Lời nói đầu
Thế giới kinh doanh khắc nghiệt của con ngời không nằm ngoài quy luật,
bất kỳ thành viên nào trên thế giới cũng phải luôn đấu tranh để sinh tồn, mà
trong kinh doanh chúng ta gọi là cạnh tranh. Trong kinh tế thị trờng, sự cạnh
tranh giữa các ngân hàng cũng ngày càng quyết liệt.
Việt Nam trong thời kỳ mở cửa, hội nhập, sự xuất hiện ngày càng tăng
của các ngân hàng và chi nhánh ngân hàng nớc ngoài và ngân hàng liên doanh
càng làm cho môi trờng cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và trong ngành
ngân hàng nói riêng trở nên sôi động và rất khó nắm bắt. Chỉ cần một sự sơ xuất
nhỏ trong kinh doanh là lập tức một ngân hàng có thể bị sụp đổ ngay tức khắc.
Do vậy, nắm bắt và vận dụng đợc nguyên lý cạnh tranh vào hoạt động của ngân
hàng mình nh thế nào để có thể tồn tại và phát triển đợc là một vấn đề hết sức
khó khăn, đòi hỏi phải đợc nghiên cứu một cách khoa học.
Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng liên doanh Lào-Việt chi nhánh Hà
Nội, em nhận thấy ngân hàng có những lợi thế cạnh tranh nhất định trong hoạt
động kinh doanh nhng một số hạn chế hạn chế nghiêm trọng đã giảm khả năng
cạnh tranh của ngân hàng. Xuất phát từ những nhu cầu thực tế của ngân hàng,
sau một thời gian nghiên cứu và thực tập, đợc sự giúp đỡ của Thạc sỹ Lê Hơng
Lan và các cán bộ Chi nhánh LVB, em xin chọn đề tài cho Chuyên đề tốt nghiệp
của mình là: Các giải pháp nhằm tăng khả năng cạnh tranh cho Ngân
hàng liên doanh Lào-Việt, chi nhánh Hà Nội .
Nội dung của đề tài gồm 3 ch ơng nh sau:
Chơng I: Khả năng cạnh tranh của ngân hàng thơng mại.
Chơng II: Thực trạng khả năng cạnh tranh của Chi nhánh LVB Hà Nội.
Chơng III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao khả năng cạnh
tranh cho Chi nhánh LVB Hà Nội.
Lớp Tài chính Doanh nghiệp 41A
1
Chơng I
Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh trong hoạt động
của Ngân hàng thơng mại
I. Khái quát về hoạt động của Ngân hàng thơng mại
1. Khái niệm về Ngân hàng thơng mại
Ngân hàng thơng mại (NHTM) là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh
vực tiền tệ. Nó đợc thể hiện thông qua luật ngân hạng Nhà nớc, là một tổ chức
hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi dựa trên nguyên tắc hoàn trả tiến hành cho
vay, chiết khấu và các phơng thức thanh toán.
2. Các hoạt động của Ngân hàng thơng mại
Theo điều 9- Luật NHNN và điều 20- Luật các Tổ chức tín dụng, hoạt
động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội
dung thờng xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng, số tiền này để cấp tín dụng, cung
cấp các dịch vụ thanh toán.
Về cơ bản các nghiệp vụ của NHTM bao gồm:
2.1. Hoạt động huy động vốn.
Đây là nghiệp vụ quan trọng đối với NHTM, bởi lẽ nó là cơ sở ngân hàng
ra đời, tồn tại và phát triển. Hoạt động này có ý nghĩa đặc biệt vì trên cơ sở vốn
huy động đợc, ngân hàng mới có thể thực hiện các nghiệp vụ sau này. Do do
trong các hoạt động của NHTM rất cao nên khi thực hiện nghiệp vụ này, ngân
hàng thực hiện các nghiệp vụ đem lại thu nhập đồng thời đảm bảo đợc khả năng
thanh toán khi có yêu cầu với chi phí thấp nhất. Hay nói cách khác, ngân hàng
phải đảm bảo có đợc một cơ cấu tài sản nợ cũng nh cơ cấu tài sản có hợp lý.
-Thứ nhất là, hoạt động tạo vốn tự có : Nh hầu hết cơ sở kinh doanh khác,
để hoạt động kinh doanh đợc tiến hành cũng cần phải có một số vốn ban đầu và
điều này đặc biệt đúng trong hoạt động ngân hàng. Tuỳ từng loại hình ngân
hàng mà hoạt động này đợc hình thành nh thế nào.
Lớp Tài chính Doanh nghiệp 41A
2
Đối với NHTM quốc doanh là do Nhà nớc cấp đối với NHTM cổ phần là
do các cổ đông đóng góp, đối với ngân hàng liên doanh là do các đơn vị liên
doanh đóng góp.v.v... Vốn tự có của một NHTM ở mức dới hoặc bằng 10% so
với tổng tài sản có. Nguốn vốn này chiếm một phần không lớn trong tổng nguồn
vốn nó lại giữ vai trò quan trọng trong hoạt động của NHTM. Bởi đây là điều
kiện cần và đủ để các NHTM hoạt động và là tấm đệm giúp các NHTM luôn
cần quan tâm không ngừng tới việc tăng quy mô, tăng hiệu quả sử dụng vốn
bằng cách trích lập các quỹ thích hợp nh: quỹ dự trữ, quỹ bảo toàn vốn, quỹ dự
phòng rủi ro... từ hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, uy tín của một NHTM
phần lớn thể hiện qua quy mô vốn tự có. Bở lẽ, khách hàng sẽ tín nhiệm NHTM
nào có quy mô lớn với cách nghĩ rằng các NHTM có quy mô lớn sẽ đảm bảo độ
an toàn cao hơn.
Xu hớng ngày nay, các NHTM tăng vốn bằng cách tích tụ và đẩy mạnh
tập trung thông qua các hoạt động sáp nhập các NHTM với nhau.
-Tứ hai là , hoạt động huy động tiền gửi : nh ta thấy, phân theo mục đích
gửi tiền bao gồm: tiền gửi giao dịch và tiền gửi tiết kiệm.
Tiền gửi giao dịch là khoản tiền mà chủ tài khoản có thể sử dụng với
mục đích thanh toán cho khách hàng của họ thông qua phát hành séc hoặc
chuyển khoản. Nó không những lớn mà còn là nguồn vốn rẻ nhấnt vì mục đích
của các khoản tiền gửi này không phải là nhận lãi mà là nhằm sử dụng dịch vụ
thanh toán qua hệ thống NHTM hoặc để giữ đợc tính lỏng cao nhất với mục đích
riêng.
Tiền gửi tiết kiệm (hay còn gọi là tiền gửi phi thanh toán), là khoản tiền
gửi mà chủ tài khoản này không dùng để thanh toán mà bù lại họ đợc hởng một
mức lãi suất thoả đáng. Nói chung, nguồn vốn này có chi phí cao hơn khoản tiền
gửi giao dịch nhng là nguồn vốn quan trọng, ổn định và đảm bảo cho NHTM
chủ động trong việc sử dụng vốn.
Lớp Tài chính Doanh nghiệp 41A
3
Trong hoạt động huy động tiền gửi, ngân hàng căn cứ vào tính chất và đặc
điểm của từng loại tiền gửi cũng nh nhu cầu, tâm lý tiêu dụng của ngời dân, của
các tổ chức kinh tế.v.v... để đa ra những hình thức huy động khác nhau nhằm đạt
hiệu quả cao nhất. Nghiệp vụ huy động đợc xác định bởi các thể chế, quy định
về thời gian về lãi suất, hình thức chi trả và hình thức tài khoản. Thông thờng,
các NHTM luôn luôn tìm cách cải tiến các hình thức huy động, đặc biệt là các
hình thức gắn liền với lợi ích của ngời gửi tiền để tạo niềm tin đối với khách
hàng.
-Thứ ba là, hoạt động đi vay: Các NHTM có thể chủ động đi vay để có
vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh. Đây là nguồn vốn có chi phí huy động đắt
nhất trong các nguồn vốn vay huy động của NHTM nhng lại không thể thiếu
trong quá trình kinh doanh. Hoạt động này giúp cho NHTM chủ động trong quá
trình kinh doanh và trong việc đối phó với khó khăn phát sinh. NHTM thờng đi
vay Ngân hàng Nhà nớc hoặc từ các tổ chức tín dụng khác.Thông thờng quy mô
và mục đích sử dụng đã đợc xác định trớc. Ngoài ra, các NHTM có thể phát
hành trái phiếu, vay của các tổ chức tín dụng nớc ngoài, vay trên thị trờng Liên
ngân hàng để đáp ứng nhu cầu thanh toán, nhu cầu tín dụng của khách
hàng.v.v... ngày nay, vốn vay mợn đang trở thành bộ phận quan trọng trong hoạt
động kinh doanh của hệ thống NHTM.
Ngoài ra, các NHTM có thể nhận đợc vốn uỷ thác từ Chính phủ, từ các tổ
chức đầu t quốc tế, các tổ chức nhân đạo.v.v... để thực hiện các mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội.
2.2 Hoạt động sử dụng vốn.
Nếu nh, hoạt động huy động vốn quyết định sự ra đời và điều kiện tiên
quyết cho việc thực hiện các hoạt động khác của NHTM thì hoạt động sử dụng
vốn quyết định tới sự tồn tại và phát triển của NHTM. Hoạt động này mang
phần lớn lợi nhuận cho các NHTM. Khi thực hiện hoạt động này, các ngân hàng
phải đảm bảo có một cơ cấu tài sản hợp lý nhằm đạt đợc mức lợi nhuận cao
nhất, đồng thời vẫn đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng của mình. Để
Lớp Tài chính Doanh nghiệp 41A
4
thực hiện đợc mục tiêu này, các NHTM phải có chính sách đầu t, tín dụng thích
hợp, kết hợp quản lý tài sản quản lý nguồn vốn, tuân thủ theo quy định của pháp
luật và sự hớng dẫn của ngân hàng Nhà nớc. Hoạt động này bao gồm:
-Thứ nhất, hoạt động ngân quỹ: là hoạt động để đảm bảo khả năng thanh
toán thờng xuyên cho khách hàng của NHTM. Trên bảng cân đối tài sản, kết quả
của hoạt động này đợc thể hiện ở khoản mục dự trữ. Có thể thấy, hầu hết các tài
sản dự trữ đều không sinh lời hoặc có khả năng sinh lời thấp nhng nó lại có tính
lỏng rất cao, điều đó rất cần thiết cho hoạt động ngân hàng. Bên cạnh đó, là mối
quan hệ với chủ thể quản lý: Ngân hàng Nhà nớc do thực hiện hoạt động ngân
quỹ phải đảm bảo yêu cầu dự trữ bắt buộc (đợc ngân hàng Nhà nớc sử dụng nh là
công cụ để quản lý và điều hành chính sách tiền tệ, quản lý hoạt động của Ngân
hàng). Trong quản lý các nguồn ngân quỹ, các NHTM phải xác định đợc một cơ
cấu, tỷ lệ dự trữ hợp lý để đảm bảo khả năng thanh toán, tránh ứ đọng và lãng phí
vốn. Hoạt động này nó bao gồm: nghiệp vụ quỹ tiền mặt, tiền gửi ở các ngân
hàng khác và ở Ngân hàng trung ơng, tiền trong quá trình thu nhận, và cũng có
thể bao gồm cả nghiệp vụ về bán chứng khoán ngắn hạn.
-Hai là, hoạt động cho vay: Cùng với hoạt động đầu t, hoạt động cho
vay đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng thơng mại. Nhng đây là hoạt
động quan trọng nhất, thể hiện là một trong các chức năng cơ bản của NHTM.
Đó là, cho vay đối với nền kinh tế, qua đó thu đợc lợi nhuận cho mình. Tuy
nhiên, đi kèm với thu nhập cao là tính lỏng kém và rủi ro lớn. Vì vậy, trong quản
lý hoạt động cho vay cần xây dựng một chính sách tín dụng đúng đắn, phù hợp
với điều kiện của ngân hàng, tuân thủ các nguyên tắc quản lý cho vay, quy trình
nghiệp vụ tín dụng và triệt để tuân theo các quy định của pháp luật và của Ngân
hàng Nhà nớc về chất lợng tín dụng cũng nh các quy định kiểm soát khác.
-Ba là, hoạt động đầu t: Đây là nguồn thu lớn quan trọng thứ hai, sau
hoạt động cho vay. NHTM đầu t vào chứng khoán ngắn hạn có tính thanh khoản
cao (đợc coi nh là một khoản dự trữ thứ cấp của NHTM) hoặc đầu t vào chứng
Lớp Tài chính Doanh nghiệp 41A
5
khoán có tính lu hoạt thấp nhng có kỳ hạn dài hơn để bù lại lợi ích đem lại cao
hơn khoản mục trên bảng cân đối tài sản thể hiện kết quả hoạt động này. Trong
hoạt động đầu t, ngân hàng chủ động lựa chọn từ một loạt chứng khoán hiện có.
Các NHTM thực hiện hoạt động này nhằm mục tiêu đa dạng lợi tức, lợi ích về
thuế và trợ giúp về tính thanh khoản dự trữ thứ cấp. Các NHTM không thể cho
vay hết các khoản vốn đã huy động về. Bởi lẽ, các NHTM phải đa dạng hoá đầu
t để giảm thiểu rủi ro. Các rủi ro có thể là: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trờng, rủi ro
lãi suất.v.v... Để đảm bảo thành công các ngân hàng phải có chính sách đầu t
đúng đắn để thu đợc mức lợi nhuận hợp lý, có đợc tính lỏng cao và hạn chế tối
đa rủi ro.
2.3 Các hoạt động trung gian
Với t cách là nhà trung gian môi giới, NHTM thực hiện dịch vụ cho
khách hàng, trên cơ sở đó, NHTM thu đợc một khoản phí nhng quan trọng hơn
đó là việc tạo điều kiện để thu hút khách hàng, nhằm tăng khả năng cạnh tranh
và thu hút đợc nhiều lợi nhuận hơn. Ngày nay, chính nghiệp vụ trung gian là cơ
sở để đánh giá và phân loại các NHTM Chất lợng của các dịch vụ quyết định
đến hình ảnh và uy tín của ngân hàng thơng mại, là cơ sở để thắt chặt mối quan
hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Đặc trng là các hoạt động: thu-chi hộ, chuyển
tiền, thanh toán, trung gian mua bán trên thị trờng chứng khoán, uỷ thác, đấu
thầu, t vấn và các hoạt động khác nh bảo hiểm, bảo quản tài sản quý, giấy tờ có
giá.v.v...
Các NHTM ngày nay đã không ngừng tìm cách bành trớng phạm vi hoạt
động của mình. Họ ra sức ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, trang bị
những thiết bị tiên tiến nhất của công nghệ tin học vào các hoạt động nghiệp vụ.
Sự lớn mạnh của NHTM cùng với quá trình quốc tế hoá đang ngày càng trở nên
mạnh mẽ. Thêm vào đó khuynh hớng phát triển của các NHTM các ngân hàng
đa năng cùng với dịch vụ tài chính và phi tài chính ngày càng đa dạng cộng với
Lớp Tài chính Doanh nghiệp 41A
6
sự xâm nhập của các tổ chức phi tài chính, đã làm cạnh tranh trên thị trờng tài
chính ngày càng gay gắt.
Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng đã không bó hẹp trong phạm vi nội bộ
quốc gia mà mở rộng trên toàn thế giới, giữa các ngân hàng với nhau, giữa các
ngân hàng với tổ chức phi tài chính và giữa các tổ chức này với nhau. Trong điều
kiện nh vậy, các NHTM phải chủ động quan tâm tới việc tìm ra nhu cầu và mong
muốn đó. Việc sử dụng marketing đã và đang là một điều kiện tất yếu trong cơ
chế thị trờng. Trong nền kinh tế hiện đại, việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật, ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại, vận dụng marketing, chuyên môn
hoá kết hợp với kinh doanh đa năng đợc xem là xu hớng phát triển kinh doanh
chính và cũng là để thắng trong môi trờng cạnh tranh gay gắt của NHTM.
3.Vai trò của Ngân hàng đối với nền kinh tế
Ngân hàng không chỉ đóng vai trò trong nền kinh tế-nhận tiền gửi và cho
vay - trên thực tế ngân hàng đã thực hiện nhiều vai trò để có thể duy trì khả năng
cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu xã hội, các ngân hàng ngày nay có những vai trò
cơ bản sau:
- Vai trò trung gian: Chuyển các khoản tiết kiệm, chủ yếu tự hộ gia đình,
thành các khoản tín dụng cho các tổ chức kinh doanh và các thành phần khác để
đầu t vào nhà cửa thiết bị và các tài sản khác.
- Vai trò thanh toán: thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán việc mua
bán hàng hoá và dịch vụ (nh bằng cách phát hành và bù trừ séc, cung cấp mạng
lới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và phân phối tiền giấy và tiền đúc).
- Vai trò ngời bảo lãnh: Cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách hàng
mất khả năng thanh toán (chẳng hạn phát hành th tín dụng).
- Vai trò đại lý: thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản của họ,
phát hành hoặc chuộc lại chứng khoán (thờng đợc thực hiện tại văn phòng uỷ
thác).
Lớp Tài chính Doanh nghiệp 41A
7
- Vai trò thực hiện chính sách: thực hiện các chính sách kinh tế của Chính
phủ, góp phần điều tiết sự tăng trởng kinh tế và theo đuổi mục tiêu xã hội.
II. Khái quát về cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng
1. Cạnh tranh là gì?
Cạnh tranh là hành động của một cá nhân
hay tổ chức cố gắng để chiến thắng hoặc giành đợc
công việc kinh doanh từ các đối thủ của mình.
Tơng tự nh vậy, cạnh tranh là sự tranh giành thị trờng (khách hàng) để tiêu
thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp. Nh vậy, một nền kinh tế thị trờng luôn đòi
hỏi phải có cạnh tranh mà cạnh tranh theo nghĩa là tranh giành thị phần chỉ có
trong khuôn khổ của kinh tế thị trờng. Cạnh tranh đợc phân chia thành 2 loại: cạnh
tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo. Thị trờng có cạnh tranh hoàn hảo là
thị trờng có quá nhiều ngời bán và ngời mua cùng một hàng hoá đồng nhất đến
mức không ai có thể ảnh hởng đến giá cả thị trờng. Nếu có ít nhất một ngời bán lớn
đến mức có thể ảnh hởng tới giá thị trờng thì xảy ra cạnh tranh không hoàn hảo
(tình trạng độc quyền): Độc quyền đợc biểu hiện dới các dạng: độc quyền tuyệt
đối (một ngành chỉ có duy nhất một nhà cung cấp); độc quyền nhóm (một ngành
do một số ít nhà cung cấp chi phối) hay một dạng đặc biệt trong nền kinh tế thị tr-
ờng t bản chủ nghĩa: chủ nghĩa t bản độc quyền nhà nớc (sự câu kết giữa một
nhóm tài phiệt t bản với nhà nớc t bản).
Để đạt đợc lợi nhuận trong nền kinh tế thị trờng, những nhà kinh doanh phải
thông qua cạnh tranh. Vì vậy, cạnh tranh trở thành một yếu tố không thể thiếu
trong sự vận động của thị trờng và là đối tợng của nhiều môn khoa học kinh tế và
luật pháp.
2.Tính tất yếu của cạnh tranh đối với Ngân hàng thơng mại
Trong nền kinh tế thị trờng, cạnh tranh giữa các NHTM là tất yếu khách
quan. Cạnh tranh có một vai trò quan trọng trong hoạt động của các NHTM. Để
Lớp Tài chính Doanh nghiệp 41A
8
tồn tại và phát triển trong một môi trờng cạnh tranh gay gắt ngày càng cao, đòi
hỏi các NHTM phải nỗ lực không ngừng trong việc nâng cao chất lợng dịch vụ,
đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, áp dụng khoa học tiên tiến hiện đại hoá công
nghệ ngân hàng, chú trọng hơn nữa công tác marketing ngân hàng, nguồn nhân
lực, đào tạo lại nguồn nhân lực hiện có để đáp ứng các yêu cầu đặt ra, phù hợp
với công nghệ hiện đại, đồng thời đa ra chính sách lãi suất (tín dụng, huy động
vốn), biểu phí dịch vụ có tính cạnh tranh lành mạnh, hấp dẫn nhằm duy trì và
mở rộng quan hệ với khách hàng cũng nh việc chủ động tìm đến khách hàng,
chủ động tìm kiếm dự án...
Mục tiêu quan trọng của NHTM là lợi nhuận, và việc cạnh tranh cũng
làm tăng thêm hoặc ổn định thu nhập của ngân hàng. Vấn đề này buộc các
NHTM phải chú ý nghiên cứu, thực hiện những biện pháp để tiết kiệm chi phí,
nâng cao năng suất và hiệu quả lao động, mở rộng và phát triển các dịch vụ...
Điều đó sẽ mang lại lợi ích cao cho bản thân các doanh nghiệp, dân chúng và xã
hội, đồng thời tăng sức cạnh tranh cho các NHTM.
Cạnh tranh thúc đẩy các NHTM luôn đánh giá đợc đúng thực lực của
mình, thấy đợc điểm mạnh, yếu của đối thủ cạnh tranh để tìm đợc biện pháp
cạnh tranh hữu hiệu và chiến thắng trong môi trờng cạnh tranh.
Cạnh tranh không chỉ đơn thuần là đối đầu nhau, chiến thắng tuyệt đối
đối thủ của mình mà còn bao hàm vấn đề hợp tác giữa các NHTM với nhau,
cạnh tranh trong xu thế hợp tác. Bởi lẽ để tồn tại và phát triển đợc các NHTM
dựa vào sức mình là chính. Nhng đôi khi cũng cần có sự hợp tác với nhau để
cùng giải quyết những vấn đề chung của ngành, của hệ thống, cùng hợp tác
trong hoạt động kinh doanh. Cụ thể là đối với những dự án hay hợp đồng tín
dụng lớn một NHTM không thể thực hiện đợc, mà cần phải có sự chung sức của
các NHTM, cùng nhau cho vay theo quy chế, đồng tài trợ, hoặc vấn đề điều hoà
vốn nội bộ trong hệ thống liên ngân hàng, tham gia là thành viên của Hiệp hội
ngân hàng, tham gia thanh toán bù trừ, thông tin tín dụng...
Lớp Tài chính Doanh nghiệp 41A
9
Tuy nhiên cạnh tranh giữa các Ngân hàng diễn ra rất gay gắt và khốc liệt,
đôi khi dẫn tới sự thiếu bình tĩnh trong hoạt động giữa các ngân hàng làm cho
môi trờng cạnh tranh không lành mạnh. Tạo ra nhiều khe hở cho các biểu hiện
tiêu cực về kinh tế dẫn đến tình trạng cá lớn nuốt cá bé cũng nh các yếu tố
làm cho thị trờng tài chính dễ biến động. Có nguy cơ làm giảm tiềm lực sức
mạnh của toàn bộ hệ thống ngân hàng.
3. Khái niệm khả năng cạnh tranh trong hoạt động của NHTM
Ngân hàng hoạt động chịu sự tác động của một số yếu tố trong đó không thể
không kể đến môi trờng hoạt động của bản thân các ngân hàng. Ngành ngân hàng
các nớc phát triển theo những phơng thức không hoàn toàn giống nhau, tuy nhiên
luôn tồn tại một lực lợng quan trọng là ngân hàng Nhà nớc hay ngân hàng trung -
ơng điều hành mọi hoạt động về mặt chính sách của khối ngân hàng nói chung.
Các NHTM có thể thuộc nhà nớc hay do t nhân lãnh đạo dới hình thức hội đồng
quản trị nhng đều liên quan mật thiết đến mọi hoạt động của nền kinh tế và không
chỉ một ngân hàng có thể tạo nên thị trờng mà cần có sự tham gia hoạt động của
các ngân hàng khác. Nơi đâu có dân c và sản xuất kinh doanh, nơi đó có ngân
hàng. Ngoài ra, các tổ chức tín dụng và tổ chức tài chính phi ngân hàng ngày càng
phát triển đang đặt các ngân hàng vào một tình thế khó khăn: những nghiệp vụ trớc
kia do ngân hàng đảm nhận nay đợc các tổ chức khác thực hiện dới những hình
thức ngày càng đa dạng và phong phú hơn, hớng tới những thị trờng mà ngân hàng
đã bỏ ngỏ. Rõ ràng ngân hàng đang phải cùng lúc cạnh tranh với nhiều lực lợng:
các ngân hàng trong cùng khối và các tổ chức tài chính phi ngân hàng có những thế
mạnh riêng.
Có thể nói, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng là sự nỗ lực hoạt động
đồng bộ của ngân hàng trong một lĩnh vực khi cung ứng cho khách hàng những
Lớp Tài chính Doanh nghiệp 41A
10
sản phẩm dịch vụ có chất lợng cao nhằm khẳng định vị trí của ngân hàng vợt lên
khỏi các ngân hàng khác trong cùng lĩnh vực hoạt động ấy.
Sức mạnh đồng bộ của toàn bộ ngân hàng đợc phát huy khi ngân hàng tận
dụng đợc hết những khả năng sẵn có của mình để nâng cao vị thế cạnh tranh. Mỗi
ngân hàng đều có những lợi thế riêng và đều có khả năng tận dụng những lợi thế ấy
nếu có những nhận thức thực sự hiệu quả và đúng đắn, tức là mỗi ngân hàng đều có
khả năng phát triển mạnh mẽ hơn. Nói cách khác, khả năng cạnh tranh của ngân
hàng đợc đánh giá nh một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh khả năng kết hợp các lợi
thế cạnh tranh mà ngân hàng đang có để biến đổi thành những công cụ hữu
hiệu trong việc khẳng định vị trí của ngân hàng trên thị trờng.
4. Biểu hiện khả năng cạnh tranh của NHTM
4.1 Ưu thế cạnh tranh và sự vận dụng vào hoạt động của NHTM
- Trớc hết, u thế cạnh tranh do địa điểm, vị trí hoạt động có nhiều thuận
lợi. Tất cả các nhà quản lý ngân hàng đều nhận thức những vấn đề này, Tuy nhiên,
việc lựa chọn đợc một địa điểm kinh doanh tốt không phải là việc dễ dàng. Nếu
một ngân hàng thơng mại đặt trụ sở ở gần một ngân hàng thơng mại khác có nhiều
u thế hơn, hoặc nơi đặt trụ sở không phù hợp sẽ gây khó khăn cho hoạt động kinh
doanh.Việc lựa chọn vị trí đặt trụ sở phải phù hợp với quy mô hoạt động kinh
doanh, nếu ngân hàng có vốn ít mà chi phí xây dựng trụ sở lại tốn kém làm tăng chi
phí ảnh hởng đến hiệu quả kinh doanh.
- Hai là, bề dày hoạt động
Bề dầy lịch sử là u thế khá quan trọng. Khách hàng thờng chọn những nơi quen
biết, có bề dầy hoạt động để gửi tiền hoặc vay tiền.
- Ba là, Quy mô, địa bàn hoạt động
Lớp Tài chính Doanh nghiệp 41A
11
Ngân hàng thơng mại có quy mô lớn và địa bàn hoạt động rộng tạo nên u
thế về tâm lý đối với khách hàng. khách hàng thơng quan niệm khi gửi tiền vào các
NHTM lớn thì sẽ yên tâm hơn. Mạng lới chân dết của NHTM cũng có tác dụng
tăng cờng quy mô hoạt động của NHTM với phơng châm góp gió thành bão
- Bốn là, Tính chất sở hữu của loại hình NHTM
Ngân hàng thơng mại thuộc sở hữu Nhà nớc hay cổ phần, t nhân là một u
thế tâm lý. Khách hàng rất tin tởng đối với ngân hàng thơng mại quốc doanh, khi
gửi tiền vào họ không sợ bị mất, nhất là sau khi hàng loạt các tổ chức tín dụng đổ
vỡ. Đối với NHTM cổ phần đa số là khách hàng lớn và họ gửi tiền nh là một giải
pháp tạm thời vì lãi suất hấp dẫn hơn. Các NHTM quốc doanh vẫn là nơi để các
khách hàng lớn chọn mặt gửi vàng.
- Năm là, Trình độ cán bộ nhân viên ngân hàng
Trình độ cán bộ nhân viên không chỉ là trình độ chuyên môn mà còn là thái
độ phong cách giao tiếp c xử có văn hoá, lịch sự và văn minh. Đây là u thế mà bất
cứ NHTM nào cũng muốn có. Trên thực tế chỉ có ngân hàng thơng mại nào có
chiến lợc, chính sách đào tạo, thu hút nhân tài và có chế độ trả lơng sòng phẳng thì
mới sử dụng một cách có hiệu quả u thế này.
- Sáu là, kỹ thuật nghiệp vụ
Mỗi một ngân hàng đều quan tâm đến kỹ thuật nghiệp vụ của mình, đặc biệt
trong nghiệp vụ tiết kiệm và nghiệp vụ tín dụng để có đợc thủ tục, quy trình đơn
giản và gọn nhẹ nhng hiệu quả. Công nghệ hiện đại và dễ sử dụng là những mục
tiêu mà bất cứ NHTM nào cũng mong muốn đạt tới.
- Bảy là, Chất lợng và giá cả dịch vụ cung cấp
Đây là u thế cực kỳ quan trọng không chỉ trong lĩnh vực ngân hàng mà còn
đối với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi khách hàng đến dịch vụ thì điều
Lớp Tài chính Doanh nghiệp 41A
12
quan tâm trớc hết là chất lợng và giá cả và dịch vụ mà họ yêu cầu, sau đó mới đặt
ra các vấn đề khác.
Chất lợng dịch vụ là việc vận dụng một loạt các u thế, NHTM nào thực hiện
một cách nhuần nhuyễn và linh hoạt sẽ là ngời chiến thắng trong cuộc cạnh tranh
này.
Trong hoạt động ngân hàng, giá cả dịch vụ thể hiện các mặt sau: Lãi suất
huy động vốn, lãi suất cho vay và phí dịch vụ.
Đối với chất lợng dịch vụ, các đích thật khó đạt đến, nhng đối với giá cả
dịch vụ cũng phải có giới hạn của nó, nếu vợt quá giới hạn sẽ ảnh hởng trực tiếp
đến kết quả hoạt động kinh doanh.
4.2 Những lĩnh vực (khía cạnh) cạnh tranh chủ yếu của NHTM.
Các NHTM cạnh tranh với nhau trong mọi hoạt động. Tuy nhiên, chúng có
thể đợc khái quát trên các lĩnh vực (khía cạnh) chủ yếu nh sau:
- Thứ nhất là: cạnh tranh về khách hàng
Với động cơ kinh doanh là nhằm đạt tới lợi nhuận ngày càng cao, do đó mỗi
NHTM đã hoạch định chiến lợc kinh doanh trong đó công bố các chính sách và các
giải pháp u đãi đối với khách hàng nhằm lôi kéo khách hàng về mình trong việc
khỏi tăng nguồn vốn, cho vay và làm dịch vụ khép kín cho khách hàng.
Quá trình cạnh tranh giữa các NHTM đã làm tăng thêm nhu cầu tìm kiếm và
chọn lựa khách hàng, đồng thời nâng cao chất lợng phục vụ khách hàng theo hớng
nhanh nhạy, kịp thời, chi phí phục vụ thấp nhất và bảo đảm an toàn nhất.
- Thứ hai là: cạnh tranh về sản phẩm dịch vụ
Các NHTM đều có chiến lợc sản phẩm. Việc tung các sản phẩm và dịch vụ
ra thị trờng đợc các nhà hoạch định tính toán kỹ lỡng các ích lợi vật chất và phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ cũng nh các công nghệ truyền thống. Những ý tởng
Lớp Tài chính Doanh nghiệp 41A
13
về sản phẩm dịch vụ mới là những vấn đề phức tạp liên quan đến hiệu quả kinh tế,
tiện dụng và an tâm cho cả khách hàng và Ngân hàng. Đây là khía cạnh của cạnh
tranh mà các NHTM rất chú trọng, luôn luôn nâng cao và đổi mới.
- Thứ ba là, Cạnh tranh về công nghệ và phong cách làm việc
Việc giao dịch với khách hàng một cửa, vừa đảm bảo nhanh chóng, chính
xác và kịp thời, vừa đảm bảo văn minh, lịch sự đối với khách hàng, phù hợp với xu
hớng mở cửa, hội nhập khu vực cũng nh quốc tế.
Giao dịch một cửa (nhng không nhiều khoá), nhiều tổ chức tín dụng đã gắn
liền với việc ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại; kết nối mạng vi tính thông
suốt đảm bảo chế độ thờng xuyên có ngời trực máy giao dịch với khách hàng;
nhanh chóng khắc phục và xử lý kịp thời sự cố do máy móc, hoặc quy trình tác
nghiệp ùn tắc gây nên; việc đổi mới các quy trình, quy phạm về nghiệp vừa tiếp thu
công nghệ hiện đại, vừa kế thừa công nghệ truyền thống. Đồng thời không ngừng
bồi dỡng, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ công nhân viên, cũng nh tuyển mới
làm cho đội ngũ ngời lao động đạt trình độ chuyên môn cao, phong cách giao dịch
tốt, đáp ứng nhu cầu ngày càng phát triển đảm bảo cạnh tranh theo nhu cầu ngày
càng phát trình đảm bảo cạnh tranh theo luật pháp thắng lợi.
- Cuối cùng là, Cạnh tranh về mạng lới giao dịch
Việc mở rộng mạng lới kinh doanh, tiếp thị trong và ngoài nớc, các NHTM
trong nền kinh tế thị trờng là hết sức cần thiết. Để tìm kiếm và mở rộng thị phần
trong kinh doanh, các NHTM có xu hớng thành lập thêm các chi nhánh NHTM
khu vực tỉnh, thành phố và nhất là những nơi có trung tâm kinh tế lớn; mặt khác,
mở rộng chi nhánh văn phòng đại diện ở nớc ngoài, nhất là thành lập các liên
doanh với các ngân hàng nớc ngoài và tổ chức tài chính tiền tệ thế giới.
III. Chỉ tiêu thể hiện khả năng cạnh tranh của NHTM
Lớp Tài chính Doanh nghiệp 41A
14
Khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp nói chung và một ngân hàng
nói riêng là chỉ tiêu tổng hợp, toàn diện đợc tính toán từ nhiều chỉ tiêu khác
nhau. Hệ thống phản ánh sức mạnh cạnh tranh của NHTM gồm 4 chỉ tiêu sau:
Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh, nhóm chỉ tiêu phản ánh chất lợng
dịch vụ; nhóm chỉ tiêu phản ánh tính đổi mới hoạt động của ngân hàng và nhóm
các chỉ tiêu phản ánh mức độ thoả mãn của khách hàng.
1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh
Với nghĩa thông thờng, hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp đợc
hiểu là mức chênh lệch đầu vào và đầu ra. Giá trị đầu vào đợc xác định bởi giá
các nhân tố chính tham gia quá trình sản xuất nh lao động đất đai, công nghệ...
giá trị đầu ra xác định bởi các sản phẩm dịch vụ mà doanh nghiệp đó cung ứng
ra thị trờng. Một doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả là doanh nghiệp có khả
năng tăng mức chênh lệch giá trị đầu ra so với giá trị đầu vào càng lớn càng tốt.
áp dụng vào lĩnh vực ngân hàng, hiệu quả kinh doanh thờng đợc đánh giá
thông qua 3 chỉ số phân tích cơ bản:
Lợi nhuận ròng
(1). ROA = * 100
Tổng tài sản có
Chỉ số ROA cho nhà phân tích thấy đợc khả năng bao quát của ngân hàng
thơng mại trong việc tạo ra thu nhập từ tài sản có. Nói cách khác, ROA giúp nhà
phân tích xác định hiệu quả kinh doanh tính trên một đồng tài sản có. ROA lớn
chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thơng mại tốt, NHTM có cơ cấu tài
sản hợp lý. NHTM có sự điều chỉnh linh hoạt giữa các hạng mục trên tài sản có
trớc những biến động của nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu ROA quá lớn nhà phân
tích sẽ lo lắng vì rủi ro luôn song hành với lợi nhuận. Vì vậy việc so sánh ROA
giữa các kỳ hạch toán là rất cần thiết, giúp nhà phân tích có thể sự báo thành
công cũng nh thất bại của ngân hàng thơng mại.
Lợi nhuận sau thuế
Lớp Tài chính Doanh nghiệp 41A
15
(2). Chỉ số ROE = *100
Vốn chủ sở hữu
ROE là chỉ số đo lờng hiệu quả sử dụng của một đồng vốn tự có. Nó cho
biết lợi nhuận ròng mà các cổ đông có thể nhận đợc từ việc đầu t vốn của mình.
Nếu ROE quá lớn so với ROA chứng tỏ vốn tự có của ngân hàng chiếm tỉ trọng
nhỏ so với tổng nguồn vốn. Vốn kinh doanh vì vậy sẽ chủ yếu từ nguồn huy
động và nh vậy có thể ảnh hởng tới mức độ lành mạnh trong kinh doanh của
NHTM.
Tổng chi phí
(3). Chỉ số COI = *100
Tổng thu nhập
Chỉ số COI tính toán khả năng bù đắp chi phí từ nguồn thu nhập của
NHTM. Đây cũng là chỉ số đo lờng hiệu quả kinh doanh của NHTM. Thông th-
ờng chỉ số này phải nhỏ hơn 1. Nếu lớn hơn 1 chứng tỏ NHTM hoạt động kém
hiệu quả và đang có nguy cơ phá sản trong tơng lai.
Thông qua bảng tổng kết tài sản và báo cáo thu nhập-chi phí đợc các NHTM
công bố trong các bản báo cáo thờng niên đợc phát hành rộng rãi, các nhà phân
tích sẽ dễ dàng có đợc chỉ số trên.
2. Nhóm các chỉ tiêu phản ánh chất lợng dịch vụ của NHTM
Chất lợng dịch vụ luôn là vấn đề quan tâm của NHTM. Vì chất lợng dịch
vụ ngày càng trở nên lợi thế cạnh tranh, mang ý nghĩa sống còn đối với hoạt
động của NHTM.
Các công trình nghiên cứu trớc đây về chất lợng dịch vụ đều đi đến hai
kết luận cơ bản:
- Chất lợng dịch vụ đợc đánh giá theo quan điểm chủ quan của khách
hàng.
Lớp Tài chính Doanh nghiệp 41A
16
- Chất lợng dịch vụ phụ thuộc quá lớn vào tín hiệu vô hình trong quá trình
giao dịch nh sự tin cậy, cảm tình, thuận tiện và thông cảm.
Đối tợng kinh doanh của NHTM là tiền tệ, nên chất lợng dịch vụ không
chỉ đánh giá thông qua chất lợng của nhân viên NHTM mà còn đợc đánh giá
thông qua độ an toàn chính xác trong xử lý nghiệp vụ, tính đơn giản thuận tiện
trong giao dịch và cuối cùng là khoảng thời gian cần thiết để có thể hoàn tất một
giao dịch.
Tóm lại, các chỉ tiêu phản ánh chất lợng dịch vụ của một NHTM bao
gồm:
*Chất lợng nhân viên trực tiếp cung ứng dịch vụ
*Độ an toàn và chính xác
*Thủ tục giao dịch
*Tốc độ xử lý giao dịch
Để có thể đo lờng hầu hết các yếu tố mang tính chất vô hình nêu trên, các
NHTM có thể thực hiện các công cụ nghiên cứu Marketing nh làm bảng hỏi
khách hàng, phỏng vấn trực tiếp khách hàng, tổ chức toạ đàm theo chuyên đề
hoặc sử dụng hộp th góp ý của khách hàng... Riêng hai chỉ tiêu về độ an toàn,
chính xác của giao dịch và thời gian cho một giao dịch phòng chuyên trách của
ngân hàng có thể tự thống kê với một số lu ý sau:
Độ an toàn, chính xác trong giao dịch là tiêu chuẩn hàng đầu đối với mọi
khách hàng. Vì vậy, thực tế các NHTM đều đã đảm bảo tỷ lệ này ở mức suýt
soát 100%. Việc thống kê các sai sót trong quá trình cung ứng dịch vụ vì vậy
gặp khó khăn. Tuy nhiên, các sai sót khi phát hiện đợc, cần trừ điểm cao trong
tổng số điểm đánh giá chất lợng dịch vụ ngân hàng.
Tốc độ xử lý giao dịch: thời gian giao dịch cần thiết đối với các loại dịch vụ
khác nhau sẽ rất khác nhau. Ví dụ thời gian giao dịch cho một khoản vay ngắn hạn
có thể là 2 ngày trong khi thời gian cần thiết để hoàn tất một khoản vay trung và dài
Lớp Tài chính Doanh nghiệp 41A
17
hạn tối thiểu là 30 ngày, thậm chí là một năm vì vậy cũng nên so sánh theo từng
loại hình dịch vụ, không thể so sánh cùng lúc giữa các loại dịch vụ khác nhau.
3. Nhóm chỉ tiêu phản ánh sự hài lòng của khách hàng
Đây là chỉ tiêu mang tính tổng hợp nhất và có thể nói là quan trọng nhất
theo quan điểm Marketing, vì suy cho cùng các NHTM cạnh tranh với nhau là
thu hút đợc nhiều khách hàng thông qua việc thoả mãn tốt nhất các nhu cầu của
họ. Nh trên đã trình bày, sự hài lòng của khách hàng mang đậm tính chủ quan
của chính họ. Vì vậy, việc hình thành một nhóm chỉ tiêu cụ thể để đánh giá gặp
nhiều khó khăn. Song, nhìn chung, khách hàng sẽ cảm thấy hài lòng khi họ nhận
đợc dịch vụ đúng (đáp ứng đúng mục đích giao dịch), chất lợng đúng (nh họ
mong đợi), giá cả đúng (họ cho rằng hợp lý) và thời gian đúng (không quá lâu).
Do hầu hết các tiêu chuẩn yêu cầu của khách hàng về dịch vụ đã đợc thể
hiện qua hai nhóm chỉ tiêu phản ánh chất lợng và chỉ tiêu phản ánh sự đổi mới
nên tại nhóm chỉ tiêu này chủ yếu sẽ đợc đánh giá theo khía cạnh kết quả vấn
đề, cụ thể nh sau: Tốc độ tăng trởng (suy giảm) số lợng khách hàng, tốc độ tăng
trởng (suy giảm) thị phần.
Phơng pháp tính toán hai chỉ tiêu trên chủ yếu là thống kê thông tin từ
trong nội bộ ngân hàng và thông tin từ bên ngoài ngân hàng. Do mức sinh lợi
của các nhóm khách hàng/dịch vụ khác nhau sẽ khác nhau. Vì vậy hai chỉ tiêu
nói trên cần đợc thống kê theo từng loại hình dịch vụ cụ thể.
IV.Các công cụ cạnh tranh của NHTM
1. Cạnh tranh bằng lãi suất
L
ãi suất là giá cả của việc sử dụng vốn trong một thời gian nhất định mà ng-
ời sử dụng phải trả cho ngời sở hữu nó
Dẫn đầu về giá có lẽ là chiến lợc rõ ràng nhất, trong đó công ty cố gắng trở
thành một nhà sản xuất có giá thấp trong toàn ngành. Đối với các ngành sản xuất
Lớp Tài chính Doanh nghiệp 41A
18
khác, đây có thể là một trong những chiến lợc hiệu quả nhất và giá cả có thể đợc sử
dụng nh một yếu tố cơ bản đánh giá trình độ cạnh tranh của công ty. Tuy nhiên
ngành ngân hàng có những đặc trng riêng nên đòi hỏi phải có những phân tích
khác. Dữ liệu về giá của các giao dịch đơn lẻ có thể có ích và cần thiết cho các
ngành khác nhng rất ít thông tin loại này phù hợp với ngân hàng.
Các ngân hàng khó có thể sử dụng công cụ này trong cạnh tranh vì những
đặc thù rất riêng của ngành ngân hàng. Sản phẩm của các ngân hàng hầu nh là
giống nhau tạo nên sự đơn điệu chung trên thị trờng sản phẩm nhng những ngân
hàng có ý định hạ giá để tạo sự khác biệt cho sản phẩm của mình sẽ không thành
công. Ngân hàng nào cũng có tiềm năng cạnh tranh về giá nên giá cho vay chung
trên thị trờng chính là giá thấp nhất đảm bảo cho ngân hàng vẫn còn có thể có lãi từ
hoạt động cho vay. Bất cứ ngân hàng nào muốn phá vỡ thế ổn định đó sẽ kéo theo
sự chuyển động của cả một hệ thống và tính suy yếu cũng mang tính hệ thống sâu
sắc. Vợt qua giới hạn cuối cùng, ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ trong
hoạt động kinh doanh và tiếp đó là khả năng tài chính giảm sút, làm mất đi khả
năng cạnh tranh trong tơng lai do không thể đáp ứng đợc các nhu cầu của khách
hàng.
Tuy nhiên, ta cũng có thể dễ dàng nhận thấy là các ngân hàng có thể sử
dụng những lãi suất khác nhau cho những khách hàng khác nhau trong những
khoản vay thoạt trông là cùng loại và cùng quy mô. Điều này một phần là do các
nhân tố rủi ro khác nhau và các điều khoản khác nhau của khoản vay: tài sản bảo
đảm, thời điểm trả nợ v.v... Khách hàng có nhiều sự lựa chọn, bao gồm cả lựa chọn
không cần vay vì có khả năng tài chính vững mạnh, thờng nhận đợc lãi suất thấp
hơn so với những khách hàng có ít hơn hay không có lựa chọn nào.
Lớp Tài chính Doanh nghiệp 41A
19
Những sự lựa chọn trên cho phép khách hàng mua hàng giữa các ngân
hàng và các tổ chức tài chính khác để có đợc những điều kiện tốt nhất. Nếu điều
này xảy ra ở quy mô lớn, sự khác biệt về lãi suất của mỗi ngân hàng đối với các
khoản cho vay sẽ có xu hớng thu hẹp lại và sẽ chỉ có một sự khác biệt không đáng
kể về lãi suất giữa các ngân hàng trên cùng một thị trờng. Nói cách khác, quyền lực
của độc quyền bán quan hệ nghịch đảo với khả năng lựa chọn của khách hàng.
Tóm lại, đối với ngành ngân hàng, cạnh tranh bằng lãi suất không phải là
một công cụ đem lại lợi ích mong muốn. Một minh chứng dễ thấy nhất là tại các
nớc phát triển, lãi suất không phải là một công cụ đợc a thích và trên thị trờng liên
ngân hàng, lãi suất LIBOR và SIBOR không cách biệt nhau bao nhiêu. Để có thể sử
dụng công cụ này có hiệu quả trong cạnh tranh là một điều vô cùng khó khăn,
trong những trờng hợp cụ thể thì biện pháp an toàn và thực tế nhất là bám theo lãi
suất cơ bản của ngân hàng trung ơng. Đây cũng chính là cách thức mà các ngân
hàng trên thế giới đang sử dụng trong cho vay trung và dài hạn nhằm bảo đảm đợc
kết quả hoạt động kinh doanh nhng cũng không vợt quá khỏi ngỡng của lãi suất
cạnh tranh.
2. Cạnh tranh bằng sự phân biệt
Nh trên đã khẳng định, một ngân hàng muốn tạo đợc sự khác biệt với các
ngân hàng khác thì phải có những vũ khí chiến lợc riêng thật hiệu quả nhằm đạt đ-
ợc sự tán thởng và ủng hộ cao nhất của khách hàng, từ đó mới có thể hy vọng sẽ tạo
đợc chỗ đứng trên thị trờng và hoạt động có chất lợng, vợt lên hẳn các đối thủ cạnh
tranh trớc đó. Loại bỏ yếu tố lãi suất không hiệu quả, chúng ta có thể xem xét một
số công cụ chủ yếu của ngân hàng trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn nh
sau: uy tín của ngân hàng, năng lực của bộ máy lãnh đạo, nguồn vốn tự có và huy
động , hệ thống thu thập và xử lý thông tin, khả năng phân tích rủi ro, chất lợng
Lớp Tài chính Doanh nghiệp 41A
20
nguồn nhân lực, công nghệ ngân hàng và đổi mới công nghệ và công tác quản trị
chiến lợc.
- Uy tín của ngân hàng
Uy tín của một tổ chức tài chính là tài sản vô hình quan trọng nhất, một loại
tài sản có thể phân biệt đợc những đối thủ thành công nhất trong ngành dịch vụ tài
chính so với những ngời còn lại. Nó là sản phẩm của những thành tích tích luỹ đợc
trong quá khứ của một tổ chức. Uy tín có thể nâng cao từ nhiều nguồn khác nhau
nhng nói chung là đợc rút ra từ một khả năng và chuyên môn cụ thể mà thị trờng
đánh giá cao và bản thân tổ chức đó đã phát triển trong một thời gian.
Khái niệm về uy tín đã đợc sử dụng để giải thích cho rất nhiều hiện tợng
cạnh tranh và thờng đợc liên hệ với vị trí của ngân hàng trên thị trờng nh là kết quả
của sự phối hợp đồng bộ của tất cả các thành phần nh công nghệ tài chính và đổi
mới, hệ thống thông tin, chất lợng nguồn nhân lực, khả năng phân tích rủi ro và cơ
sở về vốn. Uy tín, hay còn đợc gọi là good will, gắn kết chặt chẽ với ngân hàng
nh là một sản phẩm của những hoạt động trong quá khứ đợc phản ánh trong tơng
lai.
Uy tín của một ngân hàng thờng đợc quyết định qua nhận xét của những
khách hàng đã sử dụng dịch vụ ngân hàng. Một khi ngân hàng đã tạo đợc vị trí
trong lòng khách hàng, điều này sẽ là một lợi thế cho ngân hàng trong việc quảng
cáo và bán sản phẩm mới. Thị trờng của ngân hàng rộng lớn và phức tạp với rất
nhiều kênh thông tin dày đặc cũng có tính 2 mặt của nó. Nếu ngân hàng hoạt động
tốt và phục vụ khách hàng tận tình chu đáo, sẽ đợc lan rộng nhanh chóng. Nhng khi
ngân hàng sơ sót thì danh tiếng của ngân hàng còn bị hạ thấp nhanh chóng hơn, uy
tín của ngân hàng giúp cho khách hàng có những lựa chọn tốt nhất để quyết định
vay vốn đầu t.
Lớp Tài chính Doanh nghiệp 41A
21
- Bộ máy lãnh đạo
Không phải ngân hàng nào cũng có nhiều lợi thế nh địa điểm, nguồn vốn tự
có để có thể phát huy thành một lợi thế cạnh tranh của mình. Vậy trong trờng hợp
này, các ngân hàng trên làm thế nào để có thể tiếp tục tồn tại và phát triển giữa
những lực lợng hùng hậu khác? Một trong những chiếc chìa khoá của sự thành
công chính là năng lực sáng tạo và điều hành của bộ máy lãnh đạo ngân hàng. Sức
mạnh của bộ máy này là biết đánh giá, kết hợp một cách tài tình tất cả mọi nguồn
lực có trong tổ chức và phát huy tối đa khả năng của từng bộ phận vào kết quả tổng
hợp chung của ngân hàng. Để có thể thành công trong môi trờng cạnh tranh hiện
nay, các nhà quản trị ngân hàng cần có những tố chất sau đây:
+ Khả năng chuyên môn:
tuy có ý kiến cho rằng ngời quản lý ngày nay
không cần thiết phải có những hiểu biết chuyên sâu nhng thực chất, muốn có một
sự sắp xếp cho cơ chế hoạt động của bất cứ một bộ máy thì ngời quản lý phải có
những hiểu biết nhất định, nhờ thế mới có thể phát huy đợc khả năng của từng bộ
phận trong tổ chức. Khi mỗi cá nhân và bộ phận đợc đặt vào đúng vị trí và năng lực
hoạt động của mình, họ mới có thể phát huy hết khả năng phục vụ cho lợi ích của
ngân hàng cũng nh là lợi ích của chính họ.
+ Khả năng phán đoán: ban lãnh đạo ngân hàng cần phải có tầm nhìn xa
chiến lợc, nhờ đó có thể phán đoán tơng đối chính xác các xu hớng của thị trờng,
có khả năng phân tích và dự đoán tác động của các biến đổi hiện tại, từ đó đa ra các
chiến lợc ở tầm vĩ mô nhằm trang bị cho ngân hàng những vũ khí hiệu quả nhất giữ
vững vị trí trên thị trờng.
+ Khả năng, nghệ thuật đối nhân xử thế:
khả năng này không những thể
hiện trong phơng pháp bố trí nhân lực, khuyến khích cố gắng của nhân viên trong
ngân hàng để thu đợc hiệu quả làm việc xuất sắc nhất mà còn đợc áp dụng trong
Lớp Tài chính Doanh nghiệp 41A
22
giao tiếp đối với khách hàng và các cấp có thẩm quyền. Hoạt động ngân hàng diễn
ra ở trung tâm của xã hội, mối quan hệ của ngân hàng với các thành phần kinh tế
khác lại dày đặc cũng nh chịu ảnh hởng tác động của các bộ ngành khác nhau
trong nền kinh tế nên sự khéo léo và uyển chuyển trong giao tiếp của cán bộ lãnh
đạo ngân hàng sẽ mang lại cho ngân hàng những u thế đặc biệt trong mối quan hệ
với khách hàng và bộ máy chính quyền trung ơng và địa phơng. Điều này cho thấy
ngân hàng không chỉ đơn thuần thực hiện công việc kinh doanh mà ngân hàng phải
thực hiện công việc kinh doanh đó một cách nghệ thuật. Nh vậy chính là cán bộ
lãnh đạo ngân hàng đã thể hiện đợc văn hoá trong kinh doanh của ngân hàng.
- Nguồn vốn tự có và nguồn vốn huy động
Trong những năm gần đây, các tổ chức tài chính và các bộ phận của chúng
đã bắt đầu có sự chú ý ngày càng tăng đối với việc sử dụng nguồn vốn nh là một
sức mạnh cạnh tranh giống nh năng lực điều hành. Điều này luôn là sự thật đối với
các hoạt động đợc thể hiện trên bảng cân đối tài chính, ví dụ nh giới hạn cho vay
trên nguồn vốn trong trờng hợp các khoản cho vay, và cũng chính trong lĩnh vực
này, chất lợng chung của các tài sản ngân hàng đã xấu đi trông thấy ở nhiều nớc.
Tuy nhiên cũng có những lý do tại sao NHTM lại miễn cỡng trong việc
tăng nguồn vốn cơ bản. Họ sẽ phải đối mặt với việc thu nhập bị loãng đi và với tầm
quan trọng của chính sách đòn bẩy, và một vài tổ chức đã phát hành các món nợ
hạng dới, các giấy tờ thanh toán có lãi suất thả nổi vô thời hạn và những hình thức
nợ khác có thể đợc coi nh vốn chủ sở hữu.
- Khả năng phân tích rủi ro
Các tổ chức tài chính tự tài trợ cho mình bằng cách tạo lập ra các tài sản tài
chính do ngời khác nắm giữ. Những trờng hợp dễ nhận thấy nhất là tài khoản tiền
gửi của khách hàng, giao dịch liên ngân hàng, và phát hành chứng chỉ tiền gửi cũng
Lớp Tài chính Doanh nghiệp 41A
23
nh cổ phiếu. Do đó các tài sản cũng đợc xếp loại từ các tài sản có lãi suất thấp và
tính lỏng cao cho tới tài sản có lãi suất cao và tính lỏng thấp . Mỗi loại có một loại
rủi ro đặc trng. Trong bối cảnh này, chất lợng của một ngân hàng (khả năng phân
tích rủi ro) là một yếu tố quyết định quan trọng đến khả năng ngân hàng có thể bán
các sản phẩm tài chính của mình cho ngời khác với chi phí thấp nhất có thể.
Các khoản vay liên ngân hàng đã trở thành một nguồn tài trợ quan trọng
cho các ngân hàng, nguồn này trở thành một nguồn kém an toàn và có chi phí cao
hơn nguồn tiền gửi của khách hàng. Trong lúc đó, cho vay liên ngân hàng là một
khoản tài trợ bổ sung cho bên tài sản của bảng cân đối. Khả năng phân tích rủi ro
trở nên có ý nghĩa đặc biệt trong hoàn cảnh này. Những ngân hàng có chất lợng
phân tích kém hơn sẽ rơi vào khó khăn khi họ bắt buộc phải trả một khoản phí cao
hơn những ngân hàng khác để tự tài trợ cho mình trên thị trờng liên ngân hàng, vì
tình trạng yếu kém về chất lợng tín dụng của họ bị phản ánh thông qua khoản phí
này do các ngân hàng khác đặt ra.
Nh vậy trong tơng lai, khả năng phân tích tài chính sẽ là một vũ khí quan
trọng giúp cho ngân hàng đợc đánh giá chất lợng tín dụng cao hơn. Đồng thời nó
cũng cung cấp cho ngân hàng những thông tin cần thiết trong hoạt động đầu t của
mình, nâng cao khả năng an toàn và giảm bớt những biến động về nguồn vốn huy
động của ngân hàng trong lĩnh vực cho vay. Một nguồn vốn ổn định cho phép ngân
hàng phục vụ khách hàng tốt hơn và khẳng định mạnh mẽ hơn uy tín của ngân
hàng.
- Hệ thống thu thập thông tin
Nếu tiền là thông tin vận động thì các dịch vụ tài chính chính là lĩnh vực
cần thông tin nhất trong nền kinh tế. Nhiều dịch vụ tài chính (ví dụ nh: dịch vụ t
vấn tài chính) có bản chất hoàn toàn là thông tin, và sự vận động của các tổ chức tài
chính để thoát ra khỏi các hoạt động có hình thức trao đổi hàng hoá trở thành các
Lớp Tài chính Doanh nghiệp 41A
24
hoạt động kinh doanh có giá trị gia tăng cao hơn đang tăng cờng tầm quan trọng
của các sản phẩm đòi hỏi có nhiều thông tin, cả về khối lợng và chất lợng. Các dịch
vụ không có bản chất thông tin cũng vẫn có xu hớng phụ thuộc ngày càng nhiều
vào chất lợng thông tin vì giá trị của mình. Hơn thế nữa, thông tin không đối xứng
giữa các đối thủ cạnh tranh và khách hàng của họ góp phần rất lớn vào việc giải
thích những khác biệt trong hoạt động cạnh tranh.
Một trong những chức năng quan trọng nhất của các tổ chức tài chính là
đánh giá rủi ro lại phụ thuộc rất nhiều vào chất lợng thông tin. Tất cả các hình thức
cho vay và các hoạt động liên quan đến tín dụng phụ thuộc vào việc thu thập, xử lý
và đánh giá một khối lợng thông tin rất lớn. Tơng tự, sự đồng hoá thông tin về các
nhu cầu của khách hàng rất quan trọng trong quá trình phát triển và đáp ứng nhu
cầu của các dịch vụ.
Có 3 yếu tố liên quan tới nhận định thông tin là yếu tố quyết định trong hoạt
động cạnh tranh. Đó là:
+ Thông tin là nhân tố duy nhất trong quá trình sản xuất có thể đợc sử dụng
đồng thời trong quá trình thực hiện của một số lợng bất kỳ các dịch vụ và điều này
đem lại một số tính chất đặc trng cho thông tin. Thông tin thứ cấp cho tổ chức này
có thể là thông tin sơ cấp cho bộ phận khác và phục vụ cho những mục đích khác
nhau.
+ Chu kỳ phân nửa của thông tin có chiều hớng rất ngắn và có thể giảm. Do
mức độ biến đổi của thị trờng cao, những thông tin tài chính có tính quan trọng
sống còn nhanh chóng mất tác dụng, và những diễn biến đợc bảo đảm vào lúc đó
không còn đợc đánh giá cao ngay sau đó
+ Sự phức tạp ngày càng tăng của môi trờng cạnh tranh và sự đa dạng của
các loại hình dịch vụ tài chính đã làm tăng khó khăn đối với các công ty và cá nhân
Lớp Tài chính Doanh nghiệp 41A
25