sung có thể tiêu thụ tại thị
trường. Các thương nhân người Kinh bắt đầu tìm kiếm với số lượng lớn các sản phẩm có thể
bán với giá trị cao: gỗ, mây, phong lan, động vật hoang dã, lá nón, cây thuốc và rễ cây, nhựa
cây, mật ong rừng, v.v... Do các đồng bào dân tộc thiểu số có mối liên hệ ngày càng gần gũi
hơn với người Kinh, họ bắt đầu học cách biến rừng thành “hàng hóa”, và với những kiến thức
bản địa của mình, họ biết các khu vực có thể tìm các loại lâm sản (quý hiếm) mà thị trường
đang yêu cầu, và họ bị tác động trực tiếp hoặc gián tiếp bởi người Kinh khi vào rừng tìm các
sản phẩm đó để bán.17
Khi Nhóm tư vấn khảo sát tại các thôn bản, phần lớn người Kinh (nhiều hơn so với các nhóm
người dân tộc thiểu số được phỏng vấn) cho rằng họ “không có cách nào khác” ngoài việc
khai thác rừng để có thể đáp ứng các nhu cầu về thực phẩm và các nhu cầu sinh kế khác.
Hiệu ứng “không còn lựa chọn nào khác” này được gắn với trực tiếp với việc đất nông nghiệp
không thể hấp thu thêm sức lao động của người địa phương tại các khu vực Nhóm khảo sát.
Số liệu về đất đai cho thấy không có xã vùng đệm nào có diện tích đất canh tác hằng năm
bình quân lớn hơn 0,86 ha/hộ gia đình và phần lớn là 0,5 ha hoặc thấp hơn.18 Hiệu ứng
17


18

Điều này không đúng đối với việc buôn bán các loài gỗ có giá trị mà người chặt gỗ là người Kinh, còn người vận
chuyển gỗ ra khỏi rừng là người dân tộc thiểu số. Một số người dân cho biết phụ nữ trong thôn bản cũng khuân
vác gỗ với chống của họ.
Điều này không bao gồm các khu vực du canh được tính là “đất rừng”. Hơn nữa, tại một số khu vực của vùng
đệm, các khu đất nương rẫy trên thực tế thuộc về các Lâm trường và được liệt kê là “rừng”. Hai xã vùng lõi có
đất canh tác lên đến 1 ha/hộ gia đình. Xã có tủ lệ nghèo thấp nhất - xã Phú Định - có diện tích đất canh tác cao
nhất cho mỗi hộ gia đình.


Dự án Khu vực PNKB: Nghiên cứu giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số

20

“không còn lựa chọn nào khác” cũng được gắn với tỉ lệ lạm phát cao đi kèm với quá trình phát
triển kinh tế nhanh của Việt Nam trong thập kỷ qua. Nhu cầu sử dụng tiền mặt của hộ gia đình
tăng cao trong khi năng suất đất không đổi, thậm chí là giảm, và giá mùa màng bán tại ruộng
vườn không theo kịp với tốc độ tăng giá của các loại hàng hóa khác. Do đó, Nhóm có cảm
nhận rằng nhóm người Kinh tại địa phương tùy trường hợp vẫn khai thác rừng để phục vụ nhu
cầu tiêu dùng cùa mình, nhưng nhu cầu của họ về tiền mặt chủ yếu phục vụ các chi phí cơ
bản (như học phí, thanh toán khoản vay, cải tạo nhà cửa) và không phục vụ để mua các mặt
hàng tiêu dùng lớn hay các “khoản chi vô bổ”. Người dân tộc thiểu số dường như chỉ bán các
loại lâm sản để có tiền trang trải cho các nhu cầu cơ bản khác của họ.
Phần mô tả trên đây không có nghĩa người Kinh nhất thiết phải là nguyên nhân chính dẫn đến
việc rừng bị suy giảm do chúng ta vẫn chưa đề cập đến vai trò của các Công ty lâm nghiệp và
các Lâm trường quốc doanh trong quá trình này. Trên thực tế, do không có thêm thông tin,
chúng tôi đặt giả định rằng các khu vực nơi các cộng đồng người Kinh hoặc người dân tộc
thiểu số vào rừng chịu sự quản lý của các Lâm trường quốc doanh và không nhất thiết phải
thuộc về VQG PNKB.19 Vậy liệu các hoạt động của người dân có gây hại nhiều hơn cho đa

dạng sinh học của VQG PNKB? Hay cho đa dạng sinh học của bản thân khu vực vùng đệm?
Và nếu so sánh các hoạt động của người dân với các hoạt động của các Lâm trường quốc
doanh, trong một khoảng thời gian, đối tượng nào gây ra sự ảnh hưởng tiêu cực lớn hơn?
Chúng ta hiện cũng không biết rõ về vai trò của công nhân hay người làm thuê cho Lâm
trường quốc doanh trong khi những người này lại có khả năng tham gia vào các hoạt động
khai thác gỗ trái phép. Những vấn đề như thế này chưa được đề cập đến trong đợt tư vấn
phân tích các mối đe dọa do dự án thực hiện năm vừa rồi.20
Về phương diện đa dạng sinh học, người dân nói với chúng tôi rằng các loài gỗ có giá trị giờ
rất khó tìm thấy tại địa phương, cho dù là trong VQG PNKB hay trong các khu vực do các Lâm
trường quốc doanh quản lý. Do đó, người dân ít có khả năng gây ra các mối đe dọa đối với
VQG PNKB: lý lẽ của họ đó là không còn nhiều thứ có giá trị để khai thác nữa, do vậy không
đáng để vào rừng để rồi bị các cán bộ kiểm lâm của VQG PNKB bắt giữ. Điều này đúng với
thực tế tại hai xã mà Nhóm khảo sát tại huyện Bố Trạch. Tại xã Trường Sơn, huyện Quảng
Ninh hay tại huyện Minh Hóa, do cách khá xa so với VQG PNKB, nên các khu rừng bị khai
thác trái phép ở đây chủ yếu nằm trong các khu vực quản lý của các Công ty lâm nghiệp hoặc
các Ban quản lý rừng phòng hộ (ngoại trừ Thượng Hóa có một diện tích khá lớn thuộc VQG
PNKB: xem Bảng 6 dưới đây).
Tuy nhiên, cùng lúc đó, các cán bộ và người dân tại xã Hưng Trạch lại cho biết một nhóm nhỏ
nam thanh niên trẻ từ các thôn bản đi sang My-an-ma tìm kiếm các loài gỗ có giá trị để bán
thông qua một mạng lưới các thương nhân Việt - những người đi đến các thôn bản để tuyển
người làm. Nhóm thanh niên này cũng đi tìm trầm hương tại Lào, Cam-pu-chia và My-an-ma
do giá bán trầm hương rất cao theo cân nặng của trầm. Tại thôn Đông Giang, người dân cho
biết rằng giá các loại gỗ có giá trị đã tăng lên rất nhiều (và mức độ hiếm cũng tăng lên) khiến
nam giới trong thôn bản vẫn cố gắng đi rừng tìm các loài gỗ đó để bán cho thương nhân. Họ
nói rằng những người địa phương như họ thường được thuê để vác gỗ ra bìa rừng nơi họ
nhận được tiền công của mình.
Tại các khu vực được khảo sát, người dân nói rằng các hoạt động săn bắn, đặt bẫy đã giảm,
chủ yếu là do hiện không còn nhiều loài động vật trong rừng nữa (chứ không phải vì họ không
muốn săn bắn động vật nữa).21 Tại một thôn bản của xã Xuân Trạch, những người phụ nữ nói
đùa rằng trong rừng không còn nhiều động vật lớn nữa, và do đó, trẻ con trong thôn thậm chí

không biết những động vật đó trông như thế nào nữa. Ngoài ra, vẫn còn các cửa hàng bán thịt
động vật hoang dã đang hoạt động trong và xung quanh vùng đệm, và du khách Việt đến thăm
19

20

21

Đây là vấn đề dự án cần có số liệu rõ ràng hơn, bởi vì các số liệu sẽ mang lại sự khác biệt rất lớn liên quan đến
cách thức làm việc với các xã, các huyện và các Lâm trường và Ban quản lý rừng phòng hộ.
Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (2010:17) về Thực thi pháp luật và quản lý rừng cho biết các Lâm trường có
tham gia vào các hoạt động trái phép: “Sự tham gia của Lâm trường vào các hoạt động khai thác gỗ trái phép
và săn bắn, buôn bán các động vật hoang dã đã được ghi nhận trong những năm gần đây . . . Do một số lâm
trường thực hiện hoặc hợp đông khai thác gỗ tại Lào, ở đây xuất hiện vấn đề liên quan đến việc hợp thức hóa
các sản phẩm nhập khẩu.”
P. B. Larsen (2007) trong báo cáo của mình với tựa đề “Các chính sách buôn bán động vật hoang dã và các
động cơ xã hội tại Việt Nam” cũng đã đưa ra các kết luận tương tự.


×