Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Phát triển cho vay khách hàng cá nhân tại ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.03 MB, 116 trang )

1

MỤC LỤC


2

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TMCP

: Thương mại cổ phần

KHCN

: Khách hàng cá nhân

VIB

: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc tế Việt

Nam
NHTM

: Ngân hàng thương mại

NQH

: Nợ quá hạn

PB


: Khối khách hàng cá nhân.

CB

: Khối khách hàng doanh nghiệp.


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Sau khi Việt Nam mở cửa nền kinh tế và gia nhập WTO, các
doanh nghiệp Việt Nam có thuận lợi để tiếp cận những quan điểm,
mô hình kinh doanh mới từ các nước phát triển, từ các doanh nghiệp
nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam.
Là một phần của nền kinh tế thế giới, xu hướng phát triển tất
yếu của ngành ngân hàng Việt Nam trong thời gian tới sẽ phát triển
theo mô hình ngân hàng bán lẻ. Hoạt động cho vay cá nhân là một
phần trong hoạt động bán lẻ của ngân hàng, nó tạo ra khoản thu
nhập lớn và ổn định dựa trên số đông người sử dụng, đồng thời tăng
hình ảnh của ngân hàng trong con mắt người dân, góp phần vào sự
phát triển bền vững, lâu dài của ngân hàng.
Hiện nay đó là định hướng lâu dài của đa số các ngân hàng cổ
phần Việt Nam. Thể hiện rõ nhất là các Ngân hàng ACB, Ngân
hàng Đông Á. Các ngân hàng nước ngoài như ANZ, HSBC sau khi
thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài cũng muốn tham gia thị
trường còn sơ khai này. Hoạt động cho vay đối với khách hàng cá
nhân tại Việt Nam vẫn còn khá nhỏ bé so với tiềm năng của nó và
chưa được các ngân hàng thương mại khai thác triệt để, chỉ tính con
số hơn 85 triệu dân, trong đó 2/3 là dân số trẻ và chỉ mới khoảng

10% dân số có tài khoản và sử dụng các dịch vụ ngân hàng.


2

Trước đây, hoạt động cho vay khách hàng cá nhân còn hạn chế
xuất phát từ nhiều nguyên nhân, như công nghệ kém không đáp ứng
các yêu cầu của sản phẩm; nhận thức của ngân hàng đối với các
khoản vay cá nhân còn hạn chế được nhìn dưới góc độ rủi ro…dẫn
đến các sản phẩm chưa đa dạng. Các Ngân hàng thương mại Nhà
nước có nguồn vốn dồi dào, mạng lưới hoạt động rộng khắp lại chủ
yếu tập trung cho vay các Doanh nghiệp lớn, thị phần cho vay cá
nhân không được coi trọng. Đây là cơ hội cho các ngân hàng
thương mại cổ phần, khi đối tượng phục vụ của họ là các khách
hàng vay vốn có khoản vay nhỏ và vừa, trong đó có khách hàng cá
nhân.
Nhận thức được lợi ích phát triển cho vay khách hàng cá nhân,
và qua quá trình công tác tại Ngân hàng Thương mại cổ plhần Quốc
tế, em chọn đề tài: “Phát triển cho vay khách hàng cá nhân tại
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc tế Việt Nam” làm đề tài
nghiên cứu luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về cho vay khách hàng cá
nhân tại các ngân hàng thương mại.
- Thực trạng cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng thương
mại Cổ phần Quốc tế (VIB) trong các năm 2006, 2007, nửa đầu
năm 2008.
- Đưa ra các giải pháp phát triển cho vay khách hàng cá nhân tại
VIB.



3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng: Hoạt động cho vay khách hàng cá nhân tại VIB.
- Phạm vi: Hoạt động cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Quốc tế Việt Nam (Ngân hàng Quốc tế)
trong khoảng thời gian năm 2006 đến nửa năm 2008.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, suy luận
logic, phương pháp so sánh thống kê, toán học, phân tích kinh tế…
khi nghiên cứu đề tài này.
5. Những đóng góp của luận văn.
Khẳng định xu hướng tiếp cận khách hàng cá nhân, trong đó có
cho vay tại các ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Dựa trên phân
tích số liệu qua các năm và nền tảng công nghệ hiện có đưa ra một
số chính sách nhằm phát triển đa dạng sản phẩm cho vay đáp ứng
nhu cầu khách hàng cá nhân tại VIB.
6. Bố cục luận văn.
Ngoài lời nói đầu và kết luận, kết cấu chính của luận văn gồm
có 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về cho vay đối với KHCN của NHTM.
Chương 2: Thực trạng cho vay đối với KHCN của VIB.
Chương 3: Giải pháp phát triển cho vay đối với KHCN tại VIB.


4

Chương 1 - TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN CHO VAY ĐỐI
VỚI KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN CỦA NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI.
1.1 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
1.1.1 Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối
với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói
riêng. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng hay các
dịch vụ mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Cùng với sự phát
triển của nền kinh tế, ngày càng có nhiều các tổ chức tài chính khác
nhau cung cấp các dịch vụ ngân hàng như cho vay, uỷ thác đầu tư,
nhận tiền gửi, ngược lại các NHTM cũng đang mở rộng và đa dạng
hoá các loại hình dịch vụ của mình. Do đó, rất dễ có sự nhầm lẫn
giữa loại hình NHTM và các trung gian tài chính khác. Peter Rose
đã định nghĩa về NHTM như sau: “Ngân hàng là loại hình tổ chức
tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng
nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế”.
Như vậy, có thể phân biệt NHTM với các trung gian tài chính
khác ở chỗ NHTM là tổ chức kinh tế duy nhất được phép thực hiện
nghiệp vụ thanh toán và làm trung gian thanh toán trong nền kinh tế.


5

NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ với rất nhiều hoạt
động đa dạng trong đó có ba hoạt động chính đó là: nhận tiền gửi,
cho vay và hoạt động đầu tư.
Nhận tiền gửi là hoạt động huy động vốn của ngân hàng từ
những nguồn tiền chưa được sử dụng trong nền kinh tế với cam kết
hoàn trả và trả lãi đúng hạn. Tiền gửi tồn tại ở các dạng: tiền gửi

thanh toán, tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi có kì hạn của
doanh nghiệp. Đây chính là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của
NHTM, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng.
Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các
tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng.
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng vay với
cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời
gian xác định. Hoạt động này thường chiếm tỷ trọng lớn nhất ở
phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng.
Cho vay bao gồm: cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng và tài trợ
cho dự án. Cho vay thường được định lượng theo 2 chỉ tiêu: Doanh
số cho vay trong kì và dư nợ cuối kì. Doanh số cho vay trong kì là
tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay ra trong kì, dư nợ cuối kì là
số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuối kì.
Hoạt động đầu tư được thể hiện thông qua việc ngân hàng nắm
giữ các chứng khoán vì mục tiêu thanh khoản và đa dạng hoá tài
sản. Ngân hàng giữ nhiều loại chứng khoán, có thể xếp loại theo
nhiều tiêu thức, ví dụ như theo tính thanh khoản, theo chủ thể phát


6

hành, theo mục tiêu nắm giữ,…Theo chủ thể phát hành có thể chia
thành: chứng khoán của Chính phủ Trung ương hoặc địa phương
(do kho bạc Nhà nước phát hành); chứng khoán của các ngân hàng
khác, các công ty tài chính (bao gồm các cổ phiếu và các giấy nợ
khác do các ngân hàng, các công ty tài chính phát hành hoặc chấp
nhận thanh toán); chứng khoán của các công ty khác. Ngân hàng giữ
chứng khoán vì chúng mang lại thu nhập cho ngân hàng và có thể
bán đi để gia tăng ngân quỹ khi cần thiết.

Các hoạt động khác bao gồm một số hoạt động như: mua bán
ngoại tệ, bảo quản vật có giá, cung cấp các tài khoản giao dịch và
thực hiện thanh toán, quản lý ngân quỹ, tài trợ các hoạt động của
Chính phủ, bảo lãnh, cho thuê thiết bị trung và dài hạn, cung cấp
các dịch vụ uỷ thác và tư vấn, cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư
chứng khoán, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, cung cấp các dịch vụ
đại lý.
1.1.2 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Như đã trình bày ở phần trên, Cho vay là việc ngân hàng đưa
tiền cho khách hàng vay với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả
gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Phân tích khách hàng
trong quan hệ cho vay này chính là phân tích cho vay. Bởi vì cho
vay là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho NHTM
nên để có một món cho vay đạt chất lượng thì các NHTM thường
đưa ra một qui trình phân tích khách hàng chặt chẽ. Rủi ro từ cho
vay có rất nhiều nguyên nhân đều có thể gây ra tổn thất, làm giảm


7

thu nhập của ngân hàng. Có nhiều khoản cho vay mà tổn thất có thể
chiếm phần lớn vốn của chủ, đẩy n gân hàng đến phá sản. Do vậy
các ngân hàng thường cân nhắc kĩ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro
và sinh lời khi quyết định cho vay. Đó chính là quá trình phân tích
trước và trong khi cho vay.
Mục tiêu của phân tích cho vay là xác định rủi ro và các biện
pháp hạn chế rủi ro. Nội dung của phân tích cho vay là thu thập và
phân tích thông tin nhằm xác định uy tín, tư cách pháp lý, sức mạnh
tài chính và khả năng thanh toán của người vay,… trong quá khứ,
hiện tại và tương lai, hiệu quả của dự án,…

Có nhiều cách phân loại cho vay, để phục vụ cho đề tài nghiên
cứu tôi xin đưa ra cách phân loại khách hàng theo đối tượng khách
hàng. Theo cách phân loại này thì cho vay bao gồm cho vay khách
hàng doanh nghiệp, cho vay tổ chức tài chính và cho vay khách
hàng cá nhân.
Khách hàng doanh nghiệp bao gồm: Doanh nghiệp nhà nước,
Hợp tác xã, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Công ty hợp danh. Hình thức cho
vay đối với khách hàng doanh nghiệp rất đa dạng như cho vay ngắn
hạn theo món, vay theo hạn mức tín dụng dự phòng, cho vay theo
dự án đầu tư, cho vay hợp vốn,…
Khách hàng tổ chức tài chính ở đây bao gồm các ngân hàng
khác, hợp tác xã tín dụng, các công ty bảo hiểm, các công ty tài
chính,… Hình thức cho vay đối với các tổ chức tài chính cũng hết


8

sức đa dạng. Thường cho vay NHTM nhằm đáp ứng các nhu cầu
ngắn hạn của các ngân hàng này và các giao dịch thường diễn ra
trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng.
Khách hàng cá nhân ở đây là tất cả các cá nhân có năng lực
pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân
sự theo qui định của pháp luật. Đối tượng vay vốn đa dạng bao gồm
những khách hàng có nhu cầu vốn để mua nhà, sửa chữa nhà, xây
dựng nhà, mua ô tô, mua các thiết bị gia dụng, thực hiện các
phương án sản xuất kinh doanh và đáp ứng một số yêu cầu khác.
Các phương thức vay vốn đa dạng như: cho vay từng lần, cho vay
trả góp, cho vay cầm cố bằng sổ tiết kiệm, cho vay theo hạn mức,…
Thời hạn cho vay linh hoạt tuỳ vào mục đích vay của khách hàng và

kết quả thẩm định của cán bộ tín dụng. Lãi suất cho vay được xác
định dựa trên biểu lãi suất cho vay của ngân hàng, hoặc cũng có thể
phụ thuộc vào sự thoả thuận của khách hàng và ngân hàng. Về tài
sản đảm bảo cho khoản vay bao gồm bất động sản (nhà, đất,…),
động sản (hàng hoá, máy móc thiết bị,…), số dư tài khoản tiền gửi,
các chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá khác, tài sản có giá trị
khác.
1.2 Cho vay đối với khách hàng cá nhân của ngân hàng
thương mại
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm cho vay khách hàng cá nhân
Nếu phân loại hoạt động cho vay theo đối tượng khách hàng thì
hoạt động này bao gồm cho vay doanh nghiệp, cho vay các tổ chức


9

tài chính và cho vay khách hàng cá nhân như đã trình bày ở trên. Do
đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động cho vay KHCN của
NHTM nên ta sẽ xem xét về hoạt động này. Cho vay KHCN là một
hình thức tài trợ của ngân hàng cho các khách hàng là cá nhân: “Đó
là quan hệ kinh tế mà trong đó ngân hàng chuyển cho các cá
nhân quyền sử dụng một khoản tiền với những điều kiện nhất
định được thoả thuận trong hợp đồng nhằm phục vụ mục đích
của khách hàng.”
Đặc điểm cho vay KHCN: Cho vay KHCN có những đặc
điểm riêng thể hiện sự khác biệt với các loại hình cho vay khác như
sau:
Đối tượng cho vay là cá nhân và các hộ gia đình.
Quy mô khoản vay: hầu hết các khoản cho vay KHCN có quy
mô nhỏ nhưng số lượng khoản vay lớn, do cho vay KHCN đáp ứng

nhu cầu của cá nhân và các hộ gia đình nhằm mục đích tiêu dùng
hoặc sản xuất kinh doanh nhỏ, nên quy mô của một khoản vay
tương đối nhỏ so với tài sản của ngân hàng, số lượng các khoản vay
lại rất lớn do đối tượng của cho vay là các cá nhân và các hộ gia
đình với số lượng nhiều và nhu cầu tiêu dùng rất đa dạng.
Mục đích vay: nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng hoặc sản xuất
kinh doanh nhỏ của cá nhân, hộ gia đình. Do đó, nhu cầu vay vốn
phụ thuộc vào tâm lý khách hàng và chu kỳ kinh tế của người đi
vay. Khi nền kinh tế có sự tăng trưởng cao và ổn định, KHCN sẽ có
thái độ lạc quan hơn về tương lai, họ kỳ vọng sẽ có khoản thu nhập


10

nhiều hơn trong tương lai và do vậy sẽ thúc đẩy sự chi tiêu cho tiêu
dùng hoặc sản xuất kinh doanh ở hiện tại. Ngược lại, khi nền kinh tế
suy thoái người dân thường có xu hướng giảm tiêu dùng, giảm đầu
tư vào sản xuất kinh doanh, thay vào đó là sẽ tăng cường tiết kiệm
và hạn chế vay mượn từ Ngân hàng.
Nhu cầu vay của khách hàng thường kém nhạy cảm với lãi suất,
thông thường người đi vay quan tâm tới số tiền phải thanh toán hơn
là lãi suất mà họ phải chịu. Mức thu nhập và trình độ dân trí là hai
nhân tố tác động rất lớn đến nhu cầu vay của khách hàng.
Rủi ro đối với cho vay KHCN: cho vay KHCN có mức độ rủi ro
lớn và được coi là tài sản rủi ro nhất trong danh mục tài sản của
ngân hàng. Xuất phát từ bản thân khách hàng vay vốn có thể có sự
biến động về tình hình tài chính dẫn đến mất khả năng chi trả hay
khi khách hàng cố tình không chịu trả nợ, hoặc do sự biến động về
tình trạng sức khoẻ, công việc… Việc thẩm định khả năng trả nợ
của các cá nhân hoặc hộ gia đình cũng hết sức khó khăn. Ngoài ra,

để có được khoản vay có nhiều khách hàng giấu các thông tin về
tình hình sức khoẻ và công việc trong tương lai của mình nên các
ngân hàng dễ gặp phải rủi ro đạo đức khi cho vay. Do khoản cho
vay khách hàng cá nhân có rủi ro cao nhất nên các ngân hàng
thường yêu cầu phải có tài sản đảm bảo khi vay và yêu cầu người
vay phải mua bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm
cho hàng hoá đã mua.


11

Lãi suất cho vay: do quy mô của các khoản vay thường nhỏ (trừ
những khoản cho vay để mua bất động sản), dẫn đến chi phí để cho
vay (về thời gian, nhân lực đi thẩm định, quản lý các khoản cho vay
này) cao đồng thời rủi ro của các khoản vay này cũng rất cao. Do
vậy, lãi suất cho vay KHCN thường cao hơn lãi suất các khoản cho
vay khác của NHTM.
Từ trước đến nay, cho vay KHCN vẫn được các ngân hàng coi
là khoản mục mang lại lợi nhuận khá cao với lãi suất “cứng nhắc”.
Điều đó có nghĩa là nó đủ để bù đắp chi phí huy động vốn của ngân
hàng, không như hầu hết các khoản cho vay khác hiện nay với lãi
suất thay đổi theo điều kiện thị trường, như vậy với cho vay KHCN
ngân hàng phải chịu rủi ro về lãi suất khi chi phí huy động vốn tăng
lên. Tuy nhiên, các khoản vay này thường được định giá rất cao (vì
đã bao hàm cả một phần bù rủi ro lãi suất) đến mức mà bản thân lãi
suất vay vốn trên thị trường lẫn tỷ lệ tổn thất tín dụng phải tăng lên
đáng kể thì hầu hết các khoản cho vay KHCN mới không mang lại
lợi nhuận. Nguồn thu nhập càng ổn định, ngân hàng có khả năng
kiểm soát thì lãi suất áp dụng cho khách hàng sẽ giảm đi, do rủi ro
từ việc cho vay đã được hạn chế.

Hạn mức cho vay KHCN: là số tiền tối đa mà ngân hàng cho
khách hàng vay. hạn mức cho vay KHCN được xác định dựa trên
các yếu tố như: nhu cầu vốn của khách hàng, số vốn tự có của khách
hàng, giá trị của tài sản đảm bảo.


12

Đối với các hình thức vay, các ngân hàng thường quy định các
hạn mức khác nhau dựa trên giá trị tài sản đảm bảo hoặc nhu cầu
vay hợp lý. Thông thường, cho vay cầm cố có hạn mức cao nhất,
chẳng hạn như nếu khách hàng cầm cố sổ tiết kiệm, trái phiếu hay
chứng chỉ tiền gửi có thể được cấp một hạn mức bằng 90% giá trị
tài sản cầm cố. Để có thể xác định được hạn mức tín dụng dựa trên
tài sản đảm bảo của khách hàng, các ngân hàng cần phải định giá
chính xác tài sản đó. Nếu định giá quá thấp sẽ làm giảm số tiền vay
của khách hàng, nếu định giá quá cao sẽ dẫn đến rủi ro cho ngân
hàng.
Cuối cùng, ngân hàng sẽ so sánh nhu cầu vay hợp lý (Nhu cầu
vay hợp lý của khách hàng = nhu cầu vốn hợp lý - vốn tự có của
khách hàng - vốn khách hàng vay mượn từ nguồn khác) và hạn mức
tín dụng, từ đó xác định số tiền cho vay. Nếu nhu cầu vay hợp lý >
hạn mức tín dụng thì ngân hàng sẽ cho khách hàng vay theo hạn
mức tín dụng, nếu nhu cầu vay hợp lý < hạn mức tín dụng thì ngân
hàng sẽ cho khách hàng vay số tiền theo nhu cầu vay hợp lý của
khách hàng. Như vậy, sẽ vừa thoả mãn nhu cầu vay của khách hàng
vừa để đảm bảo an toàn cho ngân hàng.
1.2.2 Phân loại cho vay khách hàng cá nhân
Để có thể quản lý tốt cho vay KHCN cần thiết phải phân loại
cho vay KHCN. Có nhiều tiêu thức để phân loại một khoản cho vay,

dưới đây tôi xin đề cập phân loại các khoản cho vay KHCN theo
một số tiêu chí sau:


13

• Căn cứ vào mục đích vay.
Căn cứ vào mục đích vay có thể phân loại cho vay KHCN
thành ba loại:
Cho vay KHCN nhằm phục vụ mục đích cư trú.
Là các khoản cho vay nhằm phục vụ nhu cầu xây dựng, mua
sắm hoặc cải tạo nhà ở của cá nhân, hộ gia đình. Đặc điểm của
khoản vay này là thời gian dài và quy mô vay là lớn.
Cho vay KHCN nhằm phục vụ mục đích tiêu dùng
Đó là các khoản cho vay phục vụ nhu cầu cải thiện đời sống
như mua sắm phương tiện, đồ dùng sinh hoạt, du lịch, học hành,
giải trí,… Đặc điểm của khoản vay này là quy mô nhỏ, thời gian
ngắn, rủi ro thấp hơn cho vay phục vụ mục đích cư trú.
Cho vay KHCN nhằm phục vụ mục đích sản xuất kinh doanh
Đó là các khoản cho vay để thực hiện các phương án sản xuất
kinh doanh nhỏ ở từng hộ gia đình, vay để buôn bán, thuê cửa hàng,
… Đặc điểm của các khoản cho vay này là thời hạn vay ngắn phụ
thuộc vào mặt hàng kinh doanh, qui mô khoản vay tuỳ thuộc vào
phương án kinh doanh của khách hàng, rủi ro của khoản cho vay
này rất cao, và có khả năng xảy ra rủi ro đạo đức. Tuy nhiêu nếu
ngân hàng quản lý thường xuyên hoạt động kinh doanh của khách
hàng thì rủi ro sẽ hạn chế.
• Căn cứ vào phương thức hoàn trả.
Cho vay KHCN trả một lần khi đáo hạn



14

Là các khoản vay ngắn hạn của cá nhân và hộ gia đình để đáp
ứng nhu cầu tiền mặt tức thời và được thanh toán một lần khi khoản
vay đáo hạn. Qui mô của món vay là tương đối nhỏ, các khoản vay
trả một lần thường ngắn hạn và được dùng để chi trả cho các chuyến
đi nghỉ, mua các dụng cụ gia đình hoặc sửa chữa ô tô, nhà ở… Rủi
ro các món vay này là không lớn lắm.
Nếu quy mô khoản vay lớn sẽ có rủi ro cao, do đặc điểm của
khoản vay này là trả cuối kỳ, nguồn trả chủ yếu từ việc bán tài sản
khác hoặc nguồn trả nợ khác gặp khó khăn khi đó kế hoạch trả nợ
thay đổi, điển hình khi thị trương bất động sản biến động, hoặc nền
kinh tế gặp khó khăn. Có thể thấy điều này qua khủng hoảng thị
trường tài chính của Mỹ xuất phát từ việc cho vay dưới tiêu chuẩn.
Cho vay trả góp
Là khoản cho vay ngắn hạn hoặc trung hạn được thanh toán
làm hai hoặc nhiều lần liên tiếp (thường theo tháng hoặc quý).
Khoản cho vay được trả làm nhiều lần theo thỏa thuận giữa ngân
hàng và khách hàng, phương thức này được dùng để tài trợ cho việc
mua sắm các vật dụng đắt tiền như ô tô, nhà,… hoặc để tài trợ cho
các phương án sản xuất kinh doanh, thuê cửa hàng, mua sắm các tài
sản lưu động khác,… Nhìn chung, các khoản cho vay trả góp này
mang lãi suất cố định, tuy nhiên loại mang lãi suất thả nổi cũng
đang dần trở nên phổ biến. Thường thì trong tổng khối lượng cho
vay tiêu dùng do các NHTM cung cấp thì hơn 80% được thực hiện
trên cơ sở trả góp. Điều này xuất phát từ việc khả năng tài chính của


15


khách hàng không đủ để chi trả khoản vay một lần duy nhất thêm
vào đó việc định kỳ trả nợ vào mỗi tháng hay đến kỳ lương là thuận
lợi hơn. Hình thức cho vay này lại được chia nhỏ thành: cho vay trả
gốc và lãi hàng tháng đều nhau (niên kim cố định), trả gốc hàng
tháng bằng nhau, lãi trả theo số dư gốc (niên kim không cố định),
hoặc trả lãi hàng kì còn gốc trả cuối kì.
Cho vay theo thẻ tín dụng
Thẻ tín dụng ngân hàng cũng như các loại thẻ thanh toán khác
đã nhanh chóng được chấp nhận sử dụng, thẻ tín dụng cung cấp một
dòng tín dụng thường xuyên và quay vòng mà khách hàng có thể sử
dụng bất cứ khi nào họ có nhu cầu. Những người sử dụng thẻ tín
dụng có thể vay trả dần hoặc trả một lần vì họ có thể tính tiền mua
hàng vào tài khoản thẻ tín dụng của mình. Trong tương lai thẻ tín
dụng sẽ rất phát triển bởi công nghệ tiên tiến sẽ giúp cho những
người sở hữu thẻ tín dụng có thể tiếp cận đến một số lượng lớn các
dịch vụ tài chính, bao gồm cả tài khoản tiết kiệm và tài khoản thanh
toán cũng như hạn mức tín dụng.
• Căn cứ vào hình thức cho vay
Cho vay gián tiếp:
Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các khoản nợ
phát sinh của các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hoá hoặc đã cung
cấp các dịch vụ cho KHCN của họ, theo hình thức này ngân hàng
cho vay thông qua các doanh nghiệp bán hàng hoặc làm các dịch vụ
mà không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng.


16

Hình thức cho vay này có những ưu điểm sau:

- Các NHTM dễ dàng mở rộng và tăng doanh số cho vay.
- Các NHTM sẽ tiết kiệm và giảm được các chi phí khi cho vay.
- Là cơ sở để mở rộng quan hệ với khách hàng và tạo điều kiện
thuận lợi cho các hoạt động khác của ngân hàng.
- Nếu NHTM quan hệ tốt với các doanh nghiệp bán lẻ, thì hình
thức cho vay KHCN gián tiếp có mức độ rủi ro thấp hơn cho vay
KHCN trực tiếp.
Tuy nhiên, hình thức cho vay này cũng có những hạn chế:
- Các ngân hàng thương mại khi cho vay không tiếp xúc trực
tiếp với khách hàng mà thông qua các doanh nghiệp đã bán chịu
hàng hoá, dịch vụ, nhất là trong việc lựa chọn khách hàng, tiêu chí
lựa chọn của doanh nghiệp và ngân hàng không giống nhau.
- Thiếu sự kiểm soát của Ngân hàng cả trước, trong và sau khi
vay vốn, khi doanh nghiệp thực hiện bán lẻ hàng hoá và dịch vụ.
- Kỹ thuật và quy trình nghiệp vụ của hình thức cho vay này rất
phức tạp.
Cho vay trực tiếp
Là hình thức cho vay mà ngân hàng và khách hàng trực tiếp gặp
nhau để tiến hành cho vay hoặc thu nợ.
Hình thức này có những ưu điểm sau:
Việc cho vay tiến hành trực tiếp giữa ngân hàng với khách hàng
do vậy ngân hàng có thể sử dụng triệt để trình độ, kiến thức, kinh
nghiệm, và kĩ năng của cán bộ tín dụng, do đó các khoản vay này


17

thường có chất lượng cao hơn so với cho vay gián tiếp thông qua
các doanh nghiệp bán lẻ.
Cán bộ tín dụng khi cho vay đặc biệt coi trọng đến chất lượng

các khoản vay, song doanh nghiệp bán lẻ hàng hoá, dịch vụ thường
coi trọng nhiều đến việc tăng doanh số bán hàng hơn là chất lượng
các khoản vay, hơn nữa các doanh nghiệp thường đưa ra quyết định
cho vay một cách nhanh chóng, nên dẫn đến tình trạng có những
khoản cho vay cấp ra không chính đáng, ngược lại có thể từ chối
khách hàng tốt của mình, như vậy hình thức này đã khắc phục
nhược điểm này nếu cho vay gián tiếp.
Hình thức cho vay trực tiếp linh hoạt hơn hình thức cho vay
gián tiếp, vì khi quan hệ trực tiếp giữa ngân hàng với khách hàng sẽ
xử lý tốt các phát sinh, hơn nữa có khả năng làm thoả mãn quyền lợi
cho cả ngân hàng và khách hàng.
Cho vay trực tiếp với đối tượng khách hàng là rất rộng do đó
việc đưa ra các dịch vụ, tiện ích mới là rất thuận lợi, đồng thời là
hình thức để tăng cường và quảng bá hình ảnh của ngân hàng đến
với khách hàng.
Tuy nhiên, hình thức cho vay này cũng có những mặt hạn chế:
Việc mở rộng và tăng doanh số cho vay không thuận lợi bằng
hình thức cho vay KHCN gián tiếp.
Do cán bộ ngân hàng phải làm việc trực tiếp với khách hàng
nên Ngân hàng tốn nhiều thời gian và chi phí so với hình thức cho


18

vay gián tiếp, nhất là khi lượng khách hàng đến đông cùng một thời
gian sẽ gây khó khăn cho Ngân hàng.
• Căn cứ vào biện pháp bảo đảm tiền vay:
Cho vay có tài sản bảo đảm
Là cho vay với tài sản bảo đảm là bất động sản, động sản…
hình thành từ vốn vay hoặc tài sản thuộc sở hữu của khách hàng

trước khi vay vốn của Ngân hàng. Tài sản bảo đảm làm tăng tính an
toàn cho khoản vay do Ngân hàng có thể tạo áp lực để buộc khách
hàng phải trả nợ hoặc trong tình huống xấu nhất khách hàng không
trả được nợ thì việc phát mại tài sản bảo đảm cũng giúp giảm bớt
tổn thất cho Ngân hàng. Cho vay có tài sản đảm bảo lại được chia
thành hai loại:
Loại 1 bao gồm các tài sản thuộc sở hữu hoặc sử dụng lâu dài
của chính khách hàng. Có thể chia các hình thức đảm bảo của loại
này thành hai loại nhỏ sau:
Cho vay cầm cố là hình thức ngân hàng cho khách hàng vay
tiền với điều kiện là khách hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài
sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong thời gian đã cam kết. Danh
mục và điều kiện của tài sản cầm cố được ngân hàng quy định cụ
thể dựa trên quy định của pháp luật và chính sách tín dụng của từng
ngân hàng. Các tài sản cầm cố thường là các tài sản mà ngân hàng
có thể kiểm soát và bảo quản tương đối chắc chắn, đồng thời việc
ngân hàng nắm giữ không ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của


19

khách hàng chẳng hạn như: các giấy tờ có giá, ngoại tệ mạnh, kim
loại quý,…
Cho vay thế chấp là hình thức mà người vay phải chuyển toàn
bộ các giấy tờ chứng nhận sở hữu hoặc sử dụng các tài sản đảm bảo
sang cho ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết. Đối với thế
chấp bằng tài sản thì những tài sản mang thế chấp thường là bất
động sản như nhà cửa, quyền sử dụng đất,…hoặc là những động sản
mà người vay vẫn cần sử dụng như ô tô, xe máy,…Việc thế chấp
bằng tài sản cho phép người nhận tài trợ tiếp tục được sử dụng tài

sản trong thời gian vay.
Loại 2 Cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ tiền vay.
Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn nhưng không có tài sản đảm
bảo hoặc tài sản đó không đáp ứng được các điều kiện của ngân
hàng thì ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng sử dụng chính tài sản
được hình thành từ nguồn tài trợ của ngân hàng làm vật đảm bảo.
Để đảm bảo khách hàng không bán tài sản hoặc sử dụng không cẩn
thận làm giảm giá trị của tài sản, ngân hàng thường yêu cầu khách
hàng phải cam kết bảo quản tài sản, mua bảo hiểm và người thụ
hưởng là ngân hàng, đồng thời chuyển toàn bộ giấy tờ sở hữu cho
ngân hàng.
Cho vay không có tài sản bảo đảm
Là cho vay dựa trên uy tín (tín chấp) hoặc bảo lãnh của bên thứ
ba, không có tài sản bảo đảm. Ngân hàng lựa chọn các khách hàng
có uy tín và khả năng trả nợ tốt để cho vay. Ngân hàng cho khách


20

hàng vay tiền để đáp ứng nhu cầu của khách hàng trên cơ sở tín
chấp lương, chủ yếu được áp dụng đối với khách hàng có thu nhập
ổn định, thu nhập ngoài việc trang trải các chi tiêu thường xuyên
còn có một phần tích luỹ để trả nợ vay (công chức, viên chức trong
biên chế nhà nước, nhân viên có hợp đồng lao động dài hạn,…),
ngoài ra thu nhập hình thành từ sản xuất kinh doanh cũng có thể
được xem xét dùng làm nguồn trả nợ. Hình thức này phù hợp với
những khoản vay giá trị không lớn, thời hạn vay ngắn.
1.2.3 Quy trình cho vay đối với khách hàng cá nhân của
ngân hàng thương mại
Thực tế cho thấy việc đánh giá một khoản cho vay KHCN là

không hề đơn giản, điều này xuất phát từ một số nguyên nhân sau:
Thông tin về khách hàng là không đầy đủ, khách hàng thường
có hiện tượng che giấu tình trạng tài chính, sức khỏe của họ…
Thêm vào đó, các cá nhân và hộ gia đình không dễ dàng vượt qua
các khó khăn về tài chính. Thực tế cho thấy, tỷ lệ các khoản cho vay
KHCN không được thanh toán thường gấp nhiều lần so với tỷ lệ các
khoản cho vay đối với doanh nghiệp hay tổ chức tài chính khác
không được thanh toán. Một đặc điểm chính giúp ngân hàng giảm
bớt thua lỗ từ các khoản cho vay này là giá trị của chúng thường
nhỏ và được đảm bảo bằng các tài sản thế chấp dễ bán trên thị
trường. Các cán bộ tín dụng đã tổng kết rằng trong hầu hết các loại
cho vay, cho vay KHCN có số lượng không được thanh toán lớn
nhất, điều này làm tăng các khoản nợ có vấn đề của các ngân hàng


21

thương mại do đó làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các
ngân hàng.
Quy trình cho vay được các cán bộ tín dụng áp dụng giúp cho
quá trình cho vay diễn ra một cách khoa học, hạn chế và ngăn ngừa
rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng.
Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ xin vay của KHCN.
Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn, họ đến gặp nhân viên của
ngân hàng và ghi những thông tin cần thiết vào hồ sơ xin vay. Cán
bộ tín dụng sẽ hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ cho vay đầy đủ và
đúng quy định theo mẫu của ngân hàng bao gồm: đơn xin vay vốn,
phương án vay vốn và kế hoạch trả nợ, danh mục các tài sản cầm
cố, thế chấp và giấy tờ liên quan, các giấy tờ chứng minh nguồn thu
nhập (nếu có), hộ khẩu, chứng minh thư nhân dân và các giấy tờ

liên quan khác.
Bước 2: Thẩm định tín dụng. Đây là bước quan trọng nhất trong
quy trình cho vay KHCN, quyết định chất lượng của món vay,
thường bao gồm các nội dung sau:
Thẩm định tư cách đạo đức và mục đích vay của khách hàng:
Cán bộ tín dụng phải đảm bảo khách hàng vay vốn có đủ năng lực
pháp luật và năng lực hành vi dân sự, đủ tư cách pháp lý vay vốn
ngân hàng. Nếu một khách hàng muốn vay từ ngân hàng, họ phải trả
lời đầy đủ những câu hỏi của cán bộ tín dụng về lý do xin vay hay
nhu cầu tín dụng xuất phát từ đâu. Cuộc trò chuyện giữa cán bộ tín
dụng và khách hàng là rất quan trọng bởi vì qua đó cán bộ tín dụng


22

có điều kiện để nhận biết tính cách cũng như mục đích xin vay của
khách hàng. Nếu cán bộ tín dụng phát hiện ra sự không trung thực
của khách hàng đối với nhu cầu vay vốn thì có nhiều khả năng hồ sơ
xin vay của khách hàng sẽ bị từ chối.
Thông thường thì những đặc điểm cơ bản của người đi vay
được bộc lộ thông qua mục đích của việc vay tiền. Cán bộ tín dụng
phải hỏi xem khách hàng sẽ dùng khoản tiền vay vào mục đích gì và
liệu mục đích đó có phù hợp với chính sách cho vay của ngân hàng
hay không. Những cán bộ có kinh nghiệm đặt câu hỏi cho khách
hàng rồi tự tay điền vào trong đơn chứ không để khách hàng tự
điền.
Thẩm định tình hình tài chính và khả năng trả nợ của khách
hàng: Bao gồm các công việc: xác định mức thu nhập của khách
hàng, việc làm, số dư các tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Nhân
viên tín dụng phải được đảm bảo rằng những khách hàng vay vốn ý

thức rõ ràng về trách nhiệm hoàn trả đầy đủ và đúng hạn các khoản
nợ. Việc xác định nguồn thu nhập ổn định hàng tháng của khách
hàng có ý nghĩa rất quan trọng vì đây là nguồn trả nợ cho ngân
hàng. Những khách hàng có thu nhập ổn định và thu nhập còn lại
sau khi trừ các khoản chi phí sinh hoạt cần thiết cao thì khả năng
vay sẽ cao.
Đối với những khách hàng có chất lượng tín dụng thấp thì ngân
hàng yêu cầu phải có người đứng ra bảo lãnh về việc hoàn trả các
khoản vay. Nếu người đi vay không thanh toán cho các khoản nợ


23

được bảo lãnh thì người đứng ra bảo lãnh có trách nhiệm phải thanh
toán. Tuy nhiên, nhiều ngân hàng chỉ xem việc có người bảo lãnh là
một đảm bảo về mặt tâm lý hơn là một nguồn đảm bảo thực sự.
Người đi vay sẽ thấy có trách nhiệm hơn trong việc hoàn trả khoản
vay vì uy tín của người bảo lãnh.
Bước 3: Thẩm định tài sản đảm bảo.
Cán bộ tín dụng cần kiểm tra quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp
pháp các tài sản dùng làm vật đảm bảo của khách hàng. Khả năng
chuyển tài sản thành tiền trong những trường hợp cần thiết và sự ổn
định về giá cả của tài sản. Định giá tài sản đảm bảo cũng là một
công đoạn rất quan trọng trong khâu thẩm định. Cuối cùng, ngân
hàng cần xem xét khả năng bảo quản tài sản của người đi vay.
Lập báo cáo thẩm định. Sau khi thẩm định xong, cán bộ tín
dụng sẽ lập báo cáo thẩm định trong đó ghi vắn tắt nhưng tổng quát
về tình hình của khách hàng: tên, tuổi, mục đích vay, số tiền vay,
phương án trả nợ, tài sản đảm bảo và đưa ra ý kiến cho vay hay
không cho vay đối với khách hàng. Nếu cho vay thì phải ghi rõ số

tiền, thời hạn, lãi suất, phương án trả nợ và các điều kiện kèm theo
rồi trình lên trưởng phòng tín dụng xem xét. Nếu không cho vay thì
phải ghi rõ lý do vì sao.
Bước 4: Xét duyệt và ký kết hợp đồng tín dụng.
Sau khi nhận báo cáo thẩm định kèm theo hồ sơ vay vốn liên
quan, trưởng phòng tín dụng hoặc cấp phê duyệt xem xét lại và yêu
cầu cán bộ tín dụng giải thích bổ sung hoặc chỉnh sửa nếu có thiếu


×