Tải bản đầy đủ (.pdf) (164 trang)

Tiểu luận các giải pháp quản lý khai thác du lịch sinh thái tại các vườn quốc gia theo hướng phát triển bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 164 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, theo tổ chức du lịch thế giới (UNWTO), Du lịch
sinh thái (DLST) đã và đang phát triển rất nhanh ở nhiều nước trên thế giới và thu
hút được ngày càng nhiều sự chú ý của các tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là những
người có nhu cầu về vãn cảnh, khám phá thiên nhiên và tìm hiểu sự đa dạng hệ sinh
thái, động thực vật cũng như tính độc đáo, đặc thù của văn hóa bản địa gắn liền với
tài nguyên du lịch đó. Sự phát triển của DLST một mặt mang lại việc làm, thu nhập
và lợi nhuận cho địa phương và quốc gia nhất là ở những vùng hẻo lánh, xa xôi,
vùng nông thôn - nơi có những khu bảo tồn, phong cảnh thiên nhiên đẹp và nét văn
hóa địa phương đặc thù; mặt khác vẫn bảo vệ được môi trường tự nhiên, sự đa dạng
sinh học và văn hóa địa phương. Hơn thế, DLST góp phần quan trọng trong việc
phát triển cộng đồng, giáo dục môi trường, văn hóa, lịch sử và các hoạt động giải
trí. Vì thế, ở nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, DLST đã trở thành một loại
hình kinh doanh có hiệu quả cho việc bảo vệ môi trường sinh thái, bằng việc làm
giảm sức ép đến sự khai thác nguồn tài nguyên cho nhu cầu dịch vụ du lịch của
khách du lịch và dân cư địa phương.
Ở Việt Nam, DLST là lĩnh vực được nghiên cứu từ giữa thập kỷ 90 của thế
kỷ XX. Ngày nay, DLST càng được quan tâm của các cấp, các ngành trong bối
cảnh phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn và càng trở nên quan
trọng hơn khi du lịch trở thành chiến lược của quốc gia và được nhiều người biết
đến.
Các Vườn quốc gia (VQG) và khu bảo tồn thiên nhiên khu (BTTN) là nơi tập
trung đa dạng sinh học cao, trong đó có nhiều loài động - thực vật đặc hữu, quý
hiếm và có khả năng hấp dẫn du khách. Các cộng đồng dân cư địa phương sinh
sống trong khu vực các VQG đều có những giá trị văn hóa bản địa độc đáo và mang
những đặc sắc riêng đây là những thuận lợi cho việc phát triển loại hình DLST. Việt
Nam có 0 VQG nằm rải rác trên phạm vi toàn quốc, trong đó 6 VQG trực thuộc Bộ

1



NN&PTNT quản lý và 24 VQG thuộc các tỉnh quản lý, với nhiều giá trị tài nguyên
thuận lợi để phát triển du lịch nói chung và DLST nói riêng. Đồng thời, phần lớn
các VQG có vai trò kép, một mặt đây là khu vực cung cấp nơi cư trú cho sự sống
hoang dã, mặt khác nó lại phục vụ như là nơi du lịch đặc thù cho khách du lịch.
Việc quản lý các mâu thuẫn tiềm ẩn giữa hai mục đích này có thể là một vấn đề, cụ
thể là du khách sẽ đem lại nguồn kinh phí cho VQG cũng như góp phần nâng cao
đời sống cho người dân địa phương, quảng bá các giá trị văn hóa bản địa tạo điều
kiện duy trì và bảo tồn hệ sinh thái và các giá trị văn hóa bản địa; Các VQG cũng là
nguồn cung cấp các tài nguyên thiên nhiên có giá trị như gỗ, khoáng sản và các loại
tài nguyên có giá trị khác. Sự cân bằng giữa nhu cầu khai thác các tài nguyên này
với tổn thất do việc khai thác gây ra thường là thách thức rất quan trọng đối với hệ
thống quản lý các VQG.
Các VQG hiện nay được coi là một loại rừng và được quản lý theo quy chế
của rừng đặc dụng chứ chưa được quan tâm đến khía cạnh là một loại tài nguyên du
lịch. Hơn thế nữa, do các VQG hiện tại đang được quản lý nhằm mục tiêu chính là
bảo tồn đa dạng sinh học nên đã hạn chế sự phát triển DLST, hạn chế sự tham gia
của các doanh nghiệp du lịch và cộng đồng dân cư địa phương trong việc khai thác
tài nguyên DLST.

ối quan hệ giữa Ban quản lý VQG (cơ quan chức năng được

giao quản lý rừng) với cộng đồng dân cư và các doanh nghiệp du lịch chưa được
thống nhất và chặt chẽ dẫn đến làm giảm hiệu quả của việc khai thác tài nguyên du
lịch này. Do đó việc quản lý các VQG theo hướng là một loại tài nguyên rừng đơn
thuần với chức năng bảo tồn sự đa dạng sinh học hay coi đây là một tài nguyên du
lịch với chức năng kép là vừa bảo tồn đa dạng sinh học vừa khai thác DLST tạo thu
nhập là một vấn đề cần phải làm rõ.
Các VQG có một giá trị về tài nguyên DLST rất lớn, nếu không khai thác thì
đã bỏ phí nhưng nếu khai thác không hợp lý thì sẽ hủy hoại nguồn tài nguyên do đó

cần phải có các mô hình, giải pháp quản lý và khai thác hợp lý làm sao khai thác
được tối đa các giá trị kinh tế của tài nguyên đồng thời không tác động xấu tới các
giá trị về sinh thái của nguồn tài nguyên này.

2


Từ kinh nghiệm quản lý VQG của một số nước trên thế giới cho thấy việc
khai thác tài nguyên tại các VQG để phát triển DLST hợp lý đã đảm bảo được cả 2
mục tiêu là (i) Bảo tồn hệ sinh thái bền vững về môi trường và (ii) tạo thêm kinh phí
hoạt động cho VQG, nâng cao đời sống của cộng đồng dân cư địa phương đảm bảo
bền vững về kinh tế và xã hội.
Với 0 VQG Việt Nam nằm rải rác trên toàn quốc, do đó việc nghiên cứu tất
cả các VQG là rất khó thực hiện. Hơn nữa, các VQG hiện tại đều được coi là Ban
quản lý rừng đặc dụng và được điều chỉnh bằng những văn bản quy phạm pháp luật
chung có liên quan; Chức năng, nhiệm vụ vủa các VQG hiện nay đều giống nhau;
Các VQG chỉ khác nhau về độ dạng sinh học và quy mô diện tích. Từ những lý do
trên cho thấy, có thể lựa chọn 1 điểm nghiên cứu để minh chứng cho các VQG còn
tổng thể các VQG khác của Việt Nam được nghiên cứu dựa trên các tài liệu thứ cấp
và việc tham vấn ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực có liên quan. VQG Cúc
Phương có thể nói là VQG đặc trưng cho các VQG tại Việt Nam và được chọn làm
nghiên cứu điểm bởi: VQG Cúc Phương là VQG được thành lập đầu tiên tại Việt
Nam; VQG Cúc Phương có diện tích tương đối lớn, nằm trên diện tích của

tỉnh là

Hòa Bình – Ninh Bình và Thanh Hóa với những giá trị về đa dạng sinh học điển
hình, có nguồn tài nguyên DLST phong phú; VQG Cúc Phương đã có nghiên cứu
và bắt đầu kinh doanh du lịch dựa vào tài nguyên VQG rất sớm; Số lượng khách du
lịch đến VQG tương đối đông; VQG Cúc Phương nằm ở miền bắc nên thuận lợi và

phù hợp với điều kiện nghiên cứu.
Từ thực tế nói trên, việc nghiên cứu đề tài “Giải pháp quản lý và khai thác
du lịch sinh thái ở các Vườn quốc gia Việt Nam theo hướng phát triển bền vững
(nghiên cứu điểm VQG Cúc Phương)” là cần thiết.

2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
Góp phần phát triển cơ sở lý luận về du lịch sinh thái và quản lý DLST.
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng quản lý và khai thác du lịch sinh thái tại VQG Cúc
Phương nhằm đề xuất các giải pháp quản lý và các phương án khai thác DLST ở
VQG Cúc Phương và các VQG Việt Nam theo hướng phát triển bền vững.

3


3. Nhiệm vụ và câu hỏi nghiên cứu
3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trên cơ sở hệ thống hóa để góp phần phát triển cơ sở lý luận và thực tiễn về
quản lý và khai thác du lịch sinh thái ở các VQG.
- Xác định được mối quan hệ giữa phát triển du lịch sinh thái và phát triển
bền vững cho các VQG,
- Đánh giá được thực trạng cơ chế và mô hình quản lý các VQG ở Việt Nam,
- Đánh giá được hiện trạng quản lý và khai thác DLST tại VQG Cúc Phương.
- Đề xuất được các giải pháp quản lý và các phương án khai thác DLST tại
VQG Cúc Phương và các VQG ở VN định hướng giai đoạn 2010 – 2020.

3.2. Câu hỏi nghiên cứu
Để làm rõ mục tiêu của luận án thì câu hỏi nghiên cứu cần được trả lời là:
1. Giải pháp quản lý nào cho phép phát triển du lịch sinh thái theo
hướng bền vững tại các VQG của Việt Nam?
Để phát triển du lịch bền vững đòi hỏi cần có sự tham gia của các bên liên

quan trong việc quản lý và khai thác tài nguyên DLST do vậy để trả lời câu hỏi này,
những vấn đề sau đây cần được tìm hiểu và nghiên cứu:
1.a. Những yếu tố nào thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng dân cư địa
phương vào sự phát triển DLST tại các VQG?
1.b. Những yếu tố nào cản trở sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương
vào sự phát triển DLST tại các VQG?
1.c. Những yếu tố nào thúc đẩy sự tham gia của các doanh nghiệp du lịch vào
sự phát triển DLST tại các VQG?
1.d. Những yếu tố nào cản trở sự tham gia của các doanh nghiệp du lịch vào
sự phát triển DLST tại các VQG?
2. Vai trò cũng như việc tổ chức và cơ chế hoạt động cho Ban quản lý
các VQG (Cơ quan chức năng được giao quản lý các khu rừng đặc dụng – nguồn
tài nguyên DLST) như thế nào là hợp lý để vừa quản lý được tài nguyên rừng,
bảo vệ sự đa dạng sinh học vừa khai thác được hiệu quả về DLST?

4


2.a. Các VQG ở Việt Nam hiện nay nên có sứ mệnh và tầm nhìn như thế
nào? Để thực hiện sứ mệnh và tầm nhìn đó thì việc quản lý nhà nước nên được tổ
chức thế nào?
2.b. Hoạt động du lịch tại VQG như thế nào?
2.c. Thị trường khách du lịch của các VQG là ở đâu? Đối tượng khách du
lịch chính của các VQG là ai?
2.d. Các tác động của khách du lịch đến phát triển bền vững của các VQG
như thế nào?

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Du lịch và phát triển bền vững, du lịch sinh thái.

- Công tác quản lý các VQG hiện tại ở Việt Nam nói chung và VQG Cúc
Phương nói riêng.
- Hoạt động khai thác du lịch sinh thái ở VQG Cúc Phương.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: nghiên cứu công tác quản lý VQG và hoạt động khai thác du
lịch sinh thái ở VQG Cúc Phương 2006 - 2011
- Về không gian: tại VQG Cúc Phương và một số VQG trực thuộc Bộ
NN&PTNT.

5. Tổng quan nghiên cứu và những đóng góp mới của luận án
5.1. Tổng quan nghiên cứu
Trong thời gian thực hiện, luận án đã tiếp cận và tổng hợp các tài liệu, các
công trình nghiên cứu có liên quan của các tác giả trong và ngoài nước. Một số tác
giả và công trình nghiên cứu cụ thể là:

5.1.1. Những nghiên cứu ngoài nước
Yi-fong, Chen (2012)[66] trong “Du lịch sinh thái bản địa và phát triển xã
hội ở vườn quốc gia Taroko và cộng đồng người San-Chan, Đài Loan” đã tìm hiểu
tác động về mặt văn hóa xã hội của hoạt động du lịch mới được xây dựng tới bảo
tồn văn hóa, xã hội và sinh thái. Tác giả đã kết luận rằng các nhóm khác nhau sẽ

5


hưởng lợi hoặc chịu tác động khác nhau từ việc phát triển DLST. Phát triển du lịch
ở VQG có thể sẽ làm trầm trọng hóa tính bất bình đẳng và khác biệt giữa các nhóm
trong cộng đồng. Do vậy, để xây dựng một dự án du lịch sinh thái dựa vào cộng
đồng cần thiết phải có hiểu biết sâu sắc về không chỉ mối quan hệ giữa cộng đồng
địa phương và môi trường mà cả những vấn đề chính trị, kinh tế và văn hóa tồn tại

giữa các cộng đồng, cũng như giữa cộng đồng và ban quản lý VQG.
Yacob và đồng sự (2011)[65] khi tìm hiểu về “Nhận thức và quan niệm của
khách du lịch về phát triển du lịch sinh thái ở vườn quốc gia Redang Island Marine,
Malaysia” đã phỏng vấn 29 đối tượng, phân tích thông tin cơ bản của khách du
lịch tới VQG, nhận thức và quan niệm của khách du lịch về quản lý tài nguyên du
lịch, bảo tồn tài nguyên du lịch sinh thái và quan niệm của khách du lịch về tăng
doanh thu cho VQG từ hoạt động du lịch. Nghiên cứu kết luận rằng quan điểm và
nhận thức của khách du lịch về các vấn đề môi trường có thể được giải quyết trên
cơ sở công tác lập kế hoạch và quản lý, do đó cách tiếp cận quản lý có thể sẽ thành
công nếu như có cơ hội đối thoại và trao đổi giữa nhà quản lý và các bên liên quan.
Tuy nhiên, quá trình quản lý, phát triển và lập kế hoạch du lịch sinh thái hiệu quả
phải là một quá trình có đề cập đến hoạt động dựa vào thiên nhiên, kết hợp với giáo
dục môi trường và duy trì sự bền vững sinh thái, những lợi ích đối với cộng đồng
địa phương và tạo ra sự hài lòng của du khách. Nghiên cứu cung cấp những đề xuất
có giá trị cho quản lý tài nguyên du lịch sinh thái ở VQG. Do vậy, nghiên cứu có
khả năng hỗ trợ việc quản lý VQG nhằm cải thiện công tác quản lý tài nguyên du
lịch sinh thái và phát triển kế hoạch phát triển du lịch sinh thái.
Bhuiyan và đồng sự (2011) [49], trong nghiên cứu “Vai trò của chính phủ
trong phát triển du lịch sinh thái: Nghiên cứu điểm ở khu vực kinh tế duyên hải” đã
khẳng định sự can thiệp của Chính phủ là rất cần thiết đối với các quốc gia đang
phát triển trong việc lập kế hoạch và xúc tiến hoạt động du lịch sinh thái. Cụ thể, ở
alaysia, sự can thiệp chủ yếu của Chính phủ trong lĩnh vực phát triển du lịch sinh
thái là phát triển các sản phẩm du lịch sinh thái, thúc đẩy khả năng tiếp cận du lịch,
đào tạo, xúc tiến du lịch, phát triển du lịch bền vững…. Nghiên cứu cũng đề xuất

6


Chính phủ nên xây dựng một kế hoạch hành động du lịch sinh thái, xây dựng năng
lực thể chế, đầu tư cho các dự án du lịch sinh thái ở các khu rừng đặc dụng, phát

triển nguồn nhân lực … Đặc biệt, Chính phủ nên đảm bảo lợi ích kinh tế, xã hội,
văn hóa và sinh thái của cộng đồng địa phương thông qua việc tham gia phát triển
DLST.
Hill (2011) [54] trong nghiên cứu “Du lịch sinh thái ở khu vực Amazon Peru:
sự kết hợp giữa du lịch, bảo tồn và phát triển cộng đồng” đã đề xuất một số nguyên
tắc chủ yếu nhằm đạt được thành công trong quá trình phát triển du lịch sinh thái ở
khu vực rừng nhiệt đới. Cụ thể, những nguyên tắc đó là nâng cao năng lực cộng
đồng thông qua việc tạo điều kiện cho họ tham gia vào hoạt động du lịch sinh thái,
trao đổi nhận thức giữa cộng đồng và người điều hành tour du lịch, đồng quản lý tài
nguyên rừng, kết hợp đào tạo và du lịch, giảm thiểu ảnh hưởng của hoạt động du
lịch tới môi trường và hệ sinh thái. Nghiên cứu này nhấn mạnh mối quan hệ giữa du
lịch sinh thái, bảo tồn hệ sinh thái và phát triển cộng đồng địa phương.
Apostu & Gheres, (2009) [48] nghiên cứu về “Một số đề xuất về tổ chức và
phát triển du lịch sinh thái đối với rừng đặc dụng ở Romania” đã phân tích thực
trạng hoạt động DLST ở Romania và cho thấy những thiếu sót có thể chia thành hai
nhóm, thiếu sót trong nội bộ ngành du lịch và thiếu sót trong việc quản lý các khu
rừng đặc dụng. Đối với nội bộ ngành, vấn đề nảy sinh từ sự thất bại trong chương
trình quảng bá cho môi trường sinh thái ở tất cả các cấp quản lý, đặc biệt là không
có chương trình phổ biến thông tin cho cộng đồng ở những khu vực có tiềm năng
lớn về DLST. Ở các khu rừng đặc dụng, một loạt vấn đề nảy sinh nhưng không bắt
nguồn từ việc không thể thực hiện được hình thức du lịch này mà nảy sinh từ thực
tế thiếu một cơ chế quản lý hợp lý môi trường tự nhiên có giá trị độc đáo và quan
trọng đối với việc duy trì cân bằng sinh thái và bảo vệ đa dạng sinh học.
Trong nghiên cứu “Tiềm năng du lịch sinh thái và quản lý du lịch sinh thái ở
hạ lưu sông Kavak (Tây Đông Thổ Nhĩ Kỳ)”, Özcan và đồng sự (2009) [61] nhận
thấy rằng cần phải thực hiện một hệ thống các giải pháp để có thể phát huy tối đa
tiềm năng du lịch sinh thái. Các giải pháp đó bao gồm xây dựng cơ sở hạ tầng phục

7



vụ du lịch sinh thái đáp ứng nhu cầu của du khách, thực hiện các biện pháp ngăn
ngừa tác động tiêu cực của hoạt động du lịch sinh thái tới bảo tồn chim hoang dã,
đồng thời đặt những biển quảng bá thông tin về tính đặc hữu của loài chim trong
khu bảo tồn. Bên cạnh đó, dù có tiềm năng du lịch sinh thái rất lớn nhưng khu vực
nghiên cứu cũng chịu sự ảnh hưởng của các hoạt động của người dân sống lân cận
như canh tác nông nghiệp, chăn nuôi gia súc và săn bắn. Chính vì vậy, những hoạt
động nông nghiệp có thể gây ảnh hưởng tiêu cực tới việc phát triển du lịch sinh thái
cần phải được loại bỏ.
Samdin (2013)[63] và đồng sự trong nghiên cứu “Sự bền vững của tài
nguyên du lịch sinh thái ở vườn quốc gia Taman Negara: Phương pháp định giá
ngẫu nhiên (Contingent valuation)” đã đánh giá được giá trị kinh tế của tài nguyên
du lịch sinh thái ở vườn quốc gia Taman Negara. Nghiên cứu cũng đã đưa ra được
khung mức bằng lòng chi trả cho dịch vụ du lịch sinh thái ở vườn quốc gia và kết
luận rằng du khách bằng lòng chi trả mức phí vào cửa cao hơn so với mức phí hiện
hành.
Chase và đồng sự (1998) [53] cũng áp dụng phương pháp tương tự trong
nghiên cứu “Cầu về du lịch sinh thái và nguyên tắc phân biệt giá trong thu phí vào
cổng vườn quốc gia ở Costa Rica”. Tuy nhiên, Chase và đồng sự không chỉ đề xuất
khung mức bằng lòng chi trả mà còn xây dựng được hàm cầu về du lịch sinh thái
đối với vườn quốc gia và đánh giá được độ co giãn của cầu theo thu nhập. Trên cơ
sở đó, nghiên cứu tính toán mức phí nhằm tối đa hóa doanh thu và phân tích ứng
dụng của nguyên tắc phân biệt giá đối với quản lý du lịch sinh thái trong vườn quốc
gia. Tác giả cũng kết luận mức phí vào cổng hiện hành không phản ánh chính xác
mức bằng lòng chi trả của du khách.
Như vậy, có thể thấy việc nghiên cứu về DLST và DLST ở các VQG của các
tác giả ở ngoài nước cho thấy việc quản lý và khai thác du lịch sinh thái cần phải
được tổ chức quản lý thống nhất và tài nguyên du lịch tại các VQG là một tài
nguyên rất có giá trị và cần được khai thác hiệu quả.


8


5.1.2. Những nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam DLST cũng được sự quan tâm, chú ý từ những năm 90s của thế
kỷ 20. Các công trình nghiên cứu về DLST cũng từ đó được thực hiện. Cụ thể như:
- Những giải pháp phát triển du lịch sinh thái Việt Nam trong xu thế hội
nhập, (2006), Nguyễn Thị Tú [31]. Tác giả đã phân tích khá chi tiết điều kiện phát
triển du lịch sinh thái và xu thế phát triển du lịch sinh thái Việt Nam trong xu thế
hội nhập. Tuy nhiên tác giả chưa làm rõ được tiềm năng DLST tại các VQG cũng
như việc quản lý và khai thác tiềm năng du lịch này.
- Du lịch sinh thái - thực trạng và giải pháp để phát triển ở Việt Nam của tác
giả Nguyễn Đình Hòa (2006) [17], Tác giả đã phân tích điều kiện và giải pháp phát
triển du lịch sinh thái của Việt Nam nhưng trong nghiên cứu này tác giả cũng chưa
làm nổi bật được hoạt động này của Việt Nam.
- Hoạt động du lịch sinh thái tại Việt Nam thực trạng và định hướng phát
triển, (2005), các tác giả Hoàng Hoa Quân, Ngô Hải Dương [29] đã làm rõ thực
trạng hoạt động du lịch sinh thái tại Việt Nam. Tuy nhiên tác giả chưa đề cập nhiều
đến mối quan hệ giữa phát triển du lịch với phát triển bền vững.
- Phát triển du lịch theo hướng du lịch sinh thái, (2004) [28], tác giả Đức
Phan đã phân tích được xu hướng phát triển du lịch và đã kết luận trong tương lai
du lịch hướng tới thiên nhiên, du lịch sinh thái là loại hình du lịch phổ biến trên thế
giới và Việt Nam cần đón đầu được xu hướng này để phát triển ngành dịch vụ du
lịch sao cho có hiệu quả.
Hội nghị quốc tế về du lịch bền vững ở Việt Nam do Tổng cục du lịch Việt
Nam kết hợp với tổ chức Hanns Seidel tổ chức tại Huế ( /1997); Hội thảo “ Xây
dựng chiến lược quốc gia về phát triển DLST tại Việt Nam” diễn ra tháng 9/1999
được tổ chức với sự phối hợp của Tổng cục Du lịch Việt Nam, UICN, ESCAP và sự
tài trợ của tổ chức SIDA[19], tại hội thảo này đã có rất nhiều tham luận được đưa ra
về những kinh nghiệm và thực tế phát triển DLST ở nhiều nơi như: Một số kết quả

về đề tài nghiên cứu cơ sở khoa học phát triển DLST ở Việt Nam, kết quả bước đầu

9


nghiên cứu DLST ở Việt Nam…, các kết quả nghiên cứu tại hội thảo đã là những cơ
sở bổ ích cho phát triển DLST ở Việt Nam;
Các công trình nghiên cứu trên đã làm rõ được các nội dung cơ bản của
DLST, vai trò của DLST đối với phát triển bền vững và thực trạng phát triển DLST
của Việt Nam. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về du lịch sinh thái ở Việt
Nam còn quá ít.
Về nghiên cứu hoạt động DLST ở các VQG cũng đã có nhiều công trình
nghiên cứu, cụ thể như:
- Xây dựng chiến lược kinh doanh sản phẩm DLST tại VQG Ba Vì của tác giả
Nguyễn Văn Hợp (2007)[18]. Tác giả đã phân tích được thực trạng kinh doanh sản
phẩm DLST ở VQG Ba Vì từ đó đưa ra các chiến lược kinh doanh cho sản phẩm
DLST ở đây. Tuy nhiên, phương pháp tác giả sử dụng là phương pháp định tính.
- Bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển du lịch sinh thái bền vững ở vườn
quốc gia Ba Vì và vùng đệm trong nền kinh tế thị trường của tác giả Nguyễn Đức
Hậu (2006) [16]: Công trình nghiên cứu này tác giả chủ yếu đề cập đến việc bảo tồn
đa dạng sinh học và mối quan hệ giữa bảo tồn đa dạng sinh học với phát triển
DLST.
- Đặc điểm của du lịch sinh thái và khả năng kinh doanh loại hình du lịch
này tại các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên của Việt Nam, tác giả Nguyễn
Văn

ạnh (200 )[25] đã phân tích khía cạnh khai thác tiềm năng du lịch tại các

VQG để phát triển du lịch sinh thái. Tác giả đã làm rõ được tiềm năng du lịch tại
VQG phù hợp với tính chất và đặc điểm du lịch sinh thái tuy nhiên cụ thể hóa cần

khai thác tiềm năng du lịch này như thế nào.
- Phát triển sản phẩm DLST tại Ninh Bình, của tác giả Nguyễn Văn

ạnh

(2005)[24]. Tác giả đã làm rõ được sản phẩm DLST, các yếu tố cấu thành sản phẩm
DLST, tiềm năng và thực trạng phát triển các sản phẩm DLST ở Ninh Bình.
- Một số giải pháp phát triển du lịch sinh thái và bảo tồn vườn quốc gia Ba
Vì và vùng phụ cận của tác giả Vũ Đăng Khôi (2004)[20]. Tác giả đã đưa ra được

10


các giải phát cho phát triển DLST ở VQG Ba Vì và phương pháp mà tác giả sử
dụng là phương pháp định tính.
- Cơ sở khoa học cho việc định hướng phát triển du lịch sinh thái ở vườn
quốc gia Cúc Phương của tác giả Nguyễn Thị Son (2000) [30], Tác giả chủ yếu
phân tích thực trạng tiềm năng DLST ở VQG Cúc Phương, các giải pháp tác giả
đưa ra để phát triển DLST ở đây chủ yếu là mang tính định tính chứ chưa đề cập
đến các phương án cụ thể để khai thác các tiềm năng này.
Các công trình nghiên cứu về các VQG trên đây đã giải quyết được nhiều
vấn đề. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này chủ yếu là nghiên cứu về phát
triển DLST ở các VQG. Việc nghiên cứu xác định vai trò cũng như sứ mệnh và tầm
nhìn cho các VQG để từ đó tìm ra giải pháp quản lý và phương án khai thác DLST
tại các VQG chưa được đề cập rõ.

4.2. Những đóng góp mới của luận án
4.2.1.Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận
- Từ lý luận về du lịch, du lịch sinh thái và phát triển du lịch bền vững, luận
án tập trung làm rõ về phát triển du lịch sinh thái theo quan điểm phát triển bền

vững. Cụ thể: Du lịch sinh thái theo quan điểm phát triển bền vững là du lịch sinh
thái có quan hệ mật thiết với cộng đồng dân cư địa phương và phải được quản lý
khai thác theo một công nghệ mới đó là công nghệ giảm thiểu tác động của du lịch
đến môi trường và những công nghệ phát triển du lịch thỏa mãn những nhu cầu của
du khách. Những công nghệ mới thường hướng vào thiết lập các tuyến du lịch, xây
dựng đường sá, nhà cửa, bãi cắm trại, hướng dẫn du lịch, …. Các công nghệ mới sẽ
là những công nghệ thân thiện với môi trường và thỏa mãn yêu cầu cao của hoạt
động du lịch; vừa nâng cao được sức chịu tải du lịch, vừa tăng được nguồn kinh phí
cho bảo tồn và phát triển ở địa phương.
- Luận án vận dụng các đặc trưng của du lịch sinh thái và vai trò của các
VQG để xác định sứ mệnh và tầm nhìn mới đối với các VQG, đó là: Tài nguyên ở
các VQG phải được coi là một nguồn tài nguyên kép vừa là tài nguyên rừng – phục

11


vụ công tác bảo tồn đa dạng sinh học nhưng đồng thời cũng là một tài nguyên du
lịch – tài nguyên du lịch sinh thái.
4.2.2. Những phát hiện, đề xuất mới từ kết quả nghiên cứu
- Luận án làm rõ và xác định sứ mệnh, tầm nhìn cho các VQG Việt Nam và
từ đó đề xuất mô hình tổ chức quản lý nhà nước đối với các VQG nhằm tạo ra cơ
chế quản lý đồng bộ, hiệu quả; tạo sự phối hợp thuận lợi, chặt chẽ giữa các cơ quan
chức năng trong việc quản lý tài nguyên rừng và khai thác nguồn tài nguyên du lịch
sinh thái ở các VQG. Với mô hình tổ chức quản lý nhà nước được đề xuất thì các
VQG sẽ được quản lý tập trung tại cơ quan quản lý nhà nước về lâm nghiệp, hơn
thế nữa do các VQG có sứ mệnh và tầm nhìn mới là ngoài chức năng là một tài
nguyên rừng VQG còn là một tài nguyên du lịch đặc trưng do vậy việc quản lý khai
thác VQG phải có sự tham gia của các cơ quan chức năng về du lịch.
- Luận án xác định vai trò của Ban quản lý VQG trong việc quản lý và khai
thác du lịch sinh thái theo hướng phát triển bền vững đồng thời đề xuất mô hình tổ

chức quản lý cho các VQG.

ô hình tổ chức quản lý đảm bảo 2 mục tiêu đó là vừa

thực hiện tốt nhiệm vụ công ích là bảo tồn đa dạng sinh học nhưng cũng phát huy
hiệu quả việc kinh doanh du lịch sinh thái nhằm tạo nguồn thu để góp phần kinh phí
cho nhiệm vụ bảo tồn, giảm sức ép đối với ngân sách nhà nước.
- Đề xuất mô hình phát triển du lịch sinh thái bền vững cho các VQG nhằm
tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan trong việc tổ chức quản lý và
khai thác tài nguyên du lịch ở VQG. Các bên tham gia trong mô hình phát triển
DLST bền vững tại các VQG bao gồm: Ban quản lý VQG, cộng đồng dân cư địa
phương, các doanh nghiệp du lịch và khách du lịch.
- Luận án cũng đề xuất xây dựng phương án khai thác du lịch sinh thái tại
các VQG theo hướng phát triển bền vững vừa đảm bảo việc khai thác hiệu quả
nguồn tài nguyên nhưng không làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Các chính
sách về thị trường, về sản phẩm cũng như các chính sách về xúc tiến, quảng bá để
đưa các thông tin về VQG đối với du khách và giúp du khách lựa chọn được những
chương trình DLST đích thực tại VQG.

12


- Luận án sử dụng phương pháp ước lượng mức sẵn lòng chi trả cho mỗi lần
tham quan để làm cơ sở xác định giá vé vào cửa cho các VQG.

6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần đặt vấn đề và kết luận luận án gồm 4 chương, cụ thể:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý, khai thác du lịch sinh thái ở
các vườn quốc gia theo hướng phát triển bền vững
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu

Chương : Hoạt động quản lý và khai thác du lịch sinh thái hiện nay ở các
vườn quốc gia Việt Nam và vườn quốc gia Cúc Phương
Chương 4: Giải pháp quản lý và khai thác du lịch sinh thái ở các vườn quốc
gia Việt Nam và vườn quốc gia Cúc Phương theo hướng phát triển bền vững

13


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIẾN VỀ QUẢN LÝ, KHAI THÁC
DU LỊCH SINH THÁI Ở CÁC VƯỜN QUỐC GIA THEO HƯỚNG
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1. Lý luận cơ bản về du lịch và phát triển du lịch bền vững
1.1.1. Lý luận cơ bản về du lịch
1.1.1.1. Khái niệm du lịch
Du lịch hiện nay được coi là ngành công nghiệp không khói, đem lại nguồn
thu lớn cho các quốc gia do đó đã được nghiên cứu và đề cập đến rất nhiều. Tuy
nhiên, hiện nay nội dung về du lịch vẫn chưa được thống nhất cả trong nước và
ngoài nước. Sau đây là một số khái niệm về du lịch:
- “Du lịch là một tập hợp các hoạt động tích cực của con người nhằm thực
hiện một dạng hành trình, là một công nghiệp liên kết nhằm thỏa mãn các nhu cầu
của khách du lịch…Du lịch là cuộc hành trình mà một bên là người khởi hành với
mục đích đã được chọn trước và một bên là các công cụ làm thỏa mãn nhu cầu của
họ.” [14, tr17]
- “ Du lịch là hoạt động của con người tới một nơi ngoài môi trường thường
xuyên trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du
lịch quy định, mục đích của chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động
kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm.” [14,tr 19]
- “ Du lịch là một ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động tổ chức hướng
dẫn, sản xuất, trao đổi hàng hóa và dịch vụ của những doanh nghiệp, nhằm đáp ứng

các nhu cầu đi lại, lưu trú, ăn uống… và các nhu cầu khác của khách du lịch. Các
hoạt động đó phải đem lại lợi ích chính trị, kinh tế - xã hội thiết thực cho nước làm
du lịch và cho bản thân doanh nghiệp.”[14,tr 20]
- “ Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của
mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời
gian nhất định” – Luật du lịch Việt Nam năm 200 [40]

14


Từ những định nghĩa trên cho thấy, du lịch là một hoạt động có nhiều đặc
thù, liên quan đến nhiều thành phần như khách du lịch, phương tiện giao thông,... và
các hoạt động kinh tế xã hội khác nhằm đem lại các lợi ích về kinh tế, chính trị, xã
hội cho các quốc gia. Tuy nhiên tác động của hoạt động du lịch đến lãnh thổ các
quốc gia còn phụ thuộc vào các loại hình du lịch và các tài nguyên du lịch của mỗi
quốc gia.

1.1.1.2. Điều kiện phát triển du lịch
Sự phát triển du lịch đòi hỏi những điều kiện khách quan cần thiết nhất định.
Một số điều kiện chung bắt buộc phải có với tất cả các quốc gia muốn phát triển du
lịch. Đó là những điều kiện cần thiết để phát sinh ra nhu cầu đi du lịch và đảm bảo
cho việc thực hiện thành công một chuyến đi như thời gian rỗi của nhân dân, mức
sống về vật chất và trình độ văn hóa của người dân, điều kiện giao thông vận tải
phát triển, không khí chính trị hòa bình....
Ngoài những điều kiện chung thì mỗi vùng, mỗi quốc gia cần có những điều
kiện mang tính đặc thù để phát triển các loại hình du lịch cho từng vùng và từng
quốc gia nhất định. Những điều kiện này ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh du
lịch, cụ thể là:[14]
- Điều kiện về tài nguyên du lịch: Tài nguyên du lịch là điều kiện cần thiết
để phát triển du lịch. Tài nguyên du lịch là có hạn và có thể do thiên nhiên tạo ra

hoặc có thể do con người tạo ra. Tài nguyên du lịch được chia thành 2 loại đó là tài
nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn.
Tài nguyên thiên nhiên đó là các điều kiện về môi trường tự nhiên như: địa
hình đa dạng, khí hậu ôn hòa; động, thực vật phong phú; vị trí địa lý thuận lợi…
Tài nguyên nhân văn là các giá trị văn hóa, lịch sử, các thành tựu chính trị và
kinh tế có ý nghĩa đặc trưng cho sự phát triển du lịch ở một vùng, một quốc gia.
- Điều kiện về sự sẵn sàng phục vụ khách du lịch: Đây là các điều kiện
cần thiết để tổ chức khai thác các tài nguyên du lịch. Các điều kiện về sự sẵn sàng
phục vụ khách du lịch bao gồm:

15


Các điều kiện về tổ chức như sự có mặt của của bộ máy quản lý về du lịch,
các tổ chức và doanh nghiệp chuyên trách về du lịch…
Các điều kiện về k thuật: Các điều kiện này ảnh hưởng đến sự sẵn sàng đón
tiếp khách du lịch. Các điều kiện về k thuật bao gồm các cơ sở vật chất du lịch và
cơ sở vật chất hạ tầng xã hội.
Các điều kiện về kinh tế: Đây là điều kiện liên quan đến sự sẵn sàng đón tiếp
khách du lịch như việc đảm bảo vốn để duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh
du lịch; việc thiết lập các mối quan hệ kinh tế với bạn hàng…
Một số tình hình và sự kiện đặc biệt: Đây có thể nói là điều kiện đặc trưng để
thu hút khách du lịch như: Các cuộc thi quốc tế, hội nghị, đại hội, các hội đàm trong
nước và quốc tế…
Tuy nhiên, để tiến hành kinh doanh du lịch thì các điều kiện phát triển du
lịch phải được thể hiện ở các điểm đến du lịch cụ thể.

1.1.1. . Xác định điểm đến du lịch
Điểm đến bao gồm các thành phần cơ bản mà chúng có khả năng thu hút
khách và thỏa mãn nhu cầu của họ khi đến. Những yếu tố cơ bản có thể được chia

thành các điểm tham quan và các yếu tố về sự sẵn sàng đón tiếp và phục vụ khách
du lịch. Việc cung cấp và chất lượng của những yếu tố này sẽ có ảnh hưởng trong
quyết định của du khách khi họ quyết định thực hiện chuyến hành trình.

Điểm đến du lịch

Sức

Sự

Khả năng

Hình ảnh ,

Nguồn

hấp dẫn

tiện nghi

tiếp cận

Đặc trưng

nhân lực

Giá cả

Nguồn:[67]
Hình 1.1 Các yếu tố cấu thành điểm đến du lịch


16


Điểm đến hấp dẫn và kinh nghiệm cung cấp được hình thành bởi [67]:
Sức hấp dẫn: Đây thường là trọng tâm của sự chú ý của khách hàng và cung
cấp động lực ban đầu cho khách du lịch đến thăm các điểm đến. Đây có thể được
phân loại như tự nhiên (ví dụ như bãi biển, núi, công viên, thời tiết), xây dựng (ví
dụ như các tòa nhà mang tính biểu tượng như tháp Eiffel, di sản di tích, công trình
tôn giáo, hội nghị và các cơ sở thể thao), hoặc văn hóa (ví dụ như bảo tàng, nhà hát,
phòng trưng bày nghệ thuật, sự kiện văn hóa). Sức hấp dẫn có thể là trong lĩnh vực
công cộng như công viên thiên nhiên, các khu văn hóa, lịch sử, có thể là điểm tham
quan và các dịch vụ như văn hóa, di sản hoặc lối sống cộng đồng. Các yếu tố ít hữu
hình khác, chẳng hạn như tính độc đáo và gây nên cảm xúc hoặc kinh nghiệm cũng
đang thu hút khách du lịch tới các điểm đến.
Tiện nghi: Đây là hàng loạt các dịch vụ và tiện nghi hỗ trợ khách ở lại bao
gồm cơ sở hạ tầng cơ bản như điện nước, giao thông công cộng, đường giao thông
cũng như các dịch vụ trực tiếp cho khách truy cập như nơi ăn nghỉ, thông tin du
lịch, các cơ sở vui chơi, hướng dẫn, điều hành và phục vụ và cơ sở mua sắm.
Khả năng tiếp cận: Khả năng tiếp cận phản ánh những điều kiện về giao
thông và các thủ tục liên quan đến di chuyển của du khách. Yêu cầu thị thực, cảng
vào, và điều kiện nhập cư…cần được xem xét như là một phần của khả năng tiếp
cận của các điểm đến.
Hình ảnh: Một nhân vật độc đáo hoặc hình ảnh là rất quan trọng trong việc
thu hút du khách đến điểm du lịch. Phương tiện khác nhau có thể được sử dụng để
quảng bá hình ảnh điểm đến (ví dụ như tiếp thị và xây dựng thương hiệu, phương
tiện truyền thông du lịch, e-marketing). Hình ảnh của các điểm đến bao gồm tính
độc đáo, điểm tham quan, hậu trường, chất lượng môi trường, mức độ an toàn, mức
độ dịch vụ, và sự thân thiện của người dân.
Giá cả: Giá cả là một khía cạnh quan trọng của đối thủ cạnh tranh của điểm

đến với các điểm đến khác. Yếu tố giá cả liên quan đến chi phí vận chuyển đến và
đi từ các điểm đến cũng như các chi phí trên nền tảng của dịch vụ lưu trú, điểm
tham quan, thực phẩm và du lịch.

17


Nguồn nhân lực: Lao động du lịch tương tác với cộng đồng địa phương là
một khía cạnh quan trọng của kinh nghiệm du lịch. Một lực lượng lao động du lịch
được đào tạo và cộng đồng địa phương được trang bị và nhận thức được quyền lợi
và trách nhiệm liên quan với sự phát triển du lịch là những yếu tố không thể thiếu
của điểm đến du lịch và cần được quản lý phù hợp với chiến lược phát triển.

Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp có định hướng tài nguyên rõ rệt
(bao gồm tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn) và sự phát triển của du
lịch gắn liền với môi trường, do vậy phát triển du lịch cần thiết phải đảm bảo
tính toàn vẹn của môi trường sinh thái, của các giá trị văn hóa trong khi tiến
hành các hoạt động khai thác tài nguyên phục vụ phát triển du lịch, góp phần
tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững.
1.1.2. Lý luận cơ bản về phát triển du lịch bền vững
1.1.2.1. Khái niệm về phát triển du lịch bền vững
Cho đến nay, mặc dù có sự thống nhất về nhận thức, nhưng các quan điểm về
phát triển du lịch bền vững vẫn chưa thống nhất. Đã có nhiều khái niệm về du lịch
bền vững được đưa ra, một số khái niệm đó là:
Tại Hội nghị về

ôi trường và Phát triển của Liên hợp quốc tại Rio de

Janeiro năm 1992, Tổ chức du lịch thế giới - UNWTO đã đưa ra một định nghĩa về
du lịch bền vững. Theo đó thì du lịch bền vững là việc phát triển các hoạt động du

lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu hiện tại của khách du lịch và người dân bản địa
trong khi vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho việc
phát triển hoạt động du lịch trong tương lai. Du lịch bền vững sẽ có kế hoạch quản
lý các nguồn tài nguyên nhằm thỏa mãn các nhu cầu về kinh tế, xã hội, thẩm m của
con người trong khi đó vẫn duy trì được sự toàn vẹn về văn hóa, đa dạng sinh học,
sự phát triển của các hệ sinh thái và các hệ thống hỗ trợ cho cuộc sống của con
người. [44].
Ở Việt Nam, khái niệm phát triển du lịch bền vững còn tương đối mới.

ặc

dù, các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực du lịch và các lĩnh vực khác liên quan ở
Việt Nam còn có những quan điểm chưa thật sự thống nhất về khái niệm phát triển

18


du lịch bền vững, tuy nhiên cho đến nay đa số các ý kiến đều cho rằng: Phát triển du
lịch bền vững là hoạt động khai thác có quản lý các giá trị tài nguyên tự nhiên và
nhân văn nhằm thỏa mãn các nhu cầu đa dạng của khách du lịch; có quan tâm đến
các lợi ích kinh tế dài hạn và đảm bảo sự đóng góp cho công tác bảo tồn và tôn tạo
các nguồn tài nguyên, duy trì được sự toàn vẹn về văn hóa, cho công tác bảo vệ môi
trường để phát triển hoạt động du lịch trong tương lai, và góp phần nâng cao mức
sống của cộng đồng địa phương. [44].
Như vậy Phát triển du lịch bền vững là phát triển các hoạt động du lịch với
mục đích mang lại lợi ích kinh tế, tạo công ăn việc làm cho xã hội và cộng đồng;
thỏa mãn các nhu cầu đa dạng của khách du lịch... trên cơ sở khai thác có kế hoạch
các nguồn tài nguyên; đồng thời quan tâm đến việc đầu tư tôn tạo, bảo tồn và duy trì
tính nguyên vẹn của các nguồn tài nguyên, đảm bảo môi trường trong sạch; phải
gắn trách nhiệm và quyền lợi của cộng đồng trong việc khai thác và bảo vệ tài

nguyên, môi trường.

1.1.2.2. Các nguyên tắc cơ bản về phát triển du lịch bền vững [2] [42] [44]
+ Khai thác, sử dụng một cách hợp lý và hiệu quả các nguồn tài nguyên,
giảm thiểu các chất thải ra môi trường.
Nguồn tài nguyên không phải là vô tận, hơn nữa nhiều loại tài nguyên không
có khả năng phục hồi, hoặc phục hồi rất chậm. Do vậy trong quá trình phát triển các
ngành kinh tế nói chung và du lịch nói riêng, việc khai thác sử dụng một cách hợp
lý và có hiệu quả các nguồn tài nguyên là nguyên tắc quan trọng hàng đầu để đảm
bảo cho quá trình phát triển bền vững. Nếu các nguồn tài nguyên du lịch được khai
thác một cách hợp lý, có kế hoạch bảo tồn và sử dụng bền vững thì sự tồn tại của
các tài nguyên đó sẽ lâu dài, đáp ứng được nhu cầu phát triển của du lịch qua nhiều
thế hệ. Việc khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên du lịch cần dựa trên
cơ sở các nghiên cứu kiểm kê, đánh giá, quy hoạch sử dụng cho mục tiêu phát triển
cụ thể.
Việc khai thác và sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài nguyên, giảm thiểu chất
thải ra môi trường để phát triển du lịch bền vững là đảm bảo cho việc bảo tồn những

19


gì mà các thế hệ hiện tại đang có cho các thế hệ mai sau. Điều này có nghĩa là trong
quá trình khai thác sử dụng các nguồn tài nguyên để phát triển du lịch cần phải có
các giải pháp nhằm ngăn chặn sự mất đi của tính đa dạng sinh học, sự suy giảm
những chức năng thiết yếu của các hệ sinh thái có giá trị du lịch như các khu rừng
nguyên sinh, các vùng đất ngập nước, các rạn san hô... và khả năng bảo tồn các giá
trị văn hóa truyền thống dân tộc.
+ Gắn liền với việc bảo tồn tính đa dạng sinh học, đa dạng tính nhân văn
Tính đa dạng sinh học, đa dạng về văn hóa - xã hội là những nhân tố quan
trọng tạo nên tính hấp dẫn của du lịch, làm thỏa mãn các nhu cầu đa dạng của khách

du lịch, đồng thời tăng cường sự phong phú về sản phẩm du lịch. Trên thực tế cho
thấy, nơi nào có tính đa dạng cao về tự nhiên, văn hóa - xã hội, thì nơi đó sẽ có khả
năng cạnh tranh cao về các sản phẩm du lịch và có sức hấp dẫn lớn, đảm bảo cho sự
phát triển bền vững. Chính vì vậy, việc bảo tồn và tăng cường tính đa dạng sinh
học, đa dạng về văn hóa - xã hội là rất quan trọng cho sự phát triển bền vững và lâu
dài của du lịch.
+ Phù hợp với chiến lược phát triển tổng thể kinh tế - xã hội.
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng cao. Vì
vậy mọi phương án khai thác tài nguyên để phát triển du lịch, trước hết phải phù
hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội nói chung và các quy hoạch
chuyên ngành nói riêng. Ngoài ra, đối với mỗi dự án, mỗi phương án phát triển cần
phải đánh giá các tác động đến môi trường do hoạt động du lịch gây ra nhằm hạn
chế các tác động tiêu cực đến tài nguyên và môi trường. Điều này sẽ góp phần đảm
bảo cho sự phát triển bền vững của du lịch trong mối quan hệ với các ngành kinh tế
khác cũng như với việc sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường.
+ Chia sẻ lợi ích và trách nhiệm với cộng đồng địa phương; khuyến khích
và tạo điều kiện cho họ tham gia vào các hoạt động du lịch.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế - xã hội nói chung và từng ngành kinh
tế nói riêng, việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên là điều tất yếu. Trong
quá trình phát triển du lịch, việc chia sẻ lợi ích và trách nhiệm với cộng đồng dân cư

20


địa phương là một nguyên tắc quan trọng đảm bảo cho sự phát triển bền vững lâu
dài. Việc chia sẻ lợi ích với cộng đồng dân cư địa phương được thể hiện thông qua
những đóng góp từ nguồn thu của các hoạt động du lịch cho việc bảo tồn, tôn tạo
nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường. Việc khuyến khích và hỗ trợ cho cộng đồng
dân cư địa phương tham gia vào các hoạt động du lịch một mặt giúp họ tăng thêm
thu nhập, cải thiện đời sống, tăng khả năng hiểu biết..., mặt khác làm tăng thêm ý

thức trách nhiệm của họ đối với nguồn tài nguyên và môi trường du lịch; khuyến
khích họ cùng ngành du lịch quan tâm đến việc nâng cao chất lượng của các sản
phẩm du lịch...
+ Đào tạo nâng cao nhận thức về tài nguyên và môi trường cho mọi đối
tượng liên quan.
Trong phát triển du lịch bền vững, ngoài các nguyên tắc cơ bản trên, đòi hỏi
phải có một đội ngũ quản lý, đội ngũ lao động trực tiếp được đào tạo cơ bản về mọi
mặt.

ột đội ngũ lao động, một đội ngũ cán bộ quản lý được đào tạo ở trình độ cao

sẽ đem lại lợi ích về kinh tế cho ngành và nâng cao chất lượng các sản phẩm du
lịch, đồng thời góp phần quan trọng vào việc bảo vệ tài nguyên và môi trường du
lịch.
+ Nâng cao trách nhiệm trong hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch.
Trong quá trình phát triển du lịch bền vững, khi đã chuẩn bị đầy đủ các yếu
tố để phục vụ khách du lịch, thì việc tuyên truyền, xúc tiến và quảng bá luôn là một
hoạt động rất quan trọng. Tiến trình xúc tiến, quảng bá này sẽ đảm bảo cho khả
năng thu hút khách du lịch, tăng cường khả năng cạnh tranh của các sản phẩm du
lịch. Do vậy cần phải có một chiến lược về xúc tiến, quảng cáo và tiếp thị đối với du
lịch bền vững.

1.1.2. . Các tiêu chí cơ bản về phát triển du lịch bền vững
Căn cứ vào những nguyên tắc cơ bản của phát triển du lịch bền vững, những
đặc điểm của hoạt động du lịch, các tiêu chí cơ bản về phát triển du lịch bền vững
cần được nghiên cứu và xem xét bao gồm [2][4 ][44]:

21



Các tiêu chí về kinh tế: Phát triển du lịch bền vững phải đảm bảo sự tăng
trưởng liên tục và ổn định lâu dài của các chỉ tiêu kinh tế du lịch (chỉ tiêu về khách,
thu nhập du lịch, GDP, cơ sở vật chất k thuật, lao động...). Tuy nhiên, tùy thuộc
vào trình độ phát triển và mức khởi điểm của các chỉ tiêu kinh tế ở mỗi nước, mỗi
địa phương mà mức độ tăng trưởng sẽ cao, thấp khác nhau được lựa chọn để đánh
giá tính bền vững.
Các tiêu chí về tài nguyên - môi trường: Phát triển du lịch bền vững phải
khai thác và sử dụng một cách hợp lý, có hiệu quả các tiềm năng tài nguyên và điều
kiện môi trường. Việc khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên cho phát triển du lịch
cần được quản lý và giám sát để một mặt đáp ứng được nhu cầu hiện tại, mặt khác
phải đảm bảo cho nhu cầu phát triển du lịch trong tương lai. Với mục tiêu này, trong
quá trình phát triển, ngành du lịch cần phải có những đóng góp tích cực cho công
tác tôn tạo nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường... để giảm thiểu các tác động của
hoạt động du lịch đến tài nguyên - môi trường.
Các tiêu chí bền vững về tài nguyên – môi trường thường được thể hiện qua:
Số lượng các khu, điểm du lịch được đầu tư tôn tạo và bảo tồn; Số lượng các khu,
điểm du lịch được quy hoạch; Áp lực lên môi trường tại các khu, điểm du lịch;
Cường độ hoạt động tại các khu, điểm du lịch;

ức độ đóng góp từ thu nhập du lịch

cho công tác bảo tồn, phát triển tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Các tiêu chí về xã hội: Trong phát triển du lịch bền vững đòi hỏi ngành Du
lịch phải có những đóng góp cụ thể cho quá trình phát triển của toàn xã hội: Tạo
công ăn việc làm cho người lao động; tham gia xóa đói giảm nghèo; nâng cao chất
lượng cuộc sống của người dân ở những vùng sâu, vùng xa-nơi có tài nguyên du
lịch; chia sẻ lợi ích từ các hoạt động du lịch, đảm bảo sự công bằng trong phát triển;
góp phần hỗ trợ các ngành khác phát triển.

1.2. Lý luận cơ bản về du lịch sinh thái

1.2.1. Khái niệm du lịch sinh thái
Du lịch sinh thái (DLST) là một khái niệm tương đối mới và đã thu hút được
sự quan tâm của nhiều người, thuộc các lĩnh vực khác nhau. Đây là một khái niệm

22


rộng, được hiểu từ nhiều góc độ khác nhau. Đối với một số người “ Du lịch sinh
thái ” được hiểu đơn giản là sự kết hợp của hai từ ghép “ Du lịch ” và “ Sinh thái ”.
Song đứng ở góc độ rộng hơn, tổng quát hơn thì một số người quan niệm DLST là
du lịch thiên nhiên, là khái niệm mà trong thực tế đã có từ đầu những năm 1 00.
Với khái niệm này, mọi hoạt động du lịch có liên quan đến thiên nhiên như tắm
biển, nghỉ núi… đều được hiểu là DLST.[23]
Theo tổ chức bảo tồn thực vật hoang dã ( World Wild Fund-WWF)
DLST đề cập tới các hoạt động du lịch đi tới những khu vực tự nhiên hoang
dã, gây tác động tối thiểu tới môi trường tự nhiên và cuộc sống của các loài động
thực vật hoang dã trong khi mang lại một số lợi ích kinh tế cho cộng đồng địa
phương và những người địa phương phục vụ tại đó.
Theo tổ chức du lịch thế giới (UNWTO)
DLST là loại hình du lịch được thực hiện tại những khu vực tự nhiên còn ít
bị can thiệp bởi con người, với mục đích chính là để chiêm ngưỡng, học hỏi về các
loài động thực vật cư ngụ trong khu vực đó, giúp giảm thiểu và tránh được các tác
động tiêu cực tới khu vực mà khách đến thăm. Ngoài ra, DLST phải đóng góp vào
công tác bảo tồn những khu vực tự nhiên và phát triển những khu vực cộng đồng
lân cận một cách bền vững đồng thời phải nâng cao được khả năng nhận thức về
môi trường và công tác bảo tồn đối với mỗi người dân địa phương và du khách đến
thăm.
Theo tổ chức DLST của Hoa Kỳ
DLST là loại hình du lịch có trách nhiệm tới những khu vực tự nhiên. Nó
được sử dụng để bảo vệ môi trường, cải thiện phúc lợi xã hội và kinh tế cho người

dân địa phương.
Theo cơ quan quản lý du Lịch của chính phủ Thái Lan
DLST là loại hình có trách nhiệm diễn ra ở những nơi có những nguồn tài
nguyên tự nhiên mang các đặc tính địa phương cũng như những nguồn tài nguyên
mang tính lịch sử và văn hoá gắn với hệ sinh thái ở địa phương đó, với mục đích
chính là hình thành nhận thức của các bên liên quan về sự cần thiết và các biện pháp

23


bảo tồn các hệ sinh thái, hướng vào việc lôi kéo sự tham gia của cộng đồng địa
phương cũng như cung cấp những kinh nghiệm học hỏi trong quản lý môi trường và
phát triển du lịch bền vững.
Bảng 1.1. Tổng hợp một số khái niệm DLST
Tiêu chí

WWF
vực

UNWTO

Hoa Kỳ

Thái Lan

1. Điều kiện tài

khu

tự


khu vực tự nhiên

du lịch có trách

nguồn tài nguyên tự nhiên

nguyên

nhiên hoang dã,

còn ít bị can

nhiệm

mang các đặc tính địa

thiệp

khu vực tự nhiên

bởi

con

tới

những

người


phương cũng như những
nguồn tài nguyên mang
tính lịch sử và văn hoá gắn
với hệ sinh thái ở địa
phương đó

2.

Giáo

dục

môi trường

nâng cao được

cung

khả năng nhận

nghiệm học hỏi trong quản

thức

lý môi trường và phát triển

về

môi


trường và công

cấp

những

kinh

du lịch bền vững.

tác bảo tồn đối
với mỗi người
dân địa phương
và du khách đến
thăm.
. Sự tham gia
của người dân

mang lại một số

phát triển những

cải thiện phúc lợi

hướng vào việc lôi kéo sự

lợi ích kinh tế

khu


cộng

xã hội và kinh tế

tham gia của cộng đồng

cho cộng đồng

đồng lân cận một

cho người dân địa

địa phương

địa phương

cách bền vững

phương

vực

Nguồn: tổng hợp của tác giả
Mặc dù các khái niệm DLST có khác nhau về cách diễn đạt và ngôn từ thể
hiện. Nhưng trong các khái niệm về DLST đều có sự thống nhất cao về nội dung
của du lịch sinh thái ở ba điểm:
Thứ nhất: Du lịch sinh thái phải được thực hiện trong môi trường tự nhiên
còn hoang sơ hay tương đối hoang sơ gắn với văn hoá bản địa.
Thứ hai: Du lịch sinh thái có tính giáo dục môi trường cao và phải có trách

nhiệm với môi trường.

24


Thứ ba: Du lịch sinh thái phải mang lợi ích kinh tế trực tiếp cho cư dân địa
phương và phải có sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương.

1.2.2. Những đặc trưng của du lịch sinh thái
Du lịch sinh thái là loại hình du lịch đặc thù gắn liền với tài nguyên du lịch
thiên nhiên và các yếu tố văn hóa, lịch sử bản địa. DLST có những đặc trưng:[2 ]
- Dựa trên địa bàn hấp dẫn về tự nhiên và các yếu tố văn hoá bản địa
Đối tượng của DLST là những khu vực hấp dẫn về tự nhiên, và kể cả những
nét văn hoá bản địa đặc sắc. Đặc biệt, những khu tự nhiên còn tương đối nguyên sơ,
ít bị tác động lớn. Chính vì vậy, hoạt động DLST thường diễn ra và thích hợp tại
lãnh thổ các VQG và các khu tự nhiên có giá trị.
- Đảm bảo bền vững về sinh thái, ủng hộ bảo tồn
Đây là một đặc trưng khác biệt nổi bật của DLST so với các loại du lịch khác
vì nó được phát triển trong môi trường có những hấp dẫn ưu thế về mặt tự nhiên.
Trong DLST hình thức, địa điểm và mức độ sử dụng cho các hoạt động du lịch phải
được duy trì và quản lý cho sự bền vững của cả hệ sinh thái và bản thân ngành du
lịch. Điều này được thể hiện ở qui mô nhóm khách tham quan thường có số lượng
nhỏ, yêu cầu sử dụng các phương tiện, dịch vụ về tiện nghi của du khách thường
thấp hơn các yêu cầu về đảm bảo kinh nghiệm du lịch có chất lượng. Các hoạt động
trong DLST thường ít gây tác động đến môi trường và du khách sẵn sàng chi trả cho
việc bảo vệ môi trường.
- Có giáo dục môi trường
Đặc điểm giáo dục môi trường trong DLST là một yếu tố cơ bản phân biệt
DLST với các loại hình du lịch khác. Giáo dục và thuyết minh môi trường bằng các
nguồn thông tin, truyền tải thông tin đến du khách thông qua tài liệu, hướng dẫn

viên, các phương tiện trên điểm, tuyến tham quan là những hình thức quan trọng
trong việc làm giàu kinh nghiệm du lịch, nâng cao nhận thức về môi trường và bảo
tồn.

25


×