Tải bản đầy đủ (.pdf) (175 trang)

Tiểu luận công cụ về nghiệp vụ thị trường mở tại nước cộng hòa dân chủ nhân dân lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 175 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Trong những năm qua nước CHDCND Lào đã tiến hành công cuộc đổi
mới nền kinh tế theo cơ chế thị trường và đã đạt được thành tựu lớn lao trong
nền kinh tế. Công cuộc đổi mới trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ đã có sự cải
tổ một cách sâu sắc về tổ chức bộ máy cũng như chức năng, nhiệm vụ để phù
hợp với cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường. Cải tổ căn bản nhất là
chuyển hệ thống ngân hàng từ 1 cấp thành ngân hàng 2 cấp, phân biệt rõ chức
năng quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng của NHTW và chức năng kinh
doanh của NHTM hoặc các tổ chức tín dụng khác.
Thị trường mở tại Lào chính thức ra đời và đi vào hoạt động từ năm 2005
và công cụ thị trường mở được coi là một công cụ linh hoạt và hiệu quả nhất
trong việc điều hành CSTT. Trải qua hơn 8 năm hoạt động, nghiệp vụ thị
trường mở đã được thực hiện an toàn, góp phần quan trọng vào việc điều tiết
và kiểm soát lượng tiền cung ứng của NHTW Lào. Tuy nhiên, cũng như các
công cụ chính sách tiền tệ khác của NHTW, nghiệp vụ thị trường mở đã bộc
lộ những hạn chế nhất định. Cụ thể là: Số lượng các tổ chức tín dụng tham gia
thị trường mở quá ít; doanh số giao dịch rất nhỏ; hàng hoá giao dịch chưa
nhiều và chưa đa dạng chủng loại; lãi suất trên thị trường mở chưa phản ánh
được lãi suất thị trường; các quy định về quy trình nghiệp vụ, xử lý lãi suất và
thông tin chưa hoàn thiện... Vì vậy, nhu cầu đổi mới cơ cấu hoạt động, hoàn
thiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở và sử dụng công cụ này như thế nào
cho hợp lý với điều kiện kinh tế của nước Lào của chúng tôi là vấn đề hết sức
cấp bách và cần thiết. Nhận thức được điều đó tác giả đã chọn đề tài: “Công
cụ nghiệp vụ thị trường mở tại nước CHDCND Lào”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về chính sách tiền tệ, các công cụ



2

của CSTT và nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng Trung ương.
- Nêu lên thực trạng hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở trong
những năm qua.
- Phân tích và đánh giá hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của NHTW
Lào từ năm 2005 - 2012.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện hơn công cụ thị trường mở tại nước
CHDCND Lào đến năm 2020 nhằm phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế xã hội Lào và thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực tài
chính tiền tệ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của NHTW Lào trong việc thực
thi chính sách tiền tệ quốc gia.
- Thời gian nghiên cứu từ năm 2005 đến 2012 và định hướng đến năm 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để phân tích hoạt động thị trường mở của Ngân hàng Trung ương nói
chung và hoạt động thị mở của Ngân hàng Trung ương Lào nói riêng, luận án
sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản, bao gồm:
(1). Phương pháp phân tích và tổng hợp: Trên cơ sở phân tích nội dung
cơ bản về hoạt động thị trường mở của NHTW, luận án tổng hợp các kết quả
nghiên cứu về hoạt động thị trường mở trên cả phương diện lý thuyết và thực
tiễn ở Lào;
(2). Phương pháp mô tả và so sánh: Dùng để mô tả hoạt động thị trường
mở của Ngân hàng Trung ương Lào qua các năm, trên cơ sở đó đưa ra những
so sánh đảm bảo hiệu quả nội dung phân tích;
(3). Phương pháp logic biện chứng: Nhằm nghiên cứu hoạt động thị
trường mở một cách golic từ lý thuyết đến thực tiễn, dùng spss qua các mô
hình ở Lào.
(4). Phương pháp diễn giải và quy nạp: Luận án diễn giải hoạt động thị



3

trường mở của NHTW, trên cơ sở đó tổng hợp vào mô hình nghiên cứu.
(5). Phương pháp thống kê: dùng để thu thập số liệu về hoạt động thị
trường mở của NHTW Lào và các số liệu khác qua các năm.
(6). Luận án còn sử dụng phương pháp toán học với việc sử dụng mô
hình hồi quy hai biến và phân tích định lượng hoạt động thị trường mở của
NHTW Lào trong mối quan hệ với các chỉ số kinh tế vĩ mô.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Luận án nghiên cứu cụ thể những vấn đề cơ bản về CSTT, các công cụ
của CSTT và đặc biệt đi sâu nghiên cứu nghiệp vụ thị trường mở của NHTW.
Trên cơ sở đánh giá hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của NHTW Lào, so
sánh đối chiếu với cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực thi hoạt động thị trường
mở của một số nước trong khu vực và một số nước phát triển trên thế giới, luận
án đưa ra một số giải pháp có tính khả thi để cải cách hoạt động nghiệp vụ thị
trường mở cho phù hợp với điều kiện thực tế của nước CHDCND Lào nhằm
góp phần đưa thị trường mở hoạt động mạnh hơn và đảm bảo hiệu quả cao.
6. Kết cấu của luận án
Luận án gồm 4 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về nghiệp vụ thị trường mở của
NHTW
- Chương 2: Thực trạng hoạt động thị trường mở tại NHTW Lào giải
đoạn 2005-2012
- Chương 3: Đánh giá thực trạng hoạt động thị trường mở tại nước
CHDCND Lào giải đoạn 2005 - 2012
- Chương 4: Giải pháp hoàn thiện công cụ thị trường mở trong CSTT
tại NHTW Lào đến năm 2020
7. Tổng quan công trình nghiên cứu liên quan đến chính sách tiền tệ và
công cụ thị trường mở

Hoạt động thị trường mở đã bắt đầu được sử dụng từ những năm đầu của


4

thế kỷ XX (năm 1920) tại Ngân hàng Trung ương của Mỹ (Fed), ở Anh và
Cộng hoà Liên Bang Đức vào năm 1930 và được xem là công cụ lý tưởng
trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Ở các nước Châu Âu, sau chiến tranh thế
giới lần thứ hai cũng bắt đầu sử dụng công cụ hoạt động thị trường mở. Từ đó,
hoạt động này được sử dụng một cách phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Trong các báo cáo của Ngân hàng Trung ương các nước trên thế giới đều
có phần nói về thị trường mở. Ngoài ra, cũng có khá nhiều công trình nghiên
cứu về chính sách tiền tệ và công cụ thị trường mở của Ngân hàng Trung ương
của các nhà nghiên cứu kinh tế trong việc xem xét, phân tích hoạt động thị
trường mở với vai trò là một công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ.
Công cụ thị trường mở ở các nước phát triển đã xuất hiện từ lâu như đã
nêu ở trên, nhưng đối với các nước đang phát triển hầu như mới đưa công cụ
này vào hoạt động (Việt Nam bắt đầu có hoạt động nghiệp vụ thị trường mở
từ tháng 7/2000). Tại nước Lào, chính thức vận hành nghiệp vụ thị trường mở
từ năm 2005, cho đến nay công cụ này còn rất sơ khai. Ngân hàng Trung
ương Lào chưa có nhà nghiên cứu nào nghiên cứu sâu về chính sách tiền tệ và
việc sử dụng công cụ thị trường mở trong việc điều hành CSTT. Vì vậy, nước
Lào cần phải nghiên cứu các bài học kinh nghiệm của các nước đã thực hiện
nghiệp vụ này. Một quốc gia, dù có nền kinh tế phát triển hay không phát
triển, việc thực hiện CSTT và sử dụng các công cụ của CSTT đều có những
ưu điểm, nhược điểm nhất định, có thành công và có thất bại; vấn đề quan
trọng là phải biết vận dụng công cụ này cho phù hợp với điều kiện kinh tế của
từng quốc gia thì mới phát huy hiệu quả cao nhất.
(i) Các công trình nghiên cứu có liên quan đến nội dung Luận án
1. Với các nước đang phát triển như Ấn Độ, sự biến động của lượng

tiền cung ứng có ảnh hưởng lớn tới sự biến động của các nhân tố vĩ mô. Tác
động đó đã được xem xét cho nền kinh tế Ấn Độ thông qua các kết quả
nghiên cứu của Gupta.G.S (1970, 1973, 1987).


5

2. Nhà nghiên cứu Juan Ayusof và Rael Repullo năm 2000 đề xuất xây
dựng khuôn mẫu đối với thị trường mở của Ngân hàng Trung ương Châu Âu
thông qua việc xác định mức lãi suất phù hợp đối với các hàng hoá tham gia
thị trường mở nhằm đạt được mục tiêu ổn định thị trường tài chính - tiền tệ
trong ngắn hạn và dài hạn.
3. Nhà nghiên cứu Camnpell R. Harvey, trường đại học Duke và Roger
D.Huang, trường đại học Notre Dam - Mỹ (2001) bằng những số liệu cụ thể
hàng ngày thu thập được, đã đề cập đến tác động của thị trường mở của Cục
Dự Trữ liên bang Mỹ đối với thị trường tài chính.
4. Bằng lý luận, áp dụng mô hình toán vào thực tiễn, nghiên cứu của
Mark Toma (2003), Khoa kinh tế trường đại học Kentucky - Mỹ cho thấy
hoạt động thị trường mở đã góp phần quan trọng như thế nào trong việc thực
thi chính sách tiền tệ tại Mỹ từ những năm 1920 đến nay.
5. Nghiên cứu của tập thể tác giả Eiji Maeda, Bunya Fuiji wara, Aiko
Mineshima, Ken Taniguchi - Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (2005) đã
phân tích hoạt động thị trường mở như là một kênh hữu hiệu "CSTT dễ định
lượng” giúp các ngân hàng thương mại vượt qua những khó khăn thường
ngày của thị trường tài chính.
6. Đối với Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chính thức đưa
nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động từ năm 2000. Tuy nhiên, trước đây đã
có những nghiên cứu về hoạt động thị trường mở. Theo tác giả Trương Xuân
Lệ (1993) trong cuốn sách "Tiếp cận các học thuyết và chính sách tiền tệ
trong nền kinh tế thị trường” đã đề cập khá chi tiết cơ chế hoạt động của thị

trường mở về phương diện lý thuyết và những áp dụng thực tiễn ở Mỹ, Đức,...
Tác giả phân tích công cụ thị trường mở được xem là công cụ hữu hiệu trong
điều hành chính sách tiền tệ, là công cụ lý tưởng tác động đến dự trữ của ngân
hàng thương mại, từ đó Ngân hàng Trung ương có thể dùng công cụ này để
điều tiết một cách hoàn hảo lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế tại các thời


6

điểm cho phù hợp với mục tiêu Chính phủ các nước đặt ra.
7. Năm 2011, tác giả Đoàn Phương Thảo đã nghiên cứu về thị trường
mở trong giai đoạn “đổi mới”. Trong luận án, tác giả đã khái quát định hướng
hoạt động của NHNN cũng như là định hướng thị trường mở của NHNN
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Giải pháp đề xuất nhằm đổi mới thị
trường mở của NHNN gồm có: (1) Hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động
thị trường mở hiện có của NHNN, tác giả tập trung đưa ra các giải pháp cụ
thể là phát triển đa dạng hoá hàng hoá giao dịch, đảm bảo hiệu quả công tác
dự báo vốn khả dụng, tăng cường công tác thanh tra và kiểm soát, nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, phát triển công nghệ tin
học ứng dụng. (2) Đổi mới hoạt động thị trường mở của NHNN: đảm bảo cơ
sở pháp lý, xác định cơ chế điều hành lãi suất, hoàn thiện công tác dự báo, sử
dụng giao dịch hoán đổi ngoại tệ là một nghiệp vụ của thị trường mở, định kỳ
tổng kết sự tham gia của các thành viên của thị trường mở, tiếp tục hoàn thiện
mô hình tổ chức hoạt động thị trường mở. (3) Nâng cao chất lượng kinh
doanh, cải thiện khả năng tài chính và mở rộng các thành viên tham gia thị
trường. Nhằm đảm bảo tính khả thi của các giải pháp, luận án đưa ra những
kiến nghị với Nhà nước và các cơ quan có liên quan như: đảm bảo môi trường
pháp lý đồng bộ; đảm bảo cơ sở pháp lý chặt chẽ cho NHNN hoạt động có
hiệu quả; đảm bảo phối hợp chặt chẽ giữa CSTT và CSTK; đảm bảo sự phối
hợp tích cực, đồng bộ từ phía các Bộ, ngành. Luận án cũng nêu kinh nghiệm

điều hành hoạt động thị trường mở của Ngân hàng Trung ương ở một số nước
trên thế giới. Trong luận án chưa nghiên cứu cách sử dụng công cụ nghiệp vụ
thị trường mở cho phù hợp với tình hình kinh tế thế giới biến động phức tạp
như hiện nay và chưa nghiên cứu về rủi ro trong hoạt động thị trường mở.
8. Luận án của nghiên cứu sinh Nguyễn Ngọc Bảo (2005) nghiên cứu về
chính sách lãi suất trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Luận án nghiên cứu
tập trung về chính sách lãi suất của NHNN, không nghiên cứu về công cụ CSTT,


7

cũng như các mục tiêu kiểm soát lạm phát trong điều hành CSTT.
9. Luận án của nghiên cứu sinh Phạm Thị Hồng Hải (2005) về lạm phát
và kiềm chế lạm phát của NHNN Việt Nam. Công trình đi sâu nghiên cứu về
nguyên nhân của lạm phát và sự tác động của lạm phát tới nền kinh tế và công
ăn việc làm của xã hội. Công trình không nghiên cứu về các công cụ chủ yếu
của chính sách tiền tệ, nhất là thị trường mở.
10. Luận án của nghiên cứu sinh Khuất Duy Tuấn (2011) "Điều hành
CSTT nhằm kiểm soát lạm phát trong quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt
Nam” . Đây là luận án mới nhất và nghiên cứu đúng thời điểm kinh tế các
nước đang gặp khó khăn về khủng hoảng kinh tế, tình hình chính trị và vấn đề
khu vực... Công trình nghiên cứu về lãi suất và nghiên cứu sâu về lãi suất khi
nền kinh tế quá nóng và kiểm soát tăng trường tín dụng qua đó kiểm soát lạm
phát vì trong các năm gần đây các TCTD đua nhau huy động vốn, chiếm thị
phần cho vay làm nợ xấu tăng lên đột ngột. Công trình mới nghiên cứu sâu về
lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi, không tập trung về mục tiêu điều hành
CSTT qua việc sử dụng các công cụ của CSTT.
(ii) Các công trình nghiên cứu của Lào về lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng
Có rất ít công trình nghiên cứu trong lĩnh vực này:
1. Luận án của nghiên cứu sinh Mi Mua (2003) - cán bộ của Ngân hàng

Nhà nước Lào về "Tín dụng đầu tư phát triển nền kinh tế Lào”. Công trình
nghiên cứu sâu về chính sách tín dụng để phát triển kinh tế Lào, không nghiên
cứu sâu về điều hành chính sách tiền tệ.
2. Luận án của nghiên cứu sinh Kham Kinh (2002) - cán bộ của Ngân
hàng Nhà nước Lào về "Hoàn thiện hệ thống quản lý các ngân hàng của
NHTW Lào”. Công trình nghiên cứu sâu về hệ thống quản lý, giám sát theo
tiêu chuẩn quốc tế CAMEL 1 và CAMEL 2; cơ sở pháp lý để quản lý các NH
hoạt động theo cơ chế pháp lý của NHTW. Công trình không nghiên cứu về
CSTT và các công cụ của CSTT.


8

3. Luận án của nghiên cứu sinh Kham Pha (2012) - cán bộ của Ngân
hàng nhà nước Lào về "Hoạt động không dùng tiền mặt tại nước CHDCND
Lào”. Công trình nghiên cứu về việc động viên cả xã hội hạn chế sử dụng tiền
mặt trong dịch vụ thanh toán. Công trình không tập trung nghiên cứu mục tiêu
điều hành CSTT qua việc sử dụng công cụ thị trường mở.
(iii) Các công trình nghiên cứu khác
Cho đến nay, có khá nhiều công trình của các tác giả nghiên cứu về lạm
phát và điều hành CSTT, trong đó có nghiên cứu về tác động của CSTT, lạm
phát mục tiêu thông qua các kênh truyền dẫn khác nhau như:
- Dương Hữu Hạnh, (2010), Ngân hàng Nhà nước
- Lê Vinh Danh, (2005), Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của
Ngân hàng Trung ương ở các nước tư bản phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
- J.M.Keynes, (1994), Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ,
Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
- Tạp chí NHNN Lào Nxb (2009) nói về xã hội dùng đồng Kíp đẩy lùi
tình trạng đô la hoá.

- David Begg, (1995), Kinh tế học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
- Samuelson, (1995), Kinh tế học, Nxb Thống kê, Hà Nội.
- N.Gregory Mankew, (1996), Kinh tế học vĩ mô, Nxb Thống kê, Hà
Nội.
- M.Friedman, (1995), Lý thuyết số lượng tiền, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
- Fredrics Mishkin, (1994,1997), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài
chính, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
- David Cook, (1997), Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, Nxb Chính trị
quốc gia Hà Nội.


9

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG
MỞ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
1.1 KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

1.1.1 Khái quát về Ngân hàng Trung ương
Ngân hàng Trung ương là ngân hàng phát hành tiền của một quốc gia.
Ngân hàng Trung ương là cơ quan quản lý và kiểm soát lĩnh vực tiền tệ ngân
hàng trong phạm vi toàn quốc. NHTW là bộ máy tài chính tổng hợp, thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng đồng thời là ngân
hàng của các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác trong nền kinh tế [16], [13].
1.1.1.1 Mô hình của NHTW
Ngân hàng Trung ương của mỗi quốc gia có tổ chức mô hình khác nhau
như:
(i) Ngân hàng Trung ương trực thuộc Chính phủ: NHTW là một bộ
máy của Chính phủ, là một cơ quan ngang Bộ, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của
Chính phủ trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia (ví dụ: Việt Nam,

Lào, Malaysia, Inđônêsia, Trung Quốc...). Mô hình này có nhược điểm: khả
năng sử dụng công cụ phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt ngân sách dễ dàng
xảy ra, từ đó gây ra lạm phát. Cơ chế này tạo ra mâu thuẫn giữa NHTW với
cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý ngân sách. Hiện nay, nhiều NHTW
không thực hiện theo mô hình này nữa và NHTW thực hiện điều hành chính
sách tiền tệ độc lập với Chính phủ để thực hiện mục tiêu của CSTT nhằm ổn
định giá trị đồng tiền quốc gia [29] (mô hình 1.1).


10

Chính

HĐCSTT có
Thống đốc

Ngân hàng

phủ

NH và thành

Trung ương

viên khác

Sơ đồ 1.1: Mô hình tổ chức của Ngân hàng Trung ương
trực thuộc Chính phủ
(ii) Ngân hàng Trung ương độc lập với Chính phủ
NHTW có vị trí độc lập với Chính phủ, được tổ chức và chỉ đạo trực

tiếp từ Quốc hội. Hoạt động của ngân hàng Trung ương trong trường hợp này
không chịu chi phối của Chính phủ, vì vậy NHTW thể hiện tính độc lập cao
trong việc điều hành chính sách tiền tệ. NHTW trực thuộc Quốc hội được coi
là hình thức tổ chức tiên tiến, phù hợp với xu thế của thời đại; các nước Mỹ,
Anh, Đức và nhiều nước khác đã áp dụng mô hình này [29] (mô hình 1.2).
Quốc hội

NHTW

Chính phủ

Sơ đồ 1.2: Mô hình tổ chức của Ngân hàng Trung ương
không trực thuộc Chính phủ
1.1.1.2 Vai trò của ngân hàng Trung ương
Ngân hàng Trung ương là cơ quan quản lý vĩ mô trong lĩnh vực tiền tệ
ngân hàng. Ngân hàng Trung ương có vai trò và vị trí rất quan trọng, được coi
là thể chế tài chính đặc biệt và là một trong những công cụ quan trọng nhất


11

trong quản lý Nhà nước. Là cơ quan điều tiết và quản lý vĩ mô trong lĩnh vực
tiền tệ ngân hàng, hoạt động của Ngân hàng Trung ương có ảnh hưởng trực
tiếp đến sự ổn định và phát triển của nền kinh tế, đồng thời có ảnh hưởng đến
tình hình tài chính tiền tệ của một quốc gia.
NHTW thực hiện các chức năng và nhiệm vụ quan trọng, bao gồm:
quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng; phát hành tiền và điều
chỉnh lượng tiền cung ứng trong lưu thông; ngân hàng của các ngân hàng và
là Ngân hàng của Chính phủ. Trong quá trình thực hiện các chức năng và
nghiệp vụ của mình, ngân hàng Trung ương luôn giữ vai trò trung tâm trong

điều phối và kiểm soát tiền tệ và các dòng chu chuyển vốn tín dụng, với mục
tiêu đảm bảo sự phát triển hài hoà, hợp lý giữa tăng trường tiền tệ và tăng
trường kinh tế, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô [13].
1.1.2 Khái quát về chính sách tiền tệ
1.1.2.1 Khái niệm chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó ngân
hàng Trung ương sử dụng các công cụ của mình để điều tiết và kiểm soát các
điều kiện tiền tệ của nền kinh tế nhằm đảm bảo sự ổn định giá trị tiền tệ, tạo
nền tảng thúc đẩy sự tăng trường kinh tế và duy trì các mục tiêu xã hội hợp lý.
Để đạt được các mục tiêu về tăng trưởng và phát triển kinh tế, các quốc
gia đều phải sử dụng các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tài
khoá, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại và chính sách tiền tệ.
Thông qua việc sử dụng, điều hành các công cụ này sẽ tác động đến các mục
tiêu như tăng trưởng, lạm phát, việc làm... Như vậy, CSTT đóng vai trò là một
bộ phận quan trọng và không thể thiếu trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ
mô cũng như trong quá trình điều hành vĩ mô của Nhà nước. Tuy nhiên, tuỳ
theo trình độ phát triển kinh tế và góc độ nghiên cứu, người ta có thể phân
biệt CSTT theo nghĩa rộng và CSTT theo nghĩa hẹp; CSTT của ngân hàng


12

Trung ương và CSTT quốc gia.
Chính sách tiền tệ theo nghĩa rộng: Là chính sách điều hành toàn bộ
khối lượng tiền trong nền kinh tế nhằm phân bổ một cách có hiệu quả các
nguồn tài nguyên, thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, cân đối kinh tế, trên cơ
sở đó ổn định giá trị đồng tiền.
Chính sách tiền tệ theo nghĩa hẹp: Là chính sách bảo đảm sao cho khối
lượng tiền cung ứng tăng thêm trong một năm tương ứng với mức tăng trưởng
kinh tế và chỉ số lạm phát nhằm ổn định giá trị của đồng tiền, góp phần đạt

được các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương: Là tổng thể tất cả các
biện pháp, công cụ mà NHTW sử dụng nhằm điều tiết khối lượng tiền tệ, tín
dụng, ổn định tiền tệ, góp phần đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Chính sách tiền tệ quốc gia: Là tổng thể các biện pháp của Nhà nước
pháp quyền nhằm cung ứng đầy đủ các phương tiện thanh toán cho nền kinh
tế, trên cơ sở đó không ngừng ổn định giá trị đồng tiền quốc gia.
Dù quan niệm CSTT theo nghĩa nào thì CSTT đều nhằm mục tiêu cuối
cùng là ổn định tiền tệ, góp phần đạt được các mục tiêu của chính sách kinh
tế. Trong một khoảng thời gian nhất định, tuỳ theo điều kiện cụ thể của nền
kinh tế, CSTT có thể được hoạch định theo hai hướng:
Chính sách tiền tệ mở rộng: Theo hướng này, CSTT nhằm tăng lượng
tiền cung ứng, khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh và tạo việc
làm. Trong trường hợp này, CSTT nhằm chống suy thoái kinh tế và thất
nghiệp.
Chính sách tiền tệ thắt chặt: Theo hướng này, CSTT nhằm giảm lượng
tiền cung ứng, hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá cao của nền kinh tế.
Trường hợp này, CSTT nhằm chống lạm phát kìm hãm sự phát triển “quá
nóng” của nền kinh tế.


13

1.1.2.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là một bộ phận trong tổng thể các chính sách kinh tế vĩ
mô. Tuy nhiên, CSTT cũng có mục tiêu và tính chất riêng khi hướng tới mục
tiêu chung. Tuỳ từng quốc gia và những giai đoạn phát triển khác nhau, CSTT
có thể có những mục tiêu khác nhau. Ví dụ: Ngân hàng Trung ương Mỹ (hệ
thống dự trữ liên bang Mỹ) thường đưa ra sáu mục tiêu của CSTT là công ăn
việc làm cao, tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định thị

trường tài chính, ổn định thị trường ngoại hối. Các mục tiêu CSTT của một số
nước ASEAN như Malaysia, Thái Lan, Singapore là duy trì sự ổn định tiền tệ,
ổn định tỷ giá, thúc đẩy sự phát triển hệ thống tài chính, ngân hàng và góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế.
Mặc dù mục tiêu cụ thể của CSTT ở các nước có thể khác nhau ở một vài
điểm nhưng cơ bản đều thống nhất là hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế,
ổn định giá trị đồng tiền, tạo việc làm cho người lao động.
1.1.2.3 Mục tiêu tổng quát/ mục tiêu cuối cùng
Mục tiêu CSTT hầu như thống nhất ở các nước. Sự điều chỉnh lượng
tiền cung ứng nhằm mục tiêu trước hết là ổn định giá trị tiền tệ, trên cơ sở đó
góp phần tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm. Ngoài các mục tiêu vĩ
mô trên, một số nước còn tập trung vào các mục tiêu cụ thể, tuỳ thuộc vào đặc
điểm phát triển kinh tế đặc thù của quốc gia. Tuy nhiên do tính chất mâu
thuẫn giữa các mục tiêu nên NHTW không thể theo đuổi tất cả các mục tiêu
trên trong một khoảng thời gian nhất định. Điều này buộc NHTW phải có sự
lựa chọn và ưu tiên cho những mục tiêu quan trọng trong từng thời kỳ mặc dù
mục tiêu ổn định tiền tệ luôn là mục tiêu dài hạn của NHTW.
1.1.2.4 Mục tiêu điều hành
Các mục tiêu chính sách trên chỉ là mục tiêu cuối cùng mà các CSTT
nhắm tới. Đây là các mục tiêu mang tính định tính nên để tạo điều kiện thuận


14

lợi trong quá trình điều hành CSTT, các NHTW đều xây dựng hệ thống mục
tiêu điều hành mang tính định lượng cụ thể hơn.
Mục tiêu điều hành là các biến số tiền tệ có tác động mạnh theo một
chiều nhất định đến mục tiêu cuối cùng (mục tiêu chính sách) của CSTT. Căn
cứ vào sự phát triển và diễn biến của thị trường tiền tệ, NHTW các nước đều
lựa chọn các mục tiêu điều hành của CSTT. Mục tiêu điều hành của CSTT

bao gồm mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động.
a) Mục tiêu trung gian
NHTW không thể sử dụng các công cụ CSTT tác động trực tiếp và
ngay lập tức đến các mục tiêu cuối cùng của nền kinh tế. Ảnh hướng của
CSTT chỉ xuất hiện sau một thời gian nhất định. Để khắc phục hạn chế này,
NHTW của tất cả các nước thường xác định các chỉ tiêu cần đạt được trước
khi đạt được mục tiêu cuối cùng.
Tiêu chuẩn của chỉ tiêu trung gian: (1) Có thể đo lường được một cách
chính xác và nhanh chóng, bởi vì các chỉ tiêu này chỉ có ích khi nó phản ánh
được tình trạng của CSTT nhanh hơn mục tiêu cuối cùng; (2) Có thể kiểm
soát được để có thể điều chỉnh mục tiêu đó cho phù hợp với định hướng của
CSTT; (3) Có mối liên hệ chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng.
Cả tổng lượng tiền cung ứng và lãi suất đều thoả mãn các tiêu chuẩn
trên, nhưng NHTW không thể chọn cả hai chỉ tiêu trên làm mục tiêu trung
gian mà chỉ có thể chọn một trong hai chỉ tiêu đó. Bởi lẽ, nếu đạt được mục
tiêu về tổng khối lượng tiền cung ứng thì phải chấp nhận sự biến động của lãi
suất và ngược lại.
b) Mục tiêu hoạt động
Mục tiêu hoạt động là các chỉ tiêu có phản ứng tức thời với sự điều
chỉnh của công cụ CSTT đồng thời có mối quan hệ chi phối tới các mục tiêu
trung gian. Việc lựa chọn hệ thống chỉ tiêu thích hợp làm mục tiêu hoạt động


15

có ý nghĩa quan trọng quyết định hiệu quả tác động của CSTT. Hệ thống chỉ
tiêu này vừa đóng vai trò phản ánh tình trạng CSTT đồng thời phản ánh dấu
hiệu về định hướng CSTT của NHTW.
Các tiêu chuẩn lựa chọn chỉ tiêu làm mục tiêu hoạt động cũng tương tự
như tiêu chuẩn lựa chọn mục tiêu trung gian, bao gồm: (1) Phải đo lường được

nhằm tránh những suy diễn thiếu chính xác làm sai lệch dấu hiệu của CSTT; (2)
Phải có mối quan hệ trực tiếp và ổn định với các công cụ của CSTT; (3) Phải có
mối quan hệ chặt chẽ và ổn định với mục tiêu trung gian được lựa chọn. Căn cứ
vào tiêu chuẩn trên, các chỉ tiêu thường được lựa chọn làm mục tiêu hoạt động
của NHTW bao gồm: lãi suất liên ngân hàng và dự trữ ngân hàng.
1.1.3 Các công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ
Để thực hiện CSTT theo các mục tiêu đã xác định trong từng thời kỳ,
NHTW sử dụng một số công cụ CSTT nhằm tác động đến khối lượng tiền
trong lưu thông và lãi suất (chi phí) vay vốn. Công cụ CSTT là các hoạt động
được thực hiện trực tiếp bởi NHTW nhằm tác động trực tiếp tới các mục tiêu
hoạt động, qua đó ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới mục tiêu trung gian,
từ đó đạt được các mục tiêu cuối cùng của CSTT.
Đây là nhóm công cụ tác động trước hết vào các mục tiêu hoạt động của
CSTT như lãi suất thị trường liên ngân hàng, dự trữ không vay, dự trữ đi vay…
và thông qua cơ chế thị trường mà tác động này truyền tới các mục tiêu trung
gian là khối lượng tiền cung ứng và lãi suất. Nhóm công cụ này bao gồm:
1.1.3.1 Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc (DTBB) là số tiền mà các NHTM buộc phải duy trì trên
một tài khoản tiền gửi tại NHTW trong một thời kỳ nhất định. DTBB được
NHTW quy định đối với từng loại tiền gửi cấu thành nên nguồn vốn hoạt
động của một ngân hàng. Tỷ lệ DTBB do NHTW quy định và được xác định
bằng một tỷ lệ % nhất định trên tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại


16

NHTM. Tỷ lệ DTBB được áp dụng có phân biệt đối với các loại tiền gửi có
thời hạn khác nhau, quy mô và tính chất hoạt động của NHTM.
DTBB tác động tới cung ứng tiền tệ bằng cách gây ra thay đổi số nhân
cung ứng tiền tệ (số nhân đơn cung ứng tiền tệ = 1/tỷ lệ DTBB). Tỷ lệ DTBB

tăng lên sẽ làm giảm số tiền gửi được nâng đơn bởi một mức nhất định của cơ
số tiền tệ và dẫn đến việc thu hẹp cung ứng tiền. Mặt khác, tỷ lệ DTBB giảm
xuống sẽ dẫn đến một sự tăng lên của cung ứng tiền tệ do việc tạo thêm tiền
gửi gấp nhiều lần. Việc quy định tỷ lệ DTBB do NHTW quyết định tuỳ thuộc
vào tình hình cụ thể của nền kinh tế.
1.1.3.2 Chính sách chiết khấu
Chiết khấu là một trong những hình thức cho vay của NHTW đối với các
NHTM. Khi cấp một khoản tín dụng cho NHTM, một mặt NHTW đã làm
tăng lượng tiền cung ứng, mặt khác tạo cơ sở cho các NHTM tạo bút tệ cũng
như khai thông được năng lực thanh toán của họ.
Chính sách chiết khấu bao gồm các quy định về hạn mức chiết khấu, lãi
suất chiết khấu và điều kiện cho vay của NHTW đối với các ngân hàng.
NHTW cho vay ngắn hạn trên cơ sở chiết khấu các chứng từ có giá của ngân
hàng. NHTW kiểm soát công cụ này chủ yếu bằng cách tác động tới giá cả
khoản vay thông qua lãi suất chiết khấu căn cứ vào mục tiêu của CSTT là thắt
chặt hay nới lỏng, từ đó tác động tới lượng tiền trong lưu thông.
Sự thay đổi về lãi suất chiết khấu được xem là một dấu hiệu thông báo
của NHTW trong định hướng thực hiện CSTT. Các tuyên bố của NHTW về
chiều hướng biến động lãi suất chiết khấu (tăng lên hoặc giảm xuống) có tác
dụng hướng dẫn hành vi của thị trường theo định hướng CSTT.
1.1.3.3 Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động NHTW mua, bán GTCG như tín
phiếu kho bạc, trái phiếu Chính phủ, tín phiếu NHTW, chứng chỉ tiền gửi...


17

trên thị trường tiền tệ nhằm làm thay đổi cơ số tiền tệ mà đặc biệt là tiền dự
trữ trong hệ thống ngân hàng, qua đó tác động đến khối lượng tiền cung ứng.
Do vậy, thị trường này có khả năng tiếp nhận được một lượng rất lớn nghiệp

vụ của NHTW mà không làm cho giá cả biến động mạnh.
Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ CSTT quan trọng của NHTW.
Nghiệp vụ này là yếu tố quyết định quan trọng nhất đối với những thay đổi
trong cơ số tiền tệ và đó cũng là nguồn gốc chính gây nên những biến động
trong cung ứng tiền tệ.
Nghiệp vụ thị trường mở là một trong những cửa ngõ quan trọng để
NHTW sử dụng công cụ thị trường mở để điều chỉnh lượng tiền cung ứng
trong lưu thông thông qua việc mua hay bán các các loại GTCG. Qua nghiệp
vụ mua bán này NHTW làm tăng hay giảm dự trữ của các NHTM, tác động
đến khả năng tín dụng của các ngân hàng này và từ đó làm tăng hay giảm
lượng tiền cung ứng.
1.1.3.4 Các công cụ bổ trợ
Bên cạnh những công cụ chủ yếu nêu trên thì NHTW còn sử dụng các
công cụ bổ trợ để thực hiện CSTT.
a) Lãi suất
Lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện CSTT trong điều
khiển mức cung ứng tiền cho nền kinh tế, bởi lẽ lãi suất không trực tiếp làm
tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Sự biến động của lãi suất có
thể kích thích hoặc kìm hãm sản xuất. Do vậy, lãi suất là một công cụ quan
trọng của NHTW trong thực hiện CSTT.
Thông qua chính sách chiết khấu đối với các ngân hàng, NHTW thực
hiện quản lý gián tiếp lãi suất cho vay của các ngân hàng đối với nền kinh tế.
Khi muốn điều chỉnh lãi suất của các ngân hàng, NHTW điều chỉnh các lãi
suất của mình, từ đó tác động đến lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân


18

hàng, cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất huy động, cho vay của các ngân
hàng. Ngoài ra, NHTW có thể quản lý trực tiếp lãi suất của các TCTD đối với

nền kinh tế thông qua quy định các mức lãi suất cụ thể về cho vay và huy
động. Tuy nhiên, hình thức quản lý trực tiếp lãi suất này chỉ phù hợp tại các
nước có hệ thống tài chính tiền tệ chưa phát triển và xu hướng chung là giảm
dần sự quản lý trực tiếp này.
b) Hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là một trong những công cụ can thiệp trực tiếp của
NHTW để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của hệ thống tổ chức tín
dụng cung ứng cho nền kinh tế đảm bảo mức tăng trưởng của tổng phương
tiện thanh toán theo mục tiêu đề ra. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà
NHTW buộc các ngân hàng phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Mức dư nợ quy định cho từng ngân hàng căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của
ngân hàng, trong định hướng cơ cấu kinh tế và trong giới hạn tổng dư nợ tín
dụng dự tính của toàn bộ nền kinh tế trong một thời gian xác định.
Hạn mức tín dụng được sử dụng để khống chế tổng dư nợ tín dụng, qua
đó khống chế tổng lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Do vậy cơ chế tác
động của nó mang tính áp đặt của NHTW đối với hệ thống ngân hàng.
c) Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là tương quan giữa sức mua của đồng nội tệ và đồng
ngoại tệ, hay có thể nói là giá cả của đồng tiền này đo bằng một đồng tiền
khác. Tỷ giá vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa biểu hiện quan hệ
cung cầu ngoại tệ. Đến lượt mình, tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều
tiết cung cầu ngoại tệ, có tác động mạnh mẽ đến xuất nhập khẩu và hoạt động
sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động nhạy bén và mạnh
mẽ đến sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hoá, tình trạng tài chính tiền tệ, cán cân
thanh toán quốc tế, vốn đầu tư và dự trữ của quốc gia.


19

Về thực chất thì tỷ giá không phải là công cụ CSTT bởi lẽ tỷ giá không

làm tăng giảm khối lượng tiền trong lưu thông, mà chỉ góp phần thay đổi cơ
cấu khối lượng tiền. Tuy nhiên tại nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia có
nền kinh tế đang phát triển, có mức độ đôla hoá cao, thì tỷ giá được xem là
một công cụ bổ trợ quan trọng cho điều hành CSTT.
1.2 KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ

1.2.1 Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở
“Nghiệp vụ thị trường mở” là một trong các công cụ của CSTT để thực thi
chính sách tiền tệ, mang lại hiệu quả cao nhất trong các công cụ khác đang
được các nước trên thế giới sử dụng để điều hành chính sách tiền tệ. Khi
NHTW thực hiện nghiệp vụ thị trường mở sẽ tác động vào mục tiêu của chính
sách tiền tệ về mặt giá trị và về mặt lượng.
Nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện lần đầu tiên tại Mỹ năm 1920.
Ngân hàng Trung ương Mỹ (Federal Reserve System - Fed) thực hiện việc mua
- bán chứng khoán Chính phủ với NHTM để bổ sung các nghiệp vụ của Fed.
Mặc dù Nghiệp vụ thị trường mở được sử dụng phổ biến nhưng việc đưa
ra một khái niệm chung là không thống nhất. Sự không thống nhất này thể hiện ở
sự khác nhau về hàng hoá giao dịch, các đối tác tham gia thị trường và các loại
giao dịch trên thị trường.
Các GTCG được sử dụng trên thị trường mở là các GTCG ngắn hạn và
dài hạn như tín phiếu, trái phiếu Chính phủ, tín phiếu NHTW, trái phiếu
doanh nghiệp, trái phiếu ngân hàng... Các chủ thể của thị trường mở là
NHTW và các đối tác chủ yếu là các ngân hàng thương mại và có thể là các tổ
chức tài chính, tín dụng phi ngân hàng.
Xét về mặt hình thức, thị trường mở là thị trường giao dịch các chứng
khoán nợ cả ngắn hạn và dài hạn. Tuy nhiên khác với các khái niệm có phạm
vi và loại hình công cụ rõ ràng như thị trường chứng khoán hay thị trường


20


tiền tệ, thị trường mở ở các nước khác nhau lại khác nhau về phạm vi, loại
hình công cụ và thời hạn của các công cụ giao dịch trên thị trường. Đối với
một số nước, hàng hoá giao dịch trên thị trường mở chỉ gồm các GTCG ngắn
hạn và đối tác tham gia chỉ là các TCTD. Khi đó, thị trường mở là một bộ
phận của thị trường tiền tệ. Đối với nước khác như Mỹ, Đức thì các GTCG
dài hạn cũng có thể giao dịch, khi đó thị trường mở bao gồm cả một phần của
thị trường chứng khoán. Điều đó có nghĩa là các giới hạn, quy định khác nhau
về hàng hoá, thời hạn giao dịch và đối tác tham gia NVTTM với NHTW sẽ
quyết định khái niệm cụ thể về thị trường mở ở từng nước.
1.2.2 Nội dung hoạt động thị trường mở
1.2.2.1 Hàng hoá của thị trường mở
Các hàng hoá được hoạt động mua - bán trên thị trường mở phải phù
hợp với mục tiêu và yêu cầu hoạt động của NHTW trên thị trường đó. Có
nghĩa là các hàng hoá đó phải có tính thanh khoản cao, sử dụng phổ biến và
giao dịch phải hết sức thuận lợi, dễ dàng. Các loại hàng hóa thông thường
giao dịch trên thị trường mở bao gồm:
a) Tín phiếu kho bạc (Treasury Bills)
Tín phiếu kho bạc do Kho bạc Nhà nước (cơ quan ngân khố của Chính
phủ) phát hành, có thời hạn dưới 12 tháng, huy động vốn để bù đắp thiếu hụt
tạm thời của ngân sách Nhà nước. Thực chất của tín phiếu kho bạc là giấy
nhận nợ của Chính phủ đối với người mua tín phiếu kho bạc, với sự cam kết
mặc định về việc hoàn trả vốn và lãi cho người sở hữu tín phiếu kho bạc.
Đặc điểm của tín phiếu kho bạc:
- Có kỳ hạn dưới 1 năm.
- Có tính thanh khoản cao, dễ dàng chuyển từ giấy tờ có giá ngắn hạn
thành tiền mặt.
- Được chuyển nhượng một cách thuận lợi.



21

- Tín phiếu kho bạc có thể được phát hành bằng hình thức chứng chỉ và
ghi sổ.
- Tín phiếu kho bạc được phát hành phần lớn qua kênh đấu thầu qua
NHTW.
b) Trái phiếu Chính phủ (Government Bonds)
Trái phiếu Chính phủ là một chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận
số vốn cho vay của trái chủ (người mua trái phiếu) đối với tổ chức phát hành
của Chính phủ (Bộ Tài chính - Kho bạc Nhà nước). Trái phiếu của Chính phủ
được hưởng lợi tức hợp pháp, gọi là chứng khoán nợ với lãi suất cố định. Trái
phiếu của Chính phủ có đặc điểm:
- Có thời hạn từ 1 năm trở lên.
- Có độ rủi ro gần như bằng 0.
- Có tính thanh khoản cao.
- Thường được phát hành theo hình thức đấu thầu.
c) Tín phiếu Ngân hàng Trung ương (Central Bank Bills)
Tín phiếu NHTW do NHTW phát hành, là giấy nhận nợ của NHTW
đối với người mua tín phiếu. Tín phiếu của NHTW cũng có những đặc điểm
tương tự như tín phiếu Kho bạc và là công cụ chủ động hơn cho NHTW để
điều hành chính sách tiền tệ thông qua việc mua - bán tín phiếu này.
Tín phiếu NHTW được phát hành với nhiều thời hạn khác nhau, để đáp
ứng các yêu cầu điều chỉnh tổng khối lượng tiền cung ứng. Các thời hạn của tín
phiếu NHTW gồm có loại 91 ngày, 120 ngày, 182 ngày, 274 ngày và 365 ngày.
d) Chứng chỉ tiền gửi (Certificate of Deposit)
Chứng chỉ tiền gửi do các tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn
có thời hạn xác định. Thực chất là giấy nhận nợ của NHTM hay TCTD đối với
người mua chứng chỉ tiền gửi. Đây là công cụ quan trọng mà các NHTM và
các TCTD huy động vốn trên thị trường. Đặc điểm của chứng chỉ tiền gửi:



22

- Thời hạn ngắn hạn và trung hạn.
- Được thanh toán khi đáo hạn.
- Lãi suất thường cao hơn, hấp dẫn hơn các hình thức huy động vốn
khác của NHTM.
- Được cầm cố, thế chấp để vay vốn.
Trên thực tế hàng hoá loại này ít được thực hiện làm hàng hóa thị
trường mở.
e) Trái phiếu đô thị (Municipal Bonds)
Trái phiếu đô thị do chính quyền của đô thị lớn phát hành để vay nợ
nhằm tập trung nguồn vốn đầu tư các công trình, dự án của các đô thị. Thực
chất, trái phiếu đô thị là một dạng trái phiếu của Chính phủ, nhưng giao cho
chính quyền địa phương phát hành để phục vụ các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội của các địa phương.
1.2.2.2 Các chủ thể tham gia thị trường mở
Thị trường mở là một thị trường có tính chất mở nên các thành viên thị
trường rất đa dạng và tham gia với các mục đích khác nhau. Nhìn chung, mọi
nhà đầu tư đều có thể là đối tác giao dịch với NHTW trong các giao dịch
NVTTM nếu thoả mãn những tiêu chuẩn cụ thể của NHTW ở các nước. Các
tiêu chuẩn này gồm: (i) Các đối tác phải đảm bảo độ tin cậy nhất định và (ii)
Việc giao dịch với các đối tác phải có hiệu quả xét trên khía cạnh can thiệp
của NHTW. Thông thường, thành viên NVTTM bao gồm:
(i) Ngân hàng Trung ương
NHTW là người tổ chức, xây dựng và vận hành hoạt động của thị trường
mở theo các mục tiêu CSTT. NHTW là người quyết định lựa chọn sử dụng
các loại NVTTM và tần suất sử dụng NVTTM. NHTW tham gia thị trường
thông qua việc mua bán các GTCG nhằm tác động đến dự trữ của hệ thống
ngân hàng để đảm bảo khả năng thanh toán và gián tiếp tác động đến các lãi



23

suất thị trường theo mục tiêu CSTT. NHTW cũng là người can thiệp thị
trường khi cần thiết thông qua thực hiện chức năng người cho vay cuối cùng
nhằm kiểm soát tiền tệ, đảm bảo đủ phương tiện thanh toán cho các TCTD
cũng như nhu cầu tín dụng của nền kinh tế.
Như vậy, NHTW tham gia thị trường mở không phải vì mục tiêu kinh
doanh mà để quản lý, chi phối, điều tiết thị trường làm cho CSTT được thực
hiện theo các mục tiêu xác định của nó.
(ii) Các đối tác của ngân hàng Trung ương
a) Các ngân hàng thương mại
Các NHTM là thành viên chủ yếu tham gia NVTTM của NHTW và là
đối tác quan trọng của NHTW xét trên 2 phương diện độ tin cậy và tính hiệu
quả. Các NHTM tham gia thị trường nhằm điều hoà vốn khả dụng để đảm bảo
khả năng thanh toán và đầu tư các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để hưởng lãi.
Sự tham gia của các NHTM trong các giao dịch NVTTM có ý nghĩa
quan trọng xét trên góc độ hiệu quả CSTT do: (i) NHTM là trung gian tài
chính lớn nhất, có mạng lưới hoạt động rộng. NHTM đóng vai trò quan trọng
trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế, nhất là ở các nước đang phát triển;
(ii) NHTM vừa là người đi vay, vừa là người cho vay trên thị trường tiền tệ.
b) Các tổ chức tài chính phi ngân hàng
Tại một số quốc gia, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng được tham
gia NVTTM. Các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ đầu tư, hội tiết
kiệm… coi thị trường mở như là nơi kiếm thu nhập thông qua việc sử dụng
vốn nhàn rỗi để mua bán các GTCG.
c) Các nhà giao dịch trung gian
Các nhà giao dịch sơ cấp tham gia vào NVTTM với tư cách là người
trung gian trong việc mua bán các GTCG giữa NHTW và các đối tác khác.

Các nhà giao dịch sơ cấp có thể là các NHTM, công ty chứng khoán, công ty


24

tài chính. Thực tế ở nhiều nước, 70% giao dịch can thiệp của NHTW trên thị
trường mở được thực hiện thông qua các nhà giao dịch sơ cấp. Khi đó,
NHTW chỉ thực hiện mua bán GTCG với các nhà giao dịch sơ cấp. Và để
thực hiện được vai trò này, các nhà giao dịch sơ cấp phải có nguồn vốn đủ
mạnh đáp ứng yêu cầu quy định của NHTW và phải sẵn sàng thực hiện vai trò
người tạo lập thị trường trong tất cả các phiên đấu thầu tín phiếu kho bạc.
Đối với những nước hoạt động nghiệp vụ thị trường mở chưa phát triển
thì chưa có sự tham gia của các nhà giao dịch trung gian.
Các thành viên tham gia trên thị trường mở phải đáp ứng đủ điều kiện
quy định của NHTW như: Có tiền gửi tại NHTW; có mạng kết nối với
NHTW để thực hiện giao dịch.
1.2.2.3 Phương thức giao dịch của nghiệp vụ thị trường mở
(i) Giao dịch song phương
Là giao dịch được thực hiện trực tiếp giữa NHTW với một hoặc một số
đối tác được lựa chọn mà không thông qua thủ tục đấu thầu. Giao dịch song
phương có thể thực hiện bằng hai cách: (1) Giao dịch trực tiếp giữa NHTW
với các đối tác; (2) giao dịch thực hiện thông qua Sở giao dịch chứng khoán
hoặc các đại lý giao dịch trên thị trường. Đối với các giao dịch này, các đối
tác không bị giới hạn và thủ tục giao dịch các chứng khoán được điều chỉnh
theo tập quán thị trường.
Thông thường các giao dịch song phương không được thông báo rộng
rãi ra công chúng và ngày can thiệp tuỳ thuộc vào quyết định của NHTW.
(ii) Đấu thầu khối lượng
Đấu thầu khối lượng là phương thức đấu thầu với lãi suất được NHTW
công bố trước. NHTW công bố khối lượng tiền cần mua hoặc cần bán bằng

phương thức đấu thầu và ấn định mức lãi suất thực hiện. NHTW công bố điều
kiện đặt thầu để các thành viên đăng ký số tiền dự thầu trên cơ sở chấp thuận


25

mức lãi suất đã xác định trước. Sau khi mở thầu NHTW sẽ xác định tỷ lệ giá
trị đạt thầu và phân bổ cho từng tổ chức tham gia đặt thầu.
Việc phân bổ thầu được thực hiện như sau: Toàn bộ số lượng đăng ký
dự thầu được cộng lại với nhau. Nếu tổng khối lượng đặt thầu nhỏ hơn hoặc
bằng khối lượng NHTW chào mua/chào bán thì toàn bộ các đơn dự thầu đều
được phân bổ theo khối lượng đặt thầu. Nếu tổng khối lượng đặt thầu lớn hơn
khối lượng NHTW chào mua/chào bán thì khối lượng trúng thầu của từng
thành viên được phân bổ tỷ lệ thuận với khối lượng đặt thầu của thành viên
đó. Các đơn dự thầu sẽ được phân bổ như sau:[11], [27].
Tỷ lệ % phân bổ thầu: k =

A
n

trong đó:

(1.1 )

∑ b1
i ≈1

- A: Là khối lượng NHTW chào mua/chào bán
- n: Là tổng số thành viên tham gia dự thầu
- bi: Là khối lượng đặt thầu của thành viên thứ i

- k: Là tỷ lệ phân bổ thầu
Trên cơ sở xác định được tỷ lệ k, khối lượng trúng thầu của thành viên
thứ i (Wi) được xác định như: Wi = k × bi [11], [27].
(iii) Đấu thầu lãi suất
NHTW cho phép các thành viên tham gia mua hoặc bán GTCG được
quyền đưa ra các mức lãi suất với khối lượng tương ứng theo thông báo của
NHTW. Căn cứ vào đó, NHTW sẽ xác định khối lượng trúng thầu với lãi suất
trúng thầu sao cho với lãi suất đó sẽ đảm bảo khối lượng giao dịch mua hoặc
bán phù hợp với yêu cầu của NHTW trong từng thời điểm cụ thể. Trong đấu
thấu lãi suất, NHTW có thể áp dụng dưới hình thức một giá (phương thức của
Hà Lan) hoặc phương thức nhiều giá (phương thức của Mỹ).
Theo phương thức của Mỹ:
(1) Trường hợp NHTW cần bơm thêm lượng tiền cung ứng vào lưu


×